Đề tài Thực trạng và giải pháp đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam

Ấn tượng rõ rệt thấy được ở Việt Nam là ngành công nghiệp dệt may Trung Quốc đang tạo ra thách thức cạnh tranh chính cho các doanh nghiệp Việt Nam. Theo thống kê thương mại, Trung Quốc là nước xuất khẩu sản phẩm dệt may chính ở Đông Á. Hàng suất khẩu của nước này vượt xa Việt Nam,và thậm chí xuất khẩu dệt may tính trên đầu người của họ cũng cao hơn. Việc buôn lậu hàng dệt Trung Quốc vào Việt Nam và một số chiến dịch chống buôn lậu cũng không thành công. Cần phải nói rằng sự cạnh tranh liên quan đến hàng Trung Quốc là nhân tố tích cực, ở mức độ nào đấy khích lệ sự cố gắng của Việt Nam phát triển một ngành công nghiệp hiệu quả mang tính quốc tế. Nhưng thực tế lại không theo ý muốn bởi hậu quả lại là sự thâm hụt thu nhập quốc gia. Thách thức của Trung Quốc cần được xem xét một cách tích cực và cần tìm hiểu lý do vì sao và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp như thế nào. Một số điểm cần được xem xét trong so sánh Trung Quốc - Việt Nam: Một là, Trung Quốc có lịch sử công nghiệp hoá lâu hơn so với Việt Nam và họ bắt đầu quá trình xuất khẩu công nghiệp ít nhất là trước Việt Nam một thập kỷ. Hai là, hạn ngạch xuất khẩu đã tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Quốc. Ba là, Trung Quốc so với Việt Nam được hưởng ưu thế qua sự phá giá lớn năm 1994 cùng với tỷ lệ lạm phát nhỏ, tiêu dùng trong nước so với giá quốc tế giảm đáng kể. Cuối cùng, chi phí kinh doanh ở Trung Quốc thấp hơn ở Việt Nam. Thông tin thu thập được đã chỉ ra rằng, mức lương trung bình trong các phân ngành của Trung Quốc hiện nay thấp hơn ở Việt Nam. Ngoài ra, các doanh nghiệp Trung Quốc có thể hoạt động trong môi trường tự do hơn, ít bị hạn chế hơn so với ở Việt Nam. Theo nghiên cứu của các nhà chuyên môn: Trung Quốc có ưu thế cạnh tranh hàng may mặc là do nước này có ngành công nghiệp dệt đồng bộ, vì vậy các nhà xuất khẩu may mặc có thể tìm mua nguyên liệu trong nước, nguồn cung cấp rộng rãi trong nước này là thuận lợi lớn.

doc108 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1176 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hành phần kinh tế. Mặt khác, lấy phát triển may xuất khẩu để kích thích phát triển vải và các phụ liệu chất lượng cao, nghĩa là thúc đẩy phát triển ngành dệt. Mười năm đổi mới vừa qua là giai đoạn đầu tư chiều sâu nhằm thay thế dần các loại thiết bị và công nghệ quá lỗi thời. Tuy nhiên, việc thay thế này vẫn chưa được hoàn tất. Do vậy, việc đầu tư chiều sâu vẫn được khuyến khích để tự các doanh nghiệp tiếp tục thực hiện. c) Tập trung phát triển các vùng nguyên liệu Ngành dệt may cần tập trung phát triển các vùng nguyên liệu chính như bông, tơ tằm, xơ sợi tổng hợp cùng với việc phát triển công nghiệp hoá dầu. Việc nâng cao tỷ lệ giá trị xuất xứ nội địa trên sản phẩm dệt may vừa là yêu cầu bắt buộc của thị trường nhập khẩu, vừa là mục tiêu của chiến lược “tăng tốc” này nhằm nâng cao phần lợi nhuận cho ngành và cho đất nước d) Tăng tốc phát triển bằng việc đầu tư các công nghệ mới nhất Với việc trang bị thiết bị hiện đại và công nghệ tiên tiến nhằm tạo ra một bước nhảy vọt về chất lượng và sản lượng. Mặt khác, cần coi trọng tận dụng các loại thiết bị đã qua sử dụng, với công nghệ tiên tiến từ các nước công nghiệp hoá thế hệ từ những năm 90 trở lại đây. e, Đầu tư phát triển dệt may theo hướng chuyên môn hoá cao theo loại công nghệ Mỗi doanh nghiệp cần thiết phải đi chuyên sâu và làm chủ được một vài loại công nghệ để tạo ra những mặt hàng mới với chất lượng cao. Xây dựng mối quan hệ cung cầu giữa các doanh nghiệp trên cơ sở hợp tác thương mại. 3.2. Chiến lược phát triển của ngành dệt may Việt Nam Trước những cơ hội và thách thức của thị trường trong nước cũng như thị trường xuất khẩu, một yêu cầu đặt ra đối với ngành dệt may Việt Nam là cần phải phát triển để đáp ứng yêu cầu của các thị trường và thích ứng với điều kiện mới, khó khăn mới sẽ gặp phải trong tương lai mà đặc biệt quan trọng là Hiệp định về hàng dệt may được thực hiện vào đầu năm 2005. Thấy được tầm quan trọng đó, Chính phủ đã xây dựng “Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam ” với mục tiêu: “hướng ra xuất khẩu nhằm tăng thu ngoại tệ, đảm bảo cân đối trả nợ và tái sản xuất mở rộng các cơ sở sản xuất của ngành, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước về sản lượng, chất lượng và giá cả, từng bước đưa ngành công nghiệp dệt may Việt Nam trở thành ngành xuất khẩu mũi nhọn, góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, thực hiện đường lối công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước”. Thực hiện chủ trương đó, Tổng công ty dệt may Việt Nam Vinatex đã tiến hành xây dựng “Chiến lược tăng tốc phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010” và được Chính phủ phê duyệt ngày 23/4/2001 với những cơ chế chính sách cởi mở cho ngành dệt may Việt Nam phát triển trong thời gian tới. Chiến lược tăng tốc nhằm giải quyết việc làm, phát triển ngành dệt may và nâng cao kim ngạch xuất khẩu của ngành Dệt - May Việt Nam. Chiến lược này bao gồm các chỉ tiêu cơ bản sau: Bảng 26 : Các chỉ tiêu phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010 Chỉ tiêu Đơn vị Đến năm 2005 Đến năm 2010 1. Sản xuất - Bông xơ Tấn 30.000 80.000 - Xơ sợi tổng hợp Tấn 60.000 120.000 - Sợi các loại Tấn 150.000 300.000 - Vải lụa thành phẩm Triệu m2 800 1.400 - Dệt kim Triệu sp 300 500 - May mặc Triệu sp 70 1.500 2. Kim ngạch xuất khẩu Triệu USD 4.000 - 5.000 8.000 - 9.000 3. Sử dụng lao động Triệu người 2,5 - 3 4 - 4,5 4. Tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên phụ liệu nội địa trên sản phẩm may xuất khẩu % >50 >75 5. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển Tỷ đồng 35.000 30.000 - Vốn đầu tư mở rộng Tỷ đồng 23.200 20.000 - Vốn đầu tư chiều sâu Tỷ đồng 11.800 10.000 Nguồn: Tổng công ty dệt may Việt Nam II/ Giải pháp đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam 1. Giải pháp về vốn đầu tư cho ngành dệt may 1.1. Thu hút vốn cho đầu tư phát triển ngành dệt may Theo chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển của ngành trong thời gian tới là rất lớn và nhu cầu cụ thể cho giai đoạn 2006 - 2010 như sau: Bảng 27: Nhu cầu vốn đầu tư của ngành dệt may giai đoạn 2006 - 2010 Chỉ tiêu Toàn ngành Riêng Vinatex Tổng vốn đầu tư 30.000 9.100 - Vốn cho đầu tư mở rộng 20.000 1.800 - Vốn cho đầu tư chiều sâu 10.000 7.300 Theo hình thức vốn, gồm có: - Vốn cho xấy lắp - Vốn cho thiết bị - Chi phí khác - Chi phí dự phòng - Vốn lưu động 2.550 18.000 1.500 1.500 6.450 800 5.500 500 500 1.800 Nguồn: Tổng công ty dệt may Việt Nam a, Nguồn vốn trong nước Nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định