Đề tài Thực trạng và các giải pháp nâng cao tăng cường vốn và nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển trong các doanh nghiệp nhà nước

Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và phát triẻn kinh tế thị trường, tuy nhiên sử dụng marketing vẫn được coi là công việc mới mẻ của sản xuất kinh doanh, bởi vì hoạt động marketing của Việt Nam còn có những trở ngại và khó khăn. Bởi vậy phải có những giải pháp như sau: Thứ nhất, rà soát và hoàn thiện các yếu tố kết cấu hạ tầng phục vụ cho việc triển khai các hoạt động marketing của công ty. Kết cấu hạ tầng phục vụ cho các hoạt động marketing cơ bản gồm có: phòng chức năng chuyên thực hiện các hoạt động marketing; đội ngũ nhân viên, chuyên gia có chuyên môn vững về marketing; thiết lập mối liên hệ giữa các bộ phận của công ty theo định hướng khách hàng là trung tâm Thứ hai, thường xuyên tiến hành nghiên cứu thị trường nhằm thiết lập một hệ thống thông tin cho doanh nghiệp, thông tin làm giúp cho các doanh nghiệp tự tin và mạnh dạn hơn về doanh nghiệp của mình trên thị trường. Hiện nay thông tin la một trong năm yếu tố cơ bản đối với hoạt động của doanh nghiệp. Thứ ba, xây dựng các thương hiệu doanh nghiệp việt mạnh, làm sao để các doanh nghiệp có tầm nhìn chiến lược, nâng cao trình độ chuyên quản lý và trình độ chuyên môn, định hướng của chiến lược: cũng cố vị trí thị trường, duy trì độ nhận biết thương hiệu cao, mở rộng thương hiệu để gia tăng quy mô và hiệu quả, ngân sách marketing được cân đối để đảm bảo mục tiêu lợi nhuận. Thứ tư, xác định mục tiêu kinh doanh phù hợp, chiến lược kinh doanh hướng vào khách hàng. Trên cơ sở hệ thống thông tin marketing của mình, các công ty tài chính tiến hành phân tích sâu hơn các thông tin có được để xác định thị trường mục tiêu, phương hướng kinh doanh và xây dựng các chiến lược marketing nhằm đạt các mục tiêu đã đề ra. Chủ trương của Đảng ta là "mở rộng các dịch vụ tài chính - tiền tệ"[1]; " đa dạng hoá các công cụ và hình thức tổ chức tài chính, tiền tệ phi ngân hàng và các quỹ đầu tư nhằm động viên các nguồn lực cho phát triển kinh tế, xã hội."[2]. Như vậy, Đảng và Nhà nước đã không bó hẹp hoạt động của các trung gian tài chính phi ngân hàng, nên đối với các công ty tài. 5.Về đầu tư hàng tồn trữ Các doanh nghiệp phải xác định qui mô hàng tồn trữ tối ưu cho doanh nghiẹp một cách hợp lý, để làm sao cho lượng dự trữ đủ để đáp ứng nhu cầu của khách hàng Các kho hàng chứa hàng tồn trữ phải kín và phù hợp với từng loại sản phẩm, hàng hóa, vật tư cần được bảo vệ. Địa điểm kho dự trữ cần phải bố trí sao cho việc vận chuyển tối thiểu và dễ dàng cho việc nhập xuất các hàng hóa. Để thuận lợi cho công tác dự trữ và tốc độ giải phóng kho, cần thiết phải nhận dạng sản phẩm một cách nhanh chóng. Giải pháp đơn giản nhất là sử dụng một bộ mã số hoặc cả chữ và số cho mỗi mặt hàng dự trữ Sử dụng các phiếu kho để ghi chép sự vận động của hàng hóa (nhập và xuất), tính toán số lượng tồn kho. Thực hiện kiểm kê một cách thường xuyên để tính được những mất mát hoặc hư hỏng ở tất cả các dạng. Phải quản trị tồn kho một cách hợp lý, nhằm chuẩn bị lượng hàng trước khi giao dịch, vì khâu quản lý không thể kết hợp hai giai đoạn sản xuất, do một số nhà cung cấp sản xuất và vận chuyển vật liệu thô theo lô, lượng đặt mua hàng tồn kho nhiều , vì năng lực sản xuất có hạn Chính phủ co những chính sách va sửa đổi hợp lý trong việc định hướng hàng tổn kho, chi phi của hàng tổn kho cho các doanh nghiệp nhằm giảm bớt các chi phi như chi phí đáp ứng cho khách hàng,chi phí phối hợp cho sản xuất, chi phí tồn kho

doc39 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1565 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và các giải pháp nâng cao tăng cường vốn và nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển trong các doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp, trong tương lai tỷ lệ chi cho hoạt động đầu tư này sẽ ngày càng tăng ương ứng với nhu cầu và khả năng của doanh nghiệp. *Các yếu tố ảnh hưởng đến nghiên cứu và triển khai của doanh nghiệp -Khả năng tài chính của doanh nghiệp: khả năng tài chính của doanh nghiệp sx cho phép xác định được khả năng và quy mô đầu tư nghiên cứu và triển khai của doanh nghiệp. -Quy mô sản xuất kinh doanh cua doanh nghiệp: quy mô sản xuất kinh doanh cang lớn thì khả năng quy mô đầu tư nghiên cứu triển khai càng lớn . -Cơ hội về đổi mới kĩ thuật và các cơ hội trong ngành: những ngành có nhiều cơ hội đổi mới công nghệ và kĩ thuật đòi hỏi các doanh nghiệp trong ngành đó phải tích cực đầu tư cho nghiên cứu nắm bắt kịp thời các cơ hội về kĩ thuật và công nghệ của ngành. Khi đánh giá hiệu quả đầu tư nghiên cứu triển khai các doanh nghiệp thường dựa trên một số quan điểm sau : + Thứ nhất là, hiệu quả đầu tư nghiên cứu triển khai phải được xem xét đánh giá toàn diện về các mặt tài chính kinh tế xã hội , môi trường . + Thứ hai là, hiệu quả đầu tư nghiên cứu và triển khai vừa có thể lượng hoá được vừa có thể không lượng hoá được. Do đó kết quả của đầu tư cho nghiên cứu và triển khai có thể được thể hiện dưới dạng hiện hoặc dưới dạng ẩn tuỳ theo dự án, chương trình nghiên cứu. Tóm lại có thể nói đầu tư cho nghiên cứu triển khai đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Các chương trình và dự án R&D gắn chặt với chiến lược kinh doanh giúp các doanh nghiệp đạt được các mục tiêu ngắn hạn cũng như dài hạn về kinh tế cũng như các ảnh hưởng khác. 2.5. Đầu tư cho hoạt động marketing. Thứ nhất là : đầu tư cho việc nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp trước hết là nghiên cứu khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.Có thể nói cạnh tranh là một đặc tính cơ bản nhất của thị trường của doanh nghiệp, sẽ không có thị trường nếu không có cạnh tranh, trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo mục tiêu của doanh nghiệp, người tiêu dùng là tối đa hoá lợi nhuận và sự tiện ích của chính mình, khả năng cạnh tranh là nguồn năng lượng thiết yếu để doanh nghiệp tiếp tục vững bước trên con đường hội nhập kinh tế. Thực tế cho thấy doanh nghiệp kinh doanh thành công thực hiện các kĩ năng cạnh tranh rất thuần thục, nó tạo thành phương pháp cạnh tranh đặc trưng của doanh nghiệp Các kĩ năng này tập trung vào : -Tạo lập và phát triển uy tín doanh nghiệp -Coi trọng chiến lược mở rông thị trương -Xây dựng và thực hiện đổi mới sản phẩm , mẫu mã -Luôn tìm cách giảm chi phí sản xuất -Sách lược tiêu thụ sản phẩm khôn khéo Thứ hai là: khi nghiên cứu thị trường trong đầu tư tài sản vô hình của doanh nghiệp ta cần phải nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng. Hành vi của người tiêu dùng thực hiện trong việc tìm kiếm, mua, sử dụng đánh giá và vứt bỏ các sản phẩm và dịch vụ mà họ dự định sẽ thoả mãn các nhu cầu của họ. Nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng là nghiên cứu các cá nhân đưa ra quyết định