Đề tài Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý về đất đai Việt Nam

Chỉ đạo đẩy nhanh công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (CGCNQSDĐ). Tính đến ngày 31/12/1999 trên toàn quốc đã cấp được 10.294.766 hộ sử dụng đất nông nghiệp đạt tỷ lệ 87,57%; Về diện tích đạt 5.779.066 ha bằng 80,77%. Hiện nay đang chỉ đại đẩy nhanh tiến độ CGCNQSDĐ lâm nghiệp và đất đô thị. - Công tác xây dựng hồ sơ Địa chính lưu trữ tư liệu Địa chính dần dần đi vào nề nếp. Hiện nay trên toàn bộ 61 tỉnh, thành đã xây dựng xong Trung tâm thông tin Lưu trữ tư liệu Địa chính. - Tập trung chỉ đạo giải quyết những tranh chấp đất đai, những khiếu nại tố cáo về đất đai một cách kịp thời, có hiệu quả đã giúp cho chính quyền các cấp đưa công tác quản lý đất đai theo đúng pháp luật, hạn chế được số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo, những điểm nóng và giảm bớt những thủ tục phiền hà cho người dân. - Về công tác đo đạc - bản đồ: + Đã hoàn thành xây dựng điểm toạ độ gốc quốc gia Hà Nội, xây dựng lưới toạ độ cấo “O” phủ trùm toàn quốc. Đang trình Chính phủ phê duyệt hệ quy chiếu và hệ toạ độ quốc gia. + Xây dựng hệ thống bản đồ địa hình, bản đồ địa chính các tỷ lệ phục vụ các ngành và các địa phương; Hoàn thành sản xuất bộ Atlas quốc gia, bản đồ hành chính quốc gia, bản đồ hiện trạng sử dụng đất đai toàn quốc. + Hoàn thành xây dựng bộ bản bản đồ địa giới hành chính các cấp theo chỉ thị 364/CT của Thủ tướng Chính phủ. + Xây dựng các loại bản đồ phục vụ phân vạch, quản lý biên giới quốc gia.

doc91 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1150 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý về đất đai Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bởi người khác qua các kỳ bầu cử HĐND của xã vì thế mà khó có thể phấn đấu trở thành Đảng viên được. Do đó, trong thời gian tới để công tác quản lý đất đai của nước ta ở Trung ương cũng như cơ sở thực sự có hiệu quả thì Chính phủ cần phải có chế độ đối với cán bộ Địa chính xã, để họ trở thành những Đảng viên có như thế thì những chủ trương, đường lối của đảng sẽ được họ truyền lại cho nhân dân và họ hiểu được nhiệm vụ của mình nhằm phục vụ cho công tác quản lý đất đai tốt, tạo điều kiện phát triển kinh tế đất nước. Theo bảng trình độ cán bộ trên, ta thấy rằng: + Về trình độ chuyên môn: Trong cơ cấu cán bộ chuyên môn thì chỉ có ở cấp Trung ương là số cán bộ được đào tạo về chuyên ngành quản lý đất đai và đo đạc bản đồ (59,7%) là tương đối lớn, còn các cấp còn lại thì số lượng cán bộ được đào tạo từ ngành khác chiếm số lượng lớn hơn nhiều so với số cán bộ được đào tạo từ chuyên ngành quản lý đất đai và đo đạc bản đồ. Với cơ cấu như thế thì công tác quản lý đất đai và đo đạc bản đồ sẽ gặp khó khăn không những đối với các cấp quản lý đất đai ở địa phương mà cả đối với cấp quản lý Trung ương do ảnh hưởng của kết quả mà các cấp địa phương mang lại. Quản lý đất đai và đo đạc bản đồ đòi hỏi một số lượng lớn cán bộ có chuyên môn, bởi vì công tác quản lý đất đai và đo đạc bản đồ chẳng những phải nắm vững chuyên môn mà còn phải hiểu biết về pháp luật, chính sách, đường lối của Đảng. Trong những năm tới thì cả cơ quan Trung ương và các cấp quản lý địa phương phải tăng cường đào tạo lại những cán bộ chưa qua đào tạo về chuyên môn và đào tạo nâng cao đối với những cán bộ đã có chuyên môn để nắm bắt kịp thời những tiến bộ của khoa học kỹ thuật tạo điều kiện cho công tác quản lý đất đai được tốt. + Về tin học: Số lượng cán bộ về tin học thì chỉ có ở cấp Trung ương và một số tỉnh là có một số cán bộ được đào tạo, còn lại chỉ ở trình độ cơ sở, có một số huyện và phần lớn các xã thì chưa có người biết sử dụng máy tính. Đây là một khó khăn rất đối với công tác quản lý đất đai của nước ta bây giờ và trong thời gian tới. Bởi vì, muốn bộ máy quản lý đất đai hoạt động có hiệu quả thì các thông tin, dữ liệu về hồ sơ địa chính, đo đạc bản đồ phải được thực hiện bằng máy thì mới nhanh và có độ chính xác cao. Trong thời gian tới thì ngành Địa chính cần phải phối hợp với các cơ quan hữu quan nhằm đào tạo cho số cán bộ hiện nay của ngành hiểu biết về tin học và trang bị các máy tính cho các phòng Địa chính để xây dựng hệ thống thông tin Địa chính từ Trung ương đến địa phương nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản lý đất đai. + Về ngoại ngữ: thì chỉ có hơn 50% cán bộ Địa chính ở Trung ương, một số cán bộ ở các Tỉnh đồng bằng và một số rất ít ở các phòng Địa chính của các Quận nội thành là biết ngoại ngữ, còn lại hầu hết số cán bộ còn lại là không sử dụng được ngoại ngữ. Thực tế như thế có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của công tác quản lý đất đai của nước ta, do nước ta chưa có một nền công nghiệp phát triển nên hầu hết các thiết bị máy móc đều phải sử dụng của nước ngoài mà không biết ngoại ngữ thì việc sử dụng nhiều khi lại dẫn đến hậu quả đáng tiếc. Mặt khác, nước ta là nước đang phát triển nên rất cần vốn đầu tư của nước ngoài, mà đất đai lại là một trong những nguồn vốn đáng kể hiện nay của nước ta trong việc góp vốn với nước ngoài, mà cán bộ địa chính của nước ta lại không biết ngoại ngữ thì việc thực hiện các dự án gặp rất nhiều khó khăn, điều này làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả quản lý đất đai trong việc phục vụ phát triển kinh tế đất nước. + Trình độ chính trị thì chỉ có những cán bộ làm lãnh đạo ở cấp Trung ương và những cán bộ làm Giám đốc các Sở Địa chính thì mới được đào tạo ở các lớp chính trị cao cấp, một số cán bộ ở Trung ương, một số cán bộ ở các Sở Địa chính và một số rất ít ở các phòng Địa chính được đào tạo tại các lớp chính trị trung cấp. Đối với công tác quản lý đất đai mà người cán bộ lại không hiểu về chính trị thì rất khó để thực hiện tốt các chính sách, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước được. Điều này dễ dẫn đến tình trạng người cán bộ quản lý làm sai mà không biết mình sai, điều này giải thích vì sao công tác quản lý đất đai của nước ta trong thời gian qua ở các cấp cơ sở lại thực hiện không có hiệu quả. Để trong thời gian tới các cấp cơ sở và một số các Tỉnh làm tốt công tác quản lý đất đai thì các Sở Địa chính cần kết hợp với UBND các Tỉnh mở các lớp đào tạo chính trị cho cán bộ Địa chính của địa phương mình. 2. Một số vấn đề về đào tạo và tuyển dụng cán bộ 2.1. Công tác đào tạo giáo dục Những năm qua số lượng sinh viên được đào tạo về quản lý đất đai và Đo đạc - Bản đồ từ các trường trung học và đại học ra trường ngày một tăng. Để đáp ứng nhu cầu đào tạo cán bộ quản lý địa chính thì một số trường đại học đã mở các lớp đào tạo về quản lý đất đai ngày một nhiều, hiện nay mỗi năm