đối với việc phát triển của ngành dệt may. Trong tổng nhu cầu vốn đầu tư phát triển cho ngành dệt may, nguồn vốn trong nước cần phải huy động chiếm 41% nhưng hiện nay nguồn vốn đầu tư huy động trong nước chỉ đáp được 10 - 15% nhu cầu vốn cho đầu tư. Nguồn vốn trong nước bao gồm: vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng nhà nước, vốn tự có của các doanh nghiệp, vốn huy động trong dân cư và nguồn vốn trên thị trường tài chính. Giải pháp cụ thể để huy động từng loại nguồn vốn: Đối với các nguồn vốn Nhà nước: với loại nguồn vốn này, Nhà nước cần đổi mới chính sách tín dụng đầu tư của các doanh nghiệp dệt may như: mở rộng tín dụng dài hạn, cho phép sử dụng nguồn vốn ODA với những điều kiện ưu đãi về thời hạn hoàn vốn và lãi suất, không phân biệt thành phần kinh tế, đơn giản hoá thủ tục để các doanh nghiệp dệt may được cung cấp nguồn vốn này nhiều hơn. Đối với các doanh nghiệp dệt may, muốn thu hút nguồn vốn này cần phải có những phương án đầu tư có tính khả thi cao. Đồng thời với các doanh nghiệp sản xuất sợi, dệt, in nhuộm hoàn tất, nguyên liệu dệt, phụ liệu may và cơ khí dệt may cần được Nhà nước cấp lại tiền thu sử dụng vốn để tái đầu tư, được cấp bổ sung vốn lưu động Vốn của doanh nghiệp: Đây là nguồn vốn có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của doanh nghiệp đăc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nguồn vốn này chủ yếu là vốn tự có ban đầu, vốn tích luỹ trong quá trình sản xuất, khấu hao cơ bản… Các doanh nghiệp ngành dệt may cần huy động mọi nguồn lực tự có của doanh nghiệp như khấu hao cơ bản, vốn có bằng bán, khoán, cho thuê tài sản không dùng đến, giải phóng hàng tồn kho. Bên cạnh nguồn vốn cơ bản (vốn Nhà nước cấp, vốn tự có của doanh nghiệp, vốn vay ngân hàng), các doanh nghiệp cần thu hút nhiều vốn bằng các hình thức huy động đa dạng hơn, như: - Với các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tốt cần nghiên cứu khả năng phát hành trái phiếu, cổ phiếu nhằm huy động mọi nguồn vốn đặc biệt là vốn nhàn rỗi trong dân cư cho đầu tư phát triển - Với các doanh nghiệp khi tiềm lực còn hạn chế thì có một hình thức huy động vốn trong doanh nghiệp trong thời gian gần đây được thí điểm khá thành công ở một vài doanh nghiệp trong ngành: thu hút vốn từ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp để đầu tư cho một hạng mục nào đó trong dây chuyền sản xuất. Hình thức này đã tỏ ra có hiệu quả và có thể sử dụng được coi là tiền đề cho việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp sau này. Huy động vốn trong dân cư: bên cạnh việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu để huy động vốn, một biện pháp huy động vốn khác trong dân cư và cả của lao động ngành dệt may là cổ phần hoá doanh nghiệp Dệt may không thuộc những ngành cần độc quyền sản xuất nên phương châm đa dạng hoá cơ cấu sở hữu các doanh nghiệp dệt may đặc biệt là đối với các DNNN đang là yêu cầu cấp bách để thu hút vốn từ các thành phần kinh tế vào phát triển ngành, đồng thời giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Ban đầu, cần cổ phần hoá các doanh nghiệp may có qui mô nhỏ và sau đó là toàn bộ các doanh nghiệp may và một số doanh nghiệp dệt. Khi tiến hành cổ phần hoá, ngoài việc dành một tỷ lệ thích hợp giá trị tài sản của doang nghiệp giao cho người lao động quản lý dưới dạng cổ phần hoá cho không hoặc ưu đãi; cần xử lý một cách hài hoà việc phân chia lợi ích giữa nhà nước và tập thể người lao động đối với những khoản vốn tự có cho doanh nghiệp đã tạo ra thêm trong quá trình sản xuất kinh doanh. Như vậy mới gắn được quyền lợi của người lao động với doanh nghiệp. Phát huy vai trò của Công ty Tài chính dệt may: đây là một biện pháp quan trọng để tạo nguồn vốn và tăng hiệu quả sử dụng vốn: Công ty tài chính dệt may chỉ có vốn điều lệ thấp (30 tỷ đồng) nhưng công ty đã huy động thêm nguồn cả ở trong và ngoài ngành. Tổng số tiền công ty cho vay gần 150 tỷ đồng (2001) đã hỗ trợ và giảm bớt khó khăn trước mắt cho một số doanh nghiệp (chủ yếu cho vay bổ sung vốn lưu động). Bên cạnh đó, hoạt động của công ty tài chính cũng có nhiều bất cập: vốn điều lệ thấp nên mục tiêu cho vay trung và dài hạn chưa được thực hiện, trước mắt chỉ tập trung vào các khoản vay ngắn hạn (chiếm gấn 90% tổng dư nợ của công ty); lại thêm qui định mỗi khách hàng không được vay quá 15% vốn điều lệ nên chưa hấp dẫn doanh nghiệp cho các dự án đầu tư cần vốn lớn; hơn nữa, thị trường hoạt động hạn hẹp chỉ các doanh nghiệp trong ngành. Vì vậy, công ty cần nhanh chóng mở rộng hoạt động vì là đầu mối và phương tiện tốt nhất giúp ngành huy động các nguồn vốn trong nước. Các giải pháp tăng cường khả năng hoạt động của công ty tài chính: + Tổng công ty Dệt - May cần kiến nghị nhà nước cho phép tăng vốn pháp định để tăng khả năg cho vay trung và dài hạn cũng như mở rộng thị trường. + Để có thêm vốn ngoài việc phải có một tỷ lệ lãi suất cạnh tranh so với các tổ chức tài chính, tín dụng khác thì công ty cũng cần huy động thêm các nguồn vốn còn nhàn rỗi ở các doanh nghiệp thành viên (từ quỹ khấu hao để lại chưa sử dụng) và từ cán bộ công nhân viên của tổng công ty. + Tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp trong việc vay vốn đầu tư là giải pháp quan trọng b, Thu hứt vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Bên cạnh việc thu hút có hiệu quả mọi nguồn lực trong nước cho phát triển, ngành dệt may Việt Nam cần chú trọng đến thu hút nguồn vốn nước ngoài. Các biện pháp cụ thể được đặt ra là: - Có những biện pháp gọi vốn đầu tư thích hợp: chủ động xây dựng các dự án đầu tư trực tiếp, định hướng đầu tư vào các vùng, lĩnh vực, sản phẩm trọng điểm mà doanh nghiệp trong nước không thể tham gia đầu tư được, những sản phẩm được xác định là mặt hàng mũi nhọn có thế mạnh để thu hút đầu tư công nghệ mới. Ngành cần kiến nghị chính phủ để có các hình thức khuyến khích đặc biệt trong thu hút FDI như: giảm thuế đất, hay miễn giảm hẳn thuế và các loại thuế khác đối với những công trình đầu tư vào lĩnh vực cần khuyến khích: nhuộm, hoàn tất, sản xuất sợi hoá học, đầu tư vào nguyên liệu bông, tơ tằm. - Hình thức gọi vốn đa dạng: không nên hạn chế loại hình doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài mặc dù hình thức này ngoài tiền lương mà người lao động Việt Nam được hưởng thì lợi nhuận do doanh nghiệp tạo ra sẽ bị người nước ngoài chuyển về nước. Nhưng đây là một biện pháp góp phần thúc đẩy công nghiệp CNH - HĐH đất nước do hình thức này mang lại giá trị sản xuất cao, công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý mà doanh nghiệp Việt Nam cần học hỏi. - Cần khuyến khích cả đầu tư trực tiếp và đầu tư qua chứng khoán giúp doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn và góp