thế nào đối với việc chi tiêu các nguồn tài nguyên có thể sử dụng của họ trong các hạng mục liên quan đến sự tiêu dùng. Qua việc nghiên cứu hành vi người tiêu dùng sẽ cung cấp cho các nhà sản xuất những thông tin quan trọng để họ lên kế hoạch sản xuất thiết kế cải tiến và xây dựng được cac chiến lược khuyến mại. Mục đích của nghiên cứu người tiêu dùng là phục vụ cho công tác quản lí kinh doanh sản xuất và dịch vụ. Các nhà quản lí muốn biết nguyên nhân hành vi của người tiêu dùng , họ muốn biết con người đưa ra quyết định mua hàng sử dụng, cất kho và vứt bỏ các sản phẩm như thế nào từ đó xây dựng chiến lược Marketing lập ra những mảng thị trường mới cho một sản phẩm riêng hay một loại sản phẩm. Nghiên cứu hành vi người tiêu dùng được tiến hành bởi các tổ chức Maketing riêng biệt. Thấy được tầm quan trọng và cần thiết của việc nghiên cứu hành vi người tiêu dùng, các doanh nghiệp đang đầu tư một cách thích đáng cho việc nghiên cứu. Việc nghiên cứu thành công giúp doanh nghiệp có chiến lược sản xuất kinh doanh đúng hướng, tiêu thụ nhanh sản phẩm quay vòng vốn nhanh thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Từ các nội dung của đầu tư phát triển đã trình bày ở trên, các DNNN hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau cần xác định nội dung nào là quan trọng, có vai trò quyết định đến các nội dung khác ở doanh nghiệp mình để tập trung đầu tư và phát triển. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG CÁC DNNN. Số doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh tại thời điểm 31/12 hàng năm phân theo loại hình doanh nghiệp ở nước ta có thể được thể hiện qua bảng số liệu tóm lược sau: 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng số 51680 62908 72012 91755 112952 DNNN 5355 5363 4845 4596 4086 + Trung ương 1997 2052 1898 1967 1825 + Địa phương 3358 3311 2947 2629 2261 Cơ cấu % DNNN 10,36 8,52 6,73 5,01 3,62 + Trung ương 3,86 3,26 2,64 2,14 1,62 + Địa phương 6,50 5,26 4,09 2,87 2,00 (Nguồn: Niên giám thống kê 2006) Từ bảng số liệu chúng ta thấy rằng số lượng các DNNN có xu hướng ngày càng giảm và điều này hoàn toàn phù hợp. Xét về lý thuyết, khu vực DNNN trong nền kinh tế thị trường không cần có tỷ trọng cao mà chỉ cần chiếm giữ những vị trí then chốt. Lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, tỷ trọng DNNN được coi là quá lớn khi vượt quá giới hạn 20-25% và quá nhỏ khi ở dưới mức 5% GDP. Trong thời kỳ chuyển đổi cần khẳng định vai trò chủ đạo của DNNN nhưng xét về lâu dài DNNN sẽ giữ vai trò nòng cốt, là một trong những công cụ điều tiết vĩ mô. Xét về cơ cấu sở hữu, DNNN là một bộ phận quan trọng, cùng với các bộ phận sở hữu khác phát triển bình đẳng và cạnh tranh với nhau.   Trong những năm vừa qua, phần lớn các DNNN được sắp xếp lại theo hướng cổ phần hóa đã nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm đối với nền kinh tế, sản xuất kinh doanh đã có lãi, nhiều DN đã mạnh dạn đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị để nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, khắc phục tình trạng lỗ lũy kế và có vốn tích lũy để tái sản xuất mở rộng. Trong đó vốn là nguồn lực để thực hiện đầu tư phát triển. Việc sử dụng vốn như thế nào có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp. DNNN là loại hình kinh tế được nhà nước đầu tư vốn lớn vì vậy việc sử dụng vốn có hiệu quả hay không ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển của nền kinh tế. Từ sau khi thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, nhà nước đã có những chính sách phù hợp hơn đối với sự phát triển của DNNN, nhờ vậy hiệu quả sử dụng vốn của DNNN đã được nâng cao rõ rệt. Tuy nhiên vẫn còn nhiều mặt hạn chế để hiểu rõ tinh hình sử dụng vốn đầu tư của DNNN ta xem bảng số liệu sau : Vốn sản xuất kinh doanh và doanh thu thuần của DNNN Tỷ đồng 2000 2002 2003 2004 2005 Vốn sản xuất kinh doanh Tổng số 998423 1352076 1567179 1966165 2435048 DNNN 670234 858560 932942 1128483 1338255 + Trung ương 577990 734004 798163 968447 1165902 + Địa phương 92244 124556 134779 160036 172354 Doanh thu thuần Tổng số 809786 1194902 1436151 1719401 2157802 DNNN 444673 611167 666022 708045 838395.6 + Trung ương 316896 466788 504577 532381 663393.9 + Địa phương 127777 144379 161445 175664 175001.6 Qua bảng số liệu chúng ta thấy rằng quy mô về vốn đầu tư cho khu vực kinh tế nhà nước tăng dần qua các thời kỳ, tốc độ tăng đồng đều và ổn định, trong đó tốc độ tăng của vốn cho các DNNN ở cấp trung ương tăng nhanh hơn so với cấp địa phương (cụ thể là 101,7% so với 86,8%). Thứ hai là tỷ trọng vốn đầu tư cho khu vực DNNN nhà nước có xu hướng giảm dần qua các thời kỳ (từ 67,13% xuống 54,96%) - điều này là hoàn toàn hợp lý và phù hợp với yêu cầu của tiến trình cổ phần hóa các DNNN tuy nhiên là tỷ trọng này vẫn còn khá cao, cần tiếp tục điều chỉnh giảm. SỐ DNNN HOẠT ĐỘNG LỖ - LÃI QUA CÁC THỜI KỲ Năm 2000 2001 2002 Tổng số DN 41310 47838 60496 DNNN có lãi Số DN 4539 4249 4450 Tổng mức lãi(Tỷ đồng) 20865 23557 29131 Lãi bình quân 1DN(Triệu đồng) 4597 5544 6546 DNNN lỗ Số DN 1005 894 787 Tổng mức lỗ(Tỷ đồng) -3299 -3411 -3171 Lỗ bình quân 1DN(Triệu đồng) -3283 -3815 -4030 So với tổng số DN (%) Số DN lãi 78.82 79.35 82.96 Số DN lỗ 17.45 16.69 14.67 ( Nguồn : Tổng cục thống kê) Đi sâu vào phân tích hoạt động sử dụng vốn vào SXKD, và quan trọng hơn là mảng sử dụng vốn cho hoạt động đầu tư phát triển của các DNNN nhà nước, chúng ta có thể bắt gặp một số tồn tại cơ bản sau: 1.Về đầu tư xây dựng cơ bản. Xây dựng cơ bản luôn là quá trình đi tiên phong của bất cứ quá trình đầu tư nào. Nó tạo ra các cơ sở vật chất mới làm tiền đề cho việc tiến hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Quyết toán chi ngân sách nhà nước (tóm lược) Tỷ đồng 2000 2001 2002 2003 2004 TỔNG CHI 108961 129773 148208 181183 214176 Trong tổng chi Chi đầu tư phát triển 29624 40236 45218 59629 66115 Trong đó: Chi XDCB 26211 36139 40740 54430 61746 Cơ cấu (%) 88,48 89,82 90,10 91,28 93,39 Tốc độ tăng của vốn chi XDCB % 2000 2001 2002 2003 2004 Tốc độ phát triển liên hoàn 100 137,87 112,73 133,60 113,44 Tốc độ phát triển định gốc 100 137,87 155,50 207,66 235,57 (Nguồn: Quyết toán chi ngân sách nhà nước-Tổng cục thống kê) Từ bảng số liệu chúng ta thấy rằng chi cho xây dựng cơ bản chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng chi cho đầu tư phát triển (luôn đạt mức trên 85%), qua đó chúng ta mới thấy được vai trò quan trọng xây dựng cơ bản trong đầu tư phát triển. Tuy nhiên chúng ta cũng nhận thấy rằng quy mô tăng của vốn xây dựng cơ bản lại đang có xu hướng giảm qua các giai đoạn, cụ thể là giai đoạn 2002-2003 vốn tăng 13650 tỷ đồng nhưng giai đoạn 2003-2004 vốn chỉ tăng 7316 tỷ đồng. Điều này có thể giải thích là giai đoạn đầu các doanh nghiệp phải đầu tư mới hoàn toàn vì vậy vốn xây dựng cơ bản đòi hỏi lớn, đến giai đoạn vận hành sản xuất thì doanh nghiệp