Đề tài Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Nhằm thực hiện Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam, Bộ Công nghiệp đang chỉ đạo xây dựng Định hướng chiến lược phát triển bền vững ngành Công nghiệp. Nội dung cơ bản sẽ tập trung vào một số vấn đề sau: 1. Tập trung phát triển mạnh những ngành có lợi thế so sánh để tạo tích luỹ, thu hút lao động xã hội, bao gồm các ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày dép, lắp ráp cơ điện tử, chế biến nông – lâm – thủy – hải sản, ngành công nghệ cao như công nghệ điện tử tin học, công nghệ sinh học, vật liệu mới ; kêu gọi đầu tư nước ngoài vào những ngành công nghiệp cần nhiều vốn, dựa vào nguồn tài nguyên như dầu khí, luyện kim, 2. Từng bước chuyển hướng từ xuất khẩu sản phẩm sơ cấp sang xuất khẩu dựa chủ yếu vào xuất khẩu sản phẩm thứ cấp, nhằm nâng cao ưu thế so với các nước trong việc khai thác, sử dụng nguồn lao động dồi dào; khuyến khích xuất khẩu, mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế, đồng thời nhận thêm các nguồn vốn ODA và FDI, tạo môi trường cho người lao động tiếp xúc với công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn và quản lý, góp phần nâng cao chất lượng và năng lực khai thác nguồn nhân lực. 3. Từng bước tái cơ cấu công nghiệp theo hướng giảm dần tỷ trọng khu vực nhà nước, tăng dần khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài: chú trọng phát triển hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ; hình thành các tập đoàn công nghiệp đa thành phần, đa ngành nghề để phối hợp sức mạnh và lợi thế của các thành phần, các ngành nghề, đồng thời làm đối tác cho các hoạt động kinh tế quốc tế, trụ cột cho nền kinh tế quốc dân.

doc24 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1552 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I__Lời Mở Đầu Chúng ta đang sống trong một thời đại cách mạng công nghiệp. Quanh ta khắp nơi trên thế giới đã và đang diễn ra quá trình chuyển đổi trong đời sống kinh tế. Quá trình cải cách kinh tế là thử thách lớn nhất đối với tất cả các dân tộc và các chế độ muốn thay đổi mô hình hoạt động kinh tế của mình. Có nhiều xu hướng khác nhau, song có một chủ đề chung là chuyển nền kinh tế sang định hướng thị trường. Các nhà lãnh đạo chính trị ở nhiều nơi trên thế giới đã đi đến kết luận rằng: nhìn chung, thị trường đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng một cách vững chắc. Tuy nhiên, cách thức để đạt được mục tiêu đó cũng rất khác nhau. Và cũng ở đây, mỗi nước xẽ tìm cho mình một con đường đi lên, dựa trên nền tảng lịch sử, văn hoá dân tộc. Với xu hướng phát triển tất yếu của thời đại, Việt Nam cũng chọn cho mình một con đường phát triển kinh tế. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã chọn cho đất nước của mình con đường phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là con đường phát triển tất yếu phù hợp với những điều kiện khách quan vốn có. Cũng xác định, việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ đưa nước ta thoát khỏi tình trạng lạc hậu, vươn lên một nền kinh tế hiện đại, ngang tầm với các nước trên thế giới, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. II. Khái niệm về kinh tế thị trường: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Hay còn nói, kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường, trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường. Điều kiện ra đời và tồn tại của kinh tế hàng hoá cũng như các trình độ phát triển của nó do sự phát triển của lực lượng sản xuất tạo ra. Kinh tế hàng hoá phát triển ở hai trình độ khác nhau: Ở giai đoạn thấp, còn gọi là kinh tế hàng hoá giản đơn, dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ về tư liệu sản xuất, kết hợp với sức lao động cá nhân, trình độ lao động thấp, năng suất lao động không cao. Giai đoạn cao, kinh tế hàng hoá phát triển với qui mô lớn dựa trên cơ sở sản xuất lớn bằng máy móc, năng suất lao động cao, bao gồm kinh tế hàng hoá TBCN và kinh tế hàng hoá XHCN. Kinh tế hàng hoá qui mô lớn vận động theo yêu cầu các qui luật kinh tế khách quan trên thị trường người ta gọi là nền kinh tế thị trường. Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc và bản chất nhưng không đồng nhất với nhau. Chúng khác nhau về trình độ phát triển. Cơ sở của thị trường là sự phân công lao động xã hội, trình độ và qui mô thị trường gắn liền với trình độ phát triển của phân công lao động xã hội, sản xuất và sức mua của xã hội. Theo Mác, “thị trường nghĩa là lĩnh vực trao đổi”. Lê Nin cho rằng, “khái niệm thị trường hoàn toàn không thể tách rời khái niệm phân công lao động xã hội … Hễ ở đâu và khi nào có phân công xã hội và sản xuất hàng hoá thì ở đó và khi ấy có thị trường. Qui mô của thị trường gắn chặt với trình độ chuyên môn hoá”. Sau hơn 30 năm xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, hơn 10 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành xây dựng nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng XHCN. III- NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM. 1.Đặc tính chung thống nhất của kinh tế thị trường. Thị trường có những đặc trưng chủ yếu sau : Thứ nhất, các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, nhưng có sự cạnh tranh gay gắt giữa các chủ thể kinh tế tham gia thị trường nhằm giành giật những điều kiện kinh doanh thuận lợi. Trong đó, tất yếu sẽ có người được và người thua. Tuy nhiên, cần phân biệt cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Thứ hai, giá cả do thị trường quyết định. Giá cả là phạm trù kinh tế trung tâm, là công cụ quan trọng thông qua cung cầu để kích thích và điều tiết hoạt động kinh tế của các chủ thể kinh tế tham gia thị trường. Sự biến động của cung cầu kéo theo sự biến động của giá cả thị trường và ngược lại, giá cả thị trường cũng điều tiết cung cầu. Hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và có tác dụng làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Thứ ba, nền kinh tế vận động theo những qui luật vốn có của kinh tế thị trường như qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh…Sự tác động của các qui luật đó hình thành cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế. Thứ tư, đối với nền kinh tế thị trường hiện đại thì còn có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hoá, các chính sách kinh tế. Tính hiệu quả của nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có một thị trường hoàn chỉnh – thị trường xã hội thống nhất, là một thị trường đồng bộ giữa các loại thị trường ( thị trường lực lượng sản xuất, tư liệu tiêu dùng, vốn, kĩ thuật, sức lao động… ) và có luật pháp thương mại chi phối. Có ba hình thái thị trường : Một là, thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường có nhiều người bán và nhiều người mua, sản phẩm đồng nhất, gia nhập hoặc rời bỏ thị trường rất dễ dàng và doanh nghiệp là người chấp nhận giá; Hai là, thị trường độc quyền là thị trường chỉ có một người bán, sản phẩm là độc nhất, gia nhập hay rời bỏ thị trường là khó khăn; Ba là, thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là thị trường độc quyền hai người hay độc quyền nhóm, cạnh tranh có tính độc quyền. Trong nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước, căn cứ vào thị trường, các doanh nghiệp sẽ quyết định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai với số lượng là bao nhiêu. 2. Tính đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường XHCN nhưng chưa hoàn toàn là nền kinh tế thị trường XHCN. Bởi vì, chúng ta còn đang trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, còn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, vừa có, vừa chưa đầy đủ yếu tố XHCN. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, một mặt vừa có những tính chất chung của nền kinh tế thị trường. Mặt khác, do dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi nguyên tắc và bản chất của CNXH, cho nên, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có những đăc trưng bản chất dưới đây : 2.1. Về mục tiêu phát triển kinh tế thị trường: Trong nhiều đặc tính có thể làm tiêu thức để phân biệt nền kinh tế thị trường nước ta với nền kinh tế thị trường khác, phải nói đến mục đích chính trị, mục tiêu kinh tế xã hội mà nhà nước và nhân dân ta đã lựa chọn làm định hướng chi phối sự vân động phát triển nền kinh tế. Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất của CNXH, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân. Nước ta thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng, lấy sản xuất gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp, gắn liền với xoá đói giảm nghèo. 2.2. Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là vấn đề có tính nguyên tắc và là sự khác biệt có tính bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng XHCN với kinh tế thị trường TBCN. Tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường nước ta đã quyết định kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng của nó. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới – XHCN ở nước ta. Mỗi thành phần kinh tế trong thời kì quá độ lên CNXH có bản chất kinh tế - xã hội riêng, chịu sự tác động của các qui luật kinh tế riêng, nên bên cạnh sự thống nhất còn có những khác biệt và mâu thuẫn khiến cho nền kinh tế thị trường nước ta có khả năng phát triển theo những hướng khác nhau. Chúng ta xác định, ngoài việc củng cố và phát triển các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu, chúng ta còn phải khuyến khích các thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu phát triển để hình thành nền kinh tế thị trường rộng lớn. Các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần đều bình đẳng với nhau trước pháp luật, vừa hợp tác vừa cạnh tranh nhau để phát triển. Tuy nhiên, vì dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất nên chúng không tránh khỏi tính tự phát chạy theo lợi nhuận đơn thuần, nảy sinh những hiện tượng tiêu cực làm tổn hại đến lợi ích chung của xã hội. Vì vậy, kinh tế nhà nước phải được xây dựng và phát triển có hiệu quả để thực hiện tốt vai trò của mình. 2.3. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện nhiều hình thúc phân phối theo thu nhập, trông đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu. Mỗi chế độ xã hội có chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân phối do quan hệ sản suất thống trị, trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kì quá độ lên CNXH, có nhiều cế độ sở hữu cùng tồn tại. Mỗi chế độ sở hữu có nguyên tắc phân phối tương ứngvới nó, vì thế trong thời kì quá độ tồn tại cơ cấu đa dạng về hình thức phân phối theo thu nhập Trong cơ chế thị trường ở nước ta, tồn tại các hình thức phân phối theo thu nhập sau : phân phối theo lao động, theo nguồn vốn, theo giá trị sức lao động, phân phối thông qua các quĩ phúc lợi xã hội. Sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường định hướng XHCN với kinh tế thị trường TBCN là ở chỗ xác lập chế độ công hữu và thực hiện phân phối theo lao động. Đây là đặc trưng bản chất của kinh tế thị trường định hướng XHCN, nó là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu. Vì thế phân phối theo lao động được xác định là hình thức phân phối chủ yếu trong thời kì quá độ lên CNXH. Nước ta xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Phát triển kinh tế thị trường là phương tiện để đạt được mục tiêu cơ bản xây dựng XHCN, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy mỗi bước tăng trưởng kinh tế ở nước ta phải gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. 2.4. Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước XHCN. Cơ chế thị trường có nhiều mặt tích cực nhưng cũng có không ít những mặt khuyết tật. Trong điều kiện ngày nay, hầu như tất cả các nền kinh tế của các nước trên thế giới đều có sự quản lí của nhà nước để nhằm hạn chế những mặt khuyết tật đó. Tức là cơ chế vận hành nền kinh tế của tất cả các nước đều là cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Nhưng điều khác biệt trong cơ chế vận hành nền kinh tế của ta là ở chỗ Nhà nước quản lí nền kinh tế không phải là nhà nước tư sản, mà là nhà nước XHCN. Sự quản lí của Nhà nước XHCN nhằm đưa nền kinh tế đi theo đúng hướng XHCN, vì vậy phải tăng cường vai trò quản lí của nhà nước thông qua các công cụ quản lí vĩ mô. Nhà nước quản lí nền kinh tế thị trường định hướng XHCN theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường. Đây là hai phương tiện khác nhau để điều tiết nền kinh tế. Kế hoạch là sự điều chỉnh có ý thức của chủ thể quản lí đối với nền kinh tế, còn cơ chế thị trường là sự tự điều tiết của bản thân nền kinh tế. Kế hoạch và thị trường cần được kết hợp với nhau trong cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, được thực hiện ở cả tầm vi mô lẫn vĩ mô. Thị trường là căn cứ để xây dựng và kiểm tra các kế hoạch phát triển kinh tế. Những mục tiêu và biện pháp mà kế hoạch nêu ra muốn được thực hiện có hiệu quả phải xuất phát từ yêu cầu của thị trường. Mặt khác, muốn cho thị trường hoạt động phù hợp với định hướng XHCN thì nó phải được hướng dẫn và điều tiết bởi kế hoạch. 2.5. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng là nền kinh tế mở, hội nhập. Đặc điểm này phản ánh sự khác biệt giữa nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng với nền kinh tế đóng khép kín trước đổi mới, đồng thời phản ánh xu hướng hội nhập của nền kinh tế nước ta trong điều kiện toàn cầu hoá nền kinh tế. Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, Vì vậy, mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu đối với nước ta nhằm thu hút vốn, khoa học công nghệ hiện đại, kinh nghiệm tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn. Thực hiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá các hình thúc đối ngoại, gắn thị trường trong nước với thị trường trong nước và thế giới, nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Trong thời gian tới, vẫn tiếp tục mở rộng đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại. Phải đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại, chủ động và tích cực thâm nhập thị trường thế giới, mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ cơ hội để mở ra thị trường mới, cải thiện môi trường đầu tư và bằng nhiều hình thức thu hút vồn đầu tư của nước ngoài. II - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM. 1. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam. 1.1. Trình độ phát triển kinh tế thị trường nước ta còn ở giai đoạn sơ khai. Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế kém phát triển mang nặng tính tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường. Đây thể hiện thực trạng nền kinh tế yếu kém của nước ta khi chuyển sang kinh tế thị trường. Điều đó được biểu hiện : Cơ sở vật chất, kĩ thuật còn ở trình độ thấp bên cạnh một số lĩnh vực, một số cơ sở kinh tế đã được trang bị kĩ thuật và công nghệ hiện đại thì vẫn còn nhiều ngành kinh tế máy móc cũ kĩ, công nghệ lạc hậu, lao động thủ công vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Do đó, năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất của nước ta còn thấp so với khu vực và thế giới. Kết cấu hạ tầng đường giao thông, bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc… vẫn còn lạc hậu, chưa phát triển dẫn đến sự giao lưu giữa các vùng , các dịa phương bị chia cắt, tách biệt nhau nên không thể khai thác hết được tiềm năng, thế mạnh của các vùng, các địa phương. Do cơ sở vật chất kĩ thuật còn ở trình độ thấp làm cho phân công lao động kém phát triển, chuyển dịch cơ cấu chậm. Nông nghiệp vẫn chiếm phần lớn lực lượng lao động, khoảng 70%, nhưng chỉ sản xuất khoảng 26% GDP, các ngành công nghệ cao chiếm tỉ trọng thấp. Kả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp còn yếu ở thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài. Do cơ sở vật chất, kĩ thuật và công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp. Do đó, khối lượng hàng hoá nhỏ bé, chủng loại hàng hoá chưa nhiều, chất lượng hàng hoá chưa cao, giá cả cao, vì thế khả năng cạnh tranh yếu. 1.2. Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành chưa đồng bộ. Giao thông vận tải kém phát triển nên chưa lôi cuốn được tất cả các vùng trong nước vào một mạng lưới lưu thông thống nhất. Thị trường hàng hoá - dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn nhiều hiện tượng tiêu cực : hàng giả, hàng nhập lậu, hàng nhái nhãn hiệu… Thị trường hàng hoá sức lao động mới hình thành. Nét nổi bật của thị trường này là sức cung về lao động có tay nghề nhỏ hơn sức cầu, trong khi đó cung về lao động giản đơn lại vượt quá cầu, nhiều người có sức lao động không tìm được việc làm. Thị trường tiền tệ, thị trường vốn có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều trắc trở, thủ tục rườm rà, nhiều vướng mắc. Thị trường chứng khoán ra đời nhưng có ít doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia. 1.3. Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường. Do vậy, chính vì điều đó, nền kinh tế nước ta có nhiều loại hình sản xuất hàng hoá cùng tồn tại, đan xen nhau, trong đó sản xuất hàn hoá nhỏ phân tán còn phổ biến. 1.4. Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh trình độ phát triển khoa học kĩ thuật của nước ta thấp xa so với hầu hết các nước khác. Toàn cầu hoá và khu vực hoá về kinh tế đang đặt ra cho các nước nói chung cũng như nước ta nói riêng những thách thức hết sức gay gắt. Nhưng đó là xu thế tất yếu khách quan. Vì vậy, chúng ta cần chủ động hội nhập, chuẩn bị tốt để tham gia vào khu vực hoá, toàn cầu hoá, thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá kinh tế đối ngoại, tận dụng ngoại lực để phát huy nội lực, nhằm thúc đẩy công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân định hướng đi lên CNXH. 1.5. Quản lí nhà nước về kinh tế -xã hội còn yếu. Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm. 2. Các giải pháp để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Một số giải pháp chủ yếu sau : 2.1. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần. Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, cần phải đổi mới cơ cấu sở hữu cũ ( sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể ) bằng cách đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Trên cơ sở này, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Lấy việc phát triển sức sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu quan trọng để khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế. Trong những năm tới, cần phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp nhà nước, thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá và đa dạng hoá sơ hữu đối với những doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm 100% vốn. Đẩy mạnh việc đổi mới khoa học kĩ thuật và công nghệ. Phát triển kinh tế tập thể dưới nhiều hình thức đa dạng, trong đó kinh tế hợp tác làm lòng cốt. Khuyến khích kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển cả ở thành thị và nông thôn. Khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân phát triển trong những ngành nghề sản xuất mà luật pháp không cấm. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế tư nhân trong và ngoài nước. 2.2. Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đai hoá, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học kĩ thuật, trên cơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động xã hội. Sự phát triển của phân công lao động xã hội do sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định, cho nên muốn mở rộng phân công lao động xã hội cần đẩy mạnh cônh nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của nền sản xuất lớn, hiện đại. Cùng với việc trang bị kĩ thuật và công nghệ hiện đại cho các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tiến hành phân công lao động và phân bổ dân cư trong cả nước, hình thành cơ cấu hợp lí cho phép khai thác tốt nhất các nguồn lực đất nước, tạo nên sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế. 2.3. Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường. Hình thành đồng bộ các loại thị trường là một yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tư duy và chính sách về hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường được khởi nguồn từ Đại hội lần thứ VI của Đảng với tư tưởng giải phóng sức sản xuất hàng hoá và lưu thông hàng hoá bằng việc thực hiện ba chương trình mục tiêu về lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Tư duy này tiếp tục được làm rõ ở Đại hội Đảng lần VII, VIII. Đến đại hội lần IX của Đảng vạch rõ ràng và dứt khoát hơn chủ trương xây dựng đồng bộ các loại thị trường theo định hướng XHCN. Sự cần thiết phải hình thành đồng bộ các loại thị trường được biểu hiện: Thực tiễn ở các nước chuyển đổi và ở nước ta thời gian qua cho thấy dù muốn hay không, một khi đã lựa chọn con đường phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, có nghĩa là đã chấp nhận sự hiện hữu của thị trường với đầy đủ các loại thị trường. Chúng ta cần xây dựng đầy đủ các loại thị trường để nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam vận hành có hiệu quả. Trong nền kinh tế thị trường, hầu hết các nguồn lực kinh tế đều thông qua thị trường mà được phân bổ vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinht tế một cách tối ưu. Vì vậy, để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng ta phải hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường. Phát triển thị trường hàng hoá - dịch vụ thông qua việc đẩy mạnh sản xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hình thành thị trường sức lao động có tổ chức để tạo điều kiện cho sự di chuyển sức lao động theo yêu cầu phát triển kinh tế và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực. Xây dựng thị trường vốn, từng bước hình thành và phát triển thị trường chứng khoán để huy động