phần đẩy nhanh quá trình đa dạng sở hữu trong các doanh nghiệp dệt may. Thực hiện chương trình cổ phần hoá, sắp xếp lại các doanh nghiệp dệt may và chuyển đổi hình thức đầu tư với doanh nghiệp dệt may liên doanh, nhằm tạo điều kiện cho việc thu hút thêm vốn đầu tư nước ngoài. Chính phủ và Bộ Kế hoạch - Đầu tư cần cho phép những doanh nghiệp lỗ vốn nhiều, mâu thuẫn khó giải quyết được chuyển đổi sang hình thức 100% vốn nước ngoài với điều kiện đảm bảo việc làm cho người lao động và bảo toàn vốn cho phía Việt Nam. - Yêu cầu đối với Nhà nước là phải có các biện pháp hoàn thiện môi trường đầu tư: + Cải cách thủ tục hành chính đặc biệt là các thủ tục cấp giấy phép cho các dự án FDI, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức, tăng cường các biện pháp chống tham nhũng nhằm đơn giản hoá thủ tục hành chính. Đây là một trong những trở ngại đáng kể của Việt Nam khi thu hút vốn đầu tư nước ngoài. + Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích đầu tư hợp lý để thu hút hơn nữa các nhà đầu tư nước ngoài, đưa ra danh mục các dự án khuyến khích đầu tư để khuyến khích các doanh nghiệp may xuất khẩu. + Nâng cao kết cấu hạ tầng cơ sở kỹ thuật: đầu tư phát triển hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, cơ sở kỹ thuật. Đối với ngành dệt may thì cơ sở quan trọng là đường giao thông, các cơ sở sản xuất phụ liệu dệt may, các vùng nguyên liệu + Điều chỉnh kịp thời và hoàn thiện môi trường luật pháp để các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư vào Việt Nam 1.2. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đối với từng nguồn vốn Nhà nước hỗ trợ từ nguồn vốn ngân sách, vốn ODA đối với các dự án: + Sử dụng vốn ngân sách cho các chương trình quy hoạch, như : quy hoạch các vùng trồng bông, trồng dâu nuôi tằm hoặc quy hoạch các vùng công nghiệp dệt; sử dụng cho các trường đào tạo, các viện, trung tâm nghiên cứu chuyên ngành dệt may + Sử dụng vốn ODA cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc đầu tư cho các nhà máy xử lý nước thải, hoặc hỗ trợ cho các nhà máy gặp khó khăn về mặt tài chính Đối với vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: các dự án đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất: sợi, dệt, in nhuộm hoàn tất, nguyên liệu dệt phụ liệu may và cơ khí dệt may được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, trong đó 50% vay với lãi suất ưu đãi (bằng 1/2 mức lãi suất hiện hành), thời gian 12 năm và 3 năm ân hạn, số còn lại vay theo quy định của Quỹ hỗ trợ phát triển Đối với vốn đi vay: nguồn vốn này là chủ yếu của các doanh nghiệp dệt may nhưng việc sử dụng nguồn vốn này đòi hỏi doanh nghiệp phải trả chi phí cho khoản vốn đó (hay lãi suất là giá của đồng vốn). Để sử dụng nguồn vốn vay có hiệu quả, các doanh nghiệp cần phải có sự cân nhắc tính toán chặt chẽ bằng việc tính toán tỷ suất lợi nhuận vốn so với lãi suất tiền vay. Có như vậy doanh nghiệp mới có khả năng hoàn trả cả gốc và lãi đồng thời vẫn thu được lợi nhuận. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải có sự nghiên cứu những dự án khả thi để thu hút vốn nhanh, có hiệu quả khi đầu tư để các ngân hàng và các tổ chức tín dụng đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho đầu tư Đối với nguồn vốn của doanh nghiệp: để nâng cao hiệu quả sử dụng với nguồn vốn này các doanh nghiệp cần tăng cường công tác quản lý vốn trong đó việc xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh là một giải pháp tài chính hữu hiệu. Kê hoạch sản xuất kinh doanh có hiệu quả sẽ là tiền đề để xây dựng kế hoạch huy động và sử dụng vốn nhằm khai thác triệt để nguồn lực bên trong và tận dụng nguồn lực bên ngoài để phục vụ cho sản xuất kinh doanh. 2. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực Con người là một nhân tố quan trọng nếu không muốn nói là quan trọng nhất, quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, đến sự phát triển của một ngành kinh tế quốc dân. Sản xuất dệt may là ngành có giá trị gia tăng thấp, vì giá trị nguyên phụ liệu thường chiếm khoảng 70% giá trị sản phẩm ,vì vậy nếu không chú trọng đến nhân tố con người thì hiệu quả sản xuất của ngành sẽ bị ảnh hưởng. Tuy nhiên hiện nay, nguồn nhân lực vẫn là khâu yếu của ngành dệt may Việt Nam. Yếu tố lao động của Việt Nam không còn được xem là lợi thế khi đem so sánh với các nước trong khu vực về mặt chất lượng, nhất là đối với Trung Quốc và Bangladesh- hai nước có nền công nghiệp dệt may phát triển, có khả năng cạnh tranh với Việt Nam. Điều đó đòi hỏi Nhà nước cũng như các doanh nghiệp ngành dệt may phải có chiến lược đầu tư phát triển lao động một cách phù hợp: - Đối với công nhân: đây là lực lượng lao động trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư. Vì vậy, cần không ngừng nâng cao tay nghề, đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của thị trường trong và ngoài nước. Các điển hình về thợ giỏi, bàn tay vàng cần được nhân rộng. Thông qua các cuộc thi thợ giỏi, tay nghề của công nhân sẽ có điều kiện để tập rượt, nâng cao. Điều kiện lao động phải được cải thiện, có điều kiện tăng năng suất lao động, rút ngắn khoảng cánh và tiến tới bắt kịp năng suất lao động các nước trong khu vực. Lao động ngành dệt may là loại lao động nặng nhọc, môi trường lao động bị ô nhiễm do bụi, nóng, tiếng ồn… nhiều loại bệnh nghề nghiệp xuất hiện, mà đã phần lao động trong ngành là lao động nữ. Thu nhập cho người lao động chưa cao, chưa tương xứng với sức lao động bị hao phí. Do vậy, ngành cần kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan có liên quan để bổ sung các chế độ đãi ngộ thích hợp với lao động của ngành, đặc biệt là lao động nữ như: chế độ tiền lương, bồi dưỡng độc hại, ca 3, thai sản, hưu trí. Đối với từng doanh nghiệp cần quan tâm hơn nữa đến điều kiện của công nhân Tăng cường đầu tư cho các trường đào tạo công nhân, chú trọng đào tạo theo hướng tiêu chuẩn hoá các thao tác để nâng cao kỹ năng và hiệu suất sử dụng thiết bị của công nhân để công nhân may Việt Nam có trình độ và năng suất lao động ngành cao. Việc đào tạo cho công nhân ngành may không đòi hỏi thời gian dài, phức tạp và chi phí đào tạo cao nên cần có cơ chế đào tạo linh hoạt - Đối với cán bộ quản lý: cán bộ quản lý các cấp, cả về kinh tế và kỹ thuật cần phải thường xuyên tổ chức bồi dưỡng và sát hạch nghiệp vụ. Có các tiêu chuẩn về chức danh quản lý và nghiệp vụ rõ ràng. Những người không đảm bảo yêu cầu cần được đưa ra khỏi các vị trí quản lý. Thường xuyên tổ chức tham quan, học hỏi các doanh nghiệp điển hình trong ngành, các mô hình quản lý tốt của nước ngoài để nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh - Cán bộ nghiên cứu khoa học: tạo môi trường có điều kiện nghiên cứu và áp dụng kết quả nghiên cứu vào thực