chỉ phải đầu tư sửa chữa và mở rộng sản xuất do đó lượng vốn cho xay dựng cơ bản không cần nhiều như ban đầu. Mặc dù xây dựng cơ bản đóng vai trò quan trọng như vậy nhưng quá trình tiến hành hoạt động này của các DNNN lại chưa thực sự coi trọng nó. Có thể đề cập ở đây chính là vấn đề thất thoát và lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản. Lãng phí và thất thoát, tiêu cực trong đầu tư và xây dựng đang là vấn đề nhức nhối, cả xã hội quan tâm; kéo dài nhiều năm với mức độ ngày càng trầm trọng mà đến nay vẫn chưa có biện pháp hữu hiệu để hạn chế. Không có một bộ số liệu chính thức nào thống kê được chính xác tỷ lệ thất thoát trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản nhưng có thể khẳng định rằng: “Mọi dự án đầu tư xây dựng cơ bản đều có sai phạm”. Kết quả kiểm tra năm 2002 của 995 dự án với tổng vốn đầu tư 20.736 tỷ đồng, đã phát hiện sai phạm về tài chính và sử dụng vốn đầu tư là 1.151 tỷ đồng, bằng khoảng 5,5% tổng vốn đầu tư các công trình được kiểm tra. Riêng 17 công trình do Thanh tra Nhà nước thực hiện kiểm tra phát hiện sai phạm tài chính lên tới 13%. Đó là chưa kể đến các lãng phí lớn do chậm triển khai công trình và nhất là do sai sót trong chủ trương đầu tư mà hiện chưa có cách đánh giá thống nhất (Nguồn: Báo cáo tại hội nghị toàn quốc về Quản lý đầu tư và Xây dựng Cơ bản) Theo kết quả thanh tra quản lý đầu tư xây dựng, tất cả các dự án đều có sai phạm, diễn ra ở tất cả các khâu, các giai đoạn đầu tư, đặc biệt là công tác lập dự án, thiết kế sơ sài dẫn tới vượt dự toán rất cao. Qua thống kê 36 tỉnh, thành phát hiện tổng giá trị sai phạm lên tới 113,913 tỷ đồng, chủ yếu là thất thoát, lãng phí do chất lượng khảo sát, thiết kế không phù hợp, thay đổi chủng loại vật liệu, trang thiết bị không đảm bảo… Trong công tác đấu thầu, các sai phạm thường gặp như chỉ định thầu, xét thầu, áp dụng kết quả đấu thầu sai qui định, bán thầu...  Đây là một kết quả đáng chú ý của việc thực hiện việc thanh tra, kiểm tra hành chính, chuyên ngành năm 2006. Đến nay, toàn ngành thanh tra đã cơ bản kết thúc 12.636 cuộc trong tổng số 14.167 cuộc đã triển khai; phát hiện sai phạm với tổng giá trị 6.382,961 tỉ đồng và 5.478,583 triệu USD, hơn 11.346ha đất. Qua thanh tra, kiểm tra, ngoài kiến nghị xử lý, khắc phục phần có giá trị sai phạm, giảm trừ, loại khỏi quyết toán..., các tổ chức thanh tra nhà nước đã kiến nghị thu hồi 447,712 tỉ đồng và 207.923 USD; kiểm tra xử lý hành chính gần 3.000 trường hợp và kiến nghị cơ quan điều tra xử lý 95 vụ với 201 người. Đi sâu vào tìm hiểu vấn đề náy chúng ta thấy rằng: Vốn đầu tư thất thoát diễn ra từ khâu chuẩn bị dự án, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư đến khâu thực hiện đầu tư và xây dựng. Tình trạng đầu tư không theo quy hoạch được duyệt; khâu khảo sát nghiên cứu thiếu tính đồng bộ, không đầy đủ các chỉ tiêu kinh tế, khả năng tài chính, nguồn nguyên liệu, bảo vệ môi trường, điều tra thăm dò thị trường không kỹ; chủ trương đầu tư không đúng khi xem xét, phê duyệt dự án đầu tư. Việc thẩm định và phê duyệt chỉ quan tâm tới tổng mức vốn đầu tư, không quan tâm tới hiệu quả, điều kiện vận hành của dự án, nên nhiều dự án sau khi hoàn thành và đưa vào sử dụng không phát huy tác dụng, gây lãng phí rất lớn. Ngoài ra, do năng lực quản lý điều hành kém của chủ đầu tư, các ban quản lý dự án, các tổ chức tư vấn cũng là nguyên nhân gây lãng phí, thất thoát vốn đầu tư. Nguyên nhân chính, tổng quát của hiện tượng lãng phí và thất thoát nằm ở chính những cơ chế kiểm soát hiện có; vừa cồng kềnh, vừa chồng chéo nhau, làm cho có quá nhiều người có thẩm quyền can thiệp vào công trình nhưng không thể xác định được trách nhiệm chính thuộc về ai, do đó không thể quản lý được hoặc quản lý rất kém hiệu quả. 2.Về đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Theo đánh giá của nhiều quốc gia thì Việt Nam có một lực lượng lao động dồi dào, đa phần là lực lượng trẻ có khả năng thích ứng nhanh trước những ngành nghề mới. Tuy nhiên, cần phải thừa nhận: lực lượng lao động nhiều nhưng chất lượng lao động thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước trong hiện tại và những năm tiếp theo. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của những người lao động còn thấp và cơ cấu các loại trình độ chưa hợp lý, cơ cấu ngành nghề phân bố cũng chưa hợp lý, có nhiều ngành nghề đào tạo thừa không sử dụng hết, song lại có nhiều ngành nghề quá thiếu, đặc biệt là đội ngũ công nhân kỹ thuật thiếu hầu hết ở các ngành, khu vực kinh tế. Tình trạng lao động có trình độ cao trong các ngành nghề cung cấp không đủ những vùng đô thị hoá, các khu công nghiệp, khu chế xuất đang diễn ra gay gắt, làm cản trở quá trình chuyển đổi và phát triển nền kinh tế. Nguồn nhân lực hiện nay thể hiện rất rõ trạng thái mất cân bằng, trong đó cung lớn hơn cầu, đại bộ phận lao động nông thôn thiếu việc làm. Có thể nói, phát triển nguồn nhân lực và nhân tài trong quản lý kinh doanh hơn bao giờ hết đang là một vấn đề cần được đặc biệt chú trọng. Với ý nghĩa này, các nhân tố phát năng sự phát triển nguồn nhân lực được đề cập là: giáo dục và đào tạo; sức khoẻ và dinh dưỡng; môi trường và việc làm. Riêng đối với khu vực kinh tế nhà nước đặc biệt là các DNNN trong những năm qua đã tiến hành rất nhiều lần cải cách nhằm thanh lọc những cán bộ yếu kém về năng lực, chủ động và mạnh dạn sử dụng các cán bộ trẻ có năng lực-trình độ, cộng với hoài bão lớn và nhiệt huyết của tuổi trẻ. Tuy nhiên vấn đề đầu tư phát triển nguồn nhân lực trong quản lý kinh doanh của các DNNN vẫn chưa thực sụ được quan tâm đúng mức. Có một thực trạng là các học sinh-sinh viên ra trường với bằng ưu thường được các DNNN chủ động nhận về làm việc nhưng trong quá trình làm việc họ ít được quan tâm theo dõi sát sao để phát triển các năng lực thế mạnh của mình. - Đầu tiên là vấn đề giáo dục-đào tạo, các DNNN ít khi chủ động liên hệ với các cơ sở đào tạo để nâng cao trình độ cho cán bộ công nhân viên,để tiếp cận tri thức khoa học mới, có chăng là họ cũng chỉ tổ chức những buổi tọa đàm-nói chuyện về kinh nghiệm nghề nghiệp. - Thứ hai là vấn đề chế độ đãi ngộ: có một cái khó cho các DNNN ở đây là mức lương thì do Quốc hội và Bộ tài chính thông qua, các DNNN không thể tự điều chỉnh được do đó với chế độ lương hiện tại thì không thể đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt của cán bộ công nhân viên. Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể lấy lợi nhuận sau thuế làm tiền thưởng cho cán bộ nhưng với các DNNN khoản lợi nhuận thường là âm do vẫn còn dư âm của chế độ bao cấp nên các DNNN chưa thực sự hoạt động hết mình. - Thứ ba là môi trường làm việc còn sắp xếp thiếu khoa học, không có tính cạnh tranh cao, không thúc đẩy được người lao động tham gia sản xuất với hiệu quả cao nhất. Thực trạng đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực của các DNNN trên các mặt giáo dục-đào tạo,y tế,văn hóa thể thao có thể được trình bày dưới bảng số liệu sau: Vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước theo giá thực tế Tỷ đồng 2002 2003 2004 2005 Tổng số 112238 125128 147500 175000 Giáo dục và đào tạo 4332 5535 6500 7700 Y tế và hoạt động cứu trợ XH 2425 3130 3700 4400 Hoạt động văn hóa thể thao 2565 3547 4200 5000 Cơ cấu vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước theo giá thực tế % 2002 2003 2004 2005 Cơ cấu 100 100 100 100 Giáo dục và đào tạo 3,86 4,42 4,41 4,40 Y tế và hoạt động cứu trợ XH 2,16 2,50 2,51 2,51 Hoạt động văn hóa thể thao 2,29 2,83 2,85 2,86 Từ bảng số liệu chúng ta thấy rằng đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực của các DNNN có xu hướng tăng đều qua các năm và tăng trên cả 3 mặt cần quan tâm là giáo dục-y tế-văn hóa thể thao. Điều này chứng tỏ các DNNN cũng có quan tâm đến việc phát triển nguồn nhân lực tuy nhiên chúng ta cũng thấy rằng tỷ trọng vốn dành cho đầu tư phát triển nguồn nhân lực vẫn còn ở mức thấp tức là ở cả 3 mảng cần quan tâm thì tỷ trọng đầu tư chiếm chưa đến 5% tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp. Điều này thực sự là chưa hợp lý bởi vì trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và cạnh tranh khốc liệt như hiện nay thì mọi loại cạnh tranh đều có xu hướng quy về cạnh tranh chất xám, tức là DN nào có nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ có được nhiều ưu thế trên thị trường. Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, hơn bao giờ hết đang là vấn đề rất bức thiết, đòi hỏi phải có cả một chiến lược để giúp cho họ thích ứng được trong sự phát triển hệ thống các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, trong cuộc chạy đua kinh tế toàn cầu diễn ra sôi nổi cùng với tiến trình hội nhập khu vực và thế giới. Những vấn đề về kiến thức, kỹ năng quản lý, quản trị kinh doanh, khả năng tiếp thu các thành tựu mới tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ thế giới, trình độ nhận thức về pháp luật, phong cách giao tiếp phù hợp với quy mô, tính chất và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng, linh hoạt và năng động. Từ thực tiễn hoạt động, cần phát hiện những nhân tài trong kinh doanh với sự liên kết về tố chất của một nhà kinh doanh tài năng. Năng lực trí tuệ cao trong điều kiện cần có một định chuẩn thống nhất về phẩm chất và nhân cách nhà kinh doanh với các phương pháp đánh giá tuyển chọn khoa học. 3.Về đầu tư bổ sung hàng tồn kho. Hàng tồn kho trong các doanh nghiệp có nhiều loại, nhiều thứ có vai trò, công dụng khác nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh. Việc xác định và ghi nhận hàng tồn kho đòi hỏi phải được quan tâm thường xuyên vì hàng tồn kho chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số các tài sản lưu động của các doanh nghiệp. Để quản lý tốt hàng tồn kho cần phải phân loại, sắp xếp hàng tồn kho theo những nhóm và theo tiêu thức nhất định. Tiêu thức phân loại thông dụng nhất là phân loại theo công dụng của hàng tồn kho. Theo kế toán Việt Nam: hàng tồn kho bao gồm: nguyên vật liệu, hàng mua đi đường, công cụ dụng cụ, giá trị sản phẩm dở dang, hàng gửi bán, thành phẩm, hàng hoá. Ngoài ra, hàng tồn kho còn được phân loại theo các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh, đó là hàng tồn kho ở khâu dự trữ (nguyên vật liệu, hàng đi đường, công cụ dụng cụ..); hàng tồn kho ở khâu sản xuất (giá trị sản phẩm dở dang) và hàng tồn kho ở khâu lưu thông (thành phẩm, hàng hoá, hàng gửi bán). Việc phân loại hàng tồn kho gắn với các khâu của quá trình sản xuất là phù hợp hơn cả vì nó gắn quá trình quản lý với từng khâu của quá trình sản xuất kinh doanh đảm bảo quá trình quản lý chặt chẽ và có hiệu quả. Sơ đồ : Phân loại hàng tồn kho ở doanh nghiệp thương mại và doanh nghiệp sản xuất. Theo sơ đồ trên chúng ta nhận thấy rằng tất cả các DNNN hoạt động trên lĩnh vực sản xuất và thương mại đều cần dự trữ hàng tồn kho để cho quá trình hoạt động của chính DN đó luôn thông suốt. Tuy nhiên từ thực tế các DNNN ở Việt Nam chúng ta lại thấy rằng, vấn đề đầu tư bổ sung hàng tồn kho chưa được quan tâm. Có thể lấy ví dụ thực tiễn để chứng minh cho luận điểm này như sau: Tổng công ty xi măng Việt Nam hằng năm đều gặp phải tình trạng thiếu cung xi măng ra thị trường do nhiều yếu tố như đánh giá không đúng nhu cầu tiêu thụ của thị trường, sản xuất gặp một số khó khăn về nguồn cung đầu vào (đá vôi, điện, nước….) làm cho giá xi măng trên thị trường không được ổn định Nhung có một thực tế đi kèm tình trạng đó là do chính bản thân tổng công ty xi măng đã không dự trữ đúng và đủ hàng tồn kho phục vụ cho nhu cầu sản xuất của mình. Theo sơ đồ trên chúng ta thấy rằng, tất cả các khâu đều cần phải đầu tư bổ sung hàng tồn trữ. Mặc dù đầu tư bổ sung hàng tồn trữ làm giảm và ứ đọng vốn lưu động của DN, làm giảm khả năng chu chuyển vốn để đầu tư tái sản xuất, nhưng nếu không đầu tư bố sung hàng tồn trữ thi DN có thể làm cho thị trường biến động không lường trước được đồng thời làm cho các DN có khả năng mất các bạn hàng truyền thống do nguồn cung sản phẩm không mang tính ổn định cao. 4. Đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ. Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp vừa và nhỏ có năng lực tài chính hạn chế, chưa thực sự chú trọng tới việc đầu tư cho khoa học, công nghệ; đồng thời, cũng có những doanh nghiệp có khả năng tài chính nhưng chưa chú trọng tới khoa học và công nghệ, chưa dự báo được sự cạnh tranh mạnh mẽ trong thời kỳ hội nhập. Họ chấp nhận vốn đầu tư ban đầu để thu hút vốn nhanh. Điều này trước mắt có thể có lợi cho doanh nghiệp song đây sẽ là điểm hạn chế khi thực hiện chủ trương từng bước hiện đại hóa công nghệ. Những người trong ngành thừa nhận sự trì trệ của cả doanh nghiệp lẫn giới nghiên cứu công nghệ là một nguyên nhân quan trọng khiến năm nay, Diễn đàn kinh tế thế giới chỉ xếp Việt Nam đứng thứ 92 về công nghệ (trong số 104 nước tham gia xếp hạng), tụt hậu xa so với Trung Quốc (62) và Thái Lan (43). Việt Nam hiện có 160.000 doanh nghiệp, trong đó 80% là doanh nghiệp có quy mô nhỏ, khoảng gần 6.000 doanh nghiệp nhà nước, hầu hết đều chưa quan tâm đến đầu tư khoa học công nghệ. Thậm chí 47% doanh nghiệp không có chiến lược dài hạn, không phân tích thị trường và không biết đối thủ cạnh tranh. Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, chuyên viên cấp cao Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cho biết, kết quả kiểm toán 9 tổng công ty cho thấy, các giám đốc doanh nghiệp nhà nước không có động lực để cải tiến doanh nghiệp. "Bởi nếu cải tiến thành công, họ có thể được tăng lương chút ít, hoặc được thưởng, nhưng nếu thất bại (mà nguy cơ rủi ro không phải là nhỏ) thì thiệt hại đối với họ là rất lớn, như mất chức, giảm bậc lương.... Do vậy, các giám đốc thường yên phận với hoạt động hiện tại của công ty, mà không cần quan tâm đến thị trường và khách hàng", ông nói. Ông cho biết thêm, tình trạng thua lỗ thường chỉ bộc lộ sau thời gian dài trì trệ và trở nên nghiêm trọng, làm cho các doanh nghiệp nhà nước hoạt động dưới tiềm năng, và kém phát triển nhất trong số các loại hình doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tình hình cũng không sáng sủa hơn. Ông Lý Đình Sơn, Giám đốc Trung tâm xây dựng năng lực doanh nghiệp, cho biết, điều tra của Trung tâm trên 200 cơ sở cho thấy, khó khăn lớn nhất đối với việc cải tiến công nghệ là chủ cơ sở nhận thức không rõ về tầm quan trọng đặc biệt của công nghệ trong sản xuất và cạnh tranh. Trong số 150 doanh nghiệp, chỉ có 11 cơ sở có cán bộ kỹ thuật. Doanh nghiệp cũng thiếu kiến thức và kinh nghiệm trong việc tìm kiếm, lựa chọn công nghệ, dẫn đến tình trạng nhiều cơ sở phải phá sản vì mua không đúng thiết bị, hết kinh phí. Công nghệ lạc hậu kéo theo hiệu quả sử dụng đồng vốn thấp. Ông Sơn cho biết để sản xuất ra 1 đôla GDP, người Thái Lan chỉ cần đến 1 đồng, thì Việt Nam phải cần đến 3 đồng. Vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước theo giá thực tế Tỷ đồng 2002 2002 2002 2002 Tổng số 112238 125128 147500 175000 Hoạt động khoa học và công nghệ 398 837 1000 1200 % 2002 2002 2002 2002 Cơ cấu 100 100 100 100 Hoạt động khoa học và công nghệ 0,35 0,67 0,68 0,69 Số lượng doanh nghiệp đầu tư KHCN qua các kỳ điều tra 2000 2002 2004 DN Tỷ trọng(%) DN Tỷ trọng(%) DN Tỷ trọng(%) Chung 372 7,53 444 6,14 293 3,86 DNNN 250 16,74 224 16,36 181 14,75 NQD 85 3,31 156 3,43 80 1,79 ĐTNN 37 4,21 64 4,87 32 1,69 Từ bảng số liệu chúng ta có nhận xét rằng vốn đầu tư của các DNNN phân bổ cho hoạt động nghiên cứu và triển khai khoa học-công nghệ ngày càng tăng cả về quy mô vốn và tỷ trọng. Tuy nhiên tốc độ tăng của vốn đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ chậm hơn so với tốc độ tăng của tổng vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước. Thứ hai là tỷ trọng của vốn đầu tư cho hoạt động KH-CN còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ, chưa đến 1% tổng vốn đầu tư của DNNN chứng tỏ các DNNN chưa hề quan tâm đến mảng đầu tư này. CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ MỚI VÀO SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP Một số chỉ tiêu có thể dùng để đánh giá hiệu quả đầu tư khoa học công nghệ (KHCN) vào sản xuất kinh doanh (SXKD) của doanh nghiệp (DN). Các chỉ tiêu đó là: + Giá thành sản phẩm; + Chất lượng hàng hóa; + Lợi nhuận. *Đánh giá hiệu quả đầu tư KHCN mới vào SXKD bằng các chỉ tiêu nêu trên có nhiều ưu điểm, đang được nhiều DN áp dụng. Tuy nhiên đối với DN (ngành, lĩnh vực) có chu kỳ SXKD dài hạn từ 5 đến 7 năm, tức là kể từ khi đầu tư KHCN mới phải trải qua 5-7 năm mới có sản phẩm, hàng hóa, lợi nhuận, nhưng lại có yêu cầu biết hiệu quả ngắn hạn (Ví dụ sau một năm đầu tư KHCN mới) nhằm điều chỉnh SXKD và đầu tư KHCN. Thậm chí có trường hợp còn muốn biết hiệu quả trước khi đầu tư KHCN để đưa ra quyết định có đầu tư hay không, hay đầu tư như thế nào. Ở đây thấy rất rõ ràng là chưa có các thông tin: Giá thành, chất lượng hàng hóa hay lợi nhuận để đánh giá hiệu quả đầu tư KHCN mới. Muốn khắc phục trở ngại này cần phải dùng thông tin thay thế thích hợp đối với DN. Chẳng hạn như thay thế thông tin lợi nhuận bằng thông tin số lao động có công ăn việc làm. Ở nước ta hiện nay đầu tư KHCN mới làm tăng (giảm) số lao động có công ăn việc làm cũng được coi là hiệu quả. Nếu vậy hiệu quả được đánh giá bằng công thức sau đây: H: Hệ số co dãn đầu tư KHCN thường tính bằng %. Phản ánh tăng (giảm) 1% đầu tư KHCN làm tăng (giảm) bao nhiêu % số lao động có việc làm. DN: Số lao động có việc làm tăng (giảm) DN = Nl - N0 Nl: Số lao động có việc làm sau khi đầu tư KHCN mới (kỳ báo cáo) N0: Số lao động có việc làm trước khi đầu tư KHCN mới (kỳ gốc) Dx : Mức đầu tư KHCN tăng (giảm) Dx = x1 - x0 xl: Mức đầu tư KHCN mới (kỳ báo cáo) x0: Mức đầu tư KHCN cũ (kỳ gốc) Ví dụ có số liệu thống kê về đầu tư KHCN và số lao động có việc làm của DN như sau: Ký hiệu Kỳ gốc Kỳ báo cáo Tăng (giảm) Tuyệt đối % Mức đầu tư KHCN (tỷ đ) x 10 10,2 0,2 2 Số lao động có việc làm (người) N 100 130 30 30 H = 30% : 2% = 15 Kết quả bằng số cho biết: tăng thêm 1% đầu tư KHCN làm tăng 15% số lao động có việc làm đã chứng tỏ đầu tư có hiệu quả. Ở đây cần lưu ý nếu đầu tư thêm KHCN làm giảm số lao động có việc làm thì phải căn cứ vào kế hoạch sử dụng lao động của DN mới có thể kết luận là hiệu quả hay không hiệu quả. Nếu giảm số lao động có việc làm với nghĩa giải phóng lao động, chuyển bớt một bộ phận lao động vào việc mở rộng quy mô sản xuất, phát triển thêm ngành nghề,v.v… thì vẫn được coi là hiệu quả. *Thông qua đánh giá hiệu quả đầu tư KHCN mới, có thể biết được khả năng cạnh tranh và hội nhập vào thị trường của DN. Trong kinh tế thị trường DN được tự chủ SXKD, tự chủ thu thập xử lý thông tin thị trường. Ví dụ như thông tin đầu tư KHCN mới của đối tác, DN tự thu thập xử lý (hoặc phải bỏ tiền để mua) để biết khả năng cạnh tranh và hội nhập của mình vào một thị trường nào đó.Giả sử thu thập được thông tin thị trường như sau Tên DN Mức đầu tư KHCN (x) Lợi nhuận (P) Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 A 400 408,0 420,04 5 5,20 5,668 B 600 618,0 636,54 6 6,72 7,728 C 650 656,5 676,20 6 6,30 7,623 D 700 728,0 149,84 10 12,40 15,500 E 400 412,0 424,36 3 3,18 3,371 Với thông tin ở bảng trên có thể đánh giá hiệu quả đầu tư KHCN mới bằng chỉ tiêu hệ số co giãn đầu tư KHCN mới. Gọi: : Hệ số co dãn đầu tư KHCN bình quân năm của DN; : Hệ số co dãn đầu tư KHCN bình quân năm của thị trường. So sánh với : Nếu > chứng tỏ DN có khả năng cạnh tranh và hội nhập được vào thị trường; Nếu < chứng tỏ DN ít có khả năng cạnh tranh và hội nhập được vào thị trường. : Hệ số co dãn đầu tư KHCN bình quân của DN Hi : Hệ số co dãn đầu tư KHCN từng năm của DN n: Số năm nghiên cứu Hi: Hệ số co dãn đầu tư KHCN từng năm của DN DPi: Mức lợi nhuận tăng (giảm) qua các năm DPi = Pi - Pi-1 Pi: Mức lợi nhuận năm sau Pi-l: Mức lợi nhuận năm trước liền kề Dxi: Mức đầu tư KHCN tăng (giảm) liên tiếp qua các năm Dxi = xi - xi-l xi: Mức đầu tư KHCN năm sau xi-1: Mức đầu tư KHCN năm trước liền kề : Hệ số co dãn đầu tư KHCN bình quân năm của thị trường : Hệ số co dãn đầu tư KHCN bình quân năm của DN m: Số DN được nghiên cứu Để có số liệu tính và , số liệu ban đầu ở bảng trên được xử lý như sau: Tên DN A B C D E Chung DPi (tỷ đồng) 2001/2000 0,20 0,72 0,30 2,40 0,18 2002/2001 0,468 1,008 1,323 3,100 0,191 Dxi (tỷ đồng) 2001/2000 8 18 6,5 28 12 2002/2001 12,04 18,54 19,695 21,84 12,36 (%) 2001/2000 4,00 12,00 5,00 24,00 6,00 2002/2001 9,00 15,00 21,00 25,00 6,01 (%) 2001/2000 2,00 3,00 1,00 4,00 3,00 2002/2001 2,95 3,00 3,00 3,00 3,00 Hi (%) Năm 2001 2,00 4,00 5,00 6,00 2,00 Năm 2002 3,05 5,00 7,00 8,33 2,00 2,52 4,50 6,00 7,17 2,00 4,44 Dòng (dòng cuối