Đề tài Thực trạng và giải pháp để mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại của nước ta trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới

NGOÀI RA CHÚNG TA THẤY ĐƯỢC SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA VÀ CŨNG TÌM THẤY NHỮNG HẠN CHẾ KHÔNG NHỎ CẦN PHẢI TỪNG BƯỚC KHẮC PHỤC.VÀ ĐIỀU QUAN TRỌNG LÀ CHÚNG TA ĐÃ CÙNG NHAU TÌM RA NHỮNG GIẢI PHÁP CẢ TRƯỚC MẮT CŨNG NHƯ LÂU DÀI,ĐỂ TỪ ĐÓ PHÁT HUY ,MỞ RỘNG ,NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI.ĐƯA NƯỚC TA VỮNG BƯỚC TRÊN CON ĐƯỜNG HỘI NHẬP VỚI KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI ,TỪNG BƯỚC XÂY DỰNG MỘT VIỆT NAM DÂN GIÀU ,NƯỚC MẠNH,XÃ HỘI CÔNG BẰNG VĂN MINH.

doc28 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1403 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp để mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại của nước ta trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó hình thức ngoại thương như các thế kỉ trước.Phân công lao động quốc tế làm biến đổi nhanh chóng cơ cấu ngành và cơ cấu lao động trong từng nước và trên phạm vi quốc tế.Ngày nay trong cơ cấu ngành đã xuất hiện những ngành mới (ngành công nghệ cao,ngành dịch vụ …)những ngành có nhiều tiềm năng,đầy triển vọng và có hiệu quả cao trong tương lai.Ngoài cách chia cơ cấu ngành kinh tế thành các ngành công-nông nghiệp và dịch vụ ,người ta còn chia ngành sản xuất vật thành 4 loại ngành như sau:ngành có hàm lượng khoa học công nghệ cao;ngành có hàm lượng vốn lớn ;ngành có hàm lượng lao động sống và có hàm lượng nguyên vật liệu nhiều.Các nước giàu thường tập trung vào 2 ngành đầu ,còn các nước đang phát triển thường tập trung vào các ngành sau.Phân công lao động quốc tế thường được biểu hiện qua các tổ chức kinh tế quốc tế và các công ty xuyên quốc gia,khiến cho vai trò của chúng ngày một quan trọng trên trường quốc tế trong lĩnh vực phân phối tư bản và lợi nhuận theo nguyên tắc có lợi cho các nước phát triển. Mặ khác từ những thập kỷ 70 của thế kỷ XX lại đây ,toàn cầu hoá ,khu vực hoá trở thành xu thế tất yếu của thới đại dẫn đến mở cửa và hội nhập của mỗi quốc gia vào cộng đồng quốc tế ,trong đó có xu hướng phát triển của thị trường quốc tế.Xu thế này có liên quan đến sự phân công lao động quốc tế và việc vận dụng lợi thế so sánh giữa các quốc gia trong thương mại giữa các nước với nhau.Cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật thương mại trong các ngành phát triển rất mạnh .Sự giao dịch trong nội bộ công ty xuyên quốc gia với công ty ở nước ngoài chiếm 40%.Thêm vào đó khối lượng thương mại trong nội bộ các tập đoàn kinh tế khu vực không ngừng mở rộng,thương mại công nghệ phát triển nhanh chóng ,thậm chí vượt xa cả tốc độ tăng của hàng hoá (cứ 10 năm tăng lên gấp 4 lần).Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức cho nền kinh tế Việt Nam.Nếu chúng ta bắt kịp được với khoa học công nghệ thế giới chung ta sẽ co cơ hội hiện đại hoá đất nước nhanh chóng nếu không chúng ta sẽ bị tụt hậu. Chúng ta phải tìm cách thu hút thiết bị kỹ thuật của nước ngoài để phát triển sản xuất,mở rộng kinh tế đối ngoại.Đó là những cơ sở khách quan để chúng ta xây dựng kinh tế đối ngoại.Trong hơn 10 năm qua chúng ta đã xây dựng được một ngành kinh tế khá vững mạnh, vậy thì kinh tế đối ngoại có những hình thức chủ yếu nào? 3/Những hình thức chủ yếu của kinh tế đối ngoại Kinh tế đối ngoại gồm nhiều hình thức như:hợp tác sản xuất (nhận gia công,xây dựng xí nghiệp chung ,khu chế xuất ,khu công nghệ ,khu kỹ thuật cao);hợp tác khoa học công nghệ (trong đó có hình thức đưa lao động và chuyên gia ra nước ngoài làm việc );ngoại thương;hợp tác tín dụng quốc tế;giao thông vận tải ;thông tin liên lạc quốc tế ;dịch vụ thu ,đổi ngoại tệ ;đầu tư quốc tế….Trong những hình thức đó thì ngoại thương,đầu tư quốc tế,dịch vụ thu đổi ngoại tệ là những hình thức quan trọng nhất.Chúng ta sẽ đi tìm hiểu từng hình thức một: 3.1/Ngoại thương Ngoại thương hay còn gọi là thương mại quốc tế ,là sự trao đổi hàng hoá ,dịch vụ giữa các quốc gia thông qua xuất nhập khẩu .Trong các hoạt động kinh tế đối ngoại thì ngoại thương giữ vị trí trung tâm và co tác dụng to lớn :góp phần làm tăng sức mạnh tổng hợp ,tăng tích luỹ của mỗi nước nhờ sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh giữa các quốc gia trong trao đổi quốc tế ;là động lực của phát triển kinh tế ;nâng cao trình độ công nghệ và ngành nghề trong nước .Tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống của người lao động nhất là trong các ngành nghề xuất khẩu.Ngoại thương bao gồm :xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá ,thuê nước ngoài gia công tái xuất khẩu ,trong đó xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng tâm của kinh tế đối ngoại nước ta vào giai đoạn hiện nay. 3.2/Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất bao gồm gia công ,xây dựng xí nghiệp chung chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất quốc tế … Với dân số đông lực lượng lao động dối dào (đến 2010 sẽ có khoảng 58,6 triệu người ở độ tuổi lao động)nhưng do nhiếu nguyên nhân chủ yếu là thiếu thị trường,thiếu vốn ,thiếu tư liệu sản xuất nên chúng ta chưa khai thác được nguồn lực quý báu đó ,thậm chí còn xảy ra tình trạng thất nghiệp .Nhận gia công cho nước ngoài là một hình thức rất tốt ,giúp chúng ta tận dụng được nguồn dự trữ lao động ,tạo nhiều việc làm ,giải quyết nạn thất nghiệp ,tận dụng khoa học kỹ thuật hiện đại của nước ngoài. Song song với hình thức trên còn có xây dựng những xí nghiệp chung với sự hùn vốn và công nghệ từ nước ngoài.Xí nghiệp chung hay hỗn hợp là kiểu tổ chức tài chính tín dụng …Hiện nay những xí nghiệp này đang tồn tại một cách phổ biến ở nước ta.Những xí nghiệp này thường tập trung xây dựng ở những khu vực có ngành kinh tế hướng vào xuất khẩu hay thay thế hàng nhập khẩu và trở thành nguồn thu ngoại tệ chủ yếu ở đó.Đây là hình thức đang được chú trọng phát triển ở nước ta.Ngoài ra chúng ta cũng không thể nhắc đến hợp tác sản xuất quốc tế trên cơ sở chuyên môn hoá ,đây là hình thức hợp tác dưới dạng các hợp đồng giữa các bên tham gia.Chuyên môn hoá bao gồm chuyên môn hoá những ngành khác nhau và chuyên môn hoá trong cùng một ngành (chuyên môn hoá theo sản phẩm ,theo bộ phận sản phẩm hay chi tiết và theo công nghệ ). 