Đề tài Thực trạng thị trường chứng khoán và những giải pháp để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay

Vấn đề phát triển một TTCK ở Việt Nam đã trở thành một nhu cầu khách quan. Song công việc còn khá nặng nề, trong đó không ít những vấn đề nằm ngoài chức năng xử lý của tài chính và ngân hàng Việt Nam - đòi hỏi phải có sự kết hợp đồng bộ và có hiệu quả của các cấp, các ngành hữu quan dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ . Với sự nỗ lực tổng hợp ấy, TTCK Việt Nam sẽ phát triển trong một tương lai gần.

doc28 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1579 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng thị trường chứng khoán và những giải pháp để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mua đi bán lại các loại chứng khoán. Việc này lúc đầu diễn ra một cách lộn xộn, vô tổ chức. Sau đó xuất hiện những kẻ tìm sống bằng nghề môi giới giữa người cần mua và người bán chứng khoán. Lúc đầu họ làm cả hai việc: môi giới và đầu cơ chứng khoán. Sau đó hai việc này cũng dần dần được chuyên môn hoá thành hai loại người: một loại người chuyên môi giới chứng khoán, một loại người chuyên về kinh doanh chứng khoán. Hai loại người này giúp cho cung - cầu về chứng khoán gặp nhau, hình thành thị trường chứng khoán. Bước cao nhất trong lịch sử phát triển của TTCK là việc Chính phủ dồn những người môi giới chứng khoán và những người kinh doanh chứng khoán vào một chỗ để tổ chức việc mua bán có trật tự, gọi là sở giao dịch chứng khoán (SGDCK). Như vậy TTCK và SGDCK đã ra đời và những hạn chế của việc huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán được giải toả. 3. Cơ cấu của thị trường chứng khoán. Nghiên cứu cơ cấu của thị trường chứng khoán là phân tích xem thị trường chứng khoán bao gồm những bộ phận nào, và tìm hiểu mối quan hệ giữa các bộ phận đó. Có thể xem xét cơ cấu thị trường chứng khoán dưới một số góc độ sau: 3.1. Căn cứ vào tính chất các chứng khoán được giao dịch. - Thị trường cổ phiếu: Là thị trường nơi các cổ phiếu được phát hành và giao dịch. Thị trường cổ phiếu gồm có thị trường cổ phiếu sơ cấp và thị trường cổ phiếu thứ cấp. - Thị trường trái phiếu: Là thị trường nơi các trái phiếu được phát hành và giao dịch. Thị trường trái phiếu cũng gồm có thị trường trái phiếu sơ cấp và thị trường trái phiếu thứ cấp. 3.2. Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn. - Thị trường sơ cấp: Là thị trường mua bán các chứng khoán lần đầu được phát hành. Sự hoạt động của thị trường sơ cấp tạo ra một "kênh" thu hút huy động nguồn tiền nhàn rỗi của dân chúng chuyển thành vốn đầu tư cho nền kinh tế. Thông qua thị trường này, nhà phát hành thực hiện được việc bán các chứng khoán mới cho nhà đầu tư, thu được tiền về tăng thêm một lượng vốn mới. - Thị trường thứ cấp: Là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Sự hoạt động của thị trường thứ cấp tạo ra khả năng dễ dàng, thuận tiền chuyển đổi chứng khoán thành tiền. Trên thị trường này diễn ra việc mua bán chứng khoán giữa các nhà đầu tư, tiền thu được từ việc bán chứng khoán không thuộc về nhà phát hành mà thuộc về nhà đầu tư bán chứng khoán nhường lại quyền sở hữu chứng khoán cho nhà đầu tư khác. Giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ tương tác gắn bó chặt chẽ với nhau. Nếu không có thị trường sơ cấp thì không có hàng hoá để lưu thông trên thị trường thứ cấp. Nhưng nếu không có sự tồn tại của thị trường thứ cấp thì thị trường sơ cấp cũng khó có thể phát triển và hoạt động có hiệu quả. Vì thế, mặc dù sự hoạt động của thị trường thứ cấp không làm tăng thêm vốn đầu tư cho nhà kinh tế song sự tồn tại và hoạt động nhịp nhàng của thị trường thứ cấp làm cho thị trường sơ cấp hoạt động có hiệu quả và phát triển. II- Những điều kiện cơ bản để thành lập TTCK. Về mặt lý luận để TTCK có thể hoạt động và tồn tại, cần có những điều kiện sau đây: Thứ nhất, TTCK là một loại thị trường mua bán các hàng hoá đặc biệt - các cổ phiếu. Để có thị trường này, trước hết phải có các hàng hoá để mua bán. Các hàng hoá náy phải có một số lượng đủ lớn và được đăng ký qua thị trường. Để có chứng khoán cần có nhiều Công ty cổ phần phát hành cổ phiếu và xem xét những chứng từ có giá thông thường có thể thay đổi thể thức để tham gia thị trường chứng khoán. Thứ hai, phải có các chủ thể để tham gia vào quá trình mua bán trên thị trường chứng khoán. Đó là người mua, người bán, người môi giới. Chính vì hoạt động của các chủ thể trên hết sức khác nhau, rất phức tạp nên cần phải có những con người thực hiện nhiệm vụ quản lý các hoạt động của họ. Thứ ba, phải có một hệ thống luật pháp tương đối hoàn chỉnh để định ra các "luật chơi" trong thị trường này. Thứ tư, phải được tổ chức theo những hình thức phù hợp để thực hiện hoạt động mua bán trên TTCK. Thứ năm, phải có những cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại để đảm bảo kỹ thuật thanh toán, giao dịch đồng thời ngăn chặn tệ làm chứng khoán giả. III- Hai mặt của thị trường chứng khoán. Một tất yếu là, mỗi sự vật được sinh ra bao giờ cũng có hai mặt; mặt tích cực và mặt tiêu cực, lại lợi và cái hại. Điều này trong lĩnh vực kinh tế càng bộc lộ rõ hơn cả. Khi nói đến kinh tế thị trường, xét trên góc độ tài chính thường người ta nhắc ngay tới sự có mặt của thị trường chứng khoán, và thường chỉ nhìn thiên về một mặt lợi, còn các khuyết tật của nó dễ bỏ qua. Khi chưa có sự xuất hiện của thị trường chứng khoán mọi hoạt động kinh tế còn đang ở trong giai đoạn bình thường, ít có phá sản, ít đỗ vỡ, nhưng khi có thị trường chứng khoán các hoạt động kinh tế sẽ sôi động hẳn lên, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Bên cạnh đó cũng xuất hiện sự đỗ vỡ, sự phá sản của những người làm ăn kém hiệu quả ngày càng nhiều. Rõ ràng điều kiện ra đời của thị trường chứng khoán, cũng như các thành viên tham gia trên thị trường này đòi hỏi phải ở một trình độ nhất định, ở nước ta khi có TTCK ra đời và ai là những người tham gia trên thị trường này, tự họ cần phải hiểu rõ mặt tích cực cũng như các khuyết tật của nó để xác định xem mình có tồn tại và phát triển được trên thị trường không? Trong bài viết này chúng em hãy bình luận về mặt lợi, mặt hại của thị trường chứng khoán. 