có khoảng 300 sinh viên tốt nghiệp đại học ra trường từ các trường đại học sau: + Khoa quản lý đất đai - Trường Đại học Nông nghiệp I + Chuyên ngành quản lý đất đai - Khoa địa lý - Trường Đại học Quốc gia Hà Nội + Khoa Trắc địa Bản đồ - Trường Đại học Mỏ Địa chất + Chuyên ngành kinh tế và Quản lý đất đai - Trường đại học Kinh tế quốc dân + Đại học Nông lâm Thủ đức + Trường Bách khoa TP Hồ Chí Minh + Trường Nông nghiệp Cần Thơ Và có khoảng 600 sinh viên được đào tạo từ 3 trường Trung học Địa chính: + Trường Trung học Địa chính I tại Từ Liêm (Hà Nội) + Trường Trung học Địa chính II tại Bỉm Sơn (Thanh Hoá) + Trường Trung học Địa chính III tại Long Thành (Đồng Nai) Ngoài ra hằng năm các tỉnh cũng tổ chức một số lớp không định kỳ đào tạo cán bộ trung học về quản lý đất đai. Bên cạnh đó hàng năm Tổng cục Địa chính cũng như các Tỉnh đều cử cán bộ đi đào tạo lại và đào tạo nâng cao về quản lý chuyên môn và trình độ chính trị. Phần lớn cán bộ được đào tạo tại chức ở trong nước, riêng một số cán bộ của Tổng cục Địa chính được cử đi đào tạo nâng cao theo dự án và học bổng các nước tài trợ. Tuy nhiên công tác đào tạo cũng gặp phải một số khó khăn do cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho việc giảng dạy, thực hành, sinh hoạt của giáo viên, học sinh còn thiếu thốn. Giáo trình chưa đồng bộ, hoàn chỉnh vì thế mà tuy là cùng đào tạo về quản lý đất đai nhưng mỗi trường lại có một giáo trình khác nhau. Hiện nay chưa có trường bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ địa chính huyện, xã. Vì thế để trong thời gian tới công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực của ngành đáp ứng được yêu cầu quản lý đất đai được tốt, thì ngay bây giờ cần phải: - Tăng cường năng lực và nâng cấp các trường trung học Địa chính của Tổng cục Địa chính để đảm bảo đào tạo cán bộ Địa chính trình độ trung học, cao đẳng có chất lượng cao kết hợp với các trường trung học của các địa phương, chuẩn hoá chương trình đào tạo, kết hợp nhiều loại hình đào tạo để phổ cập trung học cho cán bộ toàn ngành. Phối hợp với các Trường đại học để thiết lập và chuẩn hoá hệ thống đào tạo đại học và trên đại học ngành địa chính. Phấn đấu để 40-50% cánbộ Địa chính cấp huyện, 60-70% cán bộ Địa chính cấp Tỉnh và trên 80% cán bộ Địa chính ở Trung ương có trình độ đại học. - Kế hoạch hoá chương trình đào tạo lại, đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ đương nhiệm trong ngành, trong đó trọng tâm là chuyên môn nghiệp vụ, tin học công nghệ mới, phổ cập tiếng Anh cho cán bộ quản lý, cán bộ khoa học ở Tổng cục và các Sở Địa chính, nâng cao trình độ quản lý đất đai cho các cán bộ Địa chính cấp huyện, xã. - Tranh thủ sử dụng hiệu quả nhất các dự án nước ngoài của ngành cho mục tiêu phát triển nguồn nhân lực để đào tạo cán bộ đầu ngành về quản lý và công nghệ, đặc biệt các chương trình dự án: Chương trình hợp tác Việt Nam - Thuỵ Điển về đổi mới Hệ thống Địa chính (1997-2000), Dự án viễn thám lập Bản đồ (hợp tác với Pháp), Dự án Đo đạc Bản đồ địa hình đáy biển (hợp tác với NaUy), và mở rộng hợp tác, trao đổi khoa học với các nước. 2.2. Một số vấn đề về tuyển dụng cán bộ hiện nay của ngành Địa chính. Hiện nay thực tế chưa có một văn bản nào nói về cơ chế tuyển dụng cán bộ của ngành, bởi vì thực tế phát sinh mỗi năm một khác do đó không thể đưa ra một cơ chế chính xác được. Mà phải tuỳ thuộc vào yêu cầu công việc hàng năm và yêu cầu của từng đơn vị trong Tổng cục cũng như các Sở, các Huyện có nhu cầu tuyển dụng để ký hợp đồng tuyển dụng với các lao động có nhu cầu làm việc. IV. Đánh giá chung 1. Kết quả đạt được Sau 6 năm thực hiện chức năng, nhiệm vụ đã được Chính phủ quy định tại Nghị định số 34/CP ngày 23/4/1994, Tổng cục Địa chính cũng như ngành Địa chính đã đạt được một số thành tích nhất định, về cơ bản đã hoàn thành nhiệm vụ do Đảng và Nhà nước giao. Hệ thống tổ chức ngành từ Trung ương đến địa phương đã được hình thành và củng cố, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của cả hệ thống. Công tác quản lý nhà nước về đất đai và đo đạc - bản đồ bước đầu cơ bản đã được tập trung về một đầu mối, có nề nếp, đúng pháp luật. Những việc chính đã được thực hiện là - Giúp Chính phủ cũng như các Bộ, các ngành và bản thân Tổng cục đã ban hành trên 20 văn bản pháp luật trong lĩnh vực quản lý đất đai như: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai, các Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật đất đai như Nghị định 17/CP, 85/CP, 163/CP, 04/CP v.v... - Bước đầu xây dựng quy trình hướng dẫn về công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai các cấp. Đã xây dựng kế hoạch sử dụng đất đai 5 năm (1996 - 2000) được Quốc hội phê duyệt; Thẩm định kế hoạch sử dụng đất hàng năm trình Chính phủ phê duyệt làm cơ sở cho việc giao đất và cho thuê đất. - Chỉ đạo đẩy nhanh công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (CGCNQSDĐ). Tính đến ngày 31/12/1999 trên toàn quốc đã cấp được 10.294.766 hộ sử dụng đất nông nghiệp đạt tỷ lệ 87,57%; Về diện tích đạt 5.779.066 ha bằng 80,77%. Hiện nay đang chỉ đại đẩy nhanh tiến độ CGCNQSDĐ lâm nghiệp và đất đô thị. - Công tác xây dựng hồ sơ Địa chính lưu trữ tư liệu Địa chính dần dần đi vào nề nếp. Hiện nay trên toàn bộ 61 tỉnh, thành đã xây dựng xong Trung tâm thông tin Lưu trữ tư liệu Địa chính. - Tập trung chỉ đạo giải quyết những tranh chấp đất đai, những khiếu nại tố cáo về đất đai một cách kịp thời, có hiệu quả đã giúp cho chính quyền các cấp đưa công tác quản lý đất đai theo đúng pháp luật, hạn chế được số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo, những điểm nóng và giảm bớt những thủ tục phiền hà cho người dân. - Về công tác đo đạc - bản đồ: + Đã hoàn thành xây dựng điểm toạ độ gốc quốc gia Hà Nội, xây dựng lưới toạ độ cấo “O” phủ trùm toàn quốc. Đang trình Chính phủ phê duyệt hệ quy chiếu và hệ toạ độ quốc gia. + Xây dựng hệ thống bản đồ địa hình, bản đồ địa chính các tỷ lệ phục vụ các ngành và các địa phương; Hoàn thành sản xuất bộ Atlas quốc gia, bản đồ hành chính quốc gia, bản đồ hiện trạng sử dụng đất đai toàn quốc. + Hoàn thành xây dựng bộ bản bản đồ địa giới hành chính các cấp theo chỉ thị 364/CT của Thủ tướng Chính phủ. + Xây dựng các loại bản đồ phục vụ phân vạch, quản lý biên giới quốc gia. + Xây dựng và ban hành hệ thống các quy trình, quy phạm, tiêu chuẩn ngành, hệ thống các định mức kinh tế - kỹ thuật để sử dụng thống nhất trong toàn ngành. 