Đề tài Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn

Doanh nghiệp liên doanh là loại hình thường được nước chủ nhà ưa chuộng vì hầu hết các doanh nghiệp liên doanh khi đầu tư, kinh doanh ở nước chủ nhà, họ thường phải mang theo các thiết bị khoa học kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý hiện đại. Tuy nhiên loại hình đầu tư này thường được nước chủ nhà áp dụng chủ yếu đối với đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Nhưng để đạt được kết quả mong muốn thì việc áp dụng hình thức này đòi hỏi nước chủ nhà phải có khả năng góp vốn, các nhà quản lý doanh nghiệp phải có đủ trình độ và năng lực quản lý, tiếp thu và ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, hiện đại của nước ngoài. Doanh nghiệp cổ phần FDI ( hay công ty cổ phần) là doanh nghiệp có các cổ đông nước ngoài và trong nước ( cổ đông có thể là các cá nhân hoặc tổ chức ) nhưng cổ đông nắm quyền chi phối có quốc tịch nước ngoài, đây là hình thức doanh nghiệp hiện đại. Tuy đều là doanh nghiệp có vốn hỗn hợp song doanh nghiệp cổ phần FDI có cơ cấu tổ chức và cách thức hoạt động rất khác so với doanh nghiệp liên doanh.

doc53 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1021 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thuỷ sản và khoáng sản) hoặc là phụ thuộc quá nhiều vào công nghệ và nguyên liệu nhập từ bên ngoài, do đó giá trị gia tăng thấp (giày da và dệt may). 1.5. Đa dạng hóa sản phẩm. Sau khi nhà nước bãi bỏ chính sách chỉ huy và sản xuất tập thể, ngày nay nông nghiệp Việt-Nam đã thực hiện được kế hoạch đa canh. Thay vì chỉ tập trung một một số hoa màu cổ truyền với nhiều rủi ro liên quan đến giá cả và thời tiết, nông dân được tự do trồng đủ loại hoa màu, cây ăn trái và kỹ nghệ với lợi tức cao hơn. Mức tăng trưởng hàng năm của khu vực nông nghiệp giữ ở mức 3.3% và 3.5% trong hai năm 2003 và 2004, năm 2005 là 2.2% và 2006 là 3.2%. 1.6. Tạo việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập dân cư, cải thiện đời sống kinh tế xã hội nhiều vùng nông nghiệp và nông thôn. Bên cạnh hiệu quả kinh tế các dự án FDI trong nông, lâm nghiệp đã góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội ở những vùng có dự án. 4.799 lao động nông thôn có việc làm mới, thu nhập cao hơn hẳn lao động của địa phương. Trình độ nghề nghiệp của lao động nông, lâm nghiệp được nâng cao qua thực tế sản xuất có tính hàng hóa cao của các dự án. Hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn vùng có dự án được xây dựng mới và nâng cấp so với trước, nhất là điện, thủy lợi, giao thông, cơ sở chế biến nông, lâm sản, trạm y-tế. Đối với các vùng miền núi,vùng đồng bào các dân tộc ít người như Sơn La, Cao Bằng, Quảng Ninh, Lâm Đồng, các dự án FDI trong nông, lâm nghiệp còn góp phần quan trọng xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, xây dựng bản làng theo hướng văn minh phù hợp với nền sản xuất nông, lâm nghiệp hàng hóa. Ở Việt Nam, số lượng người làm việc trong khu vực FDI ngày càng tăng qua các năm.Thu nhập bình quân của lao động Việt Nam trong khu vực FDI nhìn chung cao hơn ở khu vực trong nước. Tuy nhiên, thu nhập của lao động trong khu vực FDI cũng tuỳ thuộc vào ngành nghề, trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật, do vậy thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp này có có sự chênh lệch tương đối lớn. Người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao có thu nhập cao gấp 3,5 lần so với lao động phổ thông và cao gấp 2,88 lần so với lao động có trình độ sơ cấp. Các vị trí quản lý cao cấp hiện có mức thu nhập bình quân 10,231 triệu đồng/người/tháng, gấp 9,86 lần so với mức thu nhập trung bình của lao động phổ thông và gấp 2,29 lần so với lao động quản lý bậc trung. Mặc dù thu nhập của lao động trong khu vực FDI có sự chênh lệch nhưng đã góp phần đáng kể vào việc nâng cao đời sống của người lao động và làm tăng sức mua trên thị trường. 1.7. Những thay đổi chủ yếu trong chính sách thu hút FDI trong các thời kỳ sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam Để thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trong thời gian qua, hàng loạt các quy định chính sách đã ban hành nhằm đơn gian hoá thủ tục, ưu đãi đất đai, thuế, lới lỏng chính sách thương mại. Điều này cũng một phần thúc đẩy ĐTNN vào Việt Nam trong thời gian qua. Bảng 3 : Những thay đổi chủ yếu trong chính sách thu hút FDI qua các thời kỳ. Lĩnh vực c/s Luật sửa đổi năm 1992 đến 1995 Luật sửa đổi năm 1996 đến hết 1999 Luật sửa đổi năm 2000 đến nay Trình tự đăng ký + Dự án FDI được nhận giấy phép đầu tư trong vòng 45 ngày; + Sau khi có giấy phép, DNFDI vẫn phải xin đăng ký hoạt động. + DNFDI được tự lựa chọn loại hình đầu tư, tỷ lệ góp vốn, địa điểm đầu tư, đối tác đầu tư. + DN xuất khẩu sản phẩm trên 80% được ưu tiên nhận giấy phép sớm; +Ban hành danh mục DNFDI được đăng ký kinh doanh, không cần xin giấy phép; + Bỏ chế độ thu phí đăng ký đầu tư FDI Phân cấp đăng ký/cấp phép Lĩnh vực + Khuyến khích các dự án liên doanh với doanh nghiệp trong nước; hạn chế dự án 100% vốn nước ngoài; + Khuyến khích DNFDI đầu tư vào những lĩnh vực định hướng xuất khẩu, công nghệ cao. + Ban hành danh mục dự án kêu gọi đầu tư FDI cho giai đoạn 2001-2005 + Mở rộng lĩnh vực cho phép FDI đầu tư xây dựng nhà ở; + Đa dạng hoá hình thức đầu tư; Được mua cổ phần của các doanh nghiệp trong nước Đất đai + Phía Việt nam chịu trách nhiệm đền bù giải phóng mặt bằng cho các dự án có vốn đầu tư nước ngoài; + Dự án có vốn FDI được thuê đất để hoạt động, nhưng không được cho các doanh nghi nghiệp nghiệp nghiệp khác thuê lại. + UBND địa phương tạo điều kiện mặt bằng kinh doanh khi dự án được duyệt; DN thanh toán tiền giải phóng mặt bằng cho UBND + Được quyền cho thuê lại đất đã thuê tại các khu CN, khu chế xuất; + Được thế chấp tài sản gắn liền với đất và giá trị quyền sử dụng đất; Quy định về vốn + Qui định vốn pháp định không được thấp hơn 30% tổng vốn đầu tư. C/s tỷ giá, quy địnhvề ngoại tệ + Các dự án FDI đầu tư hạ tầng và thay thế nhập khẩu được nhà nước bảo đảm cân đối ngoại tệ; + Các DNFDI thuộc các lĩnh vực khác phải tự lo cân đối ngoại tệ; nhà nước không chịu trách nhiệm về cân đối ngoại tệ đối với các dự án này. + Tự bảo đảm cân đối nhu cầu về ngoại tệ cho hoạt động của mình; + Áp dụng tỷ lệ kết hối ngoại tệ do tác động khủng hoảng tài chính khu vực (80%), sau đó nới dần tỷ lệ này. +DN có thể mua ngoại tệ với sự cho phép của Ngân hàng nhà nước + Được mua ngoại tệ tại NHTM để đáp ứng nhu cầu giao dịch theo luật định; + Bãi bỏ yêu cầu chuẩn y khi chuyển nhượng vốn; giảm mức phí chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. + Giảm tỷ lệ kết hối ngoại tệ từ 80% xuống 