1. Mặt tích cực (mặt thứ nhất) của thị trường chứng khoán. - Trong nền kinh tế thị trường, vốn phải được huy động từ mọi tầng lớp nhân dân và thường từ các nguồn rất phân tán nên cần phaỉ có những tổ chức nhất định để thu hút nguồn vốn này. Vai trò của ngân hàng là thu hút vốn, bảo vệ sự an toàn tiền gửi của cá nhân cũng như của các đơn vị tổ chức kinh tế xã hội và trong quá trình đó ngân hàng có thể sử dụng một tỷ lệ nhất định của tiền gửi để cho vay hay đầu tư vào các loại chứng khoán có tính thanh toán cao. Ngân hàng hoạt động nhằm mục tiêu lợi nhuận nhưng cũng phải đảm bảo thanh toán của khách hàng, cho nên phải có sự cân nhắc giữa lợi nhuận và thanh toán. Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng thương mại có chỗ dựa vững chắc là ngân hàng trung ương (người cho vay sau cùng) để đảm bảo thanh toán cho các ngân hàng. Đây là mối quan hệ truyền thống trong hệ thống ngân hàng để huy động vốn và cấp tín dụng cho cá nhân hay đơn vị có nhu cầu. Với sự ra đời của TTCK, một hệ thống thứ hai khuyết khích tiết kiệm và đầu tư của dân chúng cũng như của những định chế có khả năng huy động hay thu hút nguồn vốn trên của dân chúng như quĩ hưu bổng, Công ty bảo hiểm. Hoạt động của TTCK là thu hút nguồn vốn lớn cho cả khu vực tư nhân cũng như từ các đơn vị ,tổ chức xã hội và cũng chính nhờ có TTCK và hoạt động của nó mà đầu tư được mở rộng, và độ thanh toán cao hơn. TTCK có tổ chức sẽ cung cấp mọi thông tin cần thiết về các loại cổ phiếu, chứng khoán cũng như khả năng sinh lời của từng loại trong tương lai. Thị trường chứng khoán thu thập và phân tích các nguồn thông tin cần thiết như thành tích trong tương lai của đơn vị đó, cũng như sự đối chiếu với các loại chứng khoán khác. Nếu không có thị trường chứng khoán mỗi cá nhân phải tự tìm các nguồn thông tin cần thiết và sẽ gặp nhiều khó khăn. Điều này sẽ hạn chế hoạt động của thị trường, hạn chế sự lưu chuyển nguồn vốn và tăng mức rủi ro, làm cho sự phân bổ tài nguyên trong đầu tư kém hiệu quả. Trong một hệ thống không có TTCK, sự hình thành và kinh doanh chứng khoán sẽ rất tốn kém, thậm chí không có hiệu quả. Người phát hành có thể phải đi rao bán, từng khách hàng và như vậy sẽ rất hạn chế và không thể đưa vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu một cách thuận tiện. - TTCK, nơi tiện lợi huy động vốn. Nhìn lại quá trình phát triển của TTCK, ta có thể thấy ngay rằng đây là nơi thuận tiện huy động nguồn vốn cần thiết cho hoạt động của khách hàng. Chẳng hạn, đối với thị trường lâu đời như New York, London... số vốn huy động từ thị trường này rất lớn, cả từ 1000 tỷ USD trở lên. Trước đây, các đơn vị kinh tế đều lệ thuộc vào ngân hàng để có vốn hoạt động , có nghĩa là phải đi vay với lãi suất biến đổi tuỳ thuộc vào các ngân hàng. Ngày nay, tại hầu hết các nước, các đơn vị kinh tế cũng như Nhà nước đã huy động vốn trực tiếp từ các nguồn tiết kiệm bằng cách phát hành cổ phiếu hay trái phiếu. Nhờ có TTCK mà các nhà trung gian, các nhà môi giới, các nhà bảo lãnh, cổ phiếu của một đơn vị kinh tế có thể phát hành bán rộng rãi cho dân chúng nguồn vốn huy động. Do đó, đảm bảo được sử dụng rộng rãi và lâu dài. Càng làm ăn có hiệu quả, cổ phiếu càng có giá tự do thu được cổ tức cao. Đơn vị kinh tế không phải lo lắng về thời gian hoàn trả như đi vay ngân hàng và cũng không phải bận tâm vì giá trị cổ phần lên xuống. Chính phủ Trung ương hay địa phương cũng có thể huy động vốn bằng cách phát hành các loại chứng khoán như công trái hay tín phiếu kho bạc. Chính phủ cũng có thể sử dụng tập đoàn bảo lãnh phát hành hay thông qua ngân hàng Trung ương. Các loại công trái của Chính phủ là một công cụ phổ biến để huy động nguồn vốn cần thiết dùng cho chi tiêu và đầu tư của Chính phủ thay vì phải sử dụng biện pháp phát hành tiền dễ dẫn đến lạm phát. Dân chúng thường thích các loại công trái quốc gia vì được lãi suất ổn định và đảm bảo thu hồi vốn khi đến hạn. Công trái phù hợp với những nhà đầu tư không thích mạo hiểm, không chấp nhận mức rủi ro cao như cổ phiếu của các đơn vị kinh tế. - TTCK, đảm bảo tính thanh khoản. Thị trường sơ cấp đảm nhiệm việc phát hành cổ phiếu, chứng khoán mới, thị trường thứ cấp là nơi mua bán các loại cổ phiếu hay chứng khoán đã phát hành. Thị trường thứ cấp hoạt động nhộn nhịp ở bất kỳ TTCK nào và mỗi ngày có hàng triệu cổ phiếu chứng khoán đổi chủ. Mua bán cổ phiếu hay chứng khoán trên thị trường thứ cấp không tạo thêm nguồn vốn mới cho đơn vị kinh tế mà chỉ đơn giản thay đổi quyền sở hữu đối cới cổ phiếu hay chứng khoán. Thị trường thứ cấp có vai trò quan trọng là bảo đảm tính thanh khoản của các loại công cụ tài chính,có nghĩa là cổ phiếu và chứng khoán có thể thông qua các nhà trung gian, các nhà môi giới bán ra để thu tiền mặt đáp ứng nhu cầu cần thiết đối với cá nhân hay đơn vị. Chính sự đảm bảo này mà các cá nhân hay các tổ chức kinh tế, xã hội sẵn sàng mua cổ phiếu hay chứng khoán trên thị trường sơ cấp. Nếu không có phương tiện này người ta sẽ rất e dè trong việc sử dụng những nguồn tiết kiệm hoặc dự trữ phòng khi bất trắc. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý đến hai điều tiên quyết để biến thành cổ phần hay chứng khoán. Một là, phương tiện dễ dàng và phi thực hiện thấp: nếu mất nhiêù và phí cao, cổ phiếu hay chứng khoán có tính thanh khoản thấp. Hai là, nguồn vốn chính phải được bảo vệ, không chịu ảnh hưởng của sự biến động giá trị. Mọi biến động trên thị trường đều tạo ảnh hưởng trên giá trị của cổ phiếu hay chứng khoán, do đó đôi khi người muốn bán không đảm bảo được vốn chính (mệnh giá) của cổ phiếu. Chứng khoán có thời gian thu hồi càng lâu, tính thanh khoản càng thấp. - Tạo thói quen về đầu tư. Chúng ta biết rằng nguồn tiền nhàn rỗi còn tiềm tàng trong dân chúng rất lớn và hệ thống ngân hàng chưa thu hút được tiềm tàng này. Hơn nữa, dân chúng cũng chưa hiểu đầy đủ về hùn vốn. Chúng ta đã thấy thực tế nhiều Công ty cổ phần ra đời và nhiều cổ đông đã xem phần vốn của mình như là một loại tiền gửi và đòi hỏi đơn vị phải đảm bảo một lãi suất tương đương lãi suất tiền gửi cho phần hùn vốn của mình không cần biết đơn vị làm ăn ra sao. TTCK, với cơ sở pháp lý hoàn chỉnh và bộ máy quản lý hữu hiệu, sẽ là môi trường thuận lợi cho việc phát hành cổ phiếu và các loại chứng khoán cũng như mọi nghiệp vụ mua bán ở thị trường thứ cấp. Với sự phổ biến và hướng dẫn rộng rãi, người dân sẽ sử dụng nguồn tiết kiệm của mình để mua cổ phiếu hay chứng khoán với niềm tin về lợi nhuận hay tiền lãi bảo đảm. Dĩ nhiên, các nhà trung gian và môi giới phải làm tốt vai trò trung gian của mình để các nhà đầu tư nắm được thông tin đầy đủ về các đơn vị kinh tế đã hoặc đang chuẩn bị phát hành cổ phiếu. Nguồn tiết kiệm quan trọng này, nếu không có TTCK, sẽ tiếp tục nằm yên dưới dạng cất trữ không sinh lợi, và cũng