2. Tồn tại và nguyên nhân Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chức năng, do Chính phủ giao cũng đã bộc lộ những khó khăn, chồng chéo và những tồn tại sau đây: + Về chức năng: Trong Nghị định quy định chưa thể hiện rõ phạm vị và đối tượng quản lý (toàn bộ loại đất đai và các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất). + Về nhiệm vụ, quyền hạn: - Nhiệm vụ, quyền hạn quy định còn chung chung, mang tính tổng quát, không rõ ràng bằng Luật đất đai quy định. - Đối với công tác đo đạc - bản đồ: do quy định còn chung chung cho nên việc triển khai công tác quản lý Nhà nước còn gặp nhiều khó khăn không thực hiện được. - Hầu hết các nhiệm vụ được quy định còn mang tính tác nghiệp kỹ thuật là chủ yếu mà chưa thể hiện rõ nét về nhiệm vụ quản lý Nhà nước. - Nhiệm vụ quản lý chủ yếu mới thể hiện ở mặt lượng (diện tích bề mặt) mà chưa thể hiện được quản lý về chất lượng như: bảo vệ, cải tạo, chống ô nhiễm môi trường huỷ hoại đất; đánh giá và xác định giá trị cho từng loại đất đai. Chính sách của Nhà nước là đền bù phải theo sát giá thị trường nhưng chưa có một cơ quan định giá đất thì không thể giúp cho Nhà nước quyết định được mức giá một cách hợp lý. Hơn nữa, hiện nay chúng ta chưa có cơ quan quản lý thị trường bất động sản. - Nhiệm vụ quản lý Nhà nước về đất đai có liên quan đến hầu hết các bộ, các ngành và chính quyền địa phương nhưng chưa được quy định cụ thể về mối quan hệ này và vai trò chủ đạo của ngành Địa chính trong việc tổ chức phối hợp để đảm bảo sự quản lý thống nhất giữa ngành và lãnh thổ. - Quyền hạn được Chính phủ giao mới chỉ dừng ở mức tham mưu giúp việc cho Chính phủ là chủ yếu (thẩm định, đề xuất). - Một số công việc thuộc thẩm quyền của Chính phủ nhưng mang tính chuyên môn nghiệp vụ và thủ tục hành chính, Chính phủ không giao cho ngành Địa chính thực hiện, làm cho quá trình triển khai thực hiện mang tính hình thức thủ tục giấy tờ, làm hạn chế trách nhiệm của cả Chính phủ và cơ quan quản lý đất đai. + Những tồn tại và chồng chéo trong quá trình thực hiện: - Tồn tại lớn nhất hiện nay của ngành Địa chính là việc tổ chức đăng ký biến động về đất đai bao gồm: đăng ký các giao dịch đất đai, chuyển đổi, thừa kế, thế chấp…Từ đó dẫn đến vấn đề thu cho ngân sách rất thấp… Nghị định 34/CP đã được ban hành 7 năm (từ năm 1994) đến nay tình hình đã có nhiều thay đổi, việc sửa đổi bổ sung để ban hành Nghị định mới cho phù hợp với tình hình quản lý đất đai hiện nay là rất cần thiết. - Bộ NN & PTNT chủ trì: xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định 64/CP về đất nông nghiệp (nay sửa đổi bổ sung bằng Nghị định 85/1999/NĐ-CP); Nghị định 02/CP về đất lâm nghiệp (nay được thay thế bằng Nghị định 163/1999/NĐ-CP). Nhưng trên thực tế cũng như trong chỉ đạo, Chính phủ giao cho Tổng cục Địa chính tổ chức thực hiện từ việc giao đất cho hộ gia đình, cá nhân đến việc CGCNQSDĐ (giấy đỏ). - Bộ Xây dựng chủ trì: xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định 60/CP, 61/CP. Ban chỉ đạo nhà ở đất ở do Bộ Xây dựng làm thường trực chỉ đạo cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất (giấy hồng). Trong khi Luật đất đai quy định GCNQSDĐ theo mẫu thống nhất do cơ quan quản lý đất đai ở Trung ương phát hành. Mặc dù việc sát nhập và tổ chức lại Sở Địa chính và Sở Nhà đất thành Sở Địa chính - Nhà đất đã thực hiện tại 3 thành phố lớn, song trong quá trình quản lý còn chưa hoàn toàn thống nhất việc cấp giấy chứng nhận. Vì thế Nghị định 60/CP, 61/CP đã ban hành được hơn 5 năm nhưng việc cấp giấy chứng nhận còn rất chậm chưa được 10% so với nhu cầu. Trong quá trình thực hiện nhiều vấn đề phát sinh cần được nghiên cứu để thống nhất đầu mối quản lý và xác định cái gì là gốc, tồn tại lâu dài, ít biến động để làm cơ sở cơ bản trong quản lý. Quy hoạch phát triển đô thị do Bộ Xây dựng quản lý là chính, việc quy hoạch đô thị lại liên quan đến sử dụng đất. Nhưng sự phối hợp giữa ngành Xây dựng và ngành Địa chính trong quy hoạch, quản lý đất đô thị chưa chặt chẽ. - Việc xây dựng các chính sách tạo nguồn thu từ đất và thực hiện đền bù đất đai lại do Bộ Tài chính tiến hành nhưng khi có khiếu nại về đền bù giải toả lại do Tổng cục Địa chính giải quyết. Mặt khác hiện nay chưa có cơ quan định giá đất với chức năng nhiệm vụ cụ thể giúp Chính phủ tổ chức định giá đất, theo dõi biến động để quản lý chặt chẽ thị trường bất động sản. - Ban tổ chức - Cán bộ Chính phủ thì quản lý về địa giới hành chính theo Chỉ thị 364/CT, nhưng tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới lại do Tổng cục Địa chính giải quyết. - Ban Biên giới của Chính phủ, chịu trách nhiệm quản lý biên giới, Tổng cục Địa chính được giao nhiệm vụ kỹ thuật đo vẽ bản đồ và hoạch định biên giới trên thực địa và thể hiện trên bản đồ. - Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ban Quản lý khu công nghiệp Việt Nam: khi quyết định hình thành dự án cụ thể, Bộ Kế hoạch và Đầu tư quyết định cụ thể về diện tích trình Chính phủ phê duyệt, Tổng cục thực hiện nhiệm vụ thẩm định, làm thủ tục để cơ quan có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất và đo đạc, CGCNQSDĐ. - Thanh tra Nhà nước: Nhiều đơn khiếu nại, tố cáo gửi đến Thanh tra Nhà nước được chuyển về Tổng cục Địa chính, nhưng Tổng cục chưa phải là nơi giải quyết cuối cùng, lại phải thống nhất với Thanh tra Nhà nước hoặc trình lên Chính phủ để giải quyết cuối cùng. Thậm chí Chính phủ đã giải quyết là quyết định cuối cùng mà đương sự vẫn còn thắc mắc. Do đó đơn thư khiếu kiện về đất đai đi vòng vèo, hiệu lực thấp, việc giải quyết rất mất thời gian. - Về Đo đạc - Bản đồ: Hầu hết các phương án đo đạc - bản đồ của các Bộ, các Ngành, các công trình quốc gia đều không qua Tổng cục Địa chính thẩm định và cấp giấy phép triển khai như Nghị định 34/CP của Chính phủ quy định. Do đó hiện tượng các ngành, các địa phương đo vẽ chồng chéo, trên một khu vực nhiều người, nhiều cơ quan đo vẽ. Kết quả đo vẽ không sử dụng chung được cho nhiều ngành, nhiều mục đích, đã gây ra tình trạng lãng phí đáng kể tiền của Nhà nước, vì vậy Nhà nước đã phải đầu tư nhiều lần. Tình trạng này cũng đã gây khó khăn trở ngại cho công tác thống nhất quản lý tài liệu trắc địa - bản đồ, trong đó có nhiều tài liệu là bí mật quốc gia. + Một số đánh giá về trình độ cán bộ và bộ máy quản lý đất đai. - Về cán bộ: hiện nay trong cả 4 cấp quản lý Nhà nước về đất đai của Việt Nam thì số lượng cán bộ được đào taọ đại học trong bộ máy quản lý của cơ quan Địa chính cấp Trung ương là đáng kể nhưng chưa thật cao. Hơn nữa số cán bộ được đào tạo từ ngành khác cũng chiếm một số lượng lớn, số cán bộ đầu ngành về quản lý đất đai còn ít. ở các địa phương, số cán bộ trong bộ máy quản lý của cấp tỉnh hiện nay nếu xét trên góc độ được đào tạo đại học là cao nhưng nếu xét về chuyên môn thì một số lượng lớn được đào tạo không phải để quản lý đất đai mà