tế. Trang bị máy móc và phương tiện thí nghiệm hiện đại, đủ khả năng thiết kế sản phẩm mới và giải pháp vấn đề kỹ thuật công nghệ cho ngành. Cần nhanh chóng chuyển công tác nghiên cứu khoa học từ hình thức nghiên cứu theo đề tài và kinh phí của Nhà nước sang hình thức nghiên cứu theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp. Đó là điều kiện để khoa học - công nghệ thực sự trở thành động lực phát triển của nền sản xuất hàng hoá Bên cạnh đó, ngành cần mở rộng các loại hình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ: bên cạnh việc đào tạo chính quy (trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp), cần thiết phải mở rộng các loại hình đào tạo, bồi dưỡng khắc nhằm có đủ số lượng các cán bộ khoa học, công nghệ; mặt khác bồi dưỡng và nâng cao trình độ thường xuyên cho cán bộ đang làm việc, cập nhật kiến thức và thông tin mới nhất về ngành dệt may trong nước và nước ngoài. Mở các lớp ngắn hạn về chuyên môn dệt may để cung cấp các kiến thức cơ bản của chuyên ngành nguyên liệu - sợi, dệt vải - dệt kim, xử lý hoàn tất, công nghệ may, thời trang, kinh tế. 3. Đầu tư đổi mới công nghiệp, máy móc - thiết bị Hiện nay, thực trạng chung của các doanh nghiệp ngành dệt may Việt Nam là thiết bị, công nghệ đa phần đã lạc hậu, chất lượng sản phẩm thấp, khả năng cạnh tranh yếu. Do đó, để nâng cao khả năng cạnh tranh, năng lực sản xuất của các doanh nghiệp cũng như của toàn ngành dệt may thì cần phải có những biện pháp đầu tư đồng bộ trong tất cả các khâu, các lĩnh vực của quá trình sản xuất, nhưng biện pháp đầu tư đổi mới công nghệ là cơ bản và cấp bách đối với ngành dệt may Việt Nam. Hướng đầu tư vào máy móc, thiết bị , công nghệ trong thời gian tới là: kết hợp đầu tư chiều sâu và đầu tư mở rộng. Trước mắt là chủ động đầu tư chiều sâu, từng bước giảm bớt sự mất cân đối giữa các khâu, đặc biệt là 2 khâu sợi và dệt. Đồng thời tranh thủ nguồn vốn nhà nước để bổ sung đầu tư khi có điều kiện. Yêu cầu về đầu tư thiết bị, công nghệ với từng khâu của quá trình sản xuất: - Khâu kéo sợi: Cần chọn lọc để thay dần những cọc sợi đã sử dụng trên 20 năm và nâng cấp số cọc sợi mới được đầu tư ở thập kỷ 80. Quy hoạch lại các doanh nghiệp kéo sợi theo hướng chuyên môn hoá cao, tập trung đầu tư cho một số doanh nghiệp để có các loại sợi có chất lượng cao cung cấp cho toàn ngành. Về công nghệ: chú trọng phát triển 2 loại phương pháp kéo sợi nồi - cọc và kéo sợi OE rôto hoặc kéo sợi thổi khí. Tăng cường sợi bông chải kỹ chỉ số cao từ 76 trở nên, máy móc thiết bị và công nghệ cho loại sản phẩm chi số cao nên sử dụng máy từ Tây Âu và Nhật Bản. Đối với các sản phẩm trung bình như khăn, vải thô có thể sử dụng máy móc, thiết bị của Trung Quốc, ấn Độ - Khâu dệt thoi: tập trung đầu tư mạnh để cân đối với năng lực kéo sợi và tạo ra các loại vải cao cấp phục vụ cho xuất khẩu. Muốn vậy cần loại bỏ các máy dệt thoi vì cho vải chất lượng, năng suất thấp và gây ô nhiễm môi trường, trong những năm tới tập trung vào máy dệt không thoi có năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt như dệt kim, dệt thổi khí, dệt phun nước, dệt thoi kẹp. Mặt khác, phải đầu tư có trọng điểm theo hướng chuyên môn hoá cao ở từng doanh nghiệp; đồng thời chuyển dịch các máy cũ, lạc hậu về nông thôn để tận dụng nguồn lực về đất đai, nhà xưởng, lao động…; thực hiện tốt phương châm sản xuất theo nhiều tầng công nghệ. - Khâu dệt kim: cần lựa chọn thiết bị để tạo các sản phẩm dệt kim từ bông hoặc các loại vật liệu mới, sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực thể thao và dịch vụ. Bên cạnh việc đầu tư thiết bị sản xuất các sản phẩm quen thuộc như: T-shirt, Polo- shirt, quần áo lót nam nữ ngành cũng cần đầu tư các thiết bị dùng cho sản xuất những sản phẩm mới mà thị trường các nước xuất khẩu đang ưa chuộng, như: quần áo thể thao, trượt tuyết, dệt kim mài lông….Đồng bộ với việc thải loại một số máy dệt, phải đổi mới toàn bộ các thiết bị hộ, mài, đánh ống… nhằm đồng bộ hoá với các loại máy dệt mới được đầu tư. - Khâu nhuộm, hoàn tất: Thay thế khoảng 50% thiết bị đồng bộ làm ra được các mặt hàng cao cấp như: các loại vải dùng để may sơ mi, jacket, quần âu…; khôi phục, nâng cấp, bổ sung thiết bị lẻ để hoàn thiện dây chuyền sản xuất. Đây là khâu có công nghệ phức tạp và đòi hỏi vốn lớn, vì vậy, cần đầu tư tập trung, qui mô lớn theo phương châm hình thành các trung tâm in, nhuộm, xử lý, hoàn tất hiện đại, chất lượng cao ở các vùng hoặc miền. Máy móc, thiết bị nên lựa chọn có xuất xứ từ Tâu Âu và Nhật Bản để đảm bảo chất lượng bền vững và ổn định lâu dài. Các thiết bị mang nhãn mác Châu Âu nhưng chế tạo ở các nước đang phát triển như Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ hoặc Mêhycô có thể chấp nhận được, song phải thận trọng khi xem xét phân tích từng bộ phận hoặc cấu hình của thiết bị. - Thiết bị may: thay thế những máy may đã sử dụng trên 10 năm và đã lạc hậu về công nghệ (hiện còn khoảng 20%) để đảm bảo hiệu quả sản xuất và đón kịp xu hướng phát triển của thời trang quốc tế. Phát triển mạnh các doanh nghiệp may nhỏ trên phạm vi toàn quốc nhằm đáp ứng xu hướng mở rộng của thị trường xuất khẩu. Bên cạnh việc lựa chọn thiết bị, công nghệ phù hợp, quá trình đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ cần chú ý đến một số diểm sau: + Ngoài việc đầu tư nhỏ lẻ mang tính chất bổ sung, thay thế, các doanh nghiệp dệt may cần phải quan tâm đến đầu tư mở rộng sản xuất, đầu tư một cách đồng bộ hệ thống máy móc, thiết bị + Kết hợp hài hoà giữa nhập khẩu thiết bị, công nghệ hiện đại với thiết bị, công nghệ đã qua sử dụng cho ngành dệt may. Đặc điểm này xuất phát từ sự thiếu vốn của các doanh nghiệp dệt may. Mặt khác, khi lựa chọn đầu tư các thiết bị đã qua sử dụng đòi hỏi doanh nghiệp phải khảo sát và lựa chọn kỹ càng tránh thiết bị đã quá cũ, lạc hậu và không còn phù hợp nữa + Ngành dệt may cần nghiên cứu áp dụng khoa học về nguyên liệu mới, về công nghệ, thiết bị đang còn bỏ trống, tạn dụng phế liệu để sản xuất trong lĩnh vực vải không dệt, tận dụng phế liệu tơ tằm để kéo sợi Spusilk, sớm có công nghệ kéo sợi pha len/acrylic cho mặt hàng Veston complet; nâng cao tỷ trọng mặt hàng mới trong lĩnh vực nghiên cứu sử dụng nguyên liệu mới Microfibre cho vải Jacket, Tissu giả len. 4. Đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu cho ngành Nguyên liệu là đầu vào của quá trình sản xuất. Thiếu nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định, sản xuất không thể phát triển bền vững. Mặt khác đối với ngành dệt may được định hướng là hướng mạnh về xuất khẩu, trong đó xuất khẩu lại bị chi phối về nguyên tắc xuất xứ (sử dụng nguyên liệu trong nước sẽ được ưu đãi nhiều hơn). Hiện nay, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam không chủ động được nguyên liệu cho mình mà phải nhập khẩu rất nhiều, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất của ngành. Do vậy, về mặt chiến lược dài hạn, việc xây dựng và phát triển cơ sở nguyên liệu trong nước được coi là một trong những vấn đề cấp bách giải quyết. Trong thời gian tới, ngành cần phát triển nguyên liệu cho nhiều loại: bông, xơ, sợi khác nhau, cả vải cho sản xuất hàng may. Cụ thể: Đối với cây bông: trong những năm tới đây nhu cầu bông cho ngành dệt là rất lớn nên cần có các biện pháp phát triển bông: - Khai thác mọi nguồn vốn của trung ương, địa phương, vốn trong dân và cả vốn nước ngoài cho việc phát triển cây bông - Có các biện pháp tăng năng suất cũng như chất lượng bông, như: + Quy hoạch vùng nguyên liệu có chất lượng: Để có bông chất lượng cần quy hoạch các vùng có điều kiện tự nhiên phù hợp với cây bông như: Bình Thuận, Ninh Thuận, Tây Nguyên, Đồng Nai… thành vùng chuyên canh cây bông. Vùng chuyên canh phải được đầu tư đúng mức về cơ sở hạ tầng kỹ thuật như thuỷ lợi, đường xá, điện, kho trạm…Bên cạnh vùng chuyên canh, các địa phương khác như đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng ven biển miền Trung, Trung du và miền núi phía Bắc có thể luân canh cây bông với các loại cây trồng khác nhằm cải tạo môi trường, tăng năng suất cây bông. + Thực hiện kỹ thuật sản xuất tiên tiến: áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật nhằm cải thiện chất lượng bông. Cần thực hiện chế độ canh tác đúng kỹ thuật; thực hiện đẩy mạnh thâm canh, đảm bảo được định lượng các loại phân bón thích hợp cho từng giai đoạn. - Tổ chức sản xuất bao tiêu sản phẩm giữa Công ty Bông Việt Nam và các doanh nghiệp dệt theo hướng ổn định, lâu dài. triển khai công tác mua bông tập trung trong phạm vị cả nước, nghiên cứu để có thể tập trung đầu mối giao dịch cung cấp một số nguyên liệu đầu vào khác để từng bước chuyên môn hoá sản xuất kinh doanh -Vai trò của Nhà nước: Cây bông vải có vị trí đặc biệt trong cơ cấu cây trồng và đối với ngành dệt may nước ta. Vì thế để phát triển cây bông Nhà nước cần hoạch địch chương trình phát triển bông quốc gia và có chính sách thích hợp hỗ trợ cho sản xuất kinh doanh bông, ưu đãi cho vay vốn với lãi suất thấp, cấp giống tốt, đầu tư cơ sở hạ tầng… Đối với tơ tằm: đây là nghề có truyền thống lâu đời ở Việt Nam nhưng hiện nay sản lượng và chất lượng của sản phẩm này còn thấp. Vì vậy, trong tương lai ngành cần tập trung nhiều vốn để phát triển nghề trồng dâu nuôi tằm, khôi phục lại nghề ở một số vùng đã không sản xuất nữa. Mặt khác, để đạt hiệu quả kinh tế cao, cần có thiết bị và công nghệ để chế biến được các sản phẩm có chất lượng cao và cao hơn để phục vụ xuất khẩu. Nên có công nghệ chế biến phế liệu tơ để kéo sợi spunilk, đây là loại nguyên liệu có giá trị xuất khẩu không thua kém gì tơ nõn. Đối với xơ, sợi tổng hợp: hiện nay mới chỉ có 2 dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài sản xuất xơ và tơ PE với công suất 5 - 6 vạn tấn/năm/nhà máy đáp ứng một phần nhu cầu trong nước. Nhưng để đáp ứng mục tiêu của ngành dệt may, cần đầu tư xấy dựng một đến hai nhà máy nữa với công suất 5 - 10 vanh tấn.năm Đối với vải: công nghiệp dệt được dùng làm nguyên liệu chính cho công nghiệp may. Hiện nay, sản phẩm dệt trong nước không đảm bảo yêu cầu về chất lượng và số lượng cho công nghiệp may hàng xuất khẩu. Do vậy, để cung cấp đủ nguyên liệu cho ngành máy đòi hỏi ngành công nghiệp dệt phải phát triển hơn nữa đăc biệt là các khâu dệt thoi và dệt kim hiện đang có năng lực sản xuất nhỏ bé. Ngành cần quan tấm đến việc nhanh chóng đổi mới công nghiệp dệt và sản xuất phụ kiện. 5. Đầu tư phát triển công nghiệp phụ trợ cho sản xuất dệt may Sự yếu kém về các ngành công nghiệp phụ trợ cho sản xuất hàng dệt may chính là một trong những nguyên nhân cơ bản khiến khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam bị hạn chế. Công nghiệp phụ trợ chưa phát triển đồng nghĩa với việc sản xuất dệt may trong nước vẫn phải nhập máy móc, thiết bị và một số phụ liệu cho sản xuất từ nước ngoài nên giá thành sản xuất sẽ cao, khả năng cạnh tranh bị kém đi. Do vậy, một mục tiêu quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là cần có các biện pháp đầu tư thích hợp để phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ. Các biện pháp cụ thể: 5.1. Đầu tư phát triển ngành cơ khí dệt may Phát triển ngành cơ khí dệt may để đạt mục tiêu trước mắt là cung cấp phần lớn các máy móc, thiết bị phụ tùng của ngành mà hiện nay chúng ta còn phải nhập khẩu tốn kém một lượng ngoại tệ lớn (khoảng 20 triệu USD/năm). Đồng thời tạo cơ sở nền tảng để tiến tới lắp ráp và chế tạo được một số dây chuyền sản xuất dệt may đáp ứng nhu cầu trong nước và tiến tới xuất khẩu thiết bị cho các nước chậm phát triển khác. Cùng với sự phát triển của sản xuất, ngành đã hình thành nên một lực lượng cơ khí chuyên ngành gồm 4 doanh nghiệp độc lập và phân xưởng cơ khí của các doanh nghiệp thành viên. Lực lượng này hoạt động rất tích cực và đã sản xuất được một số phụ tùng thay thế cho máy móc thiết bị ngành dệt và một số thiết bị trong dây chuyền sản xuất đồng bộ cho ngành may với chất lượng đảm bảo. Do vậy, cần tập trung đầu tư hơn nữa cho sản xuất cơ khí để bằng chính khả năng của kinh tế trong nước, thiết bị - công nghệ hiện có sản xuất được cacs loại phụ tùng thay thế các thiết bị đang sử dụng trong ngành. Đầu tư 1 hoặc 2 cơ sở đủ để đảm bảo cung cấp được 60 - 70% số lượng phụ tùng cho sản xuất. Bên cạnh đó, cần tạo môi trường tốt cho đầu tư và chuyển giao công nghệ vì hiện nay khi cần thay thế các thiết bị mới doanh nghiệp Việt Nam hay gặp tình trạng mua đắt 10- 15% so với giá trị thực của máy móc thiết bị mà không mua được công nghệ hiện đại. Trước hết cần xây dựng lộ trình khoa học cho giai đoạn từ nay đến năm 2010, đồng thời hoàn thiện thị trường công nghệ và thúc đẩy thị trường công nghệ hoạt động mạnh mẽ hơn để tăng khả năng chủ động cho các doanh nghiệp 5.2. Đầu tư phát triển các ngành công nghiệp sản xuất phụ liệu Để phát triển các ngành công nghiệp sản xuất phụ liệu cho ngành dệt may đòi hỏi ngành dệt may cần quan tâm hơn nữa đến các ngành công nghiệp này. Hiện nay, các ngành công nghiệpã phụ liệu dệt may ở Việt Nam là hầu như không có nên các doanh nghiệp khi sản xuất sản phẩm phải nhập rất nhiều phụ liệu nước ngoài với giá khá cao, mà phụ liệu chiếm 10 - 15%, có khi đến 25-30% giá thành sản phẩm may. Do vậy, chủ động và hạ chi phí về phụ liệu có thể đem lại hiệu quả đáng kể trong việc giảm giá thành sản phẩm. Muốn vậy, ngành dệt may Việt Nam cần chú ý đến việc đầu tư vào các ngành nay. Đầu tiên, ngành dệt may cần phát triển hệ thống các doanh nghiệp sản xuất phụ liệu may trong nước. Hiện nay trong nước các