chẳng đóng góp gì cho quá trình phát triển kinh tế . TTCK chẳng những khuyến khích đầu tư mà còn là nơi tạo điều kiện thực hiện mọi sự mua bán dễ dàng khi cần thiết. Sự phát triển của thị trường sơ cấp càng trở nên hấp dẫn và tạo thói quen cho mọi người tham gia vào hoạt động của thị trường. - Hỗ trợ định giá cổ phần trong chương trình cổ phần hoá. Vấn đề then chốt ở đây là các đơn vị kinh tế muốn tham gia TTCK cần phải được đánh giá khá chính xác về tình hình hoạt động của đơn vị thể hiện qua bảng cân đối tài sản và tài khoản lỗ lãi. Muốn làm được điều này, đơn vị phải cung cấp đầy đủ thông tin để bộ phận chuyên môn của thị trường thẩm định lại tất cả các loại tài sản, các khoản nợ và đánh giá hoạt động trong từng năm. Mức độ lỗ, lãi của đơn vị là thước đo giá trị cổ phần và người ta cũng quan tâm đến triển vọng của đơn vị trong tương lai. Sự thành bại của một đơn vị còn lệ thuộc vào trình độ quản trị của đơn vị. Do đó, trong kinh tế thị trường không có sự khoan nhượng trong việc thay đổi cấp lãnh đạo của đơn vị. Quyền lợi của cổ đông phải đặt lên trên hết. Nếu không, đơnvị sẽ khó tồn tại. Quản trị tốt sẽ mang lại hiệu quả cao và sẽ làm tăng giá trị cổ phần. Ngược lại, đơn vị sẽ lâm vào tình trạng suy sụp có thể đi đến phá sản. - Điều tiết việc phát hành cổ phiếu. Sự tồn tại và phát triển của TTCK hoàn toàn tuỳ thuộc vào sự tham gia thị trường của các đơn vị kinh tế. Tuy nhiên, sự tham gia này phải có điều kiện và chỉ khi nào các điều kiện này được thoả mãn đầy đủ, đơn vị mới có khả năng yết giá trên thị trường để tiến hành mua bán. TTCK có quyền tạm ngừng mua bán một loại cổ phiếu nào đó, nếu có vi phạm sẽ có thể đưa đến thiệt hại cho nhà đầu tư và chỉ cũng cho phép yết giá trở lại khi mọi điều kiện cần thiết được đáp ứng đầy đủ. Như vậy, vai trò quản lý của TTCK là bảm đảm sự an toàn cho các nhà đầu tư bằng cách xem xét, đánh giá các loại cổ phiếu trước khi cho phép đưa ra mua bán. Vai trò điều tiết của TTCK còn có thể hướng các đơn vị kinh tế đầu tư vào các ngành hay lĩnh vực được khuyến khích cũng như thúc đẩy chương trình cổ phần hoá của Nhà nước bằng cách phát hành cổ phiếu của những đơn vị đã được đánh giá tương đối chính xác. 2. Mặt thứ hai (mặt tiêu cực) của thị trường chứng khoán. - Yếu tố đầu cơ. Trong TTCK đầu cơ là một yếu tố có tính toán của những người chấp nhận rủi ro. Họ có thể mua cổ phiếu ngay với hy vọng là giá sẽ tăng trong tương lai và thu hồi được lợi nhuận trong từng thương vụ. Yếu tố đầu tư dễ gây ảnh hưởng dây chuyền làm cho cổ phiếu có thể tăng giả tạo. Sự việc này càng dễ xảy ra khi có nhiều người cùng kết cấu với nhau để mua hay bán ra một số cổ phiếu nào đó của một đơn vị kinh tế. Sự kết cấu này sẽ tạo sự khan hiếm hay thừa làm cho giá cổ phiếu có thểlên hay xuống đột ngột. - Mua bán nội gián. Một cá nhân nào đó lợi dụng thông tin nội bộ trong một đơn vị kinh tế để mua bán cổ phiếu của đơn vị đó có ảnh hưởng đến giá trị của cổ phiếu nếu thông tin đó được phổ biến rộng rãi. Mua bán nội gián được xem là phi đạo đức về mặt thương mại vì người có nguồn thông tin từ bên trong sẽ có một lợi thế không hợp lý đối với nhà đầu tư bên ngoài để kiếm lời v ề cho riêng mình hay tránh lỗ và dĩ nhiên là đi ngược lại nguyên tắc: mọi nhà đầu tư đều phải có cơ hội như nhau. Mua bán nội gián được xem như là vi phạm quyền lợi chung, vì lợi dụng nguồn thông tin từ bên trong, người mua bán thu được lợi nhuận hay tránh được lỗ và hậu quả sẽ do người không có được nguồn thông tin đó gánh chịu. Và, nhều nước đã có luật cấm về việc mua bán này. - Mua bán cổ phiếu ngoài thị trường chứng khoán. Luật về TTCK cũng cần phải quan tâm đến việc hạn chế những nhà môi giới mua bán cổ phiếu bên ngoài TTCK. Nếu để việc mua bán này được tự do thực hiện sẽ gây hậu quả khó lường. Vì bộ phận quản lý không thể nào biết được việc chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phiếu của một đơn vị nào đó. Mọi sự mua bán bên ngoài có khả năng tạo áp lực cho các nhà đầu tư khác, thậm chí đưa đến việc khống chế hay thay thế cả lãnh đạo của đơn vị. Hầu hết các TTCK đều quy định là mọi sự mua bán cổ phần đã đăng ký với TTCK phải được thực hiện thông qua thị trường. Nếu không quy định như vậy thì mọi sự lạm dụng trong việc mua bán và chuyển nhượng có thể xảy ra, có khả năng tạo ảnh hưởng xấu đối với đơn vị kinh tế có liên quan. - Phao tin đồn nhảm về hoạt động của một đơn vị kinh tế. Điều này cũng gây hậu quả xấu cho đơn vị, có thể đưa đến tình trạng cổ phiếu được đưa ra bán ồ ạt làm giá trị cổ phiếu giảm đột ngột. Những người có ý đồ xấu có thể đứng ra mua các cổ phiếu nào đó để khống chế Công ty và hưởng một số lãi đáng kể sau khi tin đồn đã được kiểm chứng. Đây cũng là điều cấm trong các luật chi phối hoạt động của TTCK. - Liên tục mua cổ phiếu của một đơn vị kinh tế nào đó ở giá cao và bán ra cùng loại cổ phiếu đó ở giá thấp với mục tiêu làm ảnh hưởng đến giá trị cổ phiếu để đầu cơ. Hoạt động của TTCK có những yếu tố đầu cơ, nhưng cũng có những yếu tố đầu cơ bị cấm như mua bán liên tục một loại cổ phiếu nào đó nhằm làm cho giá trị của cổ phiếu tăng hay giảm để đầu cơ. Người đầu cơ mau cổ phiếu với giá cao để đẩy giá lên và đến một lúc nào đó họ bắt đầu bán ra để kiếm lời. Hiện tượng này tuy không phổ biến nhưng cũng thường xảy ra và việc phát hiện cũng không phải dễ dàng. Người ta cũng có thể giả vờ mua bán cổ phiếu nhưng không thực sự chuyển quyền sở hữu với mục đích là đẩy giá lên hoặc xuống. Bộ phận qql TTCK cũng cần phải theo dõi. Trên thực tế không cho phép sử dụng tín dụng ngân hàng để mua bán cổ phiếu, nhất là đối với các thương vụ mang tính chất đầu cơ. Sự sụp đổ của một Công ty, trong trường hợp này sẽ có ảnh hưởng đến ngân hàng cho vay và uy tín của ngân hàng cũng sẽ chịu ảnh hưởng. - Biến động về tình hình chung của nền kinh tế. TTCK là một công cụ để huy động vốn và cũng là nơi để hiện kim hoá cổ phiếu khi có yêu cầu. Trong tình hình kinh tế phát triển, những người đầu cơ đưa giá lên giúp cho thị trường thu hút nguồn vốn lớn. Ngược lại, trong trường hợp có suy thoái, đầu tư giảm, mua bán trên thị trường cũng có chiều hướng giảm và những người đầu cơ đưa giá xuống, có thể làm cho thị trường biến động bất thường, có khả năng dẫn đến khủng hoảng. Trong trường hợp này, vai trò của Nhà nước rất quan trọng, phải bơm tiền vào nền kinh tế để tránh mọi sự biến động lớn trong chỉ số cổ phiếu. Rõ ràng hiểu cả hai mặt tích cực cũng như các khuyết tật của thị trường chứng khoán là một điều cần thiết cho bất