3.3/Hợp tác khoa học –kỹ thuật Hợp tác khoa học –kỹ thuật được thực hiện dưới nhiều hình thức ,như trao đổi những tài liệu –kỹ thuật và thiết kế ,mua bán giấy phép, trao đổi kinh nghiệm ,chuyển giao công nghệ ,phối hợp nghiên cứu khoa học kỹ thuật ,hợp tác đào tạo ,bồi dưỡng cán bộ và công nhân…Nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu vì vậy việc hợp tác khoa học với nước ngoài là vô cùng quan trọng ,đây là một điều kiện để chúng ta rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển và hiện đại hoá nền sản xuất trong nước .Ngoài ra việc đưa công nhân và chuyên gia đi làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài cũng là một hình thức hợp tác đào tạo cán bộ và công nhân .Vì vậy cùng với hợp tác lao động trong nước ,cần tổ chức tốt việc đưa lao động ra nước ngoài điều nay giúp chung ta vừa giải quyết được việc làm vừa nâng cao được trình độ lao động. 3.4/Đầu tư quốc tế Đầu tư quốc tế là một hình thức cơ bản của quan hệ kinh tế đối ngoại ,nó là quá trình trong đó hai hay nhiều bên cùng góp vốn để xây dựng và triển khai một dự án đầu tư quốc tế nhằm sinh lợi .Đầu tư quốc tế có tác động hai mặt đến nước nhận đầu tư.Nó làm tăng thêm nguồn vốn ,tăng công nghệ mới ,nâng cao trình độ quản lý tiên tiến tạo thêm việc làm ,đào tạo tay nghề ,khai thác tài nguyên ,chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại ,tiếp cận thị trường quốc tế hiện đại trên thế giới .Mặt khác đầu tư quốc tế cũng có khả năng làm tăng sự phân hoá giữa các giai tầng trong xã hội giữa các vùng lãnh thổ ,làm cạn kiệt tài nguyên ,làm ô nhiễm môi trường sinh thái tăng tính lệ thuộc với bên ngoài .Những điều bất lợi trên cần được cân nhắc kỹ trong quá trình xây dựng ,thẩm định ,ký kết và triển khai dự án được ký kết trong thực tế Đầu tư quốc tế có hai hình thức :đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp . Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu và quyền sử dụng quản lý vốn của người đầu tư thống nhất với nhau ,tức là người đầu tư có vốn đầu tư trực tiếp tham gia vào việc tổ chức ,quản lý và đIều hành dự án đầu tư ,chịu trách nhiệm về kết quả ,rủi ro trong kinh doanh và thu lợi nhuận .Đầu tư trực tiếp được thực hiện dưới các hình thức:hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng ,xí nghiệp liên doanh mà vốn do hai bên cung góp theo tỷ lệ nhất định để hình thành xí nghiệp mới có hội đồng quản trị và ban điều hành chung;xí nghiệp có 100% vốn nước ngoài ;hợp đồng xây dựng kinh doanh,chuyển giao công nghệ. Còn về đầu tư gián tiếp là loại hình đầu tư mà quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng vốn đầu tư ,tức là người có vốn không trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, điều hành dự án ,mà thu lợi dưới hình thức lợi tức cho vay(nếu là vốn vay)hoặc lợi tức cổ phần (nếu là vốn cổ phần)hoặc có thể không thu lợi trực tiếp (nếu cho vay ưu đãi). Như vậy ta có thể thấy sự khác nhau rõ nhất giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp là người đầu tư trực tiếp có quyền khống chế xí nghiệp đầu tư,con người đầu tư gián tiếp thì khôngcó quyền đó mà chỉ có thể thu được lợi tức trái phiếu ,cổ phiếu và tiền lãi. 3.5/Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ ,du lịch quốc tế Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ là một bộ phận quan trọng của kinh tế đối ngoại nước ta hiện nay,nó đang được Nhà nước ta chú trọng phát triển cả về chiều rộng cũng như chiều sâu.Các hình thức này gồm có: -Du lịch quốc tế:hình thức này có thể nói là một ngành công nghiệp không khói mà không chỉ nước ta mà tất cả các nước đều muốn phát triển.Đây là một ngành kinh doanh tổng hợp bao gồm các hoạt động tổ chức ,hưỡng dẫn du lịch ,sản xuất ,trao đổi hàng hoá và dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại ,ăn uống,nghỉ ngơi,giải trí,tìm hiểu ,lưu niệm…của du khách.Với lợi thế của mình về truyền thống lịch sử,cảnh quan thiên nhiên Việt Nam đang phấn đấu là đIểm đến của thế kỷ mới.Muốn vậy chúng ta phải tiếp tục nâng cấp các khách sạn hiện co để đảm bảo phục vụ du khách tốt hơn,nhất là trong dịp Seagame 22 lần đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam.Chúng ta nên mở thêm các tua du lịch hấp dẫn ,phải có chính sách cho đầu tư cho du lịch mang tính tổng thể ,phải cải cách thủ tục hành chính ,tạo thuận lợi và sự hứng khởi cho du khách quốc tế ,đồng thời phải tích cực quảng bá hình ảnh của Việt Nam trên toàn thế giới để bạn bè thế giới biết đến Việt Nam là một điểm du lịch lý tưởng. -Vận tải quốc tế:là hình thức vận chuyển hàng hoá và hành khách giữa hai hoặc nhiều nước .Sự ra đời của hình thức này xuất phát từ sự phân công lao động quốc tế và quan hệ kinh tế giữa các nước với nhau.Sự phát triển của vận tải quốc tế có tác dụng thu ngoại tệ thông qua vận tải và tiết kiệm chi ngoại tệ do phải thuê vận chuyển khi nhập khẩu hàng hoá.Vận tải quốc tế sử dụng các phương thức như :đường biển ,đường sắt ,đường bộ ,đường hàng không…Việt Nam có vị trí địa lý quan trọng ,lại có nhiều hải cảng thuận tiện cho vận tải đường biển nên có thể phát huy thế mạnh của mình thông qua việc đẩy mạnh vận tải quốc tế. -Xuất khẩu lao động ra nước ngoài và tại chỗ .Hình thức này đang được khuyến khích vi các nước phát triển có tỷ lệ tăng dân số thấp và có xu hướng giảm trong những năm tới ,đặc biệt với các ngành có cơ giới hoá và tự động hóa ,độc hại ,nguy hiểm hoặc cần nhiều lao động không lành nghề như xây dựng ,khai mỏ ,dịch vụ,công nghiệp nhẹ,công nghiệp lắp ráp ô tô ,điện tử đang rất cần lao động.Trong khi đó Việt Nam với dân số gần 80 triệu người ,kinh tế chưa phát triển ,là một nước có số lượng lao động lớn do đó việc xuất khẩu lao động mang lại rất nhiều lợi ích cả trước mắt cũng như lâu dài :thu được lượng ngoại tệ đáng kể cho người trực tiếp lao động và cho ngân sách Nhà nước,người lao động được rèn luyện tay nghề và thói quen hoạt động công nghiệp ở các nước có nền kinh tế phát triển và khi trở vế nước họ sẽ trở thành lực lượng lao động có chất lượng.Xuất khẩu lao động còn giúp chúng ta giải quyết việc làm cho đất nước,giảm tỷ lệ thất nghiệp.Do đó việc xúc tiến xuất khẩu lao động là một nhiệm vụ quan trọng của kinh tế đối ngoại,nhưng chúng ta cũng cần chú ý đến tay nghề của công nhân trước khi đưa đi nước ngoài phải đáp ứng được nhu cầu của nước ngoài về trình độ công nhân . -Ngoài ra chúng ta còn có những hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác như dịch vụ thu bảo hiểm ,thông tin bưu điện ,dịch vụ kiều hối ,dịch vụ ăn uống ,tư vấn,môi giới…Nhìn chung các dịch vụ này đang được phát triển mạnh ở nước ta nhưng đang ở giai đoạn bắt đầu phát triển với triển vọng to lớn.Tuy nhiên muốn phát triển chúng thành những ngành kinh tế chủ chốt trong nền kinh tế chúng ta phải có cách nhìn đúng đắn về chúng. Như vậy tên đây chúng ta đã tìm hiểu về kinh tế đối ngoại và các hình thức của nó,vậy thì toàn cầu hoá -xu hướng tất yếu hiện nay có tác động gì tới kinh tế đối ngoại ở nước ta trên đường hội nhập? 4/Tác động của toàn cầu hoá tới kinh tế đối ngoại của Việt Nam. 4.1/Tác động tích cực: Toàn cầu hóa giúp chúng ta mở rộng và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu.Điều này thể hiện ở chỗ chúng ta ký kết các hợp định song phương ,đa phương ,chúng ta sẽ tiếp cận được với thị trường thế giới .Hiện nay chúng ta đang cố gắng để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO lúc đó Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường xuất khẩu vì hàng rào thuế quan sẽ giảm đi,đặc biệt chúng ta còn được hưởng nhữnh ưu đãi cho nước đang phát triển.Mặt khác chúng ta còn tận dụng được cơ hội để thương lượng và giải quyết những tranh chấp thương mại ,như vụ tranh chấp thương mại giữa Việt Nam và Canada về giày và đế giày không thấm nước mà chúng ta đã thắng …nhằm bảo vệ quyền lợi cho quốc gia trên thị trường quốc tế.Toàn cầu hoá vừa tạo ra sức ép vừa thúc đẩy Nhà nước ta cải thiện thủ tục hành chính đặc biệt là khâu thủ tục xuất nhập khẩu và giảm tiêu cực để thúc đẩy thương mại quốc tế Việt Nam phát triển.Vì khi chúng ta gia nhập AFTA,WTO…chúng ta phải tuân thủ luật của các tổ chức này do đó chúng ta phải có những chính sách phù hợp .Điều này thể hiện rất rõ trong những năm gần đây ,Nhà nước ta luôn cải cách thủ tục hành chính theo hướng thông thoáng giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian và chi phí đẻ nâng cao sức cạnh tranh.Bên cạnh đó Đảng và Nhà nước ta luôn tích cực phòng chống tham nhũng,chống quan liêu ,chống phiền nhiễu cho các doanh nghiệp .Trong thực tế hiện nay luôn tồn tại những doanh nghiệp đưa hối lộ cho công chức Nhà nước,điều này gây ảnh hưởng rất tiêu cực đến sức cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp với nhau và với doanh nghiệp nước ngoài.Toàn cầu hoá vừa đặt ra yêu cầu vừa thúc đẩy sự phát triển của các ngành dịch vụ phục vụ xuất khẩu của Việt Nam.Tự do hoá thương mại sẽ buộc chúng ta phải phát triển các dịch vụ hổ trợ cho xuất khẩu.Bằng chứng là ,do sức ép cạnh tranh đã làm phong phú và nâng cao chất lượng các hình thức cung cấp dịch vụ của các ngành như bưu chính viễn thông ,ngân hàng ,giao thông ,vận tải…Toàn cầu hoá giúp chúng ta đa dạng hoá và chuyển dịch cơ cấu theo hướng xuất khẩu thô ngày càng giảm và xuất khẩu hàng hoá tinh chế ngày càng tăng.Toàn cầu hoá cho phép chúng ta sử dụng được các nguồn lực từ bên ngoài như:vốn ,lao động…Bên cạnh đó toàn cầu hoá còn giúp chúng ta xoá bỏ đi cái tâm lý ỷ lại của thời bao cấp và sự bảo hộ quá cao của Nhà nước để lại.Cụ thể các doanh nghiệp của chung ta đã chủ động hơn trong việc tìm kiếm thị trường ,tăng năng suất ,giảm chi phí để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp trong và ngoài nước.Toàn cầu hoá giúp chúng ta thu hút được vốn đầu tư..Tóm lại toàn cầu hoá với những sức ép của nó đã có những tác động tích cực tới nền kinh tế của nước ta như trên đã trình bày ,tuy vậy nó cũng không tránh khỏi những tác động tiêu cực mà chúng ta phải lưu ý tới. 4.2/Tác động tiêu cực Chúng ta có thể bị thua thiệt trong thương mại quốc tế với các nước khác đặc biệt là các nước có trình độ phát triển cao ,dễ xảy ra tình trạng “cá lớn nuốt cá bé”.Các nước này thường ép buộc chúng ta đẩy nhanh quá trình tự do hoá thương mại trong khi đó chúng ta chưa làm tốt công tác chuẩn bị khi công cuộc hội nhập quốc tế đòi hỏi phải chuyển qua những bước mới .Các doanh nghiệp của chúng ta còn yếu cả về quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh.Trong khi đó các nước này lại xây dựng các hàng rào bảo hộ ngày càng tinh vi hơn ,bảo hộ cho các ngành như nông sản ,dệt may mà chúng ta có lợi thế xuất khẩu.Mặt khác các doanh nghiệp của chúng ta chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ ,vốn ít ,kinh nghiệm thương trường chưa nhiều ,năng lực cạnh tranh còn yếu(năm 2001 chúng ta xếp hạng 62 trên tổng số 75 nước xếp hạng về năng lực cạnh tranh),như vậy toàn cầu hoá lại đặt nước ta vào cuộc cạnh tranh khốc quyết liệt với các nước có sức cạnh tranh hơn chúng ta rất nhiều.Xuất khẩu của chúng ta còn phụ thuộc vào sự thay đổi giá cả quốc tế. Phần lớn xuất khẩu các mặt hàng nông sản phẩm nhưng giá các sản phẩm này trên thị trường quốc tế lại giảm đáng kể trong thời gian gần đây gây ảnh hưởng tới xuất khẩu .Các tranh chấp thương mại quốc tế đang diễn ra khá phổ biến nhưng chúng ta lại chưa chuẩn bị tốt khả năng cung cấp các thông tin cần thiết cho các cơ quan chức năng nước ngoài trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại cũng như việc đề phòng xảy ra các tranh chấp đó.Đó là những ảnh hưởng tiêu cực của toàn cầu hoá tới nền kinh tế nước ta nói chung và kinh tế đối ngoại nói riêng,điều này đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu để từ đó đưa ra được những giải pháp đúng đắn và thích hợp.Muốn vậy điều đầu tiên chúng ta phải quán triệt mục tiêu ,phương hướng,nguyên tắc cơ bản nhằm phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta. 5/Mục tiêu,phương hướng ,nguyên tắc cơ bản nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại của nước ta trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới. Trước hết chúng ta cần khẳng định lại hiệu quả của kinh tế đối ngoại đối với nền kinh tế quốc dân đó là sự đóng góp vào việc giải quyết các mục tiêu kinh tế –xã hội như phát triển sản xuất ,đổi mới cơ cấu kinh tế ,tăng năng suất lao động xã hội ,tích luỹ ngoại tệ ,tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước giải quyết việc làm ,cải thiện đời sống nhân dân… 5.1/Về mục tiêu Đối nước ta việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh ,xã hội công bằng ,dân chủ và văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Trong thời kỳ quá độ này chúng ta mở rộng kinh tế đối ngoại để công nghiệp hoá,hiện đại hóa đất nước.Mục tiêu này phải được quán triệt một cách triệt để ở mọi ngành mọi cấp,cũng như trong các hoạt động của kinh tế đối ngoại. 5.2/Về phương hướng. Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ :”Việt Nam sẵn sàng là bạn,là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế ,phấn đấu vì hoà bình ,độc lập và phát triển”,do vậy phương hướng cơ bản nhằm phát triển kinh tế đối ngoại là:đa phương hoá ,đa dạng hoá quan hệ kinh tế với mọi quốc gia ,mọi tổ chức kinh tế không phân biệt chế độ chính trị trên nguyên tắc tôn trọng độc lập ,chủ quyền ,bình đẳng cùng có lợi .Củng cố và tăng cường vị trí của Việt Nam ở các thị trường quen thuộc và với bạn hàng truyền thống ;tích cực thâm nhập ,tạo chỗ đứng ở các thị trường mới.Kinh tế đối ngoại là một trong các công cụ kinh tế bảo đảm cho việc thực hiện mục tiêu kinh tế –xã hội đề ra cho từng giai đoạn lịch sử cụ thể và phục vụ đắc lực cho mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Chúng ta phải chủ động sáng tạo để hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới và khu vực ;phát huy ý chí tự lực tự cường ,kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài.Đó chính là phương hướng chính để nước ta phát triển kinh tế đối ngoại mà Đảng và Nhà nước ta đã xác định,trên cơ sở lập trường chính trị xã hội chủ nghĩa do Bác Hồ đã vạch ra. 5.3/Về nguên tắc: Để hội nhập tốt với nền kinh tế thế giới và khu vực chúng ta cần quán triệt những nguyên tắc cơ bản sau: -Nguyên tắc bình đẳng :đây là nguyên tắc có ý nghĩa rất quan trọng làm nền tảng cho việc thiêt lập và lựa chọn đối tác trong quan hệ giữa các nước.Nguyên tắc này xuất phát từ yêu cầu phải coi mỗi quốc gia trong cộng đồng quốc tế là một quốc gia độc lập có chủ quyền .Nó cũng bắt nguồn từ yêu cầu của sự hình thành và phát triển của thị trường quốc tế mà mỗi quốc gia là thành viên.Với tư cách là thành viên các quốc gia phải được đảm bảo có quyền tự do kinh doanh, quyền tự chủ như mọi quốc gia khác . -Nguyên tắc cùng có lợi:nếu nguyên tắc bình đẳng giữ vai trò chung cho việc hình thành và phát triển quan hệ đối ngoại ,thì nguyên tắc này lại giữ vai trò là nền tảng kinh tế để thiết lập và mở rộng quan hệ kinh tế giữa các nước với nhau.Cơ sở khách quan của nguyên tắc này bắt nguồn từ yêu cầu phải thực hiện đúng các quy luật kinh tế của thị trường diễn ra trên phạm vi thế giới mà mỗi quốc gia phải được đảm bảo về lợi ích kinh tế .Trong nền kinh tế thị trường thế giới ,nguyên tắc bình đẳng giữa các quốc gia sẽ là hình thức nếu các quốc gia tham gia không cùng lợi ích kinh tế.Nguyên tắc này còn là động lực kinh tế để thiết lập và duy trì lâu dài mối quan hệ kinh tế giữa các nước với nhau.Cùng lợi ích kinh tế là một trong những nguyên tắc làm cơ sở cho chính sách kinh tế đối ngoại và luật đầu tư nước ngoài,nó được cụ thể hoá thành những điều khoản làm cơ sở để kí kết trong các nghị định giữa các quốc gia với nhau hay với các tổ chức kinh tế thế giới. -Nguyên tắc thứ ba là tôn trọng độc lập ,chủ quyền ,không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi quốc gia.Trong quan hệ kinh tế ,mỗi quốc gia đều có tư cách như nhau ,đều độc lập với nhau về chính trị ,kinh tế ,xã hội.Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ kinh tế đối ngoại và nó đòi hỏi mỗi quốc gia tham gia phải thực hiện đúng:tôn trọng các điều khoản dã được kí kết giữa chính phủ và các tổ chức kinh tế với nhau;không được đưa ra những điều khoản làm tổn hại đến lợi ích của nhau;không được dùng những thủ đoạn có tính chất can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi nước,nhất là thủ đoạn kinh tế kích động vào đường lối ,thể chế chính trị của các quốc gia đó. -Một nguyên tắc quan trọng nữa mà chúng ta cần quán triệt trong quá trình hội nhập đó là:giữ vững độc lập ,chủ quyền dân tộc và củng cố cố định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Bác Hồ đã chọn.Đây là nguyên tắc chung cho tất cả các nước khi thiết lập và thực hiện quan hệ đối ngoại ,vừa là nguyên tắc có tính đặc thù đối với các nước xã hội chủ nghĩa,trong đó có nước ta.Trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước với nhau không đơn thuần chỉ là phải xử lý tốt về lợi ích kinh tế mà còn phải xử lý tốt mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị.Chúng ta phải mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại ,phải chủ động đảm bảo sao cho vừa khai thác được nhiều nguồn lực bên ngoài ,vừa phát huy được nguồn lực bên trong,bảo đảm kinh tế phát triển,trả được nợ nhưng không phụ thuộc vào nước ngoài ,cảnh giác với các âm mưu sử dụng kinh tế để thay đổi chế độ nước ta.Đó là một nhiệm vụ vô cùng nặng nề của kinh tế đối ngoại. Trên đây là bốn nguyên tắc để phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta trong thời gian trước mắt cũng như trong lâu dài.Chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau và đều có tác dụng chi phối hoạt động kinh tế đối ngoại giữa các nước trong đó có nước ta,vì vậy không được xem nhẹ nguyên tắc nào khi thiết lập phát triển,mở rộng kinh tế đối ngoại. Như vậy chúng ta đã tìm hiểu về một số vấn đề lý luận của kinh tế đối ngoại chúng ta đã hiểu thấu đáo về nó,tiếp theo chúng ta cùng tìm hiểu về thực trạng của kinh tế đối ngoại của nước ta trong khoảng thời gian gần đây. II/Thực trạng của kinh tế đối ngoại nước ta trong những năm gần đây. Trong hơn 15 năm đổi mới và phát triển nền kinh tế nước ta nói chung và kinh tế đối ngoại nói riêng đã có những bước phát triển vượt bậc,chúng ta đã phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu,từng bước nâng cao được đời sống cho nhân dân ,song bên cạnh đó chúng ta vần còn những hạn chế rất cần khắc phục cả về trước mắt lẫn lâu dài.Sau đây chúng ta sẽ đi vào từng hình thức của kinh tế đối ngoại. 1/Về ngoại thương với các hoạt động xuất nhập khẩu 1.1/Xuất khẩu:Theo kết quả của Bộ thương mại và Tổng cục hải quan ,kim ngạch xuất khẩu tháng 12/2002 đã đạt mức kỷ lục từ trước tới nay,ước đạt 1539 triệu USD.Nhờ những nỗ lực vượt bậc trong 4 tháng cuối năm kim ngạch xuất khẩu hàng hoá cả năm 2002 ước đạt 16,53 tỷ USD(nếu kể cả xuất khẩu dịch vụ thì đạt trên 19,2 tỷ USD)tăng gần 10%so với năm 2001,hoàn thành kế hoạch đặt ra.Và như vậy từ năm 1991 đến nay kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam luôn tăng.Cho đến năm nay,trong 10 tháng đầu năm kim ngạch xuất khẩu tăng 22,7%,kim ngạch xuất khẩu trong 10 tháng đầu năm nay ước đạt 16,55 tỷ USD như vậy đã vượt mức năm 2002.Khu vực có vốn đầu tư nước ngoàI đạt gần 8,27tỷ USD tăng 32,1%,khu vực kinh tế trong nước cũng ở mức gần 8,3 tỷ USD ,tăng 14,5%.Do liên tục đạt tốc độ tăng trưởng cao trong 10 tháng vừa qua,khu vực có vốn đầu tư đã đóng góp tới 65,5%vào tốc độ tăng trưởng chung của kim ngạch xuất khẩu cả nước cùng thời gian này .Dệt may điện tử –vi tính ,dây điện và một số nông sản như cafe,cao su ,hạt điều vẫn tục là những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao .Đáng chú ý là cao su và cafe do giá xuất khẩu đang được cải thiện đáng kể nên mặc dù sản lượng có giảm đi (5-10%)nhưng giá trị vẫn cao,cafe gần 50%,cao su trên 36%.