nhà máy sản xuất phụ liệu cho may là rất ít mà đa số là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nên số lượng phụ liệu sản xuất ra là không đáng kể so với nhu cầu của ngành Trong thời gian tới cần nhanh chóng quy hoạch lại việc sản xuất phụ liệu, không để tình trạng đầu tư tự phát để rồi dẫn đến dư thừa năng lực như trong các lĩnh vực sản xuất dệt may vừa qua. Trước mắt tập trung vào các loại phụ liệu có nhu cầu sử dụng lớn như: khuy, móc, các loại khoá kéo, nhãn mác… Đây không thực sự là một lĩnh vực khó về công nghệ mà chủ yếu là về vốn. Một doanh nghiệp nếu tự đứng ra làm sẽ rất khó khăn nhưng nếu có sự hỗ trợ của ngành, hoặc sự liên kết của nhiều doanh nghiệp thì những bất cập này sẽ dần được giải quyết trong vài năm tới. Một số loại phụ liệu khác phục vụ cho sản xuất ngành dệt như: một số hoá chất, thuốc nhuộm… thì ngành cần đề nghị Chính phủ xây dựng các nhà máy hoá chất phục vụ riêng cho ngành dệt may mới hoặc đẩy mạnh hoạt động của các công ty hoá chất hiện thời, cung cấp thêm sản phẩm phục vụ ngành. 6. Đầu tư phát triển thị trường Khó khăn chủ yếu của ngành dệt may hiện nay và cả trong những năm tới là tìm kiếm và mở rộng thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu nên việc đầu tư phát triển thị trường đối với ngành dệt may là hết sức quan trọng. Để các doanh nghiệp dệt may giữ vững thị trường truyền thống đồng thời tìm kiếm và xâm nhập các thị trường mới, cần chú trọng các biện pháp: 6.1. Đầu tư nghiên cứu và phát triển thị trường Vai trò của công tác nghiên cứu thị trường là hết sức quan trọng đối với sự phát triển của các ngành sản xuất tiêu dùng, mà đặc biệt là ngành dệt may. Thông qua nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp sẽ nắm được nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng, những thông tin về giá cả, cung cầu hàng hoá, sản phẩm. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường kinh doanh, phân tích, so sánh số liệu đó và rút ra kết luận, từ đó đề ra biện pháp thích hợp đối với các doanh nghiệp. Tuỳ đặc thù của từng thị trường mà công tác nghiên cứu thị trường là khác nhau: a, Thị trường trong nước Hiện nay, Việt Nam có dân số khoảng 80 triệu người (năm 2010 có thể lên đến 90 triệu người) là một thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng về tiêu dùng hàng dệt may. Trong tương lai khi đời sống nhân dân được nâng cao, đặc biệt là nông dân, nên sức mua hàng dệt may sẽ rất lớn, nó không ngừng ở nhu cầu thông thường mà còn xuất hiện các nhu cầu mới. Vì vậy việc phát triển thị trường nội địa là hết sức quan trọng và cần thiết. Muốn vậy, ngành dệt may Việt Nam cần quan tâm đến một số vấn đề như: Trong công tác nghiên cứu thị trường, cần làm tốt công tác dự báo thị trường, bao gồm công việc như điều tra nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp dân cư ở cả đô thị lẫn nông thôn, kể cả vùng đồng bào các dân tộc. Nhu cầu tiêu dùng hàng dệt may bao gồm các nhu cầu tiêu dùng hàng ngày và các nhu cầu phục vụ đi làm, dạ hội, đi chơi… Các nhu cầu về đồng phục học sinh, sinh viên, các ngành kể cả lực lượng vũ trang… cũng là những đoạn thị trường mà các doanh nghiệp cần quan tâm nghiên cứu để đáp ứng kịp thời, khắc phục dần tình trạng hiện nay. Việc phát triển thị trường nội địa cần phải có một chiến lược lâu dài và ổn định với phương châm là đảm bảo chất lượng, số lượng, giá cả hợp lý phù hợp với người tiêu dùng. Để làm được điều đó, ngành dệt may Việt Nam cần đổi mới công nghệ, nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm tốt, mẫu mã đẹp để đáp ứng những nhu cầu phong phú của người tiêu dùng trong nước. Mặt khác, ngành cần phối hợp với Chính phủ và các cơ quan có liên quan để bảo vệ thị trường nội địa thông qua các biện pháp chống gian lận thương mại, hàng giả, nhập lậu. Đồng thời nghiên cứu áp dụng các công cụ bảo vệ thị trường trong nước mà pháp luật quốc tế cho phép như: hàng rào kỹ thuật, hàng rào thuế quan, bảo vệ môi trường, thuần phong mỹ tục, an ninh quốc gia... b, Thị trường nước ngoài Đây là thị trường quan trọng đối với hàng dệt may Việt Nam nên ngành cần chú ý đến các biện pháp sau: - Tăng cường và nâng cao chất lượng của công tác nghiên cứu thị trường, chú ý cả thị trường hiện có và thị trường tiềm năng. Đối với thị trường xuất khẩu cần chú ý tới thị trường Mỹ - đây là thị trường xuất khẩu nhiều tiềm năng của hàng dệt may Việt Nam trong những năm tới. Chú ý tới việc khôi phục thị trường xuất khẩu truyền thống SNG và Đông Âu cũng như mở rộng thêm các thị trường mới như Châu Phi. Các doanh nghiệp ngành dệt may cần có những giải pháp thích hợp để lựa chọn và tìm ra những ngách thị trường xuất khẩu mà Việt Nam có những lợi thế nhất định trong cạnh tranh ở các khu vực thị trường trên. - Hoạt động nghiên cứu thị trường đòi hỏi phải nắm bắt được những thông tin thiết yếu về nhu cầu, khả năng tiêu thụ cũng như điều kiện thâm nhập thị trường của hàng dệt may. Trên quan điểm đa phương hoá các mối quan hệ quốc tế của ngành nói chung và các doanh nghiệp dệt may nói riêng, cần chủ động tìm kiếm thị trường tiêu thụ, tìm hiểu sở thích, tập quán, thị hiếu người tiêu dùng, khả năng tiêu thụ trên thị trường để có những giải pháp kịp thời và thích hợp sao cho phù hợp với yêu cầu của từng thị trường - Cần nhanh chóng có đại diện của ngành dệt may ở các thị trường lớn như EU, Mỹ, Bắc Mỹ, các nước SNG và Đông Âu… công việc này đòi hỏi chi phí cao về tài chính nên cần có sự phối hợp hoạt động của nhiều doanh nghiệp mà đầu mối nên là Tổng công ty dệt may Việt Nam. - Phối hợp tốt trong việc trao đổi thông tin kinh tế, đặc biệt là thông tin về thị trường dệt may, giữa các doanh nghiệp và các tham tán thương mại ở các nước. Các đại sứ và đại diện thương mại của Việt Nam ở nước ngoài có nhiệm vụ giúp các doanh nghiệp tìm hiểu, tiếp cận các đối tác nước ngoài và nâng cao hiệu quả của việc tham gia hội chợ. Để làm tốt điều này, các đại diện thương mại cần tìn hiểu chắc nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng nước sở tại còn doanh nghiệp Việt Nam cần có sẵn danh mục, mẫu mã sản phẩm tạo thuận lợi ccho các đối tác nghiên cứu, lựa chọn mặt hàng và ký hợp đồng được thuận lợi. - Tích cực tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế ở trong và ngoài nước. Đặc biệt, đối với các thị trường mới như thị trường Mỹ, cần nhanh chóng tìm hiểu kỹ các nguyên tắc, luật lệ chung của đất nước trong các hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu, kể cả tập quán và xu hướng tiêu dùng của từng vùng. 6.2. Tổ chức tiếp thị và phân phối sản phẩm Công tác tiếp thị đặc biệt quan trọng đối với các sản phẩm dệt may, bởi đặc điểm của nhóm hàng hàng này là yêu cầu về sự phù hợp với các tiêu chuẩn xã hội, truyền thống văn hoá, xu hướng