các nguồn vốn vào phát triển sản xuất. Quản lý chặt chẽ đất đai và thị trường nhà ở. Xây dựng, phát triển thị trường thông tin, thị trường khoa học công nghệ. Hoàn thiện các loại thị trường đi đôi với khuôn khổ pháp lý và thể chế, tăng cường sự kiểm tra, giám sát của nhà nước, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh, có biện pháp hữu hiệu chống buôn lậu và gian lận thương mại. Phương pháp tiếp cận để xây dựng đồng bộ các loại thị trường : Việc xây dựng đồng bộ không có nghĩa là phải cùng một lúc xây dựng đầy đủ các loại thị trường mà được tiến hành từng bước, có thử nghiệm, rút kinh nghiệm và làm tiếp. Cần hiểu quá trình phát triển đồng bộ các loại thị trường là một quá trình liên tục, kiên định và cần có thời gian, không thể nóng vội cũng không được ngập ngừng, do dự, gây ra chậm trễ va tổn thất mọi mặt. 2.4. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Mở cửa kinh tế hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới để thu hút vốn, kĩ thuật và công nghệ hiện đại, khai thác tiềm năng và thế mạnh của đất nước. Nhưng cần quán triệt nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, không can thiệp vào nội bộ của nhau, mở rộng theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá các hình thức kinh tế đối ngoại, coi xuất khẩu là trọng điểm của kinh tế đối ngoại, giảm nhập siêu, ưu tiên nhập tư liệu sản xuất để phục vụ sản xuất. 2.5. Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp. Sự ổn định về chính trị là điều kiện để các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và nước ngoài yên tâm đầu tư. Muốn giữ vững sự ổn định chính trị ở nước ta hiện nay cần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đồng thời, sự đồng bộ về hệ thông pháp luật là công cụ để nhà nước quản lý nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động kinh tế, buộc các doanh nghiệp chấp nhận sự điều tiết của nhà nước. 2.6. Xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế của nhà nước. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta. Để nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý của nhà nước, cần nâng cao năng lực của các cơ quan luật pháp, hành pháp và tư pháp, có hệ thông chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thận lợi cho hoạt động kinh tế, hạn chế khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Nhà nước sử dụng các biện pháp kinh tế là chính để điều tiết nền kinh tế, chứ không phải là mệnh lệnh. Vì vậy, phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách tiền lương và giá cả. Hiện nay, mặc dù nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nước ta còn ở trình độ kém phát triển, bởi lẽ cơ sở vật chất, kĩ thuật còn lạc hậu, thấp kém, nền kinh tế ít nhiều còn mang tính tự cấp tự túc. Tuy nhiên, nước ta không lặp lại nguyên vẹn tiến trình phát triển của các nước đi trước : Kinh tế hàng hoá giản đơn chuyển lên kinh tế thị trường tự do, rồi từ kinh tế thị trường tự do chuyển lên kinh tế thị trường hiện đại, mà cần phải và có thể xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại định hướng xã hội chủ nghĩâ theo kiểu rút ngắn. Điều này có nghĩa là phải đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá để phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất, xây dựng tương đối được cơ sở vật chất kĩ thuật, nắm bắt kịp thời với tốc độ phát triển chung của thế giới. Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc quản lý kinh tế vĩ mô và thực hiện định hướng XHCN. 3. Mục tiêu phát triển từ nay đến 2020. Qua hơn một thập kỉ trăn trở, tìm tòi, vừa thử nghiệm trong nước vừa quan sát thế giới, từng bước chuẩn xác hoá quan niệm trong tư duy, hoạt động trong thực tiễn, cách diễn đạt bằng ngôn từ cho đến Đại hội IX năm 2001, chúng ta đã xác định rằng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong suốt thời kì quá độ đi lên CNXH. Phát riển nền kinh tế thị trường ấy là đường lối chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước ta. Bước vào thế kỉ mới, tình hình trong nước và bối cảnh quốc tế có nhiều thuận lợi, cơ hội lớn đan xen với những khó khăn thách thức lớn. Thế và lực nước ta mạnh hơn nhiều so với trước. Chính trị xã xã hội ổn định, quan hệ sản xuất được đổi mới phù hợp hơn. Thể chế kinh tế thị trường đã bước đầu hình thành và vận hành có hiệu quả. Hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách phù