cùng) cho biết những thông tin: - Hệ số co dãn đầu tư KHCN bình quân năm của từng DN - Hệ số co dãn đầu tư KHCN bình quân năm của thị trường: 4,44% - Các DN có sức cạnh tranh và hội nhập vào thị trường mạnh lần lượt là các DN: D, C, B. - Các DN có sức cạnh tranh và hội nhập vào thị trường yếu lần lượt là các DN: E, A. - DN D có hệ số co dãn đầu tư KHCN bằng 7,17 lớn nhất, nên DN này có sức cạnh tranh mạnh nhất so với các DN khác. Trong giai đoạn hiện nay đánh giá hiệu quả đầu tư KHCN mới là rất cần thiết. Có nhiều chỉ tiêu dùng để đánh giá, nhưng chỉ tiêu hệ số co dãn đầu tư KHCN là chỉ tiêu có ý nghĩa kinh tế thiết thực nhất, vì nó phản ánh DN đã thực sự thu được lợi nhuận tức là đã thực sự cạnh tranh và hội nhập được vào thị trường. CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO TĂNG CƯỜNG VỐN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG CÁC DNNN 1.Trong đầu tư XDCB Đầu tư XDCB là hoạt động nhằm tái tạo tài sản cố định của DN. Hoạt động này đòi hỏi vốn lớn chiếm tỷ lệ cao trong đầu tư phát triên của DN. Thứ nhất gắn trách nhiệm cá nhân, tổ chức liên quan đến việc đảm bảo chất lượng, hiệu quả đầu tư của công trình .Trong đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn nhà nước, tình trạng yếu kém trong quản lý, gây lãng phí, thất thoát, tham nhũng, làm giảm hiệu quả đầu tư được phân chia tới mỗi cá nhân, tổ chức liên quan đến khâu thực hiện. Cụ thể, đó là trách nhiệm cá nhân, tổ chức liên quan đến việc đảm bảo chất lượng, hiệu quả đầu tư của công trình, trong đó bao gồm cả trách nhiệm của chủ đầu tư, tổ chức tư vấn, đơn vị khảo sát thiết kế và đơn vị thi công. Ngoài ra để giảm bớt phí tổn về vốn cần lựa chọn các nguồn vốn có phí tổn thấp nhất và tối thiểu hoá lượng vốn sử dụng cho việc sản xuất ra một đơn vị sản lượng, hoặc thực hiện một khối lượng dịch vụ nhất định. Do đó, cần khai thác các nguồn vốn khác nhau, đặc biệt nguồn vốn nợ, vì đó là một nguồn vốn đòi hỏi tưong đối thấp đối với các DN và tạo khả năng mang lại thu nhập cao hơn. Ngoài ra, cần tìm các biện pháp giảm bớt nhu cầu về vốn, như giảm nhu cầu về vốn dự trữ, giải quyết tốt khâu thanh toán, rút ngắn chu kì sản xuất trong phạm vi công nghệ cho phép. Thứ hai là nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định. Muốn nâng cao hiệu quả đâu tư không cách nào hay hơn nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản được đầu tư. Mà muốn nâng cao hiệu quả thì cần khai thác tối đa năng suất, giảm thời gian tác nghiệp, hợp lý hoá dây chuyền công nghệ, đảm bảo nghiêm ngặt chế độ duy tu bảo dưỡng máy móc thiết bị, áp dụng chế độ khuyến khích vật chất và trách nhiệm đối với quản trị và sử dụng tài sản cố định. Đồng thời doanh nghiệp cần tổ chức tốt quá trình sản xuất theo nguyên tắc cân đối, nhịp nhàng và liên tục. Trong đó yêu tố quan trong nhất là khai thác tối đa công suất .Nghe thì có vẻ đơn giản nhưng nhiều nhà máy, nhiều dây chuyền, thiết bị sau khi đầu tư xong chỉ sử dụng được 2/3; 1/3 thậm chí là bỏ không. Nguyên nhân thì có lý do cơ bản là thiếu thị trường và thiếu vùng nguyên liệu (đối với các nhà máy chế biến nông sản ). Để khắc phục vấn đề thị trường DN cần nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã, đẩy mạnh công tác Marketing ( khâu này hiện nay rất yếu trong các DNNN ), mặt khác tích cực tìm kiếm thị trường, vươn ra thị trường xuất khẩu để ổn định sản xuất kinh doanh do thị trường nước ngoài thường có nhu cầu lớn. Tuy nhiên, thị trường xuất khẩu luôn đòi hỏi sản phẩm chất lượng với mẫu mã đẹp đồng thời mức độ cạnh tranh lại cao hơn. Đồng thời với việc mở rộng hơn nữa thị trường sản phẩm của DN, các DN cần cân đối không để các chế độ khuyến vật chất đối với người quản lý và sử dụng tài sản cố định. Riêng về vấn đề nguyên liệu cho chế biến nông sản thì cần lâp kế hoạch trước, phối hợp với địa phương để ký hợp đồng hỗ trợ vốn kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm dài hạn cho nông dân trong vùng quy hoạch nguyên liệu. Thư ba là Tăng cường đầu tư đổi mới tài sản cố định đặc biệt là đổi mới, hiện đại hoá máy móc thiết bị phục vụ trực tiếp cho sản xuất. Đa số các DNNN nước hiện nay trang bị những máy móc kém chất lượng, lạc hậu cũ kĩ dẫn đến sản phảm sản xuất ra có chất lượng thấp, chi phí cao, mẫu mã không phù hợp do đó không cạnh tranh đựơc với hàng hoá của tư nhân, của nước ngoài, không tạo được thương hiệu cũng như chỗ đứng trên thị truờng. Vì thế nên nhu cầu vốn của các doanh nghiệp là rất lớn . Trong khi hiện tại nhà nứoc đang cắt giảm dần ngân sách cho các DNNN để tăng tính tự chủ, vốn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng thì có lãi suất cao gây khó khăn lớn cho các DN.Họ không có đủ vốn để thay đổi công nghệ hay tạo ra bứoc ngoặt mà chỉ có thể vay một lượng vốn nhỏ để mua sắm sửa chữa bổ xung . Như vậy các DN cần phải tìm tòi, nghiên cứu xây dựng các dự án phương án đầu tư tối ưu có hiệu quả cao nhất nhằm thu hút vốn đầu tư của nhà nước, có lợi nhuận trên vốn lớn (IRR > r) để tận dụng các khoản vay ngân hàng. Mặt khác thì phải mở rộng quan hệ tích cực tìm kiêm các đối tác đặc biêt là đối tác nước ngoài nhằm huy động nguồn vốn của họ tiếp xúc với các trang thiết bị hiện đại tiên tiến có năng suất hiệu quả cao, cũng như tiếp thu kĩ thuật - kinh nghiệm quản lý. 2.Trong đầu tư phát triển nguồn nhân lực Nguồn nhân lực có vị trí quan trọng đặc biệt trong doanh nghiệp. Trong thời kỳ hội nhập hiện nay chỉ có nguồn nhân lực chất lượng cao mới đảm bảo chiến thắng trong cạnh tranh. Do vậy đầu tư một cách có hiệu quả cho phát triên nguồn nhân lực là hoàn toàn cần thiết. +đào tạo và đào tạo lại các nhà quản trị doanh nghiệp đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ hội nhập Lâu nay, nước ta chưa thật sự coi trọng vấn đề này, vẫn ít nhiều coi giám đốc DNNN như là một chức “quan”, mà chưa thực sự coi giám đốc DNNN là một nghề chuyên môn có yêu cầu rất cao. Do đó, trong thực tế sử dụng cán bộ quản lý DNNN vẫn còn tình trạng tuỳ tiện, lúc điều chuyển làm ở doanh nghiệp này, khi điều chuyển làm ở doanh nghiệp khác, thậm chí điều lên làm cán bộ quản lý nhà nước hoặc ngược lại. ở các nước có nền kinh tế phát triển, các trung tâm đào tạo cán bộ quản lý, về cơ bản, đào tạo cán bộ quản lý doanh nghiệp và cán bộ quản lý nhà nước theo các chương trình khác nhau. Để tạo lập được nguồn cán bộ quản lý doanh nghiệp tài giỏi, cần tiến hành nghiên cứu phân tích quy trình đào tạo và sử dụng hai loại cán bộ quản lý như đã đề cập ở phần trên. Ngoài các yêu cầu chung như mọi cán bộ quản lý doanh nghiệp khác, cán bộ quản lý DNNN còn có những đặc thù riêng, mà việc am hiểu cũng như hoá giải được các đặc thù đó theo hướng có lợi cho DNNN chính là cơ sở hàng đầu để đánh giá đội ngũ cán bộ quản lý DNNN. Đặc thù thứ nhất là cơ chế gắn kết lợi ích cá nhân của cán bộ quản lý với hiệu quả hoạt động của DNNN không đủ mạnh và không rõ ràng. Không