làm công việc khác. Do đó có thể nói rằng trình độ chuyên môn của một số cán bộ hiện nay đang công tác trong bộ máy quản lý đất đai cấp tỉnh và huyện là không cao. Còn về phần cán bộ Địa chính xã thì số nhiều là chưa qua đào tạo, chưa có cán bộ được đào tạo đại học về quản lý đất đai trong cán bộ Địa chính xã, vì thế có thể khẳng định là trình độ chuyên môn của cán bộ Địa chính xã còn thấp cần phải nâng cao để đáp ứng yêu cầu quản lý trong thời gian tới. - Về bộ máy: Bộ máy quản lý đất đai của nước ta hiện nay thì sự phân công, phân cấp giữa các cấp còn chưa hợp lý và rõ ràng, nhiệm vụ còn chồng chéo, đặc biệt là trong công tác quản lý đô thị, thu ngân sách. Mối quan hệ giữa cơ quan Địa chính với chính quyền cùng cấp chưa quy định rõ về trách nhiệm quản lý đất đai, chưa đảm bảo tính độc lập tương đối giữa chính quyền và các cơ quan quản lý đất đai cùng cấp. Chương III Quan điểm và những giải pháp nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý đất đai Việt Nam I. Một số quan điểm hoàn thiện bộ máy 1. Một số quan điểm hoàn thiện bộ máy Quản lý đất đai + Tinh giảm bộ máy và nâng cao chất lượng công việc. Hoàn thiện bộ theo hướng tinh giảm bộ máy gọn nhẹ nhưng hiệu quả cao. Bởi vì một bộ máy cồng kềnh vừa không hiệu quả, lại tốn kém cho ngân sách trong việc trả lương cho cán bộ trong bộ máy đó. Mặt khác, bộ máy cồng kềnh sẽ làm cho công việc thực hiện chậm trễ do phải qua nhiều khâu, dẫn đến tình trạng gây lãng phí về mặt thời gian cho công việc. Mà lãng phí thời gian là lãng phí tiền của, bởi vì nhiều dự án do phải chờ đợi quá lâu trong khi thiết bị bỏ không, lương nhân công vẫn phải trả. Do đó, cần phải tinh giảm bộ máy để các công việc được giải quyết một cách nhanh chóng, kéo theo hiệu quả công việc sẽ đạt được hiệu quả cao. Ngày xưa, những người cầm quân thường nói rằng: “quân cốt tinh chứ không cốt đông”, ta thấy rằng trong quân đội cũng như trong quản lý những cán bộ trong bộ máy có năng lực và chuyên môn cao thì công việc sẽ được giải quyết nhanh chóng, một người có thể làm được số lượng công việc nhiều hơn những người có năng lực và chuyên môn kém. Do đó, bộ máy gọn nhẹ nhưng cán bộ có chuyên môn cao thì hiệu quả công việc sẽ cao. + Phân cấp quản lý rõ ràng Trong một bộ máy quản lý thì việc phân cấp quản lý cho từng cấp một cách cụ thể và rõ ràng thì thì hiệu qủa công việc sẽ cao do không có tình trạng chồng chéo trong công việc, hay có những công việc không cơ quan nào làm hoặc có những công việc thì nhiều cơ quan cùng tham gia quản lý dẫn đến tình trạng người bị quản lý không biết thực hiện như thế nào là đúng cả. Phân cấp và phân công rõ ràng thì khi công việc tiến hành tốt có thể khen thưởng đúng người đúng việc và khi có sai trái sẽ dễ xử lý. Do đó, hoàn thiện bộ máy phải phân cấp cho rõ ràng thì hiệu quả đạt được mới cao. + Thống nhất trong bộ máy từ Trung ương đến cơ sở. Một bộ máy hoàn thiện và hoạt động có hiệu quả thì hệ thống tổ chức của bộ máy phải thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Khi hệ thống tổ chức của bộ máy thống nhất thì hoạt động của bộ máy mới nhịp nhàng, ăn khớp với nhau. Do đó, khi hoàn thiện bộ máy Quản lý đất đai của Việt Nam chúng ta cần phải chú ý tổ chức bộ máy từ Trung ương đến các cấp cơ sở phải thống nhất với nhau trong tổ chức bộ máy cũng như cơ cấu trong bộ máy của từng địa phương, tuy nhiên không loại trừ một số địa phương có đặc thù riêng mà có thêm một số phòng ban phù hợp với đặc thù của địa phương mình. 2. Yêu cầu hoàn thiện Đất đai nằm trong nhóm tài nguyên hạn chế của Việt Nam nhưng lại là điều kiện không thể thiếu được trong mọi quá trình phát triển, vì vậyviệc quản lý và sử dụng hợp lý và có hiệu quả tài nguyên quốc gia này không chỉ sẽ quyết định tương lai của nền kinh tế đất nước mà còn là sự đảm bảo cho mục tiêu ổn định chính trị, xã hội và phát triển kinh tế. - Yêu cầu của việc đổi mới tổ chức quản lý đất đai là: * Đổi mới tổ chức quản lý đất đai nằm trong đổi mới hệ thống hành chính Nhà nước. Đổi mới Bộ máy quản lý đất đai phải phù hợp với đổi mới hành chính của đất nước. * Phải đồng bộ, toàn diện, thống nhất đảm bảo cho việc sử dụng đất đạt hiệu quả cao nhất và tránh phiền hà cho dân, tạo thuận lợi cho các nhu cầu phát triển. * Đảm bảo cho thị trường bất động sản vận hành lành mạnh và thông suốt. + Về chính trị: Hoàn thiện bộ máy quản lý đất đai là một việc làm vô cùng cần thiết nhằm tổ chức được bộ máy quản lý đất đai thống nhất từ Trung ương đến địa phương và hoạt động có hiệu quả. Bổ sung và đổi mới một số bộ phận để đưa ra được một bộ máy mới phù hợp với những yêu cầu đất nước từng thời kỳ này và trong thời gian tới đó là đưa ra được những chính sách về dụng đất, bảo vệ đất, quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất phù hợp với định hướng phát triển đất nước của đường lối mà Đảng cộng sản Việt Nam đề ra, nhằm ổn định tình hình chính trị, xã hội và phát triển kinh tế của đất nước. + Về kinh tế: Hoàn thiện bộ máy là nhằm có những đổi mới trong bộ máy để nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy và đưa ra được những cơ sở khoa học cho việc quy hoạch, kế hoạch quản lý và sử dụng đất một cách có hiệu quả phục vụ cho công tác phát triển kinh tế đất nước. Mặt khác là giảm bớt các đầu mối quản lý để đưa về một đầu mối duy nhất, nhằm tránh lãng phí cho thời gian đi lại của người sử dụng đất và tăng thu ngân sách cho nhà nước. Tập trung quản lý thống nhất nhà và đất về cùng một cơ quan, là một việc làm cần thiết nhằm tăng khả năng quản lý nhà - đất có hiệu quả. Tạo điều kiện cho các dự án về phát triển nhà và đầu tư của các tổ chức trong và ngoài nước được thực hiện nhanh chóng tạo ra nguồn lực cho phát triển kinh tế đất nước trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. + Về tổ chức: Hoàn thiện bộ máy quản lý đất đai nhưng tổ chức phải phù hợp với tổ chức bộ máy của Nhà nước Việt Nam tức là phải tổ chức bộ máy có 4 cấp. Tổ chức bộ máy gọn nhẹ nhưng hoạt động có hiệu quả cao, các bộ phận chức năng và chuyên môn hoạt động đúng lĩnh vực và chuyên môn phát huy cao độ khả năng của mình để giải quyết các vấn đề liên quan đến đất đai một cách nhanh nhất. + Về môi trường - xã hội: Hoàn thiện bộ máy làm sao để thực hiện được đầy đủ các nội dung quản lý Nhà nước và đặc biệt là phải chú ý bảo vệ môi trường trong khu vực đất công nghiệp và các khu lân cận, nhất là các khu vực mới phát triển khu công nghiệp và khu đô thị mới. II. Một số giải pháp hoàn thiện bộ máy quản lý đất đai ở việt nam 1. Đặc điểm quản lý đất đai trong thời kỳ mới Đến hết năm 2000 cơ bản toàn bộ đất đai nước ta đã được giao cho các tổ chức và cá nhân sử dụng