50% đến 30% và 0% C/s xuất nhập khẩu + DN phải bảo đảm tỷ lệ XK theo đã ghi trong giấy phép đầu tư; + Sản phẩm của DNFDI không được bán ở thị trường VN qua đại lý + DNFDI không được làm đại + Bãi bỏ hoàn toàn việc duyệt kế hoạch xuất khẩu của doanh nghiệp FDI; + Cải tiến thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá đối với xét xuất xứ hàng hoá XNK + Thu hẹp lĩnh vực yêu cầu tỷ lệ xuất khẩu 80% sản lượng; + DN FDI được tham gia dịch vụ đại lý XNK C/s thuế lý XNK+ Áp dụng thuế ưu đãi cho các dự án FDI đầu tư vào các lĩnh vực đặc biệt ưu tiên với mức thuế thu nhập 10% trong vòng 15 năm kể từ khi hoạt động; + Mức thuế thu nhập của DN 100% vốn nước ngoài không bao gồm phần bù trừ lợi nhuận của năm sau để bù cho lỗ của các năm trước; + DNFDI không được tính vào chi phí sản xuất một số khoản chi nhất định; + Thuế nhập khẩu được áp với mức giá thấp trong khung giá do Bộ Tài chính qui định; + Miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị, máy móc, vận tải chuyên dùng, nguyên liệu vật tư .. phục vụ sản xuất kinh doanh của DNFDI; +Miễn thuế nhập khẩu đối với DN đầu tư vào những lĩnh vực ưu tiên, địa bàn ưu tiên trong 5 năm đầu hoạt động; + DN xuất khẩu được miễn thuế nhập khẩu nguyên vật liệu để XK sản phẩm; + DN cung ứng sản phẩm đầu vào cho DN Xkhẩu cũng được miễn thuế nhập khẩu nguyên vật liệu trung gian với tỷ lệ tương ứng; + Bãi bỏ qui định bắt buộc DNFDI trích quĩ dự phòng; + Tiếp tục cải cách hệ thống huế, từng bước thu hẹp khoảng cách về thuế giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài Nguồn: Trích trong Nguyễn Thị Tuệ Anh et al, 2005. Những hạn chế. Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu về phát triển nông lâm nghiệp - nông thôn, trong những năm qua tồn tại rất nhiều hạn chế. 2.1.Tỷ trọng ĐTNN vào lĩnh vực này thấp, chiếm khoảng 7% và liên tục giảm qua các thời kỳ từ năm 1988 đến nay. ĐTNN vào lĩnh vực nông nghiệp có xu hướng giảm sút kể từ sau khủng hoảng tài chính châu Á và cho đến nay vẫn chưa có dấu hiện hồi phục do điều kiện đầu tư vào nông nghiệp của Việt Nam chưa thực sự hấp dẫn. Số dự án bị giải thể trước thời gian ( 30%), chuyển đổi hình thức đầu tư cao hơn so với tỷ lệ bình quân chung cả nước là 16%. Có khá nhiều dự án ĐTNN đang trong tình trạng kinh doanh thua lỗ hoặc triển khai chậm. 2.2. Chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp rất chậm. Sự lạc hậu của cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta thể hiện ở chỗ ngành trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng giá trị sản xuất của toàn ngành nông nghiệp, trong khi đó tỷ trọng ngành chăn nuôi tương đối thấp và tỷ trọng ngành dịch vụ không đáng kể. Hơn thế nữa, cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong những năm qua chuyển dịch rất chậm chạp. Tỷ trọng các ngành biến động trồi sụt theo từng năm không theo xu hướng rõ ràng. Trong vòng 15 năm qua, tỷ trọng trồng trọt chỉ dao động trong khoảng 75,4-77,9%; tỷ trọng chăn nuôi dao động trong khoảng 17,8-22,4%; và tỷ trọng dịch vụ dao động trong khoảng 2,1-2,98%. Thực tế trên đây cho thấy rằng nông nghiệp nước ta vẫn là ngành sản xuất sản phẩm thô là chính, chăn nuôi và dịch vụ chưa phát triển. Đây thực sự là một khó khăn, thách thức lớn đối với việc đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. Bởi vì cơ cấu nông nghiệp lạc hậu có thể gây cản trở đối với những động lực phát triển nội sinh của ngành; chẳng hạn, phần đông người lao động nông thôn hiện đang bị kìm hãm trong các hoạt động trồng trọt mang nặng tính thời vụ là một sự lãng phí lớn. Cơ cấu nông nghiệp lạc hậu cũng cho thấy sản xuất nông nghiệp chưa tiếp cận được với thị trường, với cơ cấu tiêu dùng, và phương thức sản xuất còn lạc hậu, chưa phù hợp với yêu cầu của nông nghiệp hàng hoá. 2.3 ĐTNN chưa phát huy được đầy đủ tiềm năng. ĐTNN chưa phát huy được những tiềm năng, cụ thể như trong trồng trọt và chế biến nông sản, mới chỉ tập trung vào việc khai thác tiềm năng, nguồn lực sẵn có về đất đai và lao động... mà chưa có nhiều dự án tạo giống cây, giống con mới và nuôi, trồng, chế biến các loại rau, quả xuất khẩu có hàm lượng kỹ thuật cao, chất lượng tốt phù hợp với điều kiện Việt Nam. Các dự án chế biến lâm sản, chế biến gỗ mới chỉ dừng lại ở mức tập trung sử dụng nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Việc khai thác, sử dụng đất đai của các dự án ĐTNN trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp chưa có hiệu quả. Nhiều dự án trồng rừng chiếm diện tích đất khá lớn, nhưng hiệu quả thực tế trên 1ha sử dụng đất còn rất thấp. 2.4. Phân bố nguồn vốn không đều giữa các địa phương. Bên cạnh tỉ lệ vốn đầu tư của nước ngoài vào trong nông nghiệp chiếm tỷ trọng thấp và có xu hướng giảm xuống trong thời gian gần đây, phân bổ nguồn vốn đầu tư nước ngoài không đồng đều giữa các địa phương. Mặc dù, ngành nông nghiệp chỉ chiếm 10,6% tổng số các dự án FDI vào Việt Nam song việc phân bổ FDI chưa đồng đều giữa các vùng, miền. Nguồn vốn ĐTNN chủ yếu tập trung vào ĐBSCL với 13% vốn đầu tư và Đông Nam Bộ với 54%, các tỉnh miền Trung. Các vùng miền núi phía Bắc và ngay cả ĐBSH chiếm tỷ trọng thấp chỉ tương ứng 4% và 5%, và Tây Nguyên. 2.5. Đối tác nước ngoài còn thiếu tính đa dạng. Đối tác nước ngoài trong lĩnh vực nông lâm nghiệp còn thiếu tính đa dạng. Hiện có 38 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư còn hiệu lực, trong đó các đối tác đầu tư lớn nhất là Đài Loan, quốc đảo Virgin, Anh, Thái Lan, Pháp... Các quốc gia đầu tư vào trong khu vực nông nghiệp nhưng chủ yếu là các quốc gia Châu á, các nước lớn đầu tư vào Việt Nam còn rất hạn chế. IV. Những nguyên nhân chính tạo nên hạn chế. 1.Hoạt động Nông nghiệp nói chung và thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này gặp nhiều rủi ro hơn lĩnh vực Nông nghiệp. Các điều kiện đất đai, thổ nhưỡng, địa hình, cơ sở hạ tầng vùng triển khai các dự án FDI trong nông, lâm nghiệp, đều không thuận lợi so với các điều kiện chung của cả nước, mà ngược lại có phần khó khăn hơn, vì phần lớn các dự án tập trung ở những vùng đất mới khai phá, nằm ở các vùng miền núi, trung du, các công trình thủy lợi chưa hoàn chỉnh. Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn chủ yếu dựa vào sản phẩm nguyên liệu thô, thời gian đầu tư và thu hồi vốn dài, chịu ảnh hưởng trực tiếp của thời tiết và thiên tai, đặc biệt là giá nguyên liệu thô trên thị trường thế giới luôn biến động bất lợi. Trong khi đó các nông sản có chất lượng tiêu dùng cao, nhãn hiệu nổi tiếng và hàm lượng giá trị gia tăng cao chưa được tạo dựng; 2. Thiếu bảo đảm về cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng nông thôn được hiểu là những phương tiện vật chất có ý nghĩa sử dụng lâu dài do hoạt động đầu tư của con người tạo ra. Nhờ cơ cơ sở hạ tầng mà các quá trình sản xuất, hoạt động kinh tế xã hội được thực hiện. Cơ sở hạ tầng nông thôn bao gồm: đường giao thông; hệ thống thuỷ nông; hệ thống cung cấp điện; hệ thống thông tin liên lạc; cơ sở y tế; trường học; hệ thống chợ. Những loại cơ sở hạ tầng này là những yếu tố quan trọng, mang tính nền tảng đối với tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo ở nông thôn vì những lý do sau: a.Tạo nền tảng, cơ hội thúc đẩy phát triển các hoạt động sản xuât kinh doanh ở nông thôn, bao gồm: nông, lâm, ngư, nghiệp; công nghiệp; thương mại và dịch vụ ở nông thôn. Nhờ có cơ sở hạ tầng tốt mà sản xuất nông lâm ngư nghiệp đạt được năng suất cao và có thể chuyển dịch được cơ cấu sản xuất theo lợi thế từng vùng; nhờ có cơ sở hạ tầng tốt mà các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp có thể phát triển b. Tạo điều kiện cần thiết để thay đổi tình trạng về đời sống, sinh hoạt của xã hội nông thôn. Cơ sở hạ tầng đóng vai trò tạo cơ sở vật chất để chuyển đổi một xã hội nông thôn truyền thống sang văn minh hiện đại. c. Là điều kiện tạo ra cầu nối và giao lưu về kinh tế-xã hội giữa nông thôn với thành thị, từ đó tạo ra sự phát triển hài hoà giữa các vùng nông thôn và giữa nông thôn với thành thị, từ đó tạo ra sự phát triển đồng đều toàn xã hội. d. Đóng vai trò quan trọng trong việc phân bổ các nguồn lực như lao động và vốn, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo trên các vùng nông thôn.  Mạng lưới đường giao thông nông thôn là một trong những hạ tầng kinh tế kỹ thuật quan trọng nhất để thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa, tiếp cận thị trường và tạo tiền đề vật chất cho xóa đói giảm nghèo. Trước đây Chính phủ cấp phát tài chính cho xây dựng đường bộ chủ yếu là các tuyến đường quốc lộ và liên tỉnh. Hệ thống đường giao thông nông thôn hiện nay chiếm tới trên 80% tổng chiều dài đường giao thông cả nước, theo số liệu điều tra 8934 xã trong cả nước của Tổng cục thống kê công bố vào năm 2003 6 thì: trên 94,5% số xã đã có đường ôtô đến trung tâm, 32,9% số xã có đường liên thôn được nhựa/bê tông, 3,1% số xã có đường liên thôn được nhựa/ bê tông hóa. Do địa bàn rộng lớn và địa hình phức tạp nhất là ở khu vực miền núi và vùng sâu, vùng xa nên việc đưa điện về nông thôn gặp vấn đề về quy hoạch lưới điện, thiếu vốn...  chất lượng điện lưới nông thôn ở một số nơi không đảm bảo, không an toàn, tổn hao điện năng lớn và người tiêu dùng cuối cùng phải chấp nhân giá điện cao.         Cả nước vẫn còn tới 3,5 triệu hộ gia đình và 16  triệu người dân nông thôn chưa tiếp cận được với hệ thống điện lưới quốc gia.  Trong sản xuất nông nghiệp hàng hóa, hệ thống hạ tầng thương mại có ý nghĩa rất lớn trong thúc đẩy sản xuất và giao lưu hàng hoá. Trong những năm vừa qua Nhà nước đã có chính sách khuyến khích phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn, nhất là chợ nông thôn ở các vùng sản xuất tập trung, vùng đông dân cư và cả ở vùng cao.  Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê tổng số xã có chợ trong cả nước chiếm 56,12%. Tỷ lệ cao nhất là Đồng bằng Sông Cửu Long- gần 72%, tiếp đó đến vùng Đông Nam Bộ - gần 70%, Duyên Hải Miền Trung - 65%, Đồng Bằng Sông Hồng- 63%, thấp nhất là vùng Tây Bắc- 28,4%. Mặc dù đã được tăng cường đầu tư, nhưng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội nông thôn như giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc, trường học, bệnh viện, nhà văn hoá,... còn kém phát triển. Hệ thống dịch vụ phục vụ sản xuất như cung ứng giống, thú y, bảo vệ thực vật, sửa chữa cơ khí, điện, tín dụng, và phục vụ đời sống như giáo dục, y tế, tư pháp, văn hoá, thể thao, còn rất thiếu và yếu. Hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại cũng chưa phát triển, cả nước vẫn còn khoảng 4.000 xã chưa có chợ, chưa hình thành được các trung tâm thương mại, thiếu hệ thống kho lạnh, xe lạnh, cầu cảng, bến bãi, thông tin thị trường,... Theo nghiên cứu mới đây của Ngân hàng thế giới, các doanh nghiệp FDI nói riêng và các doanh nghiệp khác nói chung cho biết việc xây dựng đường xá (xuyên quốc gia, tỉnh), điện là những ưu tiên quan trọng nhất nên phát triển. Tiếp theo là các dịch vụ liên quan đến viễn thông, đây cũng là các ưu tiên đối với việc cải thiện môi trường kinh doanh. Hình 4 : Các ưu tiên về cơ sở hạ tầng Nguồn : WB, 2005 3.Thiếu đảm bảo về đất đai. Trong nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt. Theo Tổng cục Địa chính, đến năm 1998, Việt Nam mới sử dụng khoảng 67.57% diện tích đất tự nhiên, bình quân đầu người là khoảng 2790 m2. Còn khoảng 10.6 triệu ha đất chưa được sử dụng (32.4%), nhưng phần lớn là đồi dốc, thiếu nước, lại bị sói mòn, thoái hoá, diện tích đất bằng có thể dùng cho trồng trọt hầu hết là đất mặn, phèn ngập úng, muốn khai thác phải có nhiều vốn. Với dân số và NNL ngày càng tăng ở nông thôn, làm cho quỹ đất của VN tính bình quân đầu người vốn đã vào loại thấp nhất thế giới lại càng ít hơn, khó khăn nhiều hơn cho việc tạo công ăn việc làm ở nông thôn. Trong thực tế, tổng diện tích đất nông nghiệp của nước ta lại dành tới 70 % để trồng lúa, nhưng hiện việc thâm canh cây lúa đã đến giới hạn trong việc thu hút thêm lao động so với các cây trổng khác, làm cho hiệu quả sử dụng không cao. Ngoài ra, hiện nay hệ số sử dụng đất bình quân cả nước là 1,4; Miền Bắc là 1,2. Hiện có 445 ngàn hộ nông dân không có đất. Một ví dụ nhỏ dưới đây sẽ cho ta thấy tình hình thiếu đất trong nông nghiệp với nhà đầu tư nước ngoài. Ông Kuniaki Baba, Giám đốc Công ty TNHH trồng rừng Quy Nhơn, kể rằng, công ty ông cần mở rộng diện tích đất trồng rừng nguyên liệu để cung cấp cho nhà máy chế biến giấy tại Nhật. Song, đã nhiều ngày qua, dự án của công ty "án binh bất động" vì không thuê được đất. Không chỉ riêng ông Kuniaki Baba, nhiều vị lãnh đạo DN đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong nông nghiệp cũng đang kêu cứu về tình trạng thiếu đất sản xuất, hoặc không thể có đất để tạo vùng nguyên liệu. Ở một Bộ chuyên về sản xuất nông nghiệp, việc thiếu đất nghe như chuyện đùa, nhưng lại hoàn toàn là sự thật. 4. Thiếu bảo đảm về nguồn nhân lực. Hiện nay, lao động nông thôn có khoảng hơn 30 triệu người, trong đó có tới hơn 80% không có chuyên môn kỹ thuật và hơn 20% không có hoặc thiếu việc làm. Tình trạng “thừa lao động, thiếu chất xám, trí thức không muốn về nông thôn làm việc” đang là một áp lực lớn đối với kinh tế nông thôn. Chất lượng thấp của nguồn nhân lực ở khu vực nông thôn thể hiện qua tỷ lệ không biết chữ là 4,79%, tốt nghiệp trung học phổ thông cơ sở là 34,59% và tốt nghiệp trung học phổ thông là 