có một nước nào cho phép các DNNN tự trả lương cho cán bộ quản lý doanh nghiệp đủ mức kích thích họ quan tâm đến lợi nhuận của DNNN như các doanh nghiệp tư nhân. Thậm chí ở Việt Nam, lương của giới quản lý DNNN là bản sao có điều chỉnh không đáng kể thang bảng lương công chức nhà nước và cơ bản là thấp hơn lương cán bộ quản lý doanh nghiệp tư nhân cùng loại, cùng quy mô, nhất là so với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Do thực tế đó, nhiều cán bộ quản lý DNNN giỏi có xu hướng chuyển qua làm việc cho các doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Đặc biệt, DNNN khó tuyển được các sinh viên giỏi. Nhiều nước trên thế giới tìm cách tách chế độ tiền lương của cán bộ quản lý DNNN ra khỏi bảng lương công chức, viên chức dưới hình thức các hợp đồng, giao khoán trách nhiệm quản lý. Việt Nam có lẽ cũng nên làm như vậy. Một phần ý tưởng này đã được thể hiện ở Luật DNNN sửa đổi (năm 2003), nhưng cơ chế thực hiện chưa đầy đủ và rõ ràng. Nên chăng, Nhà nước cần quy định rõ mức lương, thưởng của cán bộ quản lý DNNN gắn với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp này (lợi nhuận, nộp ngân sách nhà nước hoặc các mục tiêu định lượng khác về doanh số, lợi nhuận trên vốn sở hữu hoặc quy mô dịch vụ xã hội v.v...) theo cả hai hướng: nếu tốt thì thưởng luỹ tiến, nếu yếu kém thì phạt theo mức yếu kém. Hơn nữa, cần chuẩn hoá và công khai trách nhiệm, lợi ích của cán bộ quản lý DNNN theo các hợp đồng khoán hoạt động (hoặc khoán quản lý) các DNNN; quy định rõ các cam kết trách nhiệm về phương thức hoạt động và lợi ích cụ thể giữa cán bộ quản lý DNNN và cơ quan quản lý nhà nước, thậm chí nên xác định rõ hơn, chế tài thực thi các cam kết đó cả về phía cơ quan nhà nước và cán bộ quản lý DNNN. Đã có nhiều nước trên thế giới thực thi cơ chế hợp đồng trách nhiệm này. Nếu Nhà nước quyết tâm thực hiện cam kết và áp dụng cơ chế cạnh tranh giữa các DNNN với nhau hoặc với doanh nghiệp tư nhân, thì cơ chế gắn kết lợi ích này tuy chưa hoàn thiện, nhưng cũng cho thấy đây là hình thức hữu hiệu có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của cán bộ quản lý trong DNNN. Để cơ chế hợp đồng có hiệu quả, cần bổ sung quy chế giám sát (thông qua các cơ quan độc lập và có đủ thẩm quyền của Nhà nước) nhằm hạn chế tình trạng cơ quan quản lý nhà nước không nắm chắc thông tin của DNNN. - Tính đặc thù thứ hai hiện nay là cơ chế đánh giá hiệu quả hoạt động của cán bộ quản lý chưa rõ ràng. Do các DNNN thường được thành lập và vận hành phục vụ phát triển kinh tế, xã hội, nên mặc dù ngày nay, Nhà nước ta cố gắng tách chức năng kinh tế thuần tuý của DNNN ra khỏi chức năng chính trị xã hội, nhưng trong thực tế, không có DNNN nào hoàn toàn thoát khỏi các sức ép từ phía Nhà nước. Ví dụ như ngân hàng thương mại quốc doanh bị ép cho các DNNN khác vay tín chấp. Hoặc các DNNN khó tổ chức hợp lý nhằm nâng cao năng suất lao động do không có quyền tự do sa thải lao động dôi dư... Vì thế, cán bộ quản lý DNNN dễ lợi dụng các nhiệm vụ chính trị xã hội này để lẩn tránh trách nhiệm quản lý doanh nghiệp hiệu quả. Để khắc phục, rất nhiều nước có khuynh hướng tách biệt hoàn toàn hoạt động kinh doanh thuần tuý của DNNN với các trách nhiệm chính trị, xã hội mà nhà nước có trách nhiệm đảm nhiệm như: chuyển các hoạt động cung cấp dịch vụ công ích thành các cơ quan sự nghiệp của Nhà nước, hoạt động theo quy chế riêng, không coi là DNNN, hoặc giải quyết vấn đề sa thải lao động bằng hệ thống bảo hiểm xã hội... Khi trách nhiệm phải hoạt động có hiệu quả kinh tế cao được quy định rõ ràng (DNNN hoạt động theo một luật chung của các doanh nghiệp khác và trách nhiệm của cán bộ quản lý DNNN với nhà nước được thiết kế như trách nhiệm đối với cổ đông) thì việc đánh giá thành tích và trách nhiệm của cán bộ quản lý DNNN sẽ cụ thể hơn, cơ chế khuyến khích lợi ích cũng có hiệu quả hơn. - Tính đặc thù thứ ba là, việc kiểm soát hoạt động của cán bộ quản lý DNNN do nhiều cơ quan tiến hành với các luật lệ khác nhau (kiểm toán nhà nước, thanh tra nhà nước, đại hội công nhân viên chức, tổ chức Đảng (nếu cán bộ là đảng viên), thậm chí cả tổ chức công đoàn, cơ quan chủ quản.... trong đó kiểm soát của cơ quan chủ quản có vai trò quyết định). Tuy nhiên, các tổ chức kiểm soát này hoạt động theo các quy định chuyên ngành rất khác nhau, thường ít phối hợp và thống nhất với nhau, tạo ra sự thiếu chặt chẽ đối với cán bộ quản lý DNNN, dẫn đến thực tế đáng buồn là mức lương quy định theo chính sách của Nhà nước cho cán bộ quản lý DNNN không cao, DNNN hoạt động không hiệu quả, mà cán bộ quản lý DNNN vẫn giàu có một cách công khai, làm mất lòng tin của dân chúng. Nên chăng, cần thống nhất sự kiểm soát của Nhà nước đối với cán bộ quản lý DNNN thành một luật chung, là Luật Quản lý phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Hiện nay, Chính phủ đã thành lập Cục Chống tham nhũng. Tuy nhiên, vẫn rất cần quy định rõ trong Luật Chống tham nhũng là cán bộ quản lý DNNN phải có trách nhiệm kê khai tài sản hợp pháp trước và trong khi thực thi quản lý DNNN, để cơ quan chống tham nhũng có cơ sở kiểm soát, kiểm tra các thu nhập bất chính của cán bộ quản lý DNNN, góp phần hướng đội ngũ này đi vào con đường đúng đắn, trong sạch. Ngoài các giải pháp đã nêu, cần nhấn mạnh giải pháp xây dựng lập trường, quan điểm và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ quản lý DNNN. . Chính sách cán bộ quản lý DNNN phải bắt đầu từ xây dựng hệ thống đạo đức chuẩn mực của đội ngũ cán bộ này, phát hiện các tài năng kinh doanh, cảm hoá họ bằng lý tưởng cao đẹp và tiêu chuẩn đạo đức trong sáng của cán bộ kinh doanh XNCN, giáo dục và rèn luyện kỹ năng kinh doanh của họ để hình thành đội ngũ cán bộ quản lý DNNN vừa tài giỏi, vừa trung thành với đất nước. Ngoài ra cũng như các DN tư nhân, DNNN cũng phải quan tâm đến những điểm khác +Liên kêt với các trường ĐH, các tổ chức đào tạo, dạy nghề để tạo nguồn cung ổn định về lao động cho DN. Cấp học bổng, tài trợ cho các sinh viên có triển vọng để họ phục vụ DN sau khi ra trường. Thương xuyên tổ chức cho lao động đi đào tạo nâng cao tay nghề, kỹ năng làm việc. +Thu hút chất xám bằng mức lương thưởng hợp lý. Thực tế các bạn trẻ hiện nay khi ra trường đều muốn vào làm tại các DN tư nhân hoặc công ty nước ngoài hơn là các DNNN. Bởi một lẽ đơn giản mức thu nhập ở các DNNN là quá thấp so với khối ngoài quốc doanh. Trong thời kỳ đổi mới hiện nay kinh tế nước ta tăng trưởng mạnh, đời sống ngày càng được nâng cao thì chính sách lương của nhà nước đã lạc hậu không đáp ứng được nhu cầu thực tế, gây ra hiện tượng chảy máu chất xám, thiếu hụt lao động trình độ cao tại các DNNN. Một chính sách lương thưởng hợp lý linh hoạt sẽ giúp giải quyết vấn đề này. Nhờ đó các DN sẽ có một đội ngũ lao động chất lượng cao, tăng tính cạnh tranh của DN +Chính sách y tế,chăm sóc sức khoẻ, cải thiện môi trường làm việc. Chính sách này nhằm bảo vệ sức khoẻ cho công nhân viên, thể hiện sự quan tâm của DN với công nhân viên, tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa DN và CNV. Từ đó CNV sẽ cố gắng cống hiến hết sức cho DN, giúp DN tăng năng suất ,tăng hiệu quả công việc. a. Môi trường làm việc Doanh nghiệp cần cải thiện tình trạng môi trường, an ninh nơi làm việc cho phù hợp bằng các biên pháp cụ thể như cải thiện môi trường, khử bụi khử chất độc hại. Chọn các quy trình sạch không ảnh hưởng tới sức khoẻ người lao động Tổ chức các phong trào khuyến khích công nhân viên hiểu và tham gia làm sạch môi trường để bảo vệ cho chính bản thân họ. b.Chăm sóc sức khoẻ: Thường xuyên tổ chức khám chữa bệnh định kỳ. Nhất là kiểm tra các bệnh có liên quan tới đặc thù nghề nghiệp. 