vào các mục đích khác nhau, đồng thời các chủ sử dụng sẽ thực thi các quyền của mình trên đất. Ước tính nước ta có khoảng 100 triệu thửa đất và 15 triệu chủ sử dụng đất. Như vậy các hoạt động về đất đai sẽ hết sức sôi động, nhiệm vụ quản lý Nhà nước sẽ rất nặng nề và khó khăn. Điều này đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật đất đai thống nhất, hoàn chỉnh với mức độ chi tiết cao. Công tác đo đạc phân định ranh giới thửa đất, lập bản đồ địa chính, điều tra pháp lý thửa đất và lập hồ sơ thửa đất phải được tiến hành trên cả nước cho mọi đối tượng sử dụng đất, phải đảm bảo độ chính xác cao về kỹ thuật và cơ sở pháp lý. Công tác đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cần đảm bảo tất cả mội đối tượng sử dụng đất đều có đầy đủ hồ sơ pháp lý và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đầy đủ. Để hỗ trợ các mục tiêu: công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; phát triển kinh tế hàng hoá, đặc biệt là kinh tế hàng hoá nông nghiệp; bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên,... đòi hỏi công tác quy hoạch và kế hoạch hoá sử dụng đất đai phải được tiến hành thường xuyên và chi tiết từ dưới lên trên, có luận cứ và phương pháp khoa học. Công tác tổ chức giao đất và kiểm tra, thanh tra việc sử dụng đất đai theo đúng quy hoạch và mục tiêu phát triển của Nhà nước cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nhà nước ta chủ trương phát triển kinh tế thị trường, trong đó có thị trường bất động sản. Thị trường bất động sản bao gồm đất đai, nhà và các công trình xây dựng trên đất, và những tài sản khác gắn với việc sử dụng đất, thị trường này cũng được hiểu là thị trường chuyển nhượng quyền sử dụng đất làm cho đất đai luôn luôn biến động, được huy động vào các quá trình sản xuất có hiệu quả cao hơn. Đây là xu hướng hết sức mới mẻ sẽ phát triển nhanh chóng trong những năm tới. Điều đó đòi hỏi: + Xây dựng các chính sách về quản lý thị trường bất động sản; + Tổ chức quản lý bất động sản (nhà và đất) ở các cấp hành chính; + Thị trường bất động sản có nhiều mối quan hệ dân sự, quan hệ về kinh tế và rất linh hoạt, do đó cần có những tổ chức dịch vụ - tư vấn - kinh doanh bất động sản. Thời kỳ mới đề ra nhưỡng yêu cầu cao về quản lý đất đai: tính pháp lý cao, độ chính xác và độ tin cậy cao, thông tin đầy đủ, tỷ mỷ và nhanh, trình độ chuyên sâu của cán bộ quản lý,....Từ đó đặt ra các yêu cầu: + Hiện đại hoá, tự động hoá hoạt động của ngành Địa chính; + Tổ chức hệ thống thông tin đất đai nối mạng trong cả nước; + Đào tạo căn bản nghiệp vụ Địa chính cho cán bộ Địa chính các cấp. 2. Giải pháp hoàn thiện bộ máy quản lý đất đai ở Việt Nam a/ Nhóm giải pháp mang tính thể chế (vĩ mô) - Tổ chức quản lý đất đai với tổ chức Nhà nước là một chỉnh thể - thực thể có mối quan hệ hữu cơ - tương sinh - tương tác. Chúng chỉ có thể phát huy hiệu lực - hiệu quả quản lý một khi nó được thiết lập một cách hợp lý phù hợp với nhau trong cùng một hệ thống và phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, nếu không thì sẽ có tác dụng trái lại, do vậy Nhà nước phải có phương án để từng bước hoàn thiện - thích ứng theo hướng “phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Hiến pháp năm 1992). Từ xu thế đó Nhà nước phải điều tiết các quan hệ đất đai dựa trên giá trị kinh tế của nó là chủ yếu và chủ yếu là thông qua biện pháp dân sự và biện pháp kinh tế. Vì vậy mô hình quản lý đất đai cũng phải được xắp xếp một cách thích ứng với cơ chế đổi mới nói trên. Mặt khác, cũng do xu thế phát triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta mà đồng thời với việc giao đất..., trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dân cư sẽ dần dần phát triển phương thức chuyển nhượng quyền sử dụng. Do đó khối lượng công việc làm thủ tục để quản lý các biến động, các chuyển dịch về chủ thể sử dụng sẽ tăng lên. Như vậy là tự thân trong tổ chức quản lý đất đai cũng phát sinh yêu cầu phải sắp xếp - kiện toàn để thích ứng với xu thế này. - Để hoàn thiện được bộ máy quản lý đất đai thì trước hết phải hoàn thiện hệ thống chính sách đất đai, bởi vì: + Hệ thống pháp luật đất đai hiện nay còn thiên về xử lý những quan hệ ban đầu có tính chất hành chính, chưa tiếp cận kịp thời với những biến động có tính chất thị trường. + Tình hình kinh tế - xã hội đang có nhiều biến động có tính đột phá theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, dẫn đến những biến động về quan hệ đất đai, về cơ cấu sử dụng đất và cơ chế quản lý đất đai. - Cùng với hoàn thiện hệ thống chính sách, cần phải đẩy mạnh công tác quy hoạch sử dụng đất, bởi vì: + Trong bối cảnh kinh tế hiện đại đang phát triển với nhịp độ cao thì phương án quy hoạch sử dụng đất của mỗi quốc gia đêù phản ánh rõ ràng chiến lược về tương lai quốc gia đó. Từ rất sớm, Hiến pháp của Việt Nam đã “luật hoá” được ý tưởng này: “Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả”. Quy hoạch sử dụng đất phải được xem là một giải pháp tổng thể định hướng cho quá trình phát triển và quyết định tương lai của nền kinh tế. Thông qua đó, Nhà nước can thiệp vào các quan hệ đất đai, khắc phục những nhược điểm do lịch sử để lại hay giải quyết những vấn đề mà quá trình phát triển đang đặt ra. Lấy quy hoạch làm cơ sở cho hoạt động quản lý còn phát huy được dân chủ trong quản lý một khi quy hoạch sử dụng đất được công bố công khai từ quá trình xây dựng đến suốt quá trình thực hiện, điều chỉnh và hoàn thiện - xã hội càng phát triển thì yêu cầu tiến độ và chất lượng của quy hoạch sử dụng đất ngày càng nhanh và càng cao. Tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất là cốt lõi của hoạt động quản lý Nhà nước về đất đai và thuộc trách nhiệm của các ngành và các cấp có liên quan trong đó chú ý những vấn đề sau đây: + Khi các cấp thẩm quyền thông qua thì quy hoạch sử dụng đất được thực tiễn hoá bằng những dự án điều chỉnh, chỉnh trang hoặc phát triển đất đai với chủ đầu tư cụ thể (cá nhân hoặc tổ chức). + Khi cần thay đổi hoặc điều chỉnh quy hoạch thì cần phải thực hiện đúng các trình tự thẩm định, phê duyệt như khi lập quy hoạch. + Để bộ máy quản lý đất đai hoạt động có hiệu quả, đáp ứng được những yều cầu hiện nay của công tác quản lý Nhà nước về đất đai thì Chính phủ cần phải chủ động quản lý thị trường bất động sản có tổ chức rõ ràng. Vì tuy đây là yêu cầu có tính “tình thế” nhưng lại xuất phát từ một nhiệm vụ có tính chiến lược để bước vào cơ chế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường thì việc thu hút vốn của nước ngoài để phát triển kinh tế đất nước đối với một nước đang phát triển như Việt Nam là một việc làm vô cùng cần thiết. Bởi vì