Đặc biệt mặt hàng xuất khẩu truyền thống của chúng ta là gạo liên tục tăng trưởng.Việt Nam đã có thời gian vươn lên đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo(vượt cả Thái Lan).Vào ngày 17/1-/2003,lần đầu tiên Việt Nam thắng thầu tại Nhật Bản.Công ty lương thực Nhật Bản đã mua 10.000 tấn gạo của chúng ta.Chỉ tiêu của Việt Nam là xuất khẩu vào thị trường thế giới khoảng 4 triệu tấn ,tính từ đầu năm đến nay các doanh nghiệp đã thực hiện được 75% kế hoạch,đây là một bức tranh sáng sủa của xuất khẩu Việt Nam.Song chúng ta không khỏi băn khoăn lo lắng trước một số biểu hiện tiêu cực của một số ngành xuất khẩu. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế thì hàng hoá VN có khả năng cạnh tranh ở 3 nhóm:nhóm có khả năng cạnh tranh ;nhóm có khả năng cạnh tranh có điều kiện và nhóm có khả năng cạnh tranh thấp.Nhóm có khả năng cạnh tranh gồm 21 sản phẩm như :thuỷ sản,gạo,cafe,trái cây,hàng may mặc,da giày ,khoáng sản…Nhóm này gồm các sản phẩm nông nghiệp có lợi thế nhờ điều kiện tự nhiên ,tỷ lệ giá trị gia tăng thấp và các mặt hàng công nghiệp thì chủ yếu có tỷ lệ sử dụng lao động cao dựa vào lợi thế của nguồn nhân lực.Nhóm hàng được coi là có khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập vẫn phải đương đầu với những thử thách gay gắt do đa số chưa có thương hiệu ,kiểu dáng riêng,độc đáo ,nguồn nguyên liệu chưâ vững chắc,công nghệ chưa hiện đại…dẫn đến giá thành còn cao.Nhóm có khả năng cạnh tranh có điều kiện gồm các mặt hàng:chè ,cao su,rau,hoa tươi,thực phẩm chế biến,xi măng…là những mặt hàng có thể trở thành có khả năng cạnh tranh nếu biết khai thác ,tận dụng được những tiềm năng có sẵn để giảm giá thành và nâng chất lượng sản phẩm .Nhóm hàng có sức cạnh tranh thấp là mía đường ,bông,thép,phôi thép ..do sức cạnh tranh quá yếu ,nếu không còn được bảo hộ thì có thể bị đe doạ trên sân nhà.Ngay cả nhóm hàng có khả năng cạnh tranh trong thời gian tới vẫn còn phải vượt qua rất nhiều thử thách.Sau đây là một số mặt hàng như vậy: -Thuỷ hải sản ,năm 2002 tuy gặp nhiều sóng gió (điển hình là vụ kiện phá giá cá tra,cá basa ở Mỹ và vụ EU áp dụng chế độ kiểm tra 100% lô hàng tôm nhập khẩu từ Việt Nam)ngành thuỷ sản nước ta vẫn lập nên thành tích cao –kim ngạch xuất khẩu đạt 2,03 tỷ USD,tăng 13% so với năm trước .Nhưng sắp tới chúng ta tiếp tục phải vượt qua nhiều thử thách to lớn vì vụ kiện ở Mỹ vẫn đang tiếp diễn ,EU cảnh báo sẽ tiếp tục áp dụng chế độ dư lượng kháng sinh đối với 100% lô hàng thuỷ sản nhập khẩu từ Việt Nam. -Hàng dệt may của chúng ta đạt kim ngạch xuất khẩunăm 2002 ước đạt 2,7 tỷ USD tăng 36% so với 2001 ,đây là mức tăng trưởng cao nhất trong 5 năm gần đây ,sở dĩ như vậy là do chúng ta xuất khẩu sang Mỹ tăng mạnh.Ước tính kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ đạt 900 tỷ USD chiếm gần 30% kim ngạch của toàn ngành.Nhưng xuất khẩu sang Nhật lại giảm đi 20% do hàng Việt Nam không cạnh tranh được với hàng Trung Quốc.Xuất khẩu sang EU chỉ đạt 550 tỷ USD giảm 10% so với năm 2001 .Nguyên nhân chính là năm 2002 thực hiện giai đoạn 3 của quá trình bãI bỏ thuế cho các thành viên của WTO ,nên Trung Quốc đã tăng cường xuất khẩu vào thị trường này . -Các mặt hàng khác :năm 2002 tuy khối lượng xuất khẩu giảm gần 15% (đạt khoảng 2,34 tỷ USD)nhưng nhờ giá trên thị trường thế giới tăng lên nên kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng 16% so với năm 2001 (ước đạt 726 triệu USD).Cao su,hạt đIều nhân ,lạc nhân,hàng thủ công mỹ nghệ…đều có mức tăng kim ngạch từ 35-58%. Tình hình trên cho thấy tổng kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực tăng,nhưng xuất khẩu Việt Nam chưa tạo đựơc chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới bởi sức cạnh tranh còn thấp.Hơn nữa trong thực tế hiện nay trên thị trường còn tồn tại không ít những doanh nghiệp vẫn ỉ lại vào sự bảo hộ của Nhà nước mà không tích cực ,chủ động tìm kiếm đối tác để mở rộng thị trường ,điều này sẽ không còn khi chúng ta hội nhập hoàn toàn vào AFTA,WTO,hàng hoá của chúng ta sẽ bị canh tranh quyết liệt nếu không chủ động sáng tạo chúng ta sẽ “thua trên sân nhà”. 1.2/Về nhập khẩu: Cũng theo Tổng cục thống kê ,kim ngạch nhập khẩu năm 2002 ước đạt 19,3 tỷUSD ,tăng 19,4% so với năm 2001 và vượt chỉ tiêu kế hoạch khoảng 10,3%.Trong đó khu vực có vốn đầu ttư nước ngoài chiếm 5,6 tỷ USD ,tăng 32% và vượt kế hoạch 29%.Bốn mặt hàng nhập khẩu so với năm trước là ô tô nguyên chiếc(-3,8%),linh kiện xe máy CKD,IKD(-50,1%),bông(-1,7%),linh kiện điện tử(-14,2%).Những mặt hàng khác đều tăng khá cao ,điển hình là linh kiện ô tô CKD,IKD(+36,6%),máy móc thiết bị phụ tùng (+35%),sợi(+26,2%),phân bón (+14,4%)…Như vậy so với kim ngạch nhập khẩu 16,53tỷ USD thì tổng nhập siêu năm 2002 và khoảng 2,77 tỷ USD.Còn trong 10 tháng đầu năm 2003 cả nước đã nhập khẩu lượng hàng hoá trị giá trên 20,3 tỷ USD tăng 29,5% so với cùng kì năm ngoái.Khu vực kinh tế trong nước chiếm đa số trong kim ngạch nhập khẩu cả nước với gồm 13,3 tỷ USD,nhập khẩu chủ yếu vẫn là máy móc ,thiết bị và nguyên phụ liệu sản xuất.Từ những số liệu trên ta có thể thấy bức tranh về nhập khẩu của nước ta không có gì thay đổi to lớn so với những năm gần đây,chúng ta đã cố gắng để “người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”và đã thu được một số kết quả nhất định chẳng hạn chúng ta đã có thể lắp ráp được ô tô buýt(Transico 1-5),từ đó chúng ta không phải nhập ô tô nguyên chiếc từ Hàn Quốc và có thể tăng lượng xe buýt trong thành phố.Nhưng lại xuất hiên ngay tiêu cực về lô xe buýt kém chất lượng của công ty này.Hay chúng ta còn phải nhập phân bón từ Trung Quốc,thứ hàng hoá mà chúng ta sản xuất được trong nước nhưng do giá thành cao nên không được nông dân chấp nhận…và như vậy vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề trong xuất nhập khẩu của nước ta,song điều quan trọng là chúng ta cùng tìm cách khắc phục những tiêu cực đó để mở rộng kinh tế đối ngoại. 2/Về việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài Để phát triển kinh tế trước hết chúng ta phải dựa vào nguồn lực trong nước là chính song không thể phủ nhận vai trò rất quan trọng của vốn đầu tư nước ngoài ,đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập hiện nay.Từ năm 1987 khi lần đầu tiên chúng ta ban hành Luật đầu tư nước ngoài ,đến nay đã có hơn 40 quốc gia và lãnh thổ đầu tư vào nước ta.Tính đến hết tháng 12/2001 có 3346 dự án được giấy phép đầu tư với tổng số vốn đăng kí là 41,8 tỷ USD ,trong đó vốn thực hiện chiếm khoảng 38%.Cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp ngày càng phù hợp với yêu cầu chuển dịch cơ cấu kinh tế .Vốn FDI thu hút vào việc sản xuất vật chất ,kết cấu hạ tầng kinh tế đều tăng ,năm 2001 đạt 85% tổng số vốn đầu tư .Đầu tư của nước ngoài từ các quốc gia phát triển (EU,Bắc Mỹ,Nhật …)đều tăng và chiếm khoảng 44%tổng số vốn đăng ký tại Việt Nam.Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp ,khoảng 23% kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu khí )và đóng góp trên 12% GDP của cả nước ,thu hút hơn 30 vạn lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp .Vốn hỗ trợ phát triển (ODA) cho Việt Nam tiếp tục tăng ,góp đặc biệt trong lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng ,xoá đói giảm nghèo ,y tế ,giáo dục đô thị… Đến tháng 12/2001 vốn ODA được các nhà tài trợ cam kết cho Việt Nam vay là 15,04 tỷ USD (bình quân hàng năm là 1,5 tỷ USD).Văn kiện ĐH Đảng IX đã đánh giá:” cơ cấu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta .Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tiếp tục tăng góp phần quan trọng phát triển kết cấu hạ tầng”.Có thể nói nước ta đã trở thành nơi đầu tư lý tưởng cho các nhà đầu tư,chúng ta đã cố gắng làm cho môi trường đầu tư thật lành mạnh để thu hút các nhà đầu tư,với môi trường chính trị ổn định với lực lượng lao động dồi dào ,giá rẻ…điều đó làm chung ta đã trở thành bạn làm ăn của rất nhiều doanh nghiệp trên thế giới và con số này chắc chắn sẽ tăng lên khi chúng ta hội nhập kinh tế quốc tế.Tuy nhiên không phải không có những hạn chế trong việc thu hút vốn đâu tư của nước ta,làm cho chúng ta mất đi tính cạnh tranh đối với các nước trong khu vực.Xin đơn cử ra một ví dụ đó là thủ tục hành chính của chúng ta vẫn còn quá rườm rà,mất rất nhiều thời gian ,qua nhiều cấp ,bậc và dễ gây tiêu cực .Chẳng hạn ở Hà Nội để được cấp giấy phép đầu tư theo quy định của UBND thành phố,nhà đầu tư nước ngoài phải gửi tất cả là 11 loại giấy tờ hợp lệ đến Sở kế hoạch và đầu tư hoặc Ban quản lý các khu công nghiệp .Sau khi các cơ quan này lấy ý kiến của các bộ ngành có liên quan bằng văn bản ,rồi được sự chấp thuận của Hội đồng tư vấn thành phố và được UBND thành phố cấp giấy phép đầu tư(tất cả trong thời gian 30 ngày )Còn đối với dự án không thuộc thẩm quyền của UBND thành phố thì phải thêm khâu UBND gửi lên cấp trên (Bộ kế hoạch và Đầu tư ,Văn phòng chính phủ …)để cấp giấy phép đầu tư ,thời gian từ khi gửi hồ sơ đầy đủ và hợp lệ đến khi được cấp giấy phép đầu tư trước đây là 60 ngày nay giảm xuống 45 ngày.Với thời gian này vừa làm cho doanh nghiệp đầu tư tốn rất nhiều thời gian kinh phí để lo giấy tờ nhiều khi còn có hiện tượng tiêu cực trong các cơ quan có thẩm quyền về vấn đề này.Thêm vào đó hệ thống luật pháp ,chính sách đang trong quá trình hoàn thiện nên thiếu tính đồng bộ và ổn định ,chưa đảm bảo tính rõ ràng và dự đoán được.Các doanh nghiệp Việt Nam có chi phí kinh doanh cao và khả năng sinh lời thấp thêm vào đó các khoản chi phí ngoài luật lại tăng (chi phí tư vấn ,chạy thủ tục…)điều này làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư vào nước ta.Chúng ta chưa có nhiều hình thức thu hút vốn FDI phong phú .Và một điều khá nghiêm trọng hiện nay trong sử dụng vốn đầu tư đó là hiện tượng bớt xén vốn làm của riêng ,nó làm cho công trình kém chất lượng lại gây ra sự mất lòng tin của các nhà đầu tư vào nước ta…Đó là thực trạng thu hút và sử dụng vốn đầu tư từ nước ngoài của nước ta trong thời gian gần đây -đã và đang được cải thiện nhưng còn đó rất nhiều hạn chế ,tiêu cực cần được giải quyết. 3/Về các hình thức thu ngoại tệ của nước ta Trước hết ta nói về một hình thức quan trọng của kinh tế đối ngoại đó là du lịch.Có thể nói chưa bao giờ ngành du lịch lại được phát triển rộng rãi cả về chất và lượng như ngày nay,chúng ta đã coi hình thức này như một ngành công nghiệp –ngành công nghiệp không khói và như vậy du lịch cứ thế phát triển đóng góp vào thu nhập quốc dân đến gần 5%,thêm vào đó nó còn giải quyết được lượng lớn lao động nhàn rỗi ở địa phương …nhưng vẫn tồn tại ở đâu đó những hành động bắt chẹt khách,gây phiền hà cho khách du lịch đặc biệt là du khách nước ngoài gây ấn tượng không tốt cho họ về Việt Nam.Nhưng nói chung chúng ta đã có ngành du lịch khá phát triển và năng động,mặc dù dịch SARS nhưng ngành du lịch của chúng ta vẫn đứng vững và tăng trưởng.Sắp tới chúng ta tổ chức SEAGAMES 22 đây là cơ hội cho du lịch nước ta quảng bá hình ảnh nước ta với thế giới .Muốn như vậy chúng ta còn rất nhiều việc phải làm chẳng hạn cải thiện hệ thống giao thông vận tải tránh ùn tắc trong thời gian sắp tới,rồi các dịch vụ khác như khách sạn …cũng phải được quản lý chặt chẽ. Về dịch vụ mua bán ngoại tệ nước ta cũng đã có những bước tiến dài,với hệ thống các ngân hàng ngày càng hiện đại về khâu đổi tiền chẳng hạn chúng ta đã lắp đặt máy rút tiền tự động ở một số ngân hàng lớn như Vietcombank,Techcombank…đIều này giúp cho việc thanh toán được đơn giản hơn cho các nhà sử dụng ngoại tệ. Ngoài ra hiện nay chúng ta cũng đang chú trọng phát triển hàng không quốc tế ,dịch vụ viễn thông quốc tế,tuy nhiên do trình độ khoa học còn chênh lệch các dịch vụ đó của chúng ta cần phải cố gắng rất nhiều mới có thể phát triển bắt kịp với các nước trong khu vực cũng như thế giới. Trên đây là thực trạng của nền kinh tế đối ngoại nước ta trong khoảng thời gian gần đây ,có thể nói chúng ta đã đạt được những bước tiến dài ,song không phải không còn những hạn chế ,tiêu cực nan giải đòi hỏi chúng ta phải đưa ra và thực hiện những giải pháp đồng bộ thích hợp để có thể mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại. III/Các giải pháp chủ yếu nhằm mở rộng ,nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại 1/Những giải pháp mang tính lâu dài Giải pháp đầu tiên chúng ta phải đề cập đến đó là :đảm bảo sự ổn định về môi trường chính trị ,kinh tế xã hội .Môi trường chính trị - kinh tế- xã hội là nhân tố cơ bản có tính quyết định đối với hoạt động của kinh tế đối ngoại ,đặc biệt là hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài.Kinh nghiệm thực tiễn đã chỉ ra rằng nếu sự ổn định chính trị không được bảo đảm ,môi trường kinh tế không thuận lợi ,thiếu các chính sách khuyến khích ,môi trường xã hội thiếu tính an toàn …sẽ tác động xấu đến quan hệ hợp tác kinh tế ,trên hết là đối với thu hút vốn đầu tư nước ngoài ,làm mất lòng tin của các nhà đầu tư.Để đảm bảo môi trường chính trị,kinh tế ,xã hội ,đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo của Nhà nước ,sự nỗ lực của các ngành các cấp và của toàn thể nhân dân. Thứ hai chúng ta phải có chính sách thích hợp đối với từng hình thức kinh tế đối ngoại .Đây là giải pháp quan trọng có tính lâu dài nhằm phát triển đa dạng có hiệu quả kinh tế đối ngoại .Việc mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại đòi hỏi:Một mặt phải mở rộng các hình thức kinh tế đối ngoại ,mặt khác phảI sử dụng linh hoạt phù hợp với điều kiện cụ thể .