3 Trong đầu tư nghiên cứu khoa học Hoạt động nghiên cứu khoa học và ứng dụng đòi hỏi vốn lớn độ rủi ro cao, hiện nay khả năng nghiên cứu khoa học và ứng dụng vào sản xuất kinh doanh của Việt Nam còn hạn chế. Song trong tình hình kinh tế phát triển nhanh, công nghệ kỹ thuật thay đổi liên tục nhu cầu đầu tư vào nghiên cứu ứng dụng khoa học sẽ ngày càng tăng. Sau đây là môt số giải pháp cơ bản +Tập trung nghiên cứu vào các lĩnh vực doanh nghiệp có kinh nghiệm kinh doanh và có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh hiện tại hoặc tương lai của doanh nghiệp. Giúp cho DN có được công nghê thích hợp với đặc thù của mình và tạo ra sự độc quyền về công nghệ đó cho DN +Liên kết với các viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm, đặt hàng hợp tác nghiên cứu khoa học. Biện pháp này tận dụng được nguồn chất xám của các tổ chức nghiên cứu khoa học ngoài DN. Biện pháp này rất phù hơp với tình hình Việt Nam khi mà nhập cả một dây chuyền thiết bị ở nước ngoài thì quá đắt trong khi chung ta rất dồi dào về bộ máy nghiên cứu khoa học thuộc các bộ, các trường ĐH, sự hợp tác giữa DN với các tổ chức khoa học trong nước vừa giúp DN tiết kiệm chi phí vừa giúp thúc đẩy khoa học trong nước. 4 Giải pháp về đầu tư trong hoạt động marketing Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và phát triẻn kinh tế thị trường, tuy nhiên sử dụng marketing vẫn được coi là công việc mới mẻ của sản xuất kinh doanh, bởi vì hoạt động marketing của Việt Nam còn có những trở ngại và khó khăn. Bởi vậy phải có những giải pháp như sau: Thứ nhất, rà soát và hoàn thiện các yếu tố kết cấu hạ tầng phục vụ cho việc triển khai các hoạt động marketing của công ty. Kết cấu hạ tầng phục vụ cho các hoạt động marketing cơ bản gồm có: phòng chức năng chuyên thực hiện các hoạt động marketing; đội ngũ nhân viên, chuyên gia có chuyên môn vững về marketing; thiết lập mối liên hệ giữa các bộ phận của công ty theo định hướng khách hàng là trung tâm… Thứ hai, thường xuyên tiến hành nghiên cứu thị trường nhằm thiết lập một hệ thống thông tin cho doanh nghiệp, thông tin làm giúp cho các doanh nghiệp tự tin và mạnh dạn hơn về doanh nghiệp của mình trên thị trường. Hiện nay thông tin la một trong năm yếu tố cơ bản đối với hoạt động của doanh nghiệp. Thứ ba, xây dựng các thương hiệu doanh nghiệp việt mạnh, làm sao để các doanh nghiệp có tầm nhìn chiến lược, nâng cao trình độ chuyên quản lý và trình độ chuyên môn, định hướng của chiến lược: cũng cố vị trí thị trường, duy trì độ nhận biết thương hiệu cao, mở rộng thương hiệu để gia tăng quy mô và hiệu quả, ngân sách marketing được cân đối để đảm bảo mục tiêu lợi nhuận. Thứ tư, xác định mục tiêu kinh doanh phù hợp, chiến lược kinh doanh hướng vào khách hàng. Trên cơ sở hệ thống thông tin marketing của mình, các công ty tài chính tiến hành phân tích sâu hơn các thông tin có được để xác định thị trường mục tiêu, phương hướng kinh doanh và xây dựng các chiến lược marketing nhằm đạt các mục tiêu đã đề ra. Chủ trương của Đảng ta là "mở rộng các dịch vụ tài chính - tiền tệ"[1]; "…đa dạng hoá các công cụ và hình thức tổ chức tài chính, tiền tệ phi ngân hàng và các quỹ đầu tư nhằm động viên các nguồn lực cho phát triển kinh tế, xã hội..."[2]. Như vậy, Đảng và Nhà nước đã không bó hẹp hoạt động của các trung gian tài chính phi ngân hàng, nên đối với các công ty tài. 5.Về đầu tư hàng tồn trữ Các doanh nghiệp phải xác định qui mô hàng tồn trữ tối ưu cho doanh nghiẹp một cách hợp lý, để làm sao cho lượng dự trữ đủ để đáp ứng nhu cầu của khách hàng… Các kho hàng chứa hàng tồn trữ phải kín và phù hợp với từng loại sản phẩm, hàng hóa, vật tư cần được bảo vệ. Địa điểm kho dự trữ cần phải bố trí sao cho việc vận chuyển tối thiểu và dễ dàng cho việc nhập xuất các hàng hóa. Để thuận lợi cho công tác dự trữ và tốc độ giải phóng kho, cần thiết phải nhận dạng sản phẩm một cách nhanh chóng. Giải pháp đơn giản nhất là sử dụng một bộ mã số hoặc cả chữ và số cho mỗi mặt hàng dự trữ Sử dụng các phiếu kho để ghi chép sự vận động của hàng hóa (nhập và xuất), tính toán số lượng tồn kho. Thực hiện kiểm kê một cách thường xuyên để tính được những mất mát hoặc hư hỏng ở tất cả các dạng. Phải quản trị tồn kho một cách hợp lý, nhằm chuẩn bị lượng hàng trước khi giao dịch, vì khâu quản lý không thể kết hợp hai giai đoạn sản xuất, do một số nhà cung cấp sản xuất và vận chuyển vật liệu thô theo lô, lượng đặt mua hàng tồn kho nhiều , vì năng lực sản xuất có hạn… Chính phủ co những chính sách va sửa đổi hợp lý trong việc định hướng hàng tổn kho, chi phi của hàng tổn kho cho các doanh nghiệp nhằm giảm bớt các chi phi như chi phí đáp ứng cho khách hàng,chi phí phối hợp cho sản xuất, chi phí tồn kho… DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Giáo trình Kinh tế đầu tư – Nhà xuất bản ĐH kinh tế quốc dân. 2.Giáo trình Lập dự án dự án đầu tư – Nhà xuất bản thống kê. 3.Luật đầu tư – Nhà xuất bản Thống kê 2005. 4.Luật doanh nghiệp 2005. 5. Một số vấn đề lý luận về doanh nghiệp nhà nước - chính sách và giải pháp tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở nước ta - Viện Thông tin Khoa học Xã hội. 6.Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư khoa học công nghệ mới vào SXKD của DN – PGS.TS. Lê Trần Hảo (ĐH Thương Mại) – Thông tin khoa học thống kê số 1 năm 2003. 7. Báo cáo tại hội nghị toàn quốc về Quản lý đầu tư và Xây dựng Cơ bản 2003 8.Niên giám thống kê 2006 9.Phân loại hàng tồn kho – Tạp chí kế toán Việt Nam 10. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong DNNN – Vietnamnet 26/02/2006. 11. Lãng phí và thất thoát trong đầu tư và xây dựng, tỷ lệ vốn đầu tư đưa vào công trình thấp – Bộ kế hoạch và đầu tư. 12.Báo cáo kiểm toán chẩn đoán 42 doanh nghiệp nhà nước thuộc 9 tổng công ty 20/10/2004. 13.Nâng cao hiệu quả hoạt động Marketing – Hiệp hội DN thành phố Hồ Chí Minh. 14.Website Tổng cục thống kê www.gso.gov.vn 15.Website Bộ kế hoạch và đầu tư www.mpi.gv.vn 16.Website Vietnamnet www.vnn.vn 17. Quyết toán chi ngân sách nhà nước-Tổng cục thống kê

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11988.doc
Tài liệu liên quan