muốn thu hút được vốn đầu tư của nước ngoài thì cần phải phát triển thị trường chứng khoán, nhưng việc hình thành và phát triển chậm của thị trường bất động sản là nguyên nhân của việc cản trở việc khai thác nguồn lực trong nước phục vụ cho phát triển. - Việc quản lý sử dụng đất đai liên quan đến rất nhiều lĩnh vực trong quản lý khác như nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ lợi, khai khoáng, xây dựng, môi trường...Vì vậy việc định vị tổ chức quản lý đất đai trong hệ thống tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước và trong nền kinh tế xã hội thường có rất nhiều quan điểm khác nhau. Vấn đề ở đây là phải lựa chọn, định vị nó, đặt nó ở đâu để tạo cho tổ chức này hoàn chỉnh - thông suốt, có tính hệ thống hành chính Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở để đủ sức quản lý về các mặt pháp chế, kinh tế kỹ thuật, phù hợp với thuộc tính vốn có của đất đai - một tài nguyên quý giá nhất của mỗi quốc gia nói riêng và của loài người nói chung, chính sách đối với nó là một quốc sách. Vì vậy không nên đặt tổ chức quản lý đất đai trong một ngành sử dụng đất nào đó như trước đây chúng ta đã từng làm và trên thực tế đã phát sinh nhiều vấn đề không thuận cho công tác quản lý. Đất nước ta cũng đang trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Vì vậy việc xây dựng mô hình tổ chức quản lý đất đai phải từng bước phù hợp với quá trình hiện đại hoá hệ thống thông tin quản lý đất đai toàn quốc, thành lập hệ thống đồng bộ tài liệu đo đạc - bản đồ theo một hệ thống chuẩn - thống nhất, đáp ứng mọi nhu cầu chính trị - kinh tế - xã hội - an ninh quốc phòng của đất nước, thành lập hệ thống thông tin đất đai. - Hiện nay công tác giải quyết các khiếu kiện tiến hành rất chậm đơn thư khiếu nại, tố cáo vẫn còn lòng vòng gây mất thời gian và tiền của của người sử dụng đất, vì thế mà Chính phủ cần phải giao cho Tổng cục Địa chính thêm một số chức năng và quyền hạn nữa ddể có thể giải quyết nhanh chóng các vụ việc. Có như thế thì Tổng cục Địa chính mới thực sự là cơ quan chuyên môn thuộc Chính phủ chức không phải là một cơ quan giúp việc như hiện nay. - Nhà và các công trình trên đất đều gắn liền với đất vì thế mà cần phải sớm thống nhất cơ quan quản lý đất và cơ quan quản lý nhà thành một cơ quan. b/ Nhóm giải pháp vi mô (của ngành Địa chính) - Trong mô hình tổ chức quản lý đất đai hiện nay của Tổng cục Địa chính về đại thể hình thành bởi 3 khối: Khối cơ quan nhà nước, khối đơn vị sự nghiệp, khối sản xuất kinh doanh, theo đó ở các sở địa chính cũng có loại hình tương tự, về lâu dài cần tách các đơn vị kinh doanh theo một hệ thống riêng không nằm trong mô hình tổ chức như hiện nay. Cơ quan Địa chính Trung ương chủ yếu quản lý Nhà nước đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị có liên quan đến nội dung quản lý của mình. Việc quản lý tập trung hay phân cấp - phân quyền cho địa phương cũng cần phải dựa trên hiệu lực - hiệu quả của quản lý. Nói chung về lâu dài, cơ quan Địa chính Trung ương chỉ nên tập trung vào những chức năng, nhiệm vụ có tính chiến lược, hàm lượng chất xám cao, tầm nhìn rộng với những trách nhiệm và thẩm quyền rõ ràng. - Việc sử dụng đất gắn liền với địa bàn cơ sở (xã), vì vậy cần nhìn rõ trách nhiệm và tăng cường quyền lực cho UBND xã (chủ tịch) đồng thời tăng cường bồi dưỡng trình độ chuyên môn cho cán bộ địa chính xã (phấn đấu đạt trình độ trung cấp và cao hơn). - Xây dựng một tổ chức - một đội ngũ cán bộ đủ năng lực để làm công tác quy hoạch sử dụng đất (nhất là ở cấp tỉnh). Khẳng định bằng pháp luật về trách nhiệm trực tiếp của cơ quan địa chính trong việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giáo đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển quyến sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, vi phạm Luật đất đai. - Xác định rõ chế định pháp luật và biện pháp tổ chức để quản lý đất đai trong quản lý thị trường bất động sản bao gồm các việc hoàn chỉnh các chế định về thế chấp giá trị quyền sử dụng để vay vốn sao cho vừa thuận tiện cho người vay, đồng thời bảo đảm lợi ích của người cho vay. - Xác định một cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có liên quan đến việc định giá đất, điều chỉnh giá đất, làm cho giá này luôn luôn phù hợp với thực tế, định ra phương thức áp dụng giá đất trên nguyên tắc vừa đảm bảo lợi ích chính đáng của người sử dụng đất, vừa đảm bảo lợi ích của xã hội, tạo thuận lợi cho việc tổ chức quản lý đất đai. - Kiện toàn tổ chức thanh tra địa chính. - Cán bộ địa chính xã có vị trí quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước về đất đai. Mọi vấn đề xảy ra trong quan hệ về đất đai đều bắt nguồn từ cơ sở và mội sự giải quyết cuối cùng đều kết thúc ở cơ sở. Vì vậy người cán bộ Địa chính xã ngoài yêu cầu phải có hiểu biết về pháp luật, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước; hiểu biết chuyên môn nghiệp vụ, còn phải am hiểu tình hình địa phương và phảđược ổn định lâu dài. Trong thực tế hiện nay cán bộ Địa chính xã thường phải kiêm nhiệm nhiều việc và thường xuyên phải thay đổi, không ổn định lâu dài do nhiều nguyên nhân, nhất là sau mỗi nhiệm kỳ Hội đồng Nhân dân xã. Vì vậy việc đặt cán bộ Địa chính xã trực thuộc phòng Địa chính huyện quản lý và trả lương là cần thiết. Về chế độ chính sách, đề nghị có chế độ thâm niên đối với cán bộ Địa chính xã để khuyến khích họ yên tâm công tác. - Cần thiết lập một hệ thống thông tin lưu trữ thông suốt từ Trung ương đến địa phương và đảm bảo cho hệ thống này hoạt động liên tục, đồng thời chuẩn hoá công tác này ở từng cấp trên cả 3 mặt: lưu trữ, quản lý, sử dụng thông tin theo hướng hiện đại hoá. - Để trong thời gian tới, cán bộ ở Tổng cục Địa chính cũng như các địa phương có số lượng lớn cán bộ được đào tạo đại học chính quy thì từ bây giờ Tổng cục cũng như các địa phương cần tạo điều kiện cho những sinh viên tốt nghiệp ra trường được làm việc và khẳng định mình bằng cách: tuỳ theo điều kiện có thể của cơ quan mà nhận một số sinh viên về thực tập và cho họ được làm việc. Trong quá trình thực tập sẽ phát hiện được một số có năng lực thực sự rồi sau đó cho những sinh viên này làm hợp đồng để tiếp tục thử thách, nếu đạt kết quả tốt thì nên nhận họ vào làm việc để tạo cho đội ngũ cán bộ có chuyên môn và năng lực thực sự ngày một tăng thêm như thế thì hiệu quả công việc chắc sẽ đạt cao hơn. Như thế thuận lợi cho cả cơ quan và cả người lao động, bởi vì cơ quan sẽ không bỏ sót tài năng còn người lao động có cơ hội khẳng định mình và có việc làm. - Bây giờ và trong những năm tới thì Tổng cục Địa chính cũng như các địa phương cần phải cho những cán bộ có chuyên môn đi đào tạo nâng cao để theo kịp với công nghệ mới. Bên cạnh đó, đối với những cán bộ chưa được đào tạo qua chuyên môn của ngành thì cho đi đào tạo lại nhằm nâng cao khả năng làm việc của họ đối với ngành. 