thời trang và sở thích đặc biệt của người tiêu dùng. Mặc dù các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã thấy được tầm quan trọng cảu hoạtđộng tiếp thị nhưng các doanh nghiệp vẫn chưa có sự đầu tư đúng mức cho hoạt động này. Trong thời gian tới, hoạt động tiếp thị và phân phối so cần phải được tiến hành theo các hướng sau: Thứ nhất, hoạt động tiếp thị phải được tiến hành đồng thời ở cả 3 cấp: - Cấp doanh nghiệp: hoạt động tiếp thị phải được coi trọng và trở thành một công tác không thể thiếu trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Doanh nghiệp cần thành lập phòng hay tổ chuyên trách về thị trường. Các phòng này có trách nhiệm nắm bắt sự thay đổi nhu cầu trên thị trường mà doanh nghiệp đang đảm nhận; xác định cơ cấu sản phẩm hợp lý, theo dõi đối thủ cạnh tranh để có phản ứng linh hoạt trong chiến lược điều chỉnh giá; chuẩn bị kế hoạch cho hoạt động khuyếch trương sản phẩm, tổ chức mạng lưới tiêu thụ, mối liên hệ với khách hàng. Hạn chế lớn nhất của hoạt động tiếp thị ở các doanh nghiệp hiện nay là không ccó kinh phí. Chính vì vậy, dù doanh nghiệp có làm tốt đến mấy cũng chỉ đủ lực quanh quẩn thị trường trong nước mà không thể vươn ra thị trường nước ngoài. Đảm nhận ở thị trường quốc tế phải là cấp ngành. - Cấp ngành: Tổng công ty sẽ làm đầu mối tiếp thị thực hiện: tổ chức các hoạt động xúc tiến mậu dịch ở nước ngoài, tuỳ theo khả năng tham gia của các doanh nghiệp trong nước. Vinatext cần đầu tư cho hoạt động tiếp thị, củng cố thị phần bằng việc khai thác có hiệu quả văn phòng đại diện tại NewYork, liên doanh Vinatext tại Hồng Kông, củng cố lại văn phòng ở SNG và Đông Âu; chuẩn bị ở thêm văn phòng tại Nhật Bản, EU. Mặt khác, Tổng công ty dệt may Việt Nam, trên cơ sở nắm vững nguồn lực sản xuất, cả về thiết bị và nhân lực của các doanh nghiệp trong nước, sẽ giới thiệu các bạn hàng nước ngoài và các đơn hàng phù hợp, đảm bảo uy tín và quyền lợi cho các doanh nghiệp trong nước. Làm tốt việc này, sẽ từng bước xoá bỏ được hiện tượng tranh hợp đồng, phá giá gia công… đang diễn ra giữa các doanh nghiệp - Cấp nhà nước: Nhà nước cần nhanh chóng tổ chức mạng lưới thông tin kinh tế toàn quốc. Nhà nước cần hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp trong công tác nghiên cứu thị trường. Ngoài Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam, cần có một Trung tâm giao dịch xúc tiến xuất khẩu hàng dệt may đảm nhiệm chức năng tìm kiếm thị trường; môi giới, giới thiệu sản phẩm dệt may Việt Nam với khách hành quốc tế; thu thập xử lý các thông tin về thị trường, về khách hàng một cách kịp thời; khảo sát thực tế thị trường Hai là, hoạt động tiếp thị phải được tiến hành thường xuyên, liên tục. ở giai đoạn này, hoạt động tiếp thị không chỉ dừng lại ở các hoạt động truyền thống là giới thiệu và bán sản phẩm mà phải tiến xa hơn là dẫn dụ khách hàng, tạo ra các nhu cầu mới, để từ đó có điều kiện đáp ứng các nhu cầu đó. Để làm tốt việc này vai trò của hoạt động tiếp thị là hết sức quan trọng và cần được thực hiện ở cấp doanh nghiệp và ngành. ở cấp cơ sở, các doanh nghiệp dựa vào đội ngũ kỹ sư công nghệ và trên cơ sở các sản phẩm chiến lược của mình, sẽ tự thiết kế các sản phẩm mới phù hợp với phân đoạn thị trường của mình. ở cấp ngành, việc thiết kế sản phẩm mới sẽ tập trung cho việc đáp ứng yêu cầu của khách hàng lớn, thăm dò thị trường mới và đặc biệt là tạo ra khuynh hướng thời trang ở Việt Nam trong việc tiêu dùng hàng dệt may Ba là, cần phải tiến hành đồng bộ các hoạt động yểm trợ. Phân phối sản phẩm của doanh nghiệp có thể qua kênh trực tiếp đến thẳng người tiêu dùng hoặc qua các kênh gián tiếp, thông qua các đại lý, người bán lẻ lớn. Song điều quan trọng là cần tiến hành đồng bộ các hoạt động yểm trợ khác, bao gồm các hoạt động giới thiệu, quảng cáo, khuyến mại, mở hội nghị khách hàng… Trong đó, hoạt động giới thiệu sản phẩm được coi là quan trọng nhất vì qua hình thức này, người tiêu dùng được tiếp xúc trực tiếp với sản phẩm mà mình lựa chọn. 7. Một số giải pháp khác 7.1. Đầu tư vào công tác thiết kế, cải tiến mẫu mã Công tác thiết kế mốt của các doanh nghiệp ngành dệt may Việt Nam còn yếu và chưa được chú trọng. Mẫu mã các sản phẩm dệt may Việt Nam còn đơn điệu, nghèo nàn và thay đổi chậm so với như cầu, thị hiếu của người tiêu dùng trừ các sản phẩm được sản xuất theo đơn đặt hàng của phía nước ngoài. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến cho sản phẩm dệt may Việt Nam dù có ưu thế nhưng khả năng cạnh tranh còn kém. Trước đây các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu sử dụng thương hiệu, mẫu mã của nước ngoài nhằm tránh rủi ro. Tuy nhiên, tình trạng đó không thể kéo dài vì điều đó sẽ làm mất cơ hội và giảm hiệu quả kinh doanh do các doanh nghiệp Việt Nam phải trả tiền bản quyền về mẫu mã, kiểu dáng rất cao làm giảm khả năng cạnh tranh của bản thân các doanh nghiệp cũng như của ngành dệt may Việt Nam. Do vậy, trong thời gian tới để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, các doanh nghiệp ngành dệt may cần phải đầu tư cho khâu thiết kế kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm dệt may. Quá trình đó sẽ tập trung đầu tư cho cơ sở vật chất, đào tạo nguồn nhân lực các nhà tạo mẫu. - Một giải pháp quan trọng là tăng cường đầu tư cho các trường đào tạo cán bộ thiết kế như: Đại học Mỹ thuật công nghiêp, một số khoa thiết kế của các trường đại học chuyên ngành. Bên cạnh đó, ngành cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng các nhà thiết kế theo hướng mở các lớp tập huấn, mời các chuyên gia trong và ngoài nước giảng dạy; hay gửi đi đào tạo ở nước ngoài để có các nhà thiết kế chuyên nghiệp có trình độ, đủ năng lực đáp ứng cho nhu cầu sản xuất hàng xuất khẩu. - Tăng cường hỗ trợ kinh phí cho hoạt động nghiên cứu, thiết kế mẫu tại Viện Mẫu thời trang (Fadin) và Viện Dệt để đủ sức tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao phù hợp nhu cầu tiêu dùng ở thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó cũng cần có nhiều cuộc thi thiết kế mẫu thời tranh như Việt Nam Granfix để tìm ra nhiều nhà thiết kế hơn nữa, khuyến khích và đào tạo họ để nâng cao chất lượng thiết kế của các sản phẩm dệt may. Đây là nhiệm vụ rất quan trọng và đòi hỏi sự quan tâm, sự đầu tư của ngành cũng như của Nhà nước - Một biện pháp nhằm khắc phục khó khăn về vốn và nhân lực trong khâu thiết kế pt sản phẩm mới bằng cách thông qua trao đổi bản quyền giữa các công ty và tranh thủ sự hỗ trợ của các nhà nhập khẩu. Trước mắt cần phải thuê, hợp tác liên doanh với nước ngoài để học tập họ đồng thời cử cán bộ đi các viện mốt hàng đầu thế giới để học tập. Có thể đẩy mạnh hoạt động hợp tác với các Viện mốt, hặc thuê chuyên gia thiết kế mốt nước ngoài để đẩy nhanh