11,18%. Nếu đánh giá trình độ văn hoá bình quân theo giới tính có thể thấy số năm đi học văn hoá trung bình của khu vực nông thôn thấp hơn thành thị, của phụ nữ thấp hơn nam giới. Theo các nhà nghiên cứu, năng suất lao động sẽ tăng nếu người nông dân có trình độ học vấn ở mức độ nào đó, và nếu tốt nghiệp phổ thông, mức tăng này là 11%. Ngoài ra trình độ học vấn còn cho người lao động khả năng lĩnh hội những kiến thức, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh. Với chất lượng của NNL nông thôn Việt Nam như vậy sẽ hạn chế họ trong sản xuất và kinh doanh, đặc biệt là tự tạo việc làm. Những năm qua trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nông thôn thay đổi không đáng kể, tình trạng thu nhập thấp và thiếu việc làm ở nông thôn, trong lúc đó thu nhập cao hơn ở các đô thị đã tăng sự dịch chuyển lao động, nhất là những lao động kỹ thuật từ nông thôn tới các thành thị, và làm cho tỷ lệ lao động đã qua đào tạo giảm từ 6,91% xuống còn 5,94%. Trong số 8 vùng nông thôn, những vùng có trình độ học vấn thấp cũng chính là những vùng có tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chuyên môn thấp, vùng Tây Bắc chỉ có 2,3%, Tây Nguyên là 3,41%. Cơ cấu của lao động ở nông thôn Việt Nam thể hiện tính thuần nông. Trong tổng số 13,2 triệu hộ dân ở khu vực nông thôn năm 2001 thì có tới 81% làm việc trong lĩnh vực nông-lâm- thuỷ sản, chỉ có 16,1% làm việc ở khu vực phi nông nghiệp. So với năm 1994, sau 7 năm cơ cấu ngành nghề của các hộ và lao động nông thôn chuyển dịch rất chậm, số hộ trong khu vực nông lâm thuỷ sản giảm 0,65%, bình quân 0,092% /năm. Cơ cấu lao động nông thôn chênh lệch giữa các vùng. Trong 8 vùng của cả nước ngoại trừ vùng Đông Nam Bộ có cơ cấu ngành nghề của các hộ nông thôn khá tiến bộ: 64,2 % nông nghiệp và 35,8% còn lại là phi nông nghiệp. Các vùng Tây Nguyên và vùng núi phía Bắc cơ cấu ngành nghề của các hộ mang tính thuần nông nặng và chuyển dịch rất chậm. Tỷ lệ giữa nông nghiệp và phi nông nghiệp của Tây Nguyên là 91,1% và 7,1%, vùng Đông Bắc là 88,4% và 8,6%, Tây Bắc là 93% và 5,97%. Ngay cả hai vùng trọng điểm nông nghiệp hàng hoá là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long tuy có lợi thế gần các trung tâm công nghiệp và dịch vụ lớn, nhưng xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động cũng rất chậm và không đều. Vì vậy, lao động dư thừa lại tập trung trong ngành nông nghiệp và khả năng tạo thêm việc làm từ đây là rất khó, vì thế chuyển dịch cơ cấu sẽ là yêu cầu cấp bách trong thời gian tới. NSLĐ trong nông nghiệp là chỉ tiêu chất lượng phản ánh trình độ sử dụng lao động trong lĩnh vực này, gia tăng NSLĐ là điều kiện cho phép thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông nghiệp, nông thôn. NSLĐ nông nghiệp thấp còn vì lao động ở đây chủ yếu vẫn là lao động thủ công. Khâu làm đất là khâu nặng nhọc nhất thì quá trình cơ giới hoá (CGH) diễn ra chậm, nếu năm 1990 tỷ lệ cơ giới hoá là 21%, năm 1995 là 26% và năm 2002 là khoảng 30%. Một số khâu khác như vận chuyển, ra hạt, bơm tát nước tỷ lệ CGH có sự cải thiện, như khâu ra hạt hiện đã được CGH 80%. Tuy nhiên, việc CGH trong nông nghiệp gặp những khó khăn nhất định, thứ nhất, quy mô ruộng đất vốn nhỏ lẻ, với bình quân ruộng đất ở đồng bằng sông Hồng chỉ có 544m2, và miền Trung là 611m2, lại manh mún tạo việc sử dụng máy móc cơ khí khó khăn và chi phí cao. Thứ hai, do chăn nuôi gia súc như trâu bò nhiều lên làm cho nhu cầu sức kéo giảm. Thứ ba, yêu cầu hiện đại hoá mâu thuẫn với tình trạng lao động dư thừa, nếu 1 ha đất làm thủ công cần 300 ngày công lao động sống, khi là máy chỉ còn sử dụng 50 ngày công. Các cuộc điều tra lao động đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đều cho thấy đa số các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt nam phải đào tạo lại hoặc đào tạo thêm cho các lao động để họ biết sử dụng các thiết bị, vận hành dây chuyền sản xuất..” Năm 2004 trình độ lao động trong các khu công nghiệp bao gồm: 4,5% số lao động có trình độ đại học; 4,5% có trình độ kỹ thuật viên, 31% có trình độ đã qua đào tạo, 60% có trình độ lao động giản đơn”. Như vậy lao động giản đơn vẫn còn rất phổ biến trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tổ chức Nghiên cứu rủi ro Môi trường Kinh doanh (BERI) đánh giá chất lượng lao động Việt nam chỉ đạt 32/100 điểm và xếp vào nhóm yếu kém, tay nghề nằm dưới mức về kỹ thuật. Hơn nữa, những nền kinh tế được đánh giá có chất lượng dưới 35 điểm có nguy cơ đánh mất khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Như vậy, lao động rẻ nước ta sẽ không còn là yếu tố cạnh tranh trong nền kinh tế mới. Nguyên nhân của tình trạng này là do nhiều trường dạy nghề của Việt Nam chưa đảm bảo chất lượng, học sinh, sinh viên thiếu điều kiện tiếp xúc với thực hành công nghệ mới và công nghệ cao. Hơn nữa số trường đào tạo nghề cũng không nhiều, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu về cung ứng lao động cả về chất lượng cũng như số lượng. 6. Nông nghiệp Việt Nam mang nặng tính sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp, phân tán thiếu chuyên môn. Một trong những cản trở lớn đối với CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn nước ta trong nhiều năm qua là tính chất nhỏ lẻ, phân tán của sản xuất hàng hoá. Mặc dù nước ta đã bước đầu hình thành một số vùng sản xuất hàng hoá tập trung quy mô lớn, nhưng chúng chưa thể tạo ra được sự thay đổi căn bản về tính chất sản xuất của cả nền nông nghiệp. Hiện nay, chỉ có các vùng chuyên canh lúa, cao su, cà phê và chè là tương đối ổn định, trong khi đó các vùng chuyên canh khác mới đang trong quá trình hình thành, ít về số lượng, nhỏ về quy mô và chưa ổn định. Các vùng cây ăn quả, chăn nuôi gia súc, gia cầm chủ yếu phát triển dựa trên cơ sở các vùng truyền thống, thiếu sự tác động tích cực của khoa học và công nghệ, trình độ cơ giới hoá thấp, và luôn gặp khó khăn về thị trường. Trong khi đó, công tác quy hoạch phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung lại rất yếu kém. Hàng loạt các quy hoạch sai về sản xuất mía đường, cà phê, nuôi cá lồng bè, đã gây ra những hậu quả tiêu cực không nhỏ. Tính chất nhỏ lẻ cũng thể hiện rõ ở quy mô của các chủ thể sản xuất, kinh doanh trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Mặc dù các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh ngày càng được đa dạng hoá do tác động của chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, song số chủ thể là các hộ nông dân vẫn chiếm đa số. 7. Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách thu hút FDI còn nhiều bất cập, chưa thật sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Hiện nay, các chính sách thu hút đầu tư trong nông nghiệp của Việt Nam còn chưa thực sự hấp dẫn được các nhà kinh doanh từ các quốc gia khác. Một sự so sánh về một số quy định, chính sách giữa các quốc gia có thể cho thấy minh chứng rõ hơn về vấn đề này Bảng 4: Chính sách thu hút FDI của một số quốc gia Tên nước Loại hình công ty và lĩnh vực hoạt động Qui định về cấp phép đầu tư Tiếp cận về đất đai Chính sách tỉ giá hối đoái và quản lý ngoại tệ Việt Nam Mở rộng quyền cho DN tự lựa chọn hình thức đầu tư, cho phép doanh nghiệp 100% vốn FDI, trừ một số lĩnh vực quan trọng và nhạy cảm; doanh nghiệp FDI được chuyển đổi sang công ty cổ phần, được tự do lựa chọn đối tác đầu tư. Một số lĩnh vực chỉ cần đăng ký đầu tư,còn lại vẫn phải xin phép đầu tư. phân cấp cho địa phương, khu công nghiệp cấp phép đói với dự án vừa và nhỏ DN không được sở hữu đất, được thuê đất trong khu CN hay thuê mặt bằng kinh doanh theo qui hoạch, được chuyển nhượng, thế chấp vay vốn Kiểm soát tài khoản vãng lai, áp dụng phí/thuế chuyển tiền ra nước ngoài; yêu cầu xin phép khi chuyển tiền ra nứơc ngoài. Trung Quốc DN 100% vốn FDI phải xin phép chỉ ở trong lĩnh vực định hướng xuất khẩu, một số lĩnh vực qui định mức % đầu tư tối thiểu trong nước, DN FDI được chuyển đổi hình thức đầu tư, nhà đầu tư tự do lựa chọn hình thức đầu tư Yêu cầu có giấy phép đầu tư, phân cấp cho địa phương xét dự án quy mô nhỏ và vừa không cho phép sở hữu đất, nhà đầu tư gặp khó khăn về địa điểm, đất đai, quyền sử dụng đất đựơc chuyển nhượng, thế chấp vay vốn. không hạn chế mức chuyển ngoại tệ, vẫn duy trì chính sách kiểm soát tài khoản vãng lai; chuyển tiền ra nước ngoài phải được phép Philippin cho phép DN có 100% vốn FDI rộng rãi ở nhiều lĩnh vực, chỉ hạn chế tỷ lệ tối đa vốn FDI một vài lĩnh vực, nhà đầu tư lựa chọn đối tác trong nước. Chỉ yêu cầu giấy phép nếu muốn hưởng chính sách khuyến khích (trong 3 tuần), còn lại thủ tục đầu tư thực hiện giống như các nhà đầu tư khác ( chỉ phaỉ đăng ký). DN FDI có trên 40% vốn nước ngoài không được sở hữu đất, mà phải thuê từ công ty bất động sản, FDI có dưói 40% vốn nước ngoài được thuê đất trong 50 năm Chế độ quản lý ngoại tệ tự do, không hạn chế vốn vay ngoại tệ, mức chuyển ngoại tệ, không định mức lưu ngoại tệ trong tài khoản của DN Thái lan Không hạn chế DN FDI đầu tư vào các lĩnh vực, và DN tự lựa chọn hình thức đầu tư, trừ một số rất ít lĩnh vực cấm hay hạn chế FDI Chỉ yêu cầu giấy phép nếu muốn hưởng chính sách khuyến khích. Nhà đầu tư chỉ phải đăng ký với Bộ thương mại và Cục thuế. DN FDI được thuê đất 50 năm, sau đó thời hạn tự động kéo dài khi hết hạn, hợp đồng thuê được dùng để thế chấp vay vốn Chế độ tự do ngoại hối, không hạn chế vay ngoại tệ, chuyển ngoại tệ, lưu ngoại tệ tại tài khoản của DN Hàn Quốc Lúc đầu rất khắt khe, nhưng đã thay đổi. Về cơ bản không hạn chế FDI trừ một số ngành công nghiệp nhạy cảm. Nhà đầu tư có thể sở hữu tới 33% vốn của DNNN; được tự do lựa chọn đối tác trong nước. Trình tự thủ tục khá phức tạp nhưng đã được cải thiện nhiều sau khi xảy ra khủng hoảng tiền tệ khu vực. DN FDI được thuê đất sở hữu nhà nước trong 50 năm, có thể dùng quyền sử dụng đất để thế chấp vay NH. Tuy nhiên, điều kiện thuận lợi để tiếp cận đất đai vẫn được ưu tiên hơn cho các liên doanh với DN trong nước Chế độ tự do ngoại hối không hạn chế, vay ngoại tệ, chuyển ngoại tệ, lưu ngoại tệ tại tài khoản của DN Indonexia một số ít lĩnh vực cấm DN 100% vốn FDI, tuy nhiên nhà đầu tư được tự do lựa chọn hình thức đầu tư và lĩnh vực đầu tư, trừ một số ít ngành nhạy cảm Qui trình phức tạp, tình trạng tham nhũng phổ biến trong quá trình cấp phép ĐT, đòi hỏi sự đồng ý của tổng thống nếu dự án trên 100 triệu USD. còn nhiều loại giấy phép sau khi doanh nghiệp đã được cấp phép đầu tư DN FDI có thể đầu tư vào khu CN để được dế dàng thuê đất, nhưng không dễ; phần lớn là thuê đất trong 30 năm. Quyền sử dụng đất được chuyển đổi, thế chấp để vay vốn Không có hạn chế đáng kể gì về chế độ ngoại hối Malaixia chỉ cho phép DN 100% vốn FDI đối với dự án định hướng XK, còn hạn chế đối với các lĩnh vực khác Mọi dự án FDI đều phải xin phép (thời hạn 6-8 tuần). Đối với một số dự án đòi hỏi thời gian xem xét dài hơn DN FDI có thể lựa chọn mua hay thuê đất trong 99 năm, có thể chuyển đổi, thế chấp để vay vốn Sau khủng hoảng tài chính, đã áp dụng chế độ thu thuế chuyển tiền ra nước ngoài. Hungary Không hạn chế gì đối với hình thức và loại hình DN FDI Không yêu cầu giấy phép, trừ đối với một số lĩnh vực Có thể mua và sở hữu đất Chế độ tự do ngoại hối, đồng tiền chuyển đổi. Balan Không hạn chế gì đối với hình thức và loại Không yêu cầu giấy phép, trừ đối với một Có thể mua và sở hữu đất, tuy Chế độ tự do ngoại hối, đồng tiền chuyển Trong các quốc gia trên thế giới, Nam Phi, Mexico, Mỹ, Anh, CH Czech và các nước trong khu vực Châu á là Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan là những nước được nhóm nghiên cứu của Hợp tác Kinh tế Châu á Thái Bình Dương đánh giá là hấp dẫn FDI nhất. 8. Công tác vận động, xúc tiến đầu tư nước ngoài kém hiệu quả. Không chỉ trong lĩnh vực nông nghiệp có tình trạng này mà FDI trong các ngành đều có tình trạng chung như vậy. Cuộc cạnh tranh để thu hút vốn FDI giữa các nước trong khu vực đang diễn ra rất quyết liệt; dòng vốn FDI không phải dễ dàng thu hút được; các TNC đang hướng vào những quốc gia có môi trường đầu tư lý tưởng nhất. Do vậy, xúc tiến đầu tư là một công cụ quan trọng để thu hút FDI. Ở Việt Nam, từ năm 2001 trở lại đây, công tác vận động, xúc tiến đầu tư tiếp tục được cải tiến và hình ảnh của Việt Nam đã được quảng bá qua các cuộc hội thảo quốc tế, các chuyến thăm và làm việc của các lãnh đạo cấp cao của Đảng, Chính phủ ở nhiều nước như Nhật Bản, Trung Quốc, Anh, Pháp, Mỹ, Đức. Việc gắn chặt các hoạt động ngoại giao với hoạt động xúc tiến đầu tư đã có tác động tích cực đối với việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế trong công tác xúc tiến đầu tư. Công tác tuyên truyền, quảng bá về hình ảnh của một đất nước Việt Nam, nơi có chính trị-xã hội ổn định và môi trường đầu tư tương đối thuận lợi, lại rất yếu kém. Chẳng hạn như kênh truyền hình VTV4 dành cho người Việt ở nước ngoài không có chuyên mục về cơ hội đầu tư hay những thông tin liên quan đến kêu gọi đầu tư. Điều này cũng gây hạn chế nhiều về cơ hội đầu tư của Việt kiều. Tại các địa phương, vấn đề thu hút đầu tư nước ngoài cũng rất được coi trọng nhưng lại xem nhẹ công tác tuyên truyền, quảng bá về môi trường đầu tư nên số lượng đầu tư vào Việt Nam không được như mong muốn, số lượng các tập đoàn, các công ty có tiếng trên thế giới xuất hiện ở Việt Nam chưa nhiều. Tất nhiên xúc tiến đầu tư không đơn giản chỉ là các hoạt động tuyên