cứ thành viên nào tham gia trên thị trường chứng khoán. Từ những lý luận chung về TTCK ở trên, chúng ta tiến tới thực trạng và những giải pháp để phát triển TTCk ở Việt Nam hiện nay. Phần II thực trạng thị trường chứng khoán và những giải pháp để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay. I- Thực trạng thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay. 1. Thuận lợi và khó khăn trong việc hình thành TTCK ở Việt Nam. a. Những thuận lợi. Năm 1996 đánh dấu sự thay đổi căn bản trong đường lối đổi mới của Chính phủ nhằm chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cuộc cải cách đã và đang kéo theo hàng loạt những thay đổi tích cực tạo nên những cơ bản quan trọng, tạo tiền đề tiến tới một thị trường tài chính ở Việt Nam. Điều hết sức quan trọng là Nhà nước đã khẳng định sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần cho phép giải phóng mọi năng lực sản xuất kinh doanh, huy động tối đa và có hiệu quả các năng lực cho công cuộc phát triển đất nước. Trong lĩnh vực phân phối lưu thông, một thị trường hàng hoá thống nhất trong phạm vi cả nước đang ngày càng phát triển mạnh mẽ. Chính sách một giá và nới lỏng kiểm soát hối đoái đã tạo điều kiện cho hàng hoá lưu thông thuận tiện giữa các miền trong cả nước. Lãi suất tín dụng và tiết kiệm đã được ấn định trên cơ sở tương quan cung - cầu vốn trên thị trường và có tác dụng chống lạm phát. Qui luật cung - cầu và qui luật giá trị đang được phát huy tác dụng vốn có của nó. Tiến trình cải cách đã cho ra đời hàng loạt các tổ chức tín dụng: Ngân hàng cổ phần, Công ty tài chính, hợp tác xã tín dụng bên cạnh hệ thống Ngân hàng quốc doanh đang ngày càng được hoàn thiện, cùng với sự có mặt của các ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài trên lãnh thổ. Yếu tố này là hết sức quan trọng trong việc hình thành thị trường tài chính ở Việt Nam. Nền kinh tế đã thay đối sắc thái, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phát triển khá nhanh. Kinh tế hộ gia đình phát triển mạnh ở cả nông thôn và thành thị. ở nông thôn, các hộ nông dân đã được giao ruộng đất để sử dụng lâu dài và có quyền chuyển nhượng. Chính sách này đã tạo cơ sở vững chắc và động lực mới cho kinh tế nông thôn. Kinh tế tư nhân phát triển nhanh trong lĩnh vực dịch vụ và có xu thế phát triển rộng trong các ngành sản xuất. Số doanh nghiệp cổ phần và liên doanh thu hút vốn của nhiều hình thức sở hữu ở trong nước và nước ngoài đã xuất hiện ngày càng nhiều. Sự ra đời của các tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu do một số Công ty, doanh nghiệp và Nhà nước phát hành là những dấu hiệu đầu tiên manh nha cho sự xuất hiện của các công cụ tài chính trên thị trường chứng khoán. Đất nước đã bước đầu chương trình cổ phần hoá các doanh nghiệp quốc doanh nhằm tạo cơ sở cần thiết cho các doanh nghiệp, các Công ty trong quá trình tham gia thị trường vốn tại Việt Nam. Đây là một điều kiện hết sức quan trọng, là một trong những yếu tố cơ bản tạo tiền đề thành công cho thị trường chứng khoán. Chúng ta đã có luật Công ty, luật Doanh nghiệp tư nhân và luật đầu tư nước ngoài đã được bổ sung, hoàn thiện, bước đầu đã có sức hấp dẫn và tạo môi trường pháp lý nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài với số lượng ngày càng lớn. Cùng với chính sách mở cửa của Chính phủ, hoạt động kinh tế đối ngoại của đất nước có những thành quả đáng kể. Một hệ thống kinh tế mở hoà nhập với thế giới bên ngoài đang là một yếu tố có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nền kinh tế thị trường đang thay đổi dần thói quen và nếp nghĩ của dân chúng trong việc sử dụng vốn tích luỹ của mình. Là nước có nền kinh tế phát triển sau nên có thuận lợi là tiếp thu được khoa học tiên tiến của thế giới, có thời cơ và điều kiện để rút kinh nghiệm bổ sung những kiếm khuyết của mô hình thị trường chứng khoán các nước. Những điều kiện thuận lợi trên đây là những tiền đề để có thể chuẩn bị ra rời một thị trường chứng khoán ở nước ta. Chính vì vậy, từ năm 1990 trong pháp lệnh ngân hàng (điều 32và điều 49) Chính phủ đã cho phép ngân hàng phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức và thực hiện một số nghiệp vụ về thị trường chứng khoán. Tháng 8/1992, Chính phủ ra văn bản số 4396-KTĐN chỉ rõ "Để chuẩn bị việc cho ra đời thị trường chứng khoán ở Việt Nam mà hiện nay đã xuất hiện một số tiền đề , các nội dung cần thiết từ vấn đề pháp quy, tổ chức bộ máy điều hành, địa điểm triển khai và các bước triển khai". b. Những khó khăn. Nền kinh tế chưa thật sự ổn định; hiệu quả của nền kinh tế còn thấp, tỷ lệ tích luỹ đầu tư còn nhỏ. Năng suất lao động thấp, chất lượng của nhiều sản phẩm còn kém sức cạnh tranh, thị trường tiêu thụ còn hẹp. Ngân sách còn thâm hụt lớn, lưu thông tiền tệ chưa thông suốt. Trình độ quản lý yếu kém, nhiều sơ hở... Chưa đẩy lùi được tệ tham nhũng, buôn lậu, kinh doanh gian dối... Về môi trường pháp lý: hệ thống pháp luật của chúng ta những năm qua tuy đã được củng cố, bổ sung nhưng thực sự đang còn rất yếu,chưa đồng bộ và kém hiệu lực. Đặc biệt chúng ta chưa có những bộ luật liên quan đến sự ra đời và hoạt động của thị trường chứng khoán như: Luật dân sự, luật thương mại, luật đầu tư trong nước, luật chứng khoán và một số bộ luật đã có nhưng chưa hoàn chỉnh cần được sửa đổi, bổ sung... Nghiêm trọng hơn nữa là việc chấp hành những luật đã có không nghiêm minh, nên đã kéo theo nhiều hậu quả tiêu cực làm giảm sút lòng tin. Đây là một khó khăn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng dẫn đến sự thành công hay thất bại của thị trường chứng khoán. Quá trình sắp xếp, chấn chỉnh lại khu vực kinh tế quốc doanh còn chậma, hiệu quả thấp. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh mới được đổi mới bước đầu, chưa phát huy được năng lực sản xuất tiềm tàng vốn có của nó. Quá trình tư nhân hoá (cổ phần hoá doanh nghiệp) là một cuộc đổi mới về chiều sâu trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường nhưng triển khai rất chậm và hiệu quả rất thấp do thiếu vốn trong nước và sự không rõ ràng trong cơ cấu sở hữu. Đây là một trong những trở ngại lớn nhất cho việc hình thành và hoạt động của thị trường vốn bởi quá trình tư nhân hoá sẽ cho ra đời những doanh nghiệp, Công ty có đủ điều kiện và tư cách tham gia trong thị trường chứng khoán. Một yếu tố quan trọng để thành công trong thị trường chứng khoán phải kể đến là lòng tin của dân chúng - điều này ở đất nước chúng ta còn hết sức khó khăn bởi dân chúng chưa quen với hoạt động kinh tế thị trường, và còn bị ám ảnh bởi sư âm của sự đổ vỡ của các trung tâm tín dụng trước đây và sự thiếu ổn định của nền kinh tế đất nước. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý của chúng ta còn thiếu những kiến thức cơ bản về thị trường chứng khoán. Chúng ta chưa có một hệ thống kế toán hoàn chỉnh theo tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó công tác kiểm toán đối với chúng ta còn mới mẻ, số lườn các Công ty kiểm toán còn ít. Điều đó gây khó khăn cho việc đánh giá tình hình tài chính của các doanh nghiệp. 2. Sự cần thiết phải phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Như chúng ta đã biết, thị trường chứng khoán là một trung tâm thu nhận, phân phối và giao lưu các nguồn vốn tiết kiệm cho đầu tư của toàn xã hội. Về mặt lịch sử, đã có một hình thức thu nhận và phân phối các nguồn vốn ra đời trước TTCK,đó là hệ thống ngân hàng với các dịch vụ giao lưu vốn. Tuy rằng, việc huy động và giao lưu vốn qua hệ thống ngân hàng chứa đựng nhiều hạn chế mà tự nó không thể khắc phục được. Cụ thể là: - Giá cả của vốn (lãi suất) cũng như các quan hệ tín dụng trong quá trình giao lưu qua hệ thống ngân hàng đều do ngân hàng độc quyền quyết định. - Giao lưu vốn qua hệ thống ngân hàng làm tách rời người có vốn và người sử dụng vốn. Ngân hàng có thể khắc phục, bằng cách tham gia TTCK vì thế quan trọng hơn. Những ưu thế của thị trường chứng khoán. - Thứ nhất, việc giao lưu vốn thông qua mua bán chứng khoán sẽ tạo ra môi trường thuận lợi cho quá trình huy động và cung cấp vốn, phá thế độc quyền của các tổ chức tín dụng, tài chính. - Thứ hai, TTCK làm đa dạng hoá các hình thức đầu tư tạo cho người có vốn những cơ hội và khả năng rộng rãi thành đạt trong kinh doanh thông qua việc mua bán chứng khoán thay đổi chủ sở hữu vốn ở các Công ty tạo ra cách thức kinh doanh mới. - Thứ ba, TTCK là nơi tạo điều kiện để các cổ đông có thể rút khỏi Công ty, bằng cách bán các cổ phiếu của mình cho người khác trên TTCK. - Thứ tư, TTCK là hình thức xã hội hoá đầu tư cao và tiện lợi cho mọi người, mặt khác thông qua thị giá cổ phiếu thực hiện kiểm soát xã hội các hoạt động của các Công ty và của nền kinh tế, thúc đẩy các Công ty cổ phần phát triển và cạnh tranh, đồng thời cứu vãn sự sụp đổ của nhiều Công ty. Thực tế ở Việt Nam, nhu cầu vốn đầu tư rất lớn, vậy mà hiện nay lại đang tồn tại một nghịch lý là: Các tổ chức kinh tế thiếu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh nhưng trong dân cư và cả trong một số xí nghiệp, ngân hàng thương mại vốn không được giải phóng bị tồn đọng rất lớn. Thói quen của người sử dụng vốn vẫn là cần vốn ngân sách, vốn tín dụng ưu đãi. Các ngân hàng chuyển sang kinh doanh mang tâm lý thắt chặt tín dụng chưa hạ được lãi suất đến mức thấp hơn nữa, trong dân cư chưa dám đầu tư trực tiếp vào các Công ty mà cất trữ tiền dạng gửi tiền tiết kiệm, mua bất động sản và tiêu dùng. Xã hội cần các kênh giải ngân mà chúng ta chưa có. TTCK là một hướng khả dĩ để tích tụ, tập trung vốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Có nhà kinh tế nói rằng thị trường chứng khoán có thể tạo ra các Công ty cổ phần mà cổ đông là những bà nội trợ tiết kiệm đồng tiền đi chợ. Một số thuận lợi khi thành lập thị trường chứng khoán ở Việt Nam: Thứ nhất, trong nền kinh tế Việt Nam đã tồn tại một số loại chứng khoán ngắn hạn và dài hạn như cổ phiếu, trái phiếu của các cạnh tranh cổ phần, ngân hàng cổ phần, ngân hàng thương mại cổ phần, công trái quốc gia, giấy ghi nợ ngắn hạn (sổ tiết kiệm, kỳ phiếu có mục đích của ngân hàng), tín phiếu kho bạc ngắn hạn và dài hạn... các loại chứng khoán đó được bán ngay trong cơ quan phát hành ra nó với giá là số tiền (giá trị danh nghĩa) ghi trên từng loại chứng khoán. Những chứng khoán này đã được lưu thông: chuyển nhượng, mua bán, tặng, cầm cố, thế chấp, thanh toán hàng hoá, thậm chí xuất hiện cả người đầu cơ. Thứ hai, hoạt động của hệ thống ngân hàng đang từng bước phát triển và hoàn thiện, ứng dụng được những công nghệ tiên tiến của thế giới về các nghiệp vụ truyền thống, nghiệp vụ mới. Thứ ba, TTCK đã có hàng thế kỳ nay, những kinh nghiệm về tổ chức, quản lý hoạt động của TTCK cũng đã được đúc kết. Đó là tài sản vô giá của cả nhân loại. Nó giúp Việt Nam bỏ qua giai đoạn nghiên cứu, mò mẫm, tìm hiểu để chuyển qua giai đoạn nghiên cứu ứng dụng, chọn những mô hìnhvà bước đi thích hợp nhất với hoàn cảnh của mình. Chính phủ Việt Nam rất chú trọng, đã giao cho một số cơ quan nghiên cứu vấn đề này, thành lập uỷ ban chứng khoán quốc gia. II- Các giải pháp để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay. 1. Vai trò, tác dụng và yêu cầu khách quan của việc hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Đã có nhiều tác giả bàn về vai trò, tác dụng và yêu cầu khách quan của việc hình thành thị trường chứng khoán tại Việt Nam , khi nền kinh tế đã và đang vận động theo cơ chế thị trường. Trong bài viết này chúng em muốn bàn đến ba vấn đề thực tiễn nhất của thị trường này, đó là các vấn đề: Cái gì, Cho ai và những điều kiện cơ bản để thị trường chứng khoán ở Việt Nam ra đời. Trước hết về câu hỏi "Cái gì?" - thực chất đó là vấn đề "hàng hoá" của thị trường chứng khoán là những gì? Trong mọi trường hợp, khi nói đến thị trường thì bao giờ người ta cũng phải bàn đến vấn đề đầu tiên là thị trường bán cái gì. Chừng nào không chỉ người bán, mà cả người mua cũng chưa bức bách bởi nhu cầu không thể không bán, cũng như không thể không mua thứ hàng hoá đặc biệt trên thị trường này, thì chừng ấy lý thuyết về thị trường chứng khoán vẫn chưa được mở ra, và nó chưa phát huy tác dụng. Vậy thị trường chứng khoán bán gì? Có thể nói ngay: nó bán các cổ phiếu, trái phiếu Công ty; các chứng chỉ tiền gửi dài hạn; các khế ước cầm cố tài sản... Thực chất hàng hoá trên thị trường chứng khoán là việc bán và mua những "niềm tin". Hình thức của các hàng hoá ở đây là những loại giấy tờ mang nội dung cam kết về hùn vốn hay những cam kết về vay và nợ, kèm theo một niềm tin về món thu nhập lợi nhuận ước tính hoặc món lãi suất ưu đãi nào đó đủ để hấp dẫn cả hai bên mua và bán trên thị trường chứng khoán. Vấn đề không thể úp mở là: bản thân những hàng hoá trên thị trường chứng khoán là sự hiện diện "bóng" của tư bản. Đã là tư bản thì mục đích sâu xa và bản chất của nó là lợi nhuận, là khả năng sinh lời của những đồng vốn kinh doanh trong thị trường này. ở những nước tư bản phát triển, trên thị trường chứng khoán của họ "hàng hoá" chiếm tỷ trọng lớn nhất là cổ phiếu Công