Đặc biệt là phải sử dụng chính sách thích hợp đối với mỗi hình thức kinh tế đối ngoại.Chẳng hạn đối với hình thức ngoại thương cần phảI có chính sách khuyến khích mạnh mẽ kinh doanh hàng xuất khẩu ,tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao ,phát triển mạnh mẽ những hàng hoá dịch vụ có khả năng cạnh tranh ,có cơ chế bảo hiểm hàng xuất khẩu ,đặc biệt là nông sản ,đầu tư cho hoạt động sản xuất .Khuyến khích sử dụng thiết bị hàng hoá sản xuất trong nước ,tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu tiến tới cân bằng xuất nhập khẩu .Thực hiện chính sách bảo hộ có lựa chọn ,có thời hạn .Chủ động xâm nhập thị trường quốc tế ,chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế thế giới ,mở rộng thị trường quen thuộc ,tranh thủ mọi cỏ hội mở thị trường mới.Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư ,tăng sức hấp dẫn đối với các công ty xuyên quốc gia.Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài và các hỗ trợ cho các công dân Việt Nam kinh doanh ở nước ngoài .Có chính sách thích hợp tranh thủ nguồn vốn ODA…Không chỉ ngoại thương chúng ta cũng phải có biện pháp mở rộng đối với các hình thức kinh tế đối ngoại khác như hợp tác khoa học –công nghệ(tích cực chuyển giao công nghệ) và các dịch vụ thu ngoại tệ khác. Bên cạnh đó chúng ta phải xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế kĩ thuật.Có thể nói kinh tế kĩ thuật rất quan trọng đối với kinh tế nói chung và kinh tế đối ngoại nói riêng.Trong đIều kiện nền kinh tế tri thức đang hình thành và từng bước phát triển,kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội càng đóng vai trò quan trọng và yêu cầu chất lượng ngày càng cao,đặc biệt là kết cấu hạ tầng mà chủ yếu là thông tin liên lạc và giao thông vận tải.Đối với nước ta ,bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong các lĩnh vực trên mặc dù đã có nhiều cố gắng ,song vẫn còn lạc hậu so với các nước trong khu vực ,trong khi vốn đầu tư vào lĩnh vực này còn quá hạn chế.Giao thông của chúng ta đã đầu tư rất nhiều nhưng chất lượng chưa được nâng cao nhiều,chi phí thông tin liên lạc của chúng ta lại quá cao (chi phí điện thoại quốc tế cũng như nội hạt hay cước phí internet của nước ta đứng vào những nước cao nhất thế giới).Do vậy phải có chiến lược đầu tư đúng nhất đầu tư tập trung có trọng điểm ,dứt điểm và có hiệu quả cao ,đặc biệt phải kiên quyết chống lại các hiện tượng tiêu cực gây thất thoát vốn đầu tư. Tiếp theo chúng ta phải tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với kinh tế đối ngoại .Vai trò quan trọng về quản lý kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trừng đã được khẳng định .Đối với lĩnh vực kinh tế đối ngoại do tính chất đặc biệt của nó nên vai trò đó lại trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn những năm qua đã khẳn định rằng nếu thiếu sự quản lý Nhà nước ,kinh tế đối ngoại không thể mở rộng và mang lại hiệu quả ,thậm chí còn dẫn đến những hậu quả khó lườngkhông chỉ về kinh tế mà còn nguy hại hơn là về chính trị ,bởi vì mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị luôn là mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau nhất là diễn biến hoà bình đang là một nguy cơ luôn tiềm ẩn.Mặc dù đã có những cố gắng nhất định về quản lý Nhà nước về quản lý kinh tế đối ngoại nên kết quả thu được không phải là nhỏ ,song do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan chúng ta còn rất nhiều hạn chế.Chẳng hạn chúng ta đang phấn đấu về xuất khẩu đạt 200USD/người trong một năm thì con số đó đối với Thái Lan là 900-1000USD,như vậy chúng ta còn kém rất xa.Vì vậy việc tăng cường quản lý Nhà nước trở thành vấn đề vô cùng cấp bách.Chỉ có tăng cường vai trò quản lý nhà nước mới có thể đảm bảo được mục tiêu ,phương hướng và giữ vững được nguyên tắc cơ bản trong kinh tế đối ngoại và có như vậy hoạt động kinh tế đối ngoại mới mang lại hiệu quả .Cũng chỉ tăng cường vai trò quản lý Nhà nước mới hạn chế được những rủi ro ,nắm bắt được những cơ hội nhờ đó mang lại lợi ích cho các đơn vị hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng và quốc gia nói chung.Thông qua sự tăng cường đó chúng ta sẽ khắc phục được tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh ,phát huy hiệu quả của sự hợp tác trong nước để có sức mạnh cạnh tranh quốc tế ,tránh được sự thua thiệt về lợi ích…Để tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với kinh tế đối ngoại cần thiết phải đổi mới tổ chức bộ máy,cơ chế quản lý ,để vừa đảm bảo sự thống nhất quản lý của Nhà nước về kinh tế đối ngoại ,song vẫn phát huy được tính chủ động ,sáng tạo của các đơn vị ,đưa lại hiệu quả kinh tế –xã hội ngày càng lớn .Trong đó vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng là :nâng cao được năng lực của bộ máy quản lý ,năng lực phẩm chất của cán bộ công chức hoạt động kinh tế đối ngoại và có được hệ thống pháp luật và phong tục tập quán quốc tế ,thủ tục hành chính gọn nhẹ ,thông tin thị trường cập nhật …Đó cũng chính là những hạn chế đang tồn tại mà chúng ta đang phải nỗ lực khắc phục. Một giải pháp mà chúng ta cần phải thực hiện đồng bộ cùng với các giải pháp trên đó là :tích cực xây dựng đối tác và tìm kiếm đối tác trong quan hệ kinh tế đối ngoại . Trong quan hệ kinh tế đối ngoại ,đối tác trở thành vấn đề rất cơ bản ,có tính chất quyết định đối với hiệu quả kinh tế đối ngoại .Do hình thức kinh tế đối ngoại rất đa dạng nên đối tác cũng hết sức đa dạng .Cũng vì thế xây dựng đối tác và tìm kiếm đối tác quan hệ trở thành vấn đề phức tạp và cần được xử lý linh hoạt .Đối với việc xây dựng đối tác trong nước ,điều quan trọng là phải từng bước xây dựng các đối tác mạnh (về vốn ,công nghệ ,năng lực quản lý,phong cách giao tiếp quốc tế …)có tầm cỡ quốc tế đóng vai trò đầu tầu trong quan hệ.Trong nền kinh tế thị trường ,doanh nghiệp vẫn là những chủ thể chủ yếu trực tiếp hoạt động kinh tế đối ngoại nên cần phải xúc tiến xây dựng một số doanh nghiệp Nhà nước thành tập đoàn xuyên quốc gia .Các tập đoàn này sẽ là lực lượng đầu tầu trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và thôngqua đó lôi kéo các doanh nghiệp khác.Còn đối với đối tác nước ngoài việc lựa chọn đối tác luôn là vấn đề quan trọng đối với Việt Nam.Song trong tương lai và về lâu dài cần quan tâm hơn đối với các công ty xuyên quốc gia vì đó là nguồn quốc tế lớn về vốn,công nghệ,kinh nghiệm quản lý mà chúng ta rất cần khai thác . Tuy nhiên để khai thác được họ không phải là vấn đề đơn giản,đòi hỏi phải có chiến lược ,sách lược đúng đắn trên cơ sở cùng có lợi. Trên đây là năm giải pháp mà chúng ta phải thực hiện trong cả thời kỳ quá độ.Mỗi giải