hợp và đang phát huy trong việc phát triển kinh tế và đời sông xã hội. Tuy nhiên, trình độ phát triển nước ta còn thấp, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh còn kém, qui mô sản xuất nhỏ bé, mức thu nhập và tiêu dùng dân cư thấp. Vấn đề đặt ra là phải phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc đặc biệt là trí tuệ người Việt Nam. Cũng vì những thuận lợi và khó khăn đó, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra mục tiêu phấn đấu từ nay đến năm 2020 : Mục tiêu tổng quát từ 2001 – 2020 : Đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường XHCN được hình thành về cơ bản, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Thực trạng và giải pháp của nền công nghiệp thép ở Việt Nam Tổng công ty Thép Việt Nam (TCT) là doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh sản phẩm thép, được thành lập theo Quyết định số 91/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 7 tháng 3 năm 1994. Trải qua 10 năm xây dựng và phát triển, Tổng công ty Thép Việt Nam đã đạt những thành tích quan trọng, đảm bảo được vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong ngành công nghiệp thép của đất nước. Năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của Tổng công ty Thép Việt Nam được nâng lên rõ rệt và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Hiện tại với năng lực sản xuất chiếm khoảng 80% công suất luyện thép và 27% công suất cán thép của cả nước, Tổng công ty Thép Việt Nam là nhà sản xuất thép lớn nhất Việt Nam. Năng lực sản xuất thép cán năm 2005 của Tổng công ty đạt 2 triệu tấn/năm (thép dài 1,6 triệu tấn/năm và thép dẹt 405.000 tấn/năm), tăng hơn 4 lần so với năm 1995. Năng lực sản xuất phôi thép năm 2006 sẽ đạt 1,1 triệu tấn/năm, tăng gấp 3,7 lần so với năm 1995; Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu hội nhập, Tổng công ty Thép VN nói riêng và ngành thép Việt Nam nói chung còn phải nỗ lực vượt qua nhiều thử thách, đặc biệt là trong lĩnh vực đổi mới tổ chức quản lý, tăng cường đầu tư công nghệ hiện đại để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và khu vực. Với bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất thép, TCT Thép Việt Nam đóng vai trò trung tâm của ngành thép cả nước. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp thép trong việc mở rộng thị phần tiêu thụ sản phẩm ở trong nước và nước ngoài. Hiện tại, TCT Thép VN đang sở hữu một đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật có tay nghề cao, đã được thử thách và tôi luyện trong sản xuất. Tham gia hội nhập sẽ tạo cho TCT có điều kiện nhanh chóng tiếp cận công nghệ mới, phương pháp quản lý hiện đại, giúp TCT rút ngắn thời gian hiện đại hoá các cơ sở sản xuất của mình. Bên cạnh đó, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra cho TCT Thép Việt Nam nhiều thách thức mới. Hiện tại, các cơ sở sản xuất của TCT tuy lớn, nhưng dây chuyền thiết bị công nghệ đã cũ và lạc hậu so với thế giới và khu vực (trừ một số nhà máy mới được đầu tư, nâng cấp). Vì vậy, các chỉ tiêu kinh tế – kỹ thuật ở các đơn vị thuộc TCT vẫn còn thấp kém so với các đơn vị liên doanh cũng như các nước trong khu vực và trên thế giới. Chỉ đơn cử các chỉ tiêu kinh tế – kỹ thuật trong khâu luyện thép bằng lò điện đã cho thấy, các chỉ tiêu này đều kém hơn so với các nước có nền công nghiệp thép tiên tiến trên thế giới (xem bảng 1) Mặt khác, sản phẩm thép của TCT vẫn chưa đa dạng mà tập trung chủ yếu vào lĩnh vực thép xây dựng. Công tác dự báo tình hình biến động giá thép trên thị trường còn hạn chế, TCT chưa xây dựng được hệ thống thông tin độc lập dự báo biến động thị trường phục vụ cho công tác điều hành sản xuất – kinh doanh. I. Thực trạng và giải pháp a. Thành tựu và thách thức trong phát triển sản xuất công nghiệp - Đến năm 2005, cả nước có hơn 20.000 doanh nghiệp công nghiệp, tăng gần gấp đôi so với năm 2000, với tổng số lao động ước tính là 5,6 triệu người, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân là 13,7%/năm (giai đoạn 2000-2005). Số lượng các doanh nghiệp công nghiệp tập trung chủ yếu vào ngành chế biến nông, lâm, thủy sản, dệt may và da giày. - Giá trị sản xuất công nghiệp cả nước năm 2005 đạt 410.566 tỷ đồng (theo giá cố định 94), tăng hơn 2,07 lần so với năm 2000 (198.326 tỷ đồng). Tăng trưởng giá trị SXCN bình quân 5 năm tăng từ 13,92%/năm trong giai đoạn 1996-2000 