truyền, quảng bá việc mở rộng thị trường nội địa cho các nhà đầu tư nước ngoài; mà là hệ thống các biện pháp tiếp thị tổng hợp của chiến lược quốc gia về sản phẩm, về giá cả, về môi trường đầu tư để thu hút FDI từ các thị trường và đối tác khác nhau. Việc xúc tiến đầu tư không hiệu quả là do những nguyên nhân chủ yếu như các thông tin được trình bày trong các tài liệu về xúc tiến đầu tư không bao quát được nhu cầu mà nhà đầu tư cần biết, như cơ sở hạ tầng và các chi phí, lao động và giá cả, các tiện ích có sẵn và khả năng tiếp cận một thị trường đầy tiềm năng ; chất lượng của các trang thông tin điện tử kể cả của Bộ Kế hoạch và Đầu tư nói chung là thấp và không được cập nhật thông tin đầy đủ ; các hoạt động xúc tiến đầu tư thường kết hợp với các đoàn ra công tác ở nước ngoài, hoặc được tổ chức Hội thảo tại các thành phố lớn trong nước do lãnh đạo chính quyền tỉnh, thành phố chủ trì, chưa trở thành một hoạt động thường xuyên do các cơ quan chuyên trách thực hiện. Sau khi tiến hành xúc tiến đầu tư cũng chưa tổ chức theo dõi để đánh giá kết quả ; trong một số trường hợp, Hội thảo về xúc tiến đầu tư mang nặng tính hình thức, chỉ để tuyên truyền, quảng bá tiềm năng và thế mạnh của từng địa phương. Một số nguyên nhân khác như Chưa hình thành một cơ chế gắn kết thường xuyên giữa Bộ và địa phương (Tỉnh) để chọn lựa giới thiệu với các nhà đầu tư nước ngoài các dự án FDI ưu tiên trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn; Cần có chính sách thu hút đầu tư mạnh hơn nữa vào công nghệ chế biến nông lâm sản, bảo quản sau thu hoạch, tạo cây, con giống có chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu; Các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn chưa đủ năng lực để chủ động kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài theo ý đồ chiến lược phát triển sản phẩm và thị trường của riêng mình. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG ĐTNN TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP. I. Mục tiêu. Thu hút và sử dụng có hiệu quả ĐTNN là giải pháp quan trọng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Định hướng thu hút ĐTNN trong ngành NN và phát triển nông thôn. Bảo đảm phù hợp với qui hoạch và cơ cấu kinh tế ngành, vùng, lãnh thổ, qui hoạch vùng nguyên liệu. Tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Sử dụng có hiệu quả nguyên liệu địa phương và tạo thêm công ăn việc làm cho nông dân. Có tính khả thi cao, nhất là về địa điểm thực hiện thị trường tiêu thụ sản phẩm nguồn cung cấp nguyên liệu. Kết hợp các dự án có quy mô tương đối lớn, có tác động quan trọng đến nền kinh tế với nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng với các dự án có quy mô vừa ở các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn để đảm bảo cơ cấu kinh tế vùng, ngành. Các ngành hàng/sản phẩm cần thu hút ĐTNN : Ngành trồng trọt và chế biến nông sản: Ngành chăn nuôi và chế biến các sản phẩm chăn nuôi Ngành trồng rừng - chế biến gỗ: II. Kế hoạch phát triển NN và NT thời kỳ 2006- 2010 và kế hoạch thu hút sử dụng FDI đến năm 2010 và những năm tiếp theo 1. Kế hoạch phát triển nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2006 - 2010. 1.1. Về sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Phấn đấu đạt chỉ tiêu tăng giá trị sản xuất nông nghiệp hàng năm 4 - 4,5%. Hoàn chỉnh quy hoạch các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ, đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Phát triển mạnh các loại sản phẩm có lợi thế, có tiềm năng và có thị trường tiêu thụ. Tiếp tục chuyển một phần diện tích trồng lúa và các cây trồng có năng suất thấp, thị trường khó khăn sang nuôi trồng thủy sản với các cây trồng khác nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao hơn. Quy hoạch xây dựng các vùng rừng nguyên liệu gắn với các cơ sở chế biến bột giấy, giấy, ván nhân tạo, gỗ gia dụng... áp dụng phương thức quản lý rừng bền vững tạo lâm phần ổn định lâu dài. Đẩy nhanh tiến độ trồng rừng kinh tế hiệu quả cao. Tiếp tục triển khai việc tăng cường các biện pháp bảo vệ rừng hiện có. Đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ( CNH - HĐH ) ngành muối, nhân rộng mô hình sản xuất muối sạch, tạo ra năng suất, chất lượng cao, tiến tới không nhập khẩu muối nguyên liệu công nghiệp. Có kế hoạch về các biện pháp phòng, chống thiên tai như lũ lụt, hạn hán, cháy rừng... 1.2. Về phát triển công nghiệp nông thôn: Tập trung phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản vào những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, có thế mạnh cạnh tranh quốc tế như: gạo, cà phê, cao su, chè, hạt điều, và một số loại rau quả, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng không thấp hơn 12%/năm. Đối với chế biến lâm sản, tập trung đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ ở các cơ sở hiện có, khuyến khích xây dựng mới một số máy chế biến lâm sản có giá trị tăng cao. Tạo điều kiện với hỗ trợ các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ và phát triển cơ sở chế biến lâm đặc sản, nhựa thông, cánh kiến, quế hồi. Có chính sách hỗ trợ tích cực để phát triển các làng nghề, khuyến khích các hộ gia đình, tư nhân hợp tác xã, doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư phát triển đa dạng các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và tham gia dịch vụ chế biến, dịch vụ tiêu thụ sản phẩm sau thu hoạch... Thực hiện xã hội hóa dịch vụ ở nông thôn, thu hút sự tham gia của mọi thành phần kinh tế. 1.3. Về phát triển nông thôn: Tiếp tục triển khai thực hiện các biện pháp đặc biệt hỗ trợ cho các vùng nông thôn còn nhiều khó khăn, thực hiện các chương trình xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, các chương trình 135, nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; lồng ghép các chương trình trên từng địa bàn để đạt hiệu quả cao hơn. Tiếp tục huy động các nguồn vốn để đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn; ưu tięn các công trình có hiệu quả thiết thực phục vụ sản xuất và đời sống của nông dân.... 1.4. Về khoa học công nghệ và đào tạo: Xây dựng hệ thống nghiên cứu khoa học công nghệ nông nghiệp mạnh và đồng bộ đủ khả năng tiếp thu, làm chủ khoa học công nghệ hiện đại, tạo ra ngày càng nhiều các tiến bộ kỹ thuật có chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Đồng thời, đổi mới cơ chế quản lý khoa học, gắn khoa học với sản xuất. Trong 5 năm tới việc nghiên cứu khoa học nông nghiệp cần tập trung vào chọn tạo các giống cây, con có năng suất, chất lượng cao phù hợp với các vùng; các biện pháp thâm canh cây trồng, nuôi dưỡng gia súc, công nghệ sau thu hoạch, những vấn đề kinh tế, quản lý trong cơ chế thị trường. Tăng