pháp có vị trí khác nhau nhưng sự phân định chỉ có ý nghĩa tương đối ,chúng ta muốn mở rộng kinh tế đối ngoại và nâng cao hiệu quả của nó thì chúng ta phải thực hiện đồng bộ các giải pháp trên. 2/Những giải pháp mang tính cấp bách trước mắt Hiện nay chúng ta đang tích cực kêu gọi đầu tư và vậy chúng ta phải đẩy nhanh mạnh mẽ cải cách hành chính (thể chế ,bộ máy ,cán bộ ,tài chính công )sao cho đơn giản gọn nhẹ ,thông thoáng theo thông lệ quốc tế .Triệt để và kiên quyết trong việc qui định rõ ràng minh bạch các thủ tục hành chính ở mọi khâu ,mọ cấp ,công khai các qui trình,thời hạn ,trách nhiệm xử lý các thủ tục hành chính như việc tuyển dụng lao động ,thủ tục hải quan ,xuất nhập cảnh theo thông lệ quốc tế.Qui định rút ngắn thời gian cụ thể cho từng khâu :cấp giấy phép đầu tư ,ký hợp đồng thuê đất ,cấpgiấy phép xây dựng,xuất nhập khẩu …Tiến tới thực hiện cơ chế:một cửa một dấu do Trung tâm hoặc hộ đồng tư vấn ĐTNN gồm đại diện của các bộ ,ngành chủ chốt liên quan tập trung giải quyết tại một đầu mối tất cả các thủ tục về ĐTNN hay xuất nhập khẩu như các nước trong khu vực đang thực hiện,nhằm giúp chúng ta hội nhập với các nước trong khu vực. Một giảI pháp tiếp theo mà chúng ta cầnthực hiện ngay đó là chấn chỉnh mạnh mẽ việc thực thi pháp luật sao cho thực tiễn thi hành pháp luật không sai biệt với qui định của pháp luật ,đặc biệt là những chính sách đầu tư mới được sửa đổi bổ sung.Tạo mọi thuận lợi và thường xuyên quan tâm giải quyết các khó khăn vướng mắc cho các nhà đầu tư nước ngoài .Vấn đề then chốt cótính quyết định là việc chỉ đạo điều hành tập trung thống nhất và kiên quyết của Chính phủ ,việc thực hiện nghiêm túc của các Bộ ,ngành địa phương .Do vậy cần xây dựng qui chế phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ ,ngành …Tiêu chuẩn hoá cán bộ ,qui định cụ thể trách nhiệm của người công chức .Thanh lọc cán bộ thoái hóa biến chất,kịp thời phát hiện và kiên quyết xử lý các cán bộ công chức Nhà nước vi phạm cho dù ở cương vị nào .Bên cạnh đó chúng ta cần phải khen thưởng ,tuyên dương thích hợp những cá nhân hay tập thể có thánh tích xuất sắc trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại tạo niềm tin đối với Nhà nước và Chính phủ. Đó là những giải pháp cấp bách trong việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài có hiệu quả,vậy thì trong ngoại thương chúng ta phải làm gì cho chặng đường hội nhập sắp tới được dự báo là rất nhiều cơ hội nhưng cũng rất nhiều thử thách.Trong ngoại thương tức là buôn bán với nước ngoài,để hội nhập chúng ta phải xác định rõ “thương trường là chiến trường”nếu không mạnh sẽ không tồn tại được .Hơn lúc nào hết các doanh nghiệp Việt Nam phải đoàn kết lại ,phải tập hợp sức mạnh thành những hiệp hội ,những tập đoàn lớn có đủ sức mạnh để đổi mới công nghệ ,nâng cao sức cạnh tranh ,tổ chức hoạt động Marketing,hỗ trợ nhau cùng vượt qua những thách thức…Nhà nước và các tổ chức ngân hàng tài chính …cần hỗ trợ các doanh nghiệp tích cực và hiệu quả hơn ,với các chính sách tài trợ phát triển khoa học ,gắn hỗ trợ sản xuất chế biến với kinh doanh hàng xuất khẩu …Phải tập trung đầu tư cho các ngành có lợi thế cạnh tranh cao ,mang lại giá trị gia tăng tránh đầu tư dàn trải ,manh mún.Bên cạnh đó các doanh nghiệp của chúng ta cũng phải tích cực chủ động xây dựng thương hiệu ,mở rộng thị trường ,đồng thời phải luôn luôn giữ gìn chữ “tín” ,để xây dựng và gìn giữ hình ảnh đẹp của hàng hoá Việt Nam,đất nước Việt Nam trên thị trường quốc tế.Để giảm nhập siêu ,Bộ thương mại đã trình chính phủ 7 giải pháp như đIều chỉnh thuế nhập khẩu một số mặt hàng và xử lý vấn đề thu chênh lệch giá,tiếp tục triển khai thí đIểm các công cụ quản lý nhập khẩu mới;khống chế nhập khẩu xe gắn máy ở mức 1 triệu xe /1 năm;khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng ,mua sắm thiết bị trong nước ;tiếp tục tăng cường công tác quản lý kiểm soát chất lượng đối với hàng tiêu dùng nhập khẩu ;bảo đảm tính kinh hoạt cần thiết trong điều hành tỷ giá . Đó chính là những biện pháp mà chúng ta cần thực hiện nhưng quan trọng đó là chúng phải được toàn thể nhân dân đồng tình ,xuất phát từ lòng yêu nước ,từ đó chúng ta mới xấy dựng được đất nước ta giàu mạnh ,xã hội công bằng văn minh như mong muốn của Bác Hồ vĩ đại. C/Kết luận Tóm lại kinh tế đối ngoại là một trong những đề tài mang tính thời sự nhất hiện nay , đặc biệt khi chúng ta đang chuẩn bị gia nhập WTO trong hai năm tới .Nghiên cứu đề tài này chúng ta hiểu thêm về kinh tế đối ngoại,hiểu thêm về tầm quan trọng của nó.Ngoài ra chúng ta thấy được sự phát triển của kinh tế đối ngoại Việt Nam trong những năm qua và cũng tìm thấy những hạn chế không nhỏ cần phải từng bước khắc phục.Và điều quan trọng là chúng ta đã cùng nhau tìm ra những giải pháp cả trước mắt cũng như lâu dài,để từ đó phát huy ,mở rộng ,nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại.Đưa nước ta vững bước trên con đường hội nhập với khu vực và thế giới ,từng bước xây dựng một Việt Nam dân giàu ,nước mạnh,xã hội công bằng văn minh. Như vậy em đã hoàn thành đề án môn học kinh tế chính trị với sự gợi ý và góp ý của thầy ,tuy nhiên đây là lần đầu tiên em làm đề án môn học do đó không thể tránh khỏi những khuyết điểm ,vì vậy em mong thầy thông cảm!Em xin chân thành cảm ơn thầy! Mục lục A/Lời mở đầu B/Giải quyết vấn đề I/Một số vấn đề về cơ sở lý luận 1.Kinh tế đối ngoại và vai trò của nó trong nền kinh tế nước ta 2.Những cơ sở khách quan của việc hình thành và phát triển KTĐN 3.Những hình thức chủ yếu của KTĐN 3.1.Ngoại thương 3.2.Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất 3.3.Hợp tác khoa học kỹ thuật 3.4.Đầu tư quốc tế 4.Tác động của toàn cầu hoá đến kinh tế Việt Nam 4.1.Tác động tích cực 4.2.Tác động tiêu cực 5.Mục tiêu,phương hướng ,nguyên tắc cơ bản nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả của KTĐN 5.1.Mục tiêu 5.2.Phương hướng 5.3.Nguyên tắc II/Thực trạng của nền kinh tế đối ngoại nước ta 1.Về ngoại thương với các hoạt động xuất nhập khẩu 2.Về việc thu hút vốn và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả của nước ta 3.Về các hình thức thu hút vốn đầu tư và sử dụng vốn có hiệu quả III/Những giải pháp để nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại 1.Những giải pháp mang tính lâu dài 2.Những giải pháp cótính trước mắt cần thực hiện ngay Tài liệu tham khảo -Giáo trình kinh tế chính trị của Bộ GD-ĐT -Văn kiện ĐH Đảng CSVN từ ĐH 6-9 -Tạp chí “Tổng kết và dự báo” số ra cuối năm 2002 -Báo “Doanh nghiệp với ngân hàng”và trang web VietNam Economy

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0166.doc