3. Một số kiến nghị - Chính phủ cần phải nâng Tổng cục Địa chính lên thành một cơ quan của Chính phủ, có đầy đủ chức năng và quyền hạn của một cơ quan của Chính phủ. - Chính phủ cũng như ngành cần có chế độ hỗ trợ cho những cán bộ làm việc ở vùng sâu, vùng xa nơi mà điều kiện đi lại còn khó khăn và cơ sở hạ tầng chưa cao, để cho họ yên tâm công tác. Đối với cán bộ Địa chính xã, họ cần phải được hưởng chế chế độ của công chức Nhà nước và có chế độ thâm niên công tác để họ yên tâm công tác vì đây là một trong những cấp rất quan trọng trong bộ máy quản lý đất đai. - Bộ Giáo dục đào tạo cần phối hợp với các trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp trong cả nước để thống nhất chương trình đào tạo, hệ thống sách giáo khoa, những môn học bắt buộc. Từ những giải pháp và kiến nghị trên đây tôi xin đưa ra mô hình tổ chức bộ máy quản lý đất đai Việt Nam mới để thảo luận nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý đất đai Việt Nam trong thời gian tới: Cấp Trung ương Thành lập Bộ Địa chính trên cơ sở Tổng cục Địa chính hiện nay có điều chỉnh và bổ sung một số chức năng mới. Chức năng : Quản lý thống nhất về đất đai, nhà và các công trình trên đất, quy hoạch và bất động sản trên phạm vi cả nước. Nhiệm vụ của Bộ địa chính : - Cơ quan quản lý đất đai Trung ương phải thực hiện các nhiệm vụ sau đây: * Chuẩn bị các phương án quy hoạch, kế hoạch sử dụng tài nguyên đất đai trình Chính phủ, Quốc hội xem xét, phê duyệt, chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Quốc hội về tổ chức thực hiện các phương án đó * Quản lý hệ thống địa giới hành chính Nhà nước. * Tổ chức đăng ký bất động sản khơi nguồn thu ngân sách mở đường cho thị trường bất động sản phát triển và được vận hành lành mạnh. * Hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật đất đai, tạo điều kiện xây dựng Bộ Luật đất đai Việt Nam. * Tổ chức triển khai các nội dung quản lý Nhà nước về tài nguyên đất với tư cách là một cơ quan đầu não (quyết định và tổ chức thực hiện) và trung tâm điều hành (liên ngành) chịu trách nhiệm thống nhất quản lý tài nguyên đất đai quốc gia. + Xây dựng bộ luật đất đai của Việt Nam để trình Quốc hội thông qua và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy thi hành Bộ luật đất đai; + Tổ chức triển khai đầy đủ các nội dung quản lý Nhà nước về đất đai với tư cách là một cơ quan đầu não (quyết định và tổ chức thực hiện) và trung tâm điều hành (liên ngành) chịu trách nhiệm thống nhất quản lý Nhà nước về đất đai; + Quản lý địa giới hành chính các cấp; + Chuẩn bị các phương án quy hoạch, kế hoạch, sử dụng các loại đất trình Chính phủ, Quốc hội xem xét, phê duyệt theo thẩm quyền; Chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Quốc hội về tổ chức thực hiện các phương án đó. + Quản lý, tư vấn và dịch vụ kinh doanh bất động sản. + Tổ chức và dịch vụ thông tin đất đai trong cả nước. Cơ cấu tổ chức : - Lãnh đạo : Bộ trởng và các Thứ trưởng. - Khối quản lý nhà nước: + Vụ đo đạc và bản đồ, + Vụ pháp chế đất đai, + Vụ đăng ký - thống kê, + Vụ lãnh thổ và địa giới hành chính, + Vụ quy hoạch và kế hoạch SDĐ, + Các vụ quản lý khác (Văn phòng, TCCB, Khoa học, Hợp tác quốc tế, Kế hoạch - Tài chính, Thanh tra). - Khối sự nghiệp kinh tế, khoa học, kỹ thuật, dịch vụ : + Đo đạc, lập bản đồ địa chính; +Quy hoạch sử dụng đất đai; + Đăng ký thống kê và hồ sơ đất đai; + Thông tin đất đai; + Bất động sản; + Nghiên cứu khoa học về địa chính; + Đào tạo. Nhiệm vụ của các đơn vị: Khối quản lý: + Vụ đo đạc và bản đồ: quản lý công tác đo đạc và lập bản đồ địa chính; xây dựng kế hoạch đo đạc và lập bản đồ địa chính, tổ chức thực hiện, chỉ đạo và kiểm tra kỹ thuật công tác đo đạc và lập bản đồ địa chính. +Vụ pháp chế đất đai: tổ chức xây dựng bộ luật đất đai và các chính sách đất đai, nghiên cứu, xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật đất đai. Theo dõi, quản lý việc thực hiện Bộ luật đất đai và các chính sách đất đai. + Vụ lãnh thổ và địa giới hành chính: tham gia phân định biên giới quốc gia; tổ chức phân định ranh giới hành chính các cấp; chỉ đạo quản lý mốc biên giới quốc gia và mốc ranh giới hành chính các cấp; chỉ đạo giải quyết tranh chấp về ranh giới hành chính các cấp. + Vụ quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất: xây dựng quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, trình Chính phủ và Quốc hội phê duyệt; tổ chức thực hiện các phương án quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất; kiểm tra việc sử dụng đất hợp lý và sử dụng đất theo quy hoạch. + Vụ đăng ký - thống kê: quản lý việc đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất; thống kê đất đai; quản lý kinh doanh bất động sản. + Thanh tra: thanh tra việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý đất đai; giải quyết các đơn th khiếu tố. Khối sự nghiệp: Khối sự nghiệp bao gồm những đơn vị sự nghiệp, hoạt động bằng nguồn vốn sự nghiệp Nhà nước và “có thu” hoặc “lấy thu bù chi”. + Nghiên cứu khoa học về Địa chính: nghiên cứu khoa học, kết hợp với đào tạo cán bộ trên đại học; xây dựng tiêu chuẩn ngành, tham gia xây dựng Bộ luật đất đai và các dự án đòi hỏi quá trình nghiên cứu thử nghiệm. Có thể thành lập Học viện Địa chính. +Đào tạo cán bộ địa chính : đào tạo cán bộ Địa chính bậc Cao đẳng và đại học tại các trường Cao đẳng và đại học. +Trung tâm tư liệu và hồ sơ Địa chính : quản lý tài liệu gốc về : đo đạc, bản đồ Địa chính, hồ sơ đăng ký đất đai, hồ sơ giao đất, thu hồi đất, cho thuê đất, bản đồ và hồ sơ quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất. Khối sản xuất - kinh doanh Khối sản xuất - kinh doanh là những công ty (doanh nghiệp) nhà nớc, hoạt động theo cơ chế hạch toán kinh doanh. Nhiệm vụ chính của những công ty này là thực hiện các nhiệm vụ do nhà nước giao cho ngành Địa chính. Ngoài ra các công ty được phép ký hợp đồng với các cơ quan, tổ chức và cá nhân về các công việc có liên quan đến nhiệm vụ của ngành Địa chính. Cơ chế hạch toán kinh doanh và mục tiêu phục vụ rộng rãi mọi đối tượng trong xã hội, công khai hồ sơ và thông tin đất đai là phù hợp với một xã hội phát triển kinh tế thị trờng, có nền kinh tế phát triển mạnh, hoạt động đất đai luôn luôn biến động. Những công ty này đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ Địa chính nhằm đảo bảo vai trò quản lý của Nhà nước và đề cao các mục tiêu của Nhà nước. Cụ thể nên tổ chức hai loại công ty như sau: + Công ty đo đạc, bản