cường hệ thống khuyến nông, lấy đây làm động lực để đẩy mạnh việc ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ mới. Mỗi Viện, Trường phải xây dựng điểm trình diễn công nghệ mới, công nghệ cao. Với các trường hướng vào nội dung phát triển nguồn nhân lực cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Đa dạng hóa đối tượng đào tạo, ưu tiên đào tạo nghề cho lao động nông thôn; nghiệp vụ quản lý cho cán bộ HTX, chủ trang trại, chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn. Tăng cường công tác thú y, bảo vệ thực vật, hệ thống quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp; kiểm soát chặt chẽ việc sản xuất, kinh doanh và sử dụng hóa chất, thuốc trừ sâu, thuốc thú y và phân bón. 1.5. Tăng cường công tác thị trường tiêu thụ nông sản trên cơ sở hội nhập kinh tế quốc tế: Chú trọng mở rộng thị trường nội địa, nhất lŕ thị trường nông thôn, miền núi, tạo mối liên kết chặt chẽ giữa các vùng trong cả nước. Tổ chức các hội chợ, triển lãm, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, chắp nối bạn hàng và đối tác kinh doanh, thúc đẩy lưu thông hàng hóa trong nước. Tạo điều kiện thuận lợi với khuyến khích thương mại tư nhân cùng HTX tạo thành mạng lưới đại lý tiêu thụ chủ yếu và là đối tác cơ bản ký kết hợp đồng với doanh nghiệp trong việc tiêu thụ nông sản, cung ứng vật tư nông nghiệp và hàng hóa tiêu dùng trên địa bàn nông thôn. Tập trung triển khai các cam kết với ASEAN trong lĩnh vực nông nghiệp, nhất là an ninh lương thực, xúc tiến thương mại, thú y, bảo vệ thực vật, lâm nghiệp, thực hiện các cam kết với WTO về nông nghiệp, kiểm dịch động thực vật, thú y với các nước nhập khẩu nông sản của Việt Nam. Hỗ trợ với hướng dẫn các doanh nghiệp mở rộng thị trường xuất khẩu nông lâm sản, tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng với quản lý chất lượng nông sản hàng hóa, hướng dẫn các doanh nghiệp đăng ký với bảo vệ thương hiệu hàng hóa. Tăng cường công tác thông tin và dự báo thị trường để đáp ứng yêu cầu định hướng đầu tư với phát triển sản xuất của các doanh nghiệp, nông dân. 1.6. Định hướng đầu tư xây dựng cơ bản với quản lý đầu tư: Trong 5 năm tới, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách với các nguồn khác vẫn còn nhiều khó khăn. Vì vậy, kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản 5 năm 2006 - 2010 phải được tiếp tục điều chỉnh theo hướng đầu tư có trọng tâm, trọng điểm. Hướng đầu tư vẫn tiếp tục ưu tiên cho các chương trình, dự án chọn tạo, nhân giống cây tồng, vật nuôi, giống cây lâm nghiệp; nâng cấp các cơ sở nghiên cứu khoa học, các trường đào tạo, các dự án ĐCĐC, Chương trình 135, Chương trình nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn, Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng. Bố trí đủ vốn đối ứng cho các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, hỗ trợ xuất khẩu, hỗ trợ các hoạt động xúc tiến thương mại, těm kiếm mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng cường công tác thông tin thị trường. Về thủy lợi, ưu tiên bố trí vốn đầu tư để tu bổ các hệ thống đê, các công trình có thể sớm hoàn thành và đi vào sử dụng sẽ có hiệu quả cao. Tiếp tục chấn chỉnh quản lý đầu tư và xây dựng bằng nguồn vốn Nhà nước, bảo đảm kỷ cương trong công tác xây dựng và thực hiện quy hoạch; làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá đầu tư trong phạm vi Ngành ở tất cả các cấp, các đơn vị, kịp thời phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm quy định về quản lý đầu tư. 2. Kế hoạch thu hút sử dụng FDI đến năm 2010. Dự thảo Kế hoạch Nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2006 – 2010 đã xác định, kế hoạch huy động vốn đầu tư phát triển của toàn ngày là 144.790 tỷ đồng, trong đó, vốn ĐTNN chiếm tỉ lệ 11% nhằm góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá mạnh, đa dạng và bền vững. 3. Khuyến nghị về chính sách. Qua nghiên cứu, một số nhóm chính sách sau được đưa ra nhằm nâng cao hiệu quả thu hút ĐTNN trong ngành : - Nhóm giải pháp thứ nhất: Nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng ngành/sản phẩm theo hướng gắn kết với mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển đặt ra trong Kế hoạch phát triển nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2006-2010 cũng như Chiến lược thu hút, sử dụng ĐTNN đến năm 2010 và những năm tiếp theo. Căn cứ các quy hoạch nói trên, các ngành, địa phương cần xây dựng các Danh mục dự án ưu tiên gọi vốn ĐTNN với các thông tin cụ thể về mục tiêu, địa điểm, công suất và đối tác Việt Nam để làm cơ sở cho việc tổ chức các chương trình vận động đầu tư.  Cần xác định lĩnh vực ưu tiên Với những vấn đề trên, mục tiêu huy động 1, 5 tỷ USD vốn FDI cho nông -lâm -ngư nghiệp giai đoạn 2006-2010 xem ra khó đạt nếu không sớm tìm ra những giải pháp kịp thời. ông Lê Hồng Thái, Vụ trưởng Vụ Kinh tế Nông nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho rằng: “Để đạt được mục tiêu này, ngoài việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực, chúng ta phải xác định lĩnh vực ưu tiên thu hút vốn FDI”. Cụ thể, nguồn vốn ngân sách, vốn viện trợ phát triển (ODA) sẽ được tập trung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, triển khai các dự án đào tạo nghề cho nông dân, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao trình độ của lao động nông nghiệp, chất lượng, sản lượng của nguồn nguyên liệu nông sản trước khi chế biến, xuất khẩu. Còn các doanh nghiệp FDI được khuyến khích đầu tư chủ yếu vào ngành chế biến nông lâm sản, trồng rừng - chế biến gỗ, chăn nuôi - sản xuất thức ăn gia súc. Đây được coi là những điểm đột phá nhằm nâng cao giá trị xuất khẩu của nông sản Việt Nam, giảm dần tình trạng xuất thô và tạo lực đẩy cho việc phát triển các vùng sản xuất nông, lâm sản quy mô lớn với chất lượng cao. Ngành còn chú trọng kêu gọi FDI đầu tư vào các dự án phát triển công nghệ sinh học trong nông nghiệp, lai tạo giống cây trồng, vật nuôi mới, trồng chế biến các loại rau, quả xuất khẩu bằng công nghệ kỹ thuật cao để mặt hàng nông sản Việt Nam có thương hiệu trên thị trường quốc tế, mang lại hiệu quả kinh tế cao, là một trong những mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu lớn nhất. - Nhóm giải pháp thứ hai: Hoàn thiện cơ chế, chính sách về khuyến khích ĐTNN, Cần đưa các hành động thu hút FDI vào chiến lược kế hoạch 5 năm của ngành. Cụ thể, các đơn vị của bộ, các sở, tổng công ty cùng tham gia xây dựng các dự án trọng điểm; phát triển hệ thống quản lý FDI trong ngành, bao gồm cả cơ chế hình thành danh mục ưu tiên thu hút FDI và hệ thống hỗ trợ xúc tiến đầu tư, trong đó cần xây dựng hệ thống tổ chức, xây dựng thể chế, quy trình công tác, tăng cường năng lực