quá trình hoà nhập vào thị trường thế giới. Đây chỉ là những biện pháp mang tính chất tạm thời, trước mắt khi nguồn vốn cho khâu này còn hạn chế; trong tương lai ngành cần có sự đầu tư một cách đồng bộ và chuyên sâu hơn nữa. 7.2. Đầu tư tạo lập và phát triển thương hiệu Hiện nay, ngành Việt Nam chưa chú ý đầu tư vào thương hiệu để tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn cho mình. ở thị trường trong nước, các doanh nghiệp vẫn chưa xây dựng được thương hiệu mạnh để tạo được chỗ đứng với người tiêu dùng trong nước. Còn trên thị trường thế giới Việt Nam chủ yếu xuất khẩu qua các nước trung gian hay gia công cho các đối tác nước ngoài, xuất khẩu sản phẩm trực tiếp còn khá ít. Sản phẩm dệt may của Việt Nam kém cạnh tranh hơn so với Trung Quốc và một số nước khác một phần vì thiếu thương hiệu mạnh. Muốn có thương hiệu mạnh, yếu tố quyết định là năng lực nội tại của các doanh nghiệp Việt Nam. Hiện nay sản phẩm dệt may của Việt Nam đã có một số thương hiệu nổi tiếng như An Phước, May 10, Dệt Thái Tuấn, May Việt Tiến, May Nhà Bè... Nhưng nhìn chung các dệt may Việt Nam chủ yếu tự bằng lòng với việc gia công sản phẩm cho nước ngoài có thương hiệu mạnh. Ví dụ như việc An Phước thuê lại thương hiệu của Piere Cardin. Điều này chứng tỏ trình độ, năng lực, thiết bị, kỹ thuật của Việt Nam không thua kém, nhưng các doanh nghiệp Việt Nam chưa có ý thức xây dựng thương hiệu cho chính mình. Do vậy, các doanh nghiệp ngành dệt may Việt Nam cần đầu tư xây dựng và phát triển thương hiệu của mình. Sự hỗ trợ của Nhà nước: Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, xây dựng năng lực kinh doanh cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp vươn lên. Nhà nước cần phối hợp với các Bộ, ngành, hiệp hội, các nhà tư vấn để thực hiện chương trình phát triển thương hiệu sản phẩm với 3 nội dung: +> Tăng cường nhận thức của doanh nghiệp về thương hiệu +> Song song với giải quyết vấn đề nhận thức trước hết các cơ quan quản lý Nhà nước giải quyết những vấn đề bức xúc của doanh nghiệp: nới lỏng chính sách quản lý, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư vào thương hiệu; đơn giản hoá thủ tục và rút ngắn thời hạn đăng ký thương hiệu; hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đào tạo, huấn luyện, cung cấp thông tin, tư vấn cho doanh nghiệp về xây dựng và quảng bá thương hiệu; tăng cường cơ chế thực thị pháp luật, xử lý nghiêm mọi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ +> Xây dựng và quảng bá một “Nhãn sản phẩm quốc gia”: Nhà nước cần quảng bá được hình ảnh các sản phẩm xuất khẩu chất lượng cao của Việt Nam ra thế giới nhằm tôn vinh các thương hiệu Việt Nam đồng thời xây dựng uy tín nhãn hiệu Việt Nam trên thị trường thế giới. Nỗ lực từ phía doanh nghiệp: Với các doanh nghiệp lớn thì có thể đăng ký nhãn hiệu hàng hoá để xây dựng cho mình thương hiệu và có thể xuất khẩu trực tiếp ra nước ngoài. Nhưng chi phí cho việc đăng ký nhãn hiệu là khá lớn có khi lên tới vài ngàn USD. Do vậy, để tiết kiệm chi phí, các doanh nghiệp có thể kết hợp với nhau để đăng ký một nhãn hiệu xuất khẩu chung cho từng loại sản phẩm. Hơn nữa, các doanh nghiệp cũng cần chú trọng đến khâu quảng bá và phát triển thương hiệu của mình ở cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Mặt khác, các doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng sản phẩm của mình để tạo lập uy tín đối với người tiêu dùng, qua đó xây dựng được thương hiệu của mình Kết luận Trong thời gian vừa qua, ngành dệt may Việt Nam đã Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, ngành dệt may Việt Nam đã có những bước phát triển nhảy vọt, đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Nhưng những khó khăn trước mắt mà ngành gặp phải là không thể phủ nhận, đó là các lợi thế cạnh tranh về nhân công dần bị hạn chế và đặc biệt là sự biến đổi tình hình dệt may thế giới sau Hiệp định thương mại dệt may ATC từ ngày 1/1/2005, là những thách thức và cơ hội không nhỏ đối với ngành trong quá trình phát triển. Việc phát triển ngành dệt may, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành suy cho cùng là nhằm tăng hiệu quả kinh tế nên đòi hỏi một chiến lược đầu tư hợp lý và hiệu quả của các doanh nghiệp trong ngành cũng như sự quan tâm hỗ trợ từ phía Nhà nước. Trên cơ sở đánh giá thực trạng đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh ngành dệt may Việt Nam, luận văn đã cho chúng ta thấy được một cái nhìn tổng quan nhất về ngành. Và từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành ở thị trường trong nước và thị trường thế giới, góp phần đưa ngành dệt may Việt Nam trở thành một ngành công nghiệp mũi nhọn, cạnh tranh được với các nước sản xuất dệt may trong khu vực và trên thế giới tài liệu tham khảo 1/ GS.TS. Chu Văn Cấp, Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Chính trị Quốc gia, 2003 2/ Đại học Kinh tế quốc dân, Phát triển công nghiệp dệt - may Việt Nam: sự lựa chọn các chính sách phát triển cho tương lai, Đại học Kinh tế quốc dân và JICA, Hà Nội, 2002 3/ TS. Nguyễn Bạch Nguyệt - TS. Từ Quang Phương, Giáo trình Kinh tế đầu tư, NXB Thống kê, 2003 4/Lê Trọng Quang, Những giải pháp và kiến nghị để thực hiện chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam của Chính phủ, Đề tài nghiên cứu cấp bộ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2004 5/ Tạp chí Công nghiệp số 14/2003; Tết Giáp Thân/2004; 4/2004; 23/2004 6/ Tạp chí Kinh tế & Dự báo các số 1/2004, 2/2004, 5/2004, 9/2004 7/ Tạp chí Kinh tế & Phát triển các số 2/2004; 6/200; 8/2004; 11/2004 8/ Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu các số 1/2004; 2/2004; 4/2004; 1/2005 8/ Tạp chí Những vấn đề Kinh tế Thế giới số 10/2003; 1/2004; 7/2004; 8/2004 9/ Tạp chí Phát triển kinh tế các số 2/2002; 10/2003; 2/2004; 5/2004; 1/2005 10/ Tạp chí Thời trang và Dệt may các số từ 1á12 năm 2003, từ 1á12 năm 2004 và 1á3 năm 2005 11/ Thời báo Kinh tế Việt Nam: Kinh tế Việt Nam và Thế giới 2003 - 2004 và 2004 - 2005 12/ Tổng cục thống kê, Niên giám Thống kê 2002 và 2003, NXB Thống kê 13/ Viện chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt Nam, NXB Chính trị - Quốc gia, 1999 14/ Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Chương trình phát triển liên hiệp quốc, Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, NXB Giao thông vận tải, 2003 15/ UNIDO và Viện chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo về chiến lược công nghiệp trung dài hạn của Việt Nam 16/ Các trang Web: www.mpi.gov.vn www.mof.gov.vn www.vinatex.com 17/ Nguồn số liệu từ: Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Tổng công ty Dệt may Việt Nam - Vinatex mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0071.doc
Tài liệu liên quan