đồ và quy hoạch, + Công ty tư vấn, dịch vụ thông tin đất đai và bất động sản. Cấp địa phương Cấp tỉnh: thành lập Sở Địa chính hoặc Sở Địa chính - Nhà đất. - Sở Địa chính (sở Địa chính - Nhà đất) tại mỗi tỉnh là cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND tỉnh, chịu sự chỉ đạo về chuyên môn - nghiệp vụ của Tổng cục Địa chính, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đất đai và nhà ở trên địa bàn tỉnh. - Nhiệm vụ của sở: + Quản lý và triển khai tác vụ thi hành Bộ luật đất đai trong toàn tỉnh; (Quản lý và triển khai tác vụ thi hành Pháp lệnh về nhà ở trong toàn tỉnh) + Quản lý địa giới hành chính toàn tỉnh; + Chuẩn bị các phương án quy hoạch, kế hoạch, sử dụng tất cả các loại đất thuộc tỉnh trình Bộ Địa chính và UBND tỉnh xem xét, phê duyệt theo thẩm quyền; chịu trách nhiệm trước Bộ Địa chính và UBND tỉnh về tổ chức thực hiện các phương án đó; + Thanh tra và xử lý việc thi hành các điều khoản của Bộ luật đất đai; + Tổ chức công tác đo đạc, lập bản đồ và hồ sơ địa chính; + Thực hiện giao đất, thu hồi đất theo thẩm quyền; + Quản lý hồ sơ đo đạc, bản đồ, đăng ký đất đai, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo phân cấp; + Chỉ đạo và quản lý công tác địa chính ở cấp huyện. Cấp huyện: thành lập Phòng Địa chính huyện hoặc Phòng Địa chính - Nhà đất. - Phòng Địa chính là cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND huyện, chịu sự chỉ đạo về chuyên môn - nghiệp vụ của Sở Địa chính tỉnh, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đất đai và nhà ở trên địa bàn huyện. - Nhiệm vụ của Phòng Địa chính : + Quản lý và triển khai tác vụ thi hành Bộ luật đất đai trong toàn huyện; (Quản lý và triển khai tác vụ thi hành Pháp lệnh về nhà ở trong toàn huyện) + Quản lý địa giới hành chính toàn huyện; + Thanh tra và xử lý việc thi hành các điều khoản của Bộ luật đất đai; + Thực hiện giao đất, thu hồi đất theo thẩm quyền; + Quản lý hồ sơ đo đạc, bản đồ, đăng ký đất đai, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo phân cấp; + Thực hiện đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, làm thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế quyền sử dụng đất; Đồng thời thu các khoản thuế và lệ phí về đất; + Thống kê đất đai; + Chỉ đạo và quản lý công tác địa chính ở cấp xã. Cấp xã: - Có 1 cán bộ địa chính, là viên chức nhà nước, trực thuộc sự quản lý của Phòng Địa chính huyện. - Nhiệm vụ: + Kiểm tra hồ sơ của dân trong xã để trình huyện: thực hiện đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, làm thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế quyền sử dụng đất; thực hiện giao đất, thu hồi đất theo thẩm quyền. + Quản lý mốc địa giới hành chính và mốc ranh giới đất đai thuộc xã. + Quản lý Bản đồ địa chính và hồ sơ địa chính thuộc xã. + Giải quyết tranh chấp đất đai, hướng dẫn thi hành Bộ luật đất đai. Kết luận Bộ máy quản lý đất đai là thành phần không thể thiếu được trong hệ thống quản lý Nhà nước của mỗi Quốc gia. Bộ máy quản lý đất đai được tổ chức tốt và hoạt động có hiệu quả có tác dụng làm ổn định tình hình chính trị, xã hội, tạo điều kiện phát triển kinh tế đất nước. Vì thế mà việc hoàn thiện bộ máy quản lý đất đai luôn là mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta. Bộ máy quản lý đất đai góp phần vào việc thực hiện chế độ sở hữu đất đai của nước ta là: sở hữu toàn dân. Thực hiện chủ trương của Nhà nước ta: là giao đất cho dân sử dụng ổn định lâu dài, tạo điều kiện cho mọi người dân có đất để ở, sản xuất và sinh sống. Sau 6 năm thực hiện chức năng, nhiệm vụ đã được Chính phủ quy định tại Nghị định số 34/CP ngày 23/4/1994, Tổng cục Địa chính cũng như ngành Địa chính đã đạt được một số thành tích nhất định, về cơ bản đã hoàn thành nhiệm vụ do Đảng và Nhà nước giao. Hệ thống tổ chức ngành từ Trung ương đến địa phương đã được hình thành và củng cố, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của cả hệ thống. Công tác quản lý nhà nước về đất đai và đo đạc - bản đồ bước đầu cơ bản đã được tập trung về một đầu mối, có nề nếp, đúng pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số khó khăn, chống chéo trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, chức năng của Chính phủ giao. Đó là: chưa quy định nhiệm vụ cụ thể cho ngành địa chính, hệ thống chính sách còn chưa đồng bộ, chưa có quy định về mối quan hệ giữa cơ quan quản lý đất đai với các cơ quan có liên quan đến vấn đề quản lý đất đai. Bộ máy quản lý đất đai của nước ta hiện nay thì sự phân công, phân cấp giữa các cấp còn chưa hợp lý và rõ ràng, nhiệm vụ còn chồng chéo, đặc biệt là trong công tác quản lý đô thị, thu ngân sách. Mối quan hệ giữa cơ quan Địa chính với chính quyền cùng cấp chưa quy định rõ về trách nhiệm quản lý đất đai, chưa đảm bảo tính độc lập tương đối giữa chính quyền và các cơ quan quản lý đất đai cùng cấp. - Chính phủ cần phải nâng Tổng cục Địa chính lên thành một cơ quan của Chính phủ, có đầy đủ chức năng và quyền hạn của một cơ quan của Chính phủ. - Chính phủ cũng như ngành cần có chế độ hỗ trợ cho những cán bộ làm việc ở vùng sâu, vùng xa nơi mà điều kiện đi lại còn khó khăn và cơ sở hạ tầng chưa cao, để cho họ yên tâm công tác. Đối với cán bộ Địa chính xã, họ cần phải được hưởng chế chế độ của công chức Nhà nước và có chế độ thâm niên công tác để họ yên tâm công tác vì đây là một trong những cấp rất quan trọng trong bộ máy quản lý đất đai. - Bộ Giáo dục đào tạo cần phối hợp với các trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp trong cả nước để thống nhất chương trình đào tạo, hệ thống sách giáo khoa, những môn học bắt buộc. Để quản lý và sử dụng đất đai tốt và có hiệu quả thì việc tìm hiểu thực trạng hiện nay của bộ máy là cần thiết nhằm tìm ra giải pháp hoàn thiện bộ máy. Để trong thời gian tới bộ máy được tổ chức tốt hơn và hoạt động có hiệu quả hơn đòi hỏi có sự cố gắng của toàn thể cán bộ ngành địa chính, sự chỉ đạo, hỗ trợ kịp thời của Nhà nước tạo điều kiện cho ngành Địa chính và bên cạnh đó là sự sự hợp tác chặt chẽ của các cơ quan hữu quan khác. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Chiến lược phát triển ngành Địa chính đến năm 2010, Tổng cục Địa chính, năm 1998. 2. Đề tài độc lập cấp Nhà nước: “cơ sở hoạch định các chính sách sử dụng hợp lý quỹ đất đai”, Viện nghiên cứu Địa chính - Tổng cục Địa chính, năm 2000. 3. Giáo trình Quản lý nhà nước về đất đai và nhà ở,TGS-TS. Lê Đình Thắng, NXB Chính trị quốc gia, năm 2000. 4. Hiến pháp nước công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. 5. Luật đất đai, NXB chính trị quốc gia, năm 1999.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0380.doc
Tài liệu liên quan