vận hành. Hay nói cách khác, ngành nông nghiệp cần đổi mới chính mình để nhà đầu tư có thể nhìn thấy tiềm năng. Để cải thiện môi trường đầu tư, tạo sự thuận lợi cho các nhà đầu tư tiếp cận rộng rãi hơn với các cơ hội đầu tư và thị trường hàng hóa và dịch vụ , tạo sự thuận lợi, minh bạch, an toàn và bình đẳng cho các nhà đầu tư. Nâng cao hiệu quả quản lý và điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực FDI theo hướng tiếp tục cải tiến thủ tục cấp giấy phép, khắc phục sự trì trệ trong các cơ quan quản lý Nhà nước, đơn giản hóa thủ tục hành chính theo nguyên tắc “một cửa, một đầu mối”. Thực hiện phân cấp quản lý Nhà nước về FDI cho các địa phương trên cơ sở bảo đảm thống nhất về quy hoạch, chính sách và cơ chế quản lý. Chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư; hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động thu hút FDI, như xây dựng hệ thống pháp luật hấp dẫn, có tính cạnh tranh cao, hoàn thiện hệ thống pháp lý chung về kinh tế để tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng. Thực hiện đa dạng hóa các hình thức hoạt động FDI, đẩy mạnh việc thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp FDI. Chính sách phát triển thị trường vốn và tín dụng đầu tư; Chính sách thương mại và thị trường; hoàn thiện và triển khai có hiệu quả các chính sách về thuế và ưu đãi tài chính, chính sách về cơ cấu đầu tư, chính sách đất đai. Tiếp tục thực hiện việc giảm chi phí đầu tư, điều chỉnh giá các loại hàng hóa dịch vụ như viễn thông, vận tải... thực hiện miễn, giảm tiền thuê đất trong một số năm để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư sản xuất kinh doanh. Chính sách phát triển nguồn nguyên liệu; nguồn nhân lực: , tập trung các nguồn lực tăng cường năng lực đào tạo của hệ thống cơ sở đào tạo. Đẩy mạnh đào tạo ở tất cả các cấp: sau đại học, đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, trong đó chú trọng đào tạo nghề ngắn hạn cho nông dân.     Các địa phương khi xem xét, phê duỵệt dự án ĐTNN cần có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực cụ thể.     Ngoài ra, ngành sẽ tiếp tục củng cố và hoàn thiện việc đào tạo các ngành nghề truyền thống trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn: trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản Các ngành nghề phi nông nghiệp, đặc biệt là các ngành nghề phục vụ cho ĐTNN như: chế biến nông, lâm, thuỷ hải sản, cơ điện nhỏ, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ nông nghiệp sẽ có chương trình đào tạo bám sát các định hướng ĐTNN. Đặc biệt, các hộ nghèo, hộ phải chuyển đổi mục đích sử dụng đất cho ĐTNN cũng được ưu tiên, bố trí học nghề.      Chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, thực hành tiên tiến, đồng thời đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giáo viên giỏi, có khả năng nắm bắt nhanh tiến bộ khoa học công nghệ và có năng lực chuyển tải kiến thức tới người học. - Nhóm giải pháp thứ ba: Tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác vận động, xúc tiến ĐTNN theo hướng: · Coi việc hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi để triển khai có hiệu quả các dự án ĐTNN đã được cấp Giấy phép đầu tư là biện pháp tốt nhất để xây dựng hình ảnh, nâng cao sự hiểu biết của nhà đầu tư nước ngoài về sức hấp dẫn và cạnh tranh của ĐTNN trong lĩnh vực NLN-NT ở Việt Nam; · Nhanh chóng xây dựng kế hoạch và chương trình vận động đầu tư cụ thể ở trong nước và ngoài nước, tập trung vào các các ngành /dự án và đối tác đầu tư trọng điểm cần thu hút ĐTNN; · Bố trí đủ ngân sách cho hoạt động xúc tiến đầu tư như một khoản chi riêng thuộc kinh phí ngân sách chi thường xuyên hàng năm của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn; · Xem xét xây dựng Quỹ xúc tiến đầu tư trong lĩnh vực này trên cơ sở ngân sách Nhà nước cấp (trích từ nguồn thu của khu vực ĐTNN), kết hợp với huy động đóng góp của các tổ chức, doanh nghiệp; · Triển khai nghiên cứu tiềm năng đầu tư của các nước /vùng lãnh thổ đầu tư vào lĩnh vực này để có chính sách, cơ chế vận động thích hợp; · Đổi mới và nâng cao chất lượng các ấn phẩm tuyên truyền ĐTNN nói chung và đầu tư trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp nói riêng (bao gồm Sách hướng dẫn đầu tư, Danh mục dự án gọi vốn ĐTNN....) nhằm tạo sức hấp dẫn ban đầu của nhà đầu tư nước ngoài. Những giải pháp này cần được thực hiện thường xuyên, liên tục và cần đặt trong tổng thể chính sách phát triển NLN&NT nói chung. Tuy nhiên, trong thời gian trước mắt, cần thực hiện ngay các bước tiếp theo dưới đây: · Rà soát và hoàn thiện quy hoạch từng ngành/sản phẩm; · Hoàn thiện Danh mục và Tóm tắt dự án gọi vốn ĐTNN · Bố trí ngân sách cho hoạt động xúc tiến đầu tư; · Nghiên cứu tiềm năng đầu tư của các nước /vùng lãnh thổ; · Tổ chức các chương trình vận động đầu tư ở nước ngoài; · Soạn thảo các tài liệu, ấn phẩm tuyên truyền đầu tư trong lĩnh vực NLN-NT. KẾT LUẬN Dự thảo Kế hoạch Nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2006 – 2010 đã xác định, kế hoạch huy động vốn đầu tư phát triển của toàn ngày là 144.790 tỷ đồng, trong đó, vốn ĐTNN chiếm tỉ lệ 11% nhằm góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá mạnh, đa dạng và bền vững. Với các giải pháp đồng bộ, tổng thể, cùng với những định hướng chính sách đúng đắn của Nhà nước, có lẽ mục tiêu 11% sẽ không quá khó để đạt được. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH. ------------------------------------ 1. Tổng quan các nghiên cứu về môi trường đầu tư nông thôn Việt Nam, tháng 11/2005( Bộ NN và PTNT- viện chính sách chiến lược NT và PTNT). 2. Bản tổng hợp khuyến nghị chính sách ( PAB) số 4 , tác giả Trần Hào Hùng tháng 10/ 2006. 3.Bộ Kế hoạch và Đầu tư, dự thảo Báo cáo kế hoạch phát triển nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2006-2010, Hà Nội, tháng 1/ 2005. 4.Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các báo cáo về ĐTNN trong ngành trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông, lâm, thuỷ sản, Hà NộI, tháng 7/2005. 5.Bộ Kế hoạch và Đầu tư, dự thảo chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, Hà NộI, tháng 11/2004. 6. Những chủ trương và biện pháp mới trong giai đoạn 2006 - 2010 về công nghiệp hóa , hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. ( CIEM). 7. ĐTTT nước ngoài trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp hiện nay, thực trạng và những vấn đề đặt ra. (Con sô và sự kiện tháng 3/2004). Một số trang báo điện tử khác. Trang web của bộ kế hoạch đầu tư: mpi.gov.vn/ Bộ NN và PTNT: www.agroviet.gov.vn/ Tổng cục thống kê : www. gso.gov.vn/ MỤC LỤC t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3478.doc
Tài liệu liên quan