ty. "Hàng hoá" này chiếm tới trên dưới 70% tổng giá trị luân chuyển của thị trường chứng khoán. Phần đông những người mua cổ phiếu này là các chủ sở hữu vô danh về Công ty, nhưng hữu danh về số tư bản mà họ đã "ném" vào thị trường. Do đó, uy tín Công ty, luật kinh doanh Nhà nước và tính ổn định của tiền tệ quốc gia.... là những điều kiện bên trong quyết định niềm tin của những khách hàng trên thị trường chứng khoán.Vì thế sẽ là vô nghĩa nếu bàn đến thị trường chứng khoán lại không bàn đến những người mua mà chỉ bàn đến những người phát hành " hàng hoá" - giấy tờ có giá. Thị trường chứng khoán bán các "giấy tờ" cam kết nợ, hay cam kết lợi nhuận, hoặc cam kết lãi suất... cho ai? Có thể trả lời ngay là cho những chủ sở hữu vốn đầu tư tương lai nằm rải rác khắp mọi nơi trong các tầng lớp dân cư trong nước, kiều bào nước ngoài và cả những tổ chức hay công dân nước ngoài. Bản thân những khách hàng này, tự họ không đủ sức để biến tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của mình thành tư bản; hoặc họ thích thị trường chứng khoán của ta hơn, vì có nhiều sức hấp dẫn hơn. Họ sẵn sàng đầu tư vốn mua cổ phiếu, trái phiếu hay cầm cố.. do các chủ kinh doanh đủ uy tín và được Nhà nước bảo lãnh theo luật để phát hành ra các loại "hàng hoá" nói trên bán cho khách hàng của mình. Đặc trưng của cơ chế thị trường là các quan hệ lợi nhuận và cùng có lợi. Do vậy, sức hấp dẫn tư bản đối với người mua là đối tượng và nguyên nhân hấp dẫn đối với "óc thẩm mỹ kinh doanh" của người bán. Trên thị trường này, đối với người bán thì đầu tiên mới chỉ là "bán danh nghĩa"; "bán niềm tin"... còn đối với người mua thì bản thân hành động mua, ngay từ đầu họ đã "quẳng" tiền vào kinh doanh rồi. Riêng ở Việt Nam, đa số những người mua chưa có thói quen "quẳng tiền" vào thị trường này mặc dù về phương diện lý thuyết họ cũng hiểu rằng giá cả của hành động nói trên được đo bằng một lợi nhuận ước tính, hoặc một lãi suất ưu đãi nào đó. Chính đặc điểm này mà không phải ngay lập tức muốn có thị trường chứng khoán ra đời là nó sẽ ra đời ngay, mà vấn đề xem ra cấp bách nhất lại là ở chỗ xác định và tạo ra những điều kiện vật chất cho sự ra đời của thị trường này ở Việt Nam như thế nào? Vậy điều kiện để thị trường chứng khoán ra đời ở Việt Nam là gì? Thói quen bao giờ cũng được hình thành thông qua một quá trình. Quá trình đó ngắn hay dài, một phần lớn phụ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế xã hội cụ thể cùng với trình độ nhận biết của các bên tham gia thị trường. Nếu phải viết đôi lời về điều kiện để ra đời một thị trường thì thật là đơn giản. Thị trường chỉ ra đời khi nhu cầu về một loại hàng hoá nào đó đã trở thành thúc bách đối với nhiều ngươì mua tiềm tàng trong xã hội, còn người bán thì đã nắm bắt được tín hiệu đó và đã có những "lô" hàng hoá sẵn sáng bán thăm dò ... Đó là nói về điều kiện cho thị trường hàng hoá nói chung. Còn với thị trường chứng khoán thì khác. ở Việt Nam với một đất nước mà tư tưởng tiểu nông, sản xuất nhỏ và ăn chắc đã từng ngự trị suốt chiều dài lịch sử, nay dù nền kinh tế không thể tiếp tục vận hành theo cơ chế cũ; dù các cuộc cải cách kinh tế theo ngành , theo lĩnh vực từ sau Đại hội 6 của Đảng đã lần lượt chứng tỏ tính ưu việt của nó trong cuộc sống, và mặc dù 80% dân số sống ở nông thôn đã chứng kiến một điều đó trên thực tế. Song việc họ sẽ bỏ tiền ra mua những giấy chứng chỉ có giá, dù với hy vọng sau một thời gian nhất định sẽ thu được lợi nhuận hay lãi suất so với số tiền bỏ ra hôm nay thì vẫn không phải là vấn đề hấp dẫn ngay trong nay mai. Với đông đảo số khách hàng kể trên thì cái gọi là "lý thuyết về thị trường chứng khoán" không phải là vấn đề quan trọng nhất, mà quan trọng nhất là số những tấm gương giàu lên chỉ vì tham gia thị trường này là bao nhiêu so với số những người đã gặp rủi ro chỉ vì dám đặt chân vào "vùng kinh tế" lạ lùng ấy! Chính lý lẽ nói trên mà việc hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam trong buổi bình minh của nó theo em cần phải có những điều kiện căn bản sau: Một là, thị trường chứng khoán ở Việt Nam phải được hình thành bắt đầu từ "điểm" đến "diện" nghĩa là phải định hướng một số ngành, một số lĩnh vực được tính toán rất chắc chắn về khả năng sinh lãi nếu các dự án ở đó được đầu tư thực hiện. Trong các ngành, các lĩnh vực ấy, Nhà nước tạo điều kiện cho các nhà doanh nghiệp gồm những người đã có đề án khả thi, đã đủ kiến thức về phát hành và đủ năng lực trách nhiệm về những loại tín phiếu phát ra gọi vốn trên thị trường chứng khoán. Hai là, Nhà nước cần xúc tiến chỉ đạo việc soạn thảo và trình Quốc hội về dự luật tín phiếu. Trong đó sẽ bao gồm những chương, những điều cụ thể nói về các quan hệ, các "ngưỡng" khống chế giữa các bên tham gia thị trường chứng khoán, với những hình thức hàng hoá khác nhau như: cổ phiếu, trái phiếu, cầm cố... ở các nước tư bản lớn, hầu như mỗi hình thức hàng hoá nói trên đều có một dự luật riêng. Ba là, Với tư cách là chủ sở hữu của một khu vực kinh tế lớn của đất nước, Nhà nước cần phải có những dự án tiên phong trong việc đầu tư vào lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng như: ngân hàng, điện năng, giao thông, thông tin, thuỷ lợi, đào tạo... Đó là những ngành tối cần thiết nhằm tạo ra "bệ phóng" cho sự phát triển mạnh mẽ nền kinh tế. Đó cũng chính là những điều kiện để thu hút nhiều dự án khả thi tiếp theo ra đời cùng với sức hấp thụ một khối lượng vốn khổng lồ của nó, cũng là điều tất yếu cần đến và làm sôi động thị trường chứng khoán Việt Nam. Bốn là, song song với quá trình tăng cường mở cửa nền kinh tế và quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước phải có chương trình quản lý chặt chẽ quy trình luân chuyển của ngoại tệ thông qua trung tâm quản lý và dịch vụ thanh toán duy nhất tại ngân hàng Nhà nước T.W, để đảm bảo tính ổn định của tiền tệ và đảm bảo quyền điều tiết vĩ mô sự phát triển lành mạnh, có định hướng của nền kinh tế , tạo niềm tin vững chắc cho các lực lượng đầu tư tiềm tàng thông qua thị trường chứng khoán. Tóm lại, khi nền kinh tế Việt Nam chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, dù là thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, thì vấn đề hữu chủ hoá tài sản trên cơ sở tích tục và tập trung hoá vốn kinh doanh là một nhu cầu khách quan. Trong đó vấn đề hình thành thị trường chứng khoán, một hình thức xã hội đặc biệt của tích tụ và tập trung vốn kinh doanh tất yếu phải diễn ra. Nhận thức được tính quy luật đó sẽ góp phần chủ động tạo ra cơ sở lý luận và thực tiễn, làm xúc tác quá trình hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam sớm đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng tích cực của nó, phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế Việt Nam thời mở cửa và tiếp thu các kênh vốn từ nhiều nguồn khác nhau đã và đang chuyển từ trạng thái tiềm năng sang trạng thái hoạt động trong các doanh nghiệp, cùng với các đề án khả thi đang cần được khuyến khích thực hiện. 2. Đối chiếu các điều kiện để ra đời thị trường chứng khoán nêu trên vào nền kinh tế Việt Nam. - ở nước ta hiện còn thiếu chứng khoán có thể mua bán chuyển nhượng dễ dàng do chúng ta chưa có nhiều Công ty cổ phần phát hành rộng rãi chứng khoán với các điều kiện luân chuyển thuận lợi, đa phần các chứng từ có giá đều ghi danh với thời hạn ngắn. - Về con người: Hiện này chúng ta chưa có một đội ngũ các nhà quản lý TTCK được đào tạo có hệ thống, đồng thời cũng chưa có một đội ngũ các nhà kinh doanh chứng khoán có kinh nghiệm. Có thể nói chưa có công dân nào tham gia TTCK tất cả mới chỉ là khái niệm ở những người nghiên cứu, nó rất trừu tượng, xa lạ với số đông. - Về cơ sở pháp lý: Hiến pháp khẳng định nền kinh tế nước ta phát triển theo hướng thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nên việc thành lập TTCK bên cạnh thị trường hàng hoá và dịch vụ là phù hợp với Hiến pháp nước ta. hệ thống về doanh nghiệp, đầu tư, dân sự, hình sự... là cơ sở pháp lý hỗ trợ sự hình thành luật pháp về TTCK. Khi ra Luật về TTCK cần thiết sửa đổi bổ sung vào các Luật khác để tạo ra sự thống nhất vận hành. Ví dụ tội in chứng khoán giả xử như in tiền giả. - Về tổ chức: Để tạo điều kiện cho TTCK ra đời có thể hoạt động, cần phải có những tổ chức phù hợp. Ví dụ thành lập UBCKQG, các trung tâm giao dịch chứng khoán (Sở giao dịch chứng khoán) ở thành phố lớn như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội và đào tạo gấp cán bộ, thuê các chuyên gia làm cố vấn, thuê chuyên gia kỹ thuật làm từng bước thận trọng. 3. Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta. 3.1. Lựa chọn mô hình. Theo kinh nghiệm của các nước, việc huy động vốn cho nhu cầu phát triển kinh tế của một quốc gia đều phải từ hai nguồn: huy động vốn của nước ngoài và huy động vốn nhà rỗi trong nước. Đương nhiên, mức độ huy động vốn từ hai nguồn trên có khác nhau, tuỳ thuộc vào điều kiện thực tế xã hội của quốc gia. ở nước ta mô hình hợp lý nhất, theo chúng em là mô hình tự lực "đóng" vì các lý do: - Nhu cầu vốn của nền kinh tế rất lớn, thiếu vốn nghiêm trọng, nhưng những tiền đề vật chất cần thiết để thị trường vốn ra đời chưa có. Những tiền đề bước đầu đó không thể giao phó cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, cũng như để các tổ chức tài chính nước ngoài điều khiển, mà phải do Nhà nước điều hành, làm chủ thị trường vốn. Hơn nữa, khu vực kinh tế quốc doanh ở nước ta còn giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế, vì thế những tiền đề vật chất cho thị trường vốn ra đời và phát triển phải được xây dựng bắt đầu từ khu vực kinh tế quốc doanh. Do đó đối với nước ta hợp lý hơn là nên xây dựng mô hình thị trường vốn tự lập là chính, còn gọi là mô hình "đóng", nghĩa là mô hình thị trường vốn có sự tham gia của Nhà nước và các tổ chức, các doanh nghiệp trong nước. - Nếu chọn mô hình"mở", thì ngay từ đầu, Việt Nam đã cho phép các Công ty tài chính nước ngoài tham gia thị trường vốn. Nhưng các tổ chức nước ngoài muốn vào họ phải có một thời gian nhất định để nghiên cứu tìm hiểu, trong khi nước ta lại đang cần vốn. Có thể còn nhiều lý do khác, song vì hai lý do trên, cho nên ở ta hiện nay chọn mô hình "đóng" là hợp lý. Đương nhiên, trong những điều kiện thuận lợi, có thể từng bước cho các Công ty tài chính nước ngoài tham gia thị trường vốn nước ta. 3.2. Các giai đoạn hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam. a. Giai đoạn 1: Hình thành thị trường chứng khoán sơ cấp Để hình thành thị trường chứng khoán sơ cấp cần phải thực hiện được các điều kiện sau đây: - Guống máy quản lý và cán bộ quản lý thị trường chứng khoán. Đây là điều kiện số 1, vì phải có tổ chức bộ máy quản lý có đủ điều kiện quản lý điều hànhtt chứng khoán. Cùng với việc tổ chức bộ máy, phải tiến hành đào tạo cán bộ có đủ năng lực, có chuyên môn (cán bộ giao dịch, môi giới,quản lý điều hành, thông tin...). Cả hai vấn đề này hiện nay ta chưa có. - Phát triển quan hệ hàng hoá và quan hệ thị trường. Trên thị trường chứng khoán bao gồm 3 chủ thể quan hệ với nhau: người mua, người bán và người môi giới. + Về hàng hoá: Đó là các loại chứng khoán. Trong đó phải phát triển nhanh các loại chứng khoán trong khu vực Nhà nước. Nhiều nhà kinh tế cho rằng, muốn phát triển nhanh thị trường chứng khoán phải tiến hành nhanh cổ phần hoá trong các doanh nghiệp Nhà nước. Đây có lae là quan điểm phù hợp với tình hình thực tại ở nước ta. Vì cho tới nay khu vực kinh tế quốc doanh vẫn giữ vị trí thống trị trong tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Do vậy khu vực này phải tạo ra các loại chứng khoán trước,phải cổ phần hoá. Theo chương trình cổ phần hoá, thì ngay từ đầu năm 1993 phải cổ phần hoá thí điểm một số doanh nghiệp có điều kiện, sau đó mở rộng ra các xí nghiệp quốc doanh khác. Ngoài ra phải khuyến khích hình thành các Công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu ở tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Đối với Nhà nước, trước mắt, việc phát hành các loại chứng khoán dài hạn (công trái quốc gia, trái phiếu Nhà nước) còn gặp khó khăn, thì từ nay đến 1995 nên chú trọng phát hành các loại chứng khoán ngắn hạn lưu thông trên thị trường tiền tệ. Từ năm 1995 Nhà nước sẽ phát hành chứng khoán dài hạn, chuyển dần các dịch vụ cho vay ngắn hạn thông qua các tổ chức ngân hàng sang cho vay dài hạn với lãi suất hấp dẫn. - ổn định giá trị đồng tiền, giảm tới mức tối đa rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Nói đến ổn định đồng tiền là nói đến chống lạm phát, vì vậy phải tập trung vào các vấn đề: + Phát triển các ngân hàng thương mại và cổ phần hoángân hàng, phục hồi và tổ chức lại các hợp tác xã tín dụng. + Phát triển môi trường cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ - tín dụng. + Đa dạng hoá các loại hình tín dụng và mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Thực hiện các biện pháp chống lạm phát, đồng thời cũng là các biện pháp đẩy nhanh phát triển thị trường chứng khoán. - Phải có hệ thống luật lệ cần thiết cho thị trường chứng khoán. - Phải chuẩn bị cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho hoạt động giao dịch, chuyển nhượng và mua bán chứng khoán, thanh toán, chi trả, trang thiết bị thông tin.... b, Giai đoạn 2 thị trường vốn thứ cấp. Thực ra, sự xuất hiện các yếu tố của thị trường này có thể sớm hơn, thậm chí có thể ở ngay gian đầu của giai đoạn 1, khi các chứng khoán khởi thuỷ được mua đi, bán lại trên thị trường. Nhưng những hoạt động đó còn lẻ tẻ và mang tính chất tự phát, thị trường thứ cấp chỉ thực sự có được khi các hoạt động mua bán chứng khoán xay ra thường xuyên và có sự chỉ đạo của Nhà nước thông qua việc hình thành Sở giao dịch chứng khoán. Cũng cần lưu ý rằng, không phải bất kỳ trường hợp nào cũng có thể thực hiện được bước chuyển biến từ thị trường sơ cấp sang thị trường thứ cấp. Bởi lẻ, những thất bại trong kinh doanh của các doanh nghiệp, sự suy yếu của nền kinh tế nếu xảy ra trong thời kỳ hình thành thị trường sơ cấp, thì chắc chắn các loại chứng khoán khởi thuỷ sẽ bị mất giá và người ta chỉ có thể mong muốn đầy đi, nhưng chắc chắn sẽ không ai mua chúng. Nghĩa là, sẽ không có hoạt động mua bán lại chứng khoán. Như vậy, nếu coi thị trường thứ cấp là thị trường mua đi, bán lại chứng khoán, thì điều kiện tiên quyết không chỉ giới hạn trong các yếu tố của thị trường này (sự tồn tại của chứng khoán, các yếu tố pháp luật, kỹ thuật, con người v.v.) mà quan trọng hơn là sự tăng trưởng, ổn định của sản xuất, là hiệu quả sản xuất kinh doanh và tất nhiên, là sự ổn định tiền tệ. Muốn vậy, về phương pháp củng cố các điều kiện đã nêu trong giai đoạn 1 và phải thực hiện các biện pháp chủ yếu sau: 1. Tiếp tục các chính sách và biện pháp củng cố thị trường hàng tiêu dùng, thị trường tư liệu sản xuất và thị trường sức lao động, thị trường thông tin, dịch vụ và khoa học kỹ thuật để duy trì sự ổn định kinh tế. 2. Nhà nước cho phép về mặt pháp lý việc mua - bán cổ phiếu theo cơ chế thị trường. 3. Nhà nước cho phép các tổ chức bảo hiểm, HTX tín dụng, các quĩ hưu trí, quĩ bảo hiểm xã hội thực hiện nghiệp vụ trung gian, mối giới mua - bán các chứng khoán. 4. Tổ chức thành lập Sở giao dịch chứng khoán ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Nên qui định về mặt pháp lý, các chứng khoán Nhà nước chỉ được mua bán trên thị trường giữa các ngân hàng còn cổ phiếu và trái phiếu của Công ty thì được phép mua bán trên Sở giao dịch chứng khoán để phù hợp với trình độ của cán bộ ngân hàng và các nhà môi giới. Kết luận Sẽ không ai nói rằng cần phải thúc đẩy sớm việc hình thành một TTCK trong điều kiện một nền kinh tế khép kín, còn ở trình độ tự cùng tự cấp hay trong một nền kinh tế mà cơ chế vận động của nó đang là cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Mặc dù thị trường chứng khoán trên thế giới đã hình thành và hoàn thiện với bề dày lịch sử hàng mấy trăm năm. Song chính nó cũng chỉ có thể ra đời khi mà nơi đó đã xuất hiện và chín muồi các tiền tệ căn bản từ trong lòng sự phát triển của nền kinh tế. Chính lý do đó mà không phải chỉ với kinh nghiệm của nước ngoài cộng với những ý chí chủ quan ở trong nước muốn có TTCK là có thể được hình thành ngày. Trái lại, nền kinh tế đã bước vào một giai đoạn mới - giai đoạn phát triển sản xuất hàng hoá dựa trên quyền sở hữu của nhiều thành phần; hoặc quyền sở hữu đã được nhận thức mới - rằng nó chỉ là một thứ thước đo tài sản và là phương tiện để phát triển sản xuất của tổ chức, tập thể hay cá nhân trong cộng đồng xã hội, và khi nền kinh tế hàng hoá ấy được vận hành theo cơ chế thị trường v.v.... thì TTCK cũng sẽ hội đủ các điều kiện để ra đời với các trình độ khác nhau từ tự phát với tự giác khi có sự nhận thức và thúc đẩy của chủ thể của nền sản xuất. Khác với một số nước có TTCK hình thành một cách tự phát ngoài sự tác động của Nhà nước, ở Việt Nam khi các điều kiện cho thành lập một TTCK chưa thực sự chín muồi thì vai trò xúc tác của Chính phủ lại càng đặc biệt quan trọng. Muốn thành lập và phát triển được một TTCK bao gồm cả các điều kiện vật chất và kỹ thuật vì chưa có một tổ chức tư nhân nào đủ mạnh để đảm nhận. Tuy nhiên, việc thành lập và phát triển một TTCK không thể tiến hành một cách vội vã và mà cần phải tiến hành từng bước thận trọng tuỳ theo các điều kiện của nền kinh tế, có như vậy mới đảm bảo phát triển thành công một TTCK ở Việt Nam. Vấn đề phát triển một TTCK ở Việt Nam đã trở thành một nhu cầu khách quan. Song công việc còn khá nặng nề, trong đó không ít những vấn đề nằm ngoài chức năng xử lý của tài chính và ngân hàng Việt Nam - đòi hỏi phải có sự kết hợp đồng bộ và có hiệu quả của các cấp, các ngành hữu quan dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ . Với sự nỗ lực tổng hợp ấy, TTCK Việt Nam sẽ phát triển trong một tương lai gần. Tài liệu tham khảo 1. Tạp chí ngân hàng các số. 2. Tạp chí kinh tế và dự báo các số. 3. Tạp chí thương mại các số. 4. Tạp chí kinh tế và phát triển các số 5. Tạp chí "nghiên cứu và trao đổi" các số. 6. Sách "thị trường chứng khoán"của ĐH TCKT - NXB TC - 1998. 7. Sách "chứng khoán và TTCK - kinh nghiệm của các nước trên thế giới" của Bộ tài chính - Việc khoa học tài chính. 8. Sách "Việt Nam với thị trường chứng khoán" - Bộ tài chính. 9. Sách "TTCK và Công ty cổ phần" Bùi Nguyên Hoàn chủ biên - NXB Chính trị quốc gia 1998. 10. Cùng một số kiến thức được cập nhật trên ti vi, Radio..... Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Nội dung 2 Phần I Những vấn đề lý luận về TTCK 2 I- Chứng khoán sự hình thành TTCK và cơ cấu của TTCK 2 1. Chứng khoán 2 2. Sự hình thành TTCK. 3 3. Cơ cấu của thị trường chứng khoán 3 II- Những điều kiện cơ bản để thành lập TTCK 4 III- Tính hai mặt của thị trường chứng khoán 5 1. Mặt thứ nhất (mặt tích cực) của thị trường chứng khoán 6 2. Mặt thứ hai (mặt tiêu cực) của thị trường chứng khoán 10 Phần II Thực trạng thị trường chứng khoán ở Việt Nam và những giải pháp để phát triển TTCK ở Việt Nam hiện nay 13 I- Thực trạng TTCK ở Việt Nam hiện nay 13 1. Thuận lợi và khó khăn trong việc hình thành TTCK ở Việt Nam 13 2. Sự cần thiết phải phát triển TTCK ở Việt Nam 16 II- Các giải pháp để phát triển TTCK ở Việt Nam hiện nay 18 1. Vai trò, tác dụng và yêu cầu khách quan của việc hình thành TTCK tại Việt Nam 18 2. Đối chiếu các điều kiện để ra đời TTCK nêu trên vào nền kinh tế Việt Nam 22 3. Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta 23 Kết luận 27 Tài liệu tham khảo 28

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35002.doc
Tài liệu liên quan