lên 15,7%/năm trong giai đoạn 2001-2005, vượt chỉ tiêu đề ra cho 5 năm là 13%/năm. - Tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng từ 36,7% năm 2000 lên 41,1% năm 2005 (vượt mục tiêu của Đại hội IX đặt ra là 38-39% vào năm 2005). - Giá trị gia tăng của sản xuất công nghiệp (VA) năm 2005 đạt 138.398 tỷ đồng (giá cố định 94), đạt tốc độ tăng trưởng trung bình 10,3%/năm cho giai đoạn 2001-2005 đóng vai trò động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. - Kim ngạch xuất khẩu tiếp tục có tăng trưởng cao, từ 14,4 tỷ USD năm 2000 lên 32,23 tỷ USD vào năm 2005, trong đó, hàng công nghiệp chiếm 76%. Ngành Công nghiệp tiếp tục chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp chế biến nhờ phát triển nguồn nguyên liệu trong nước, phát triển thị trường và năng lực sản xuất, chế tạo thiết bị. Tuy nhiên, ngành Công nghiệp cũng gặp không ít khó khăn, thách thức trong việc duy trì sự phát triển bền vững trong giai đoạn tới, đặc biệt khi Việt Nam gia nhập WTO. Đó là sự cạnh tranh ác liệt trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, trong khi công nghệ của các ngành Công nghiệp nước ta phần lớn còn lạc hậu, chậm được đổi mới, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao, trình độ và công cụ quản lý kinh doanh trong các doanh nghiệp còn yếu, đã làm cho sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp thấp. Sự thiếu chủ động về nguyên liệu, vật tư đầu vào cho sản xuất, thiếu các thương hiệu mạnh cho các sản phẩm công nghiệp, chất lượng tăng trưởng công nghiệp và giá trị gia tăng trong sản xuất công nghiệp của nhiều ngành thấp… cũng là những khó khăn, thách thức không nhỏ cho sự phát triển bền vững của ngành Công nghiệp trong những năm tới. Thêm vào đó, trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, khi hàng rào thuế quan hạ thấp, các sản phẩm của Trung Quốc và nhiều nước ASEAN dễ dàng thâm nhập vào thị trường Việt Nam, cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn trên thị trường nội địa. b. Các hoạt động bảo vệ môi trường công nghiệp Bên cạnh những thách thức về duy trì tốc độ tăng trưởng và năng lực cạnh tranh, các ngành công nghiệp cũng gặp không ít những vấn đề thách thức về môi trường. Do một tỷ lệ khá lớn các nhà máy, xí nghiệp được đầu tư từ thời bao cấp với công nghệ, thiết bị lạc hậu, nhiều cơ sở hoạt động không có hệ thống xử lý khí thải và nước thải, hoặc hệ thống hoạt động kém hiệu quả, phân bố gần hoặc đan xen với các khu dân cư (thường hình thành sau khi có nhà máy) nên tình trạng ô nhiễm môi trường không khí, môi trường nước khá nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sức khoẻ đời sống của người dân xung quanh nhà máy. Thực hiện Nghị quyết số 41/NQ-TW của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam, trong thời gian qua, ngành Công nghiệp đã quan tâm triển khai các hoạt động bảo vệ môi trường như xây dựng các chương trình, đề án về bảo vệ môi trường ngành công nghiệp, nhằm thực hiện các chương trình ưu tiên trong chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia, chương trình xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo Quyết định 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Đề án “Hạn chế và giảm dần việc sử dụng hóa chất độc hại, các bao bì làm từ các loại vật liệu khó phân hủy trong công nghiệp, thay thế bằng các nguyên vật liệu thân thiện với môi trường”; Chương trình “áp dụng sản xuất sạch hơn trong công nghiệp” trong khuôn khổ chương trình hợp tác Việt Nam - Đan Mạch trong lĩnh vực môi trường do Chính phủ Đan Mạch tài trợ; đề án tăng cường quản lý chất thải rắn tại các khu công nghiệp… Theo Quyết định số 64 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công nghiệp được giao chỉ đạo 65 cơ sở nằm trong danh sách ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, cần áp dụng các biện pháp xử lý như di chuyển địa điểm, đổi mới công nghệ, nâng cấp hệ thống xử lý chất thải và xây dựng mới hệ thống xử lý chất thải. Nhìn chung, các đơn vị thuộc Bộ quản lý đã tiến hành các bước thực hiện theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và có kế hoạch cụ thể cho các năm tiếp theo với mục tiêu hoàn thành đúng tiến độ quy định. Các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng hầu hết đã áp dụng các biện pháp xử lý để giảm thiểu ô nhiễm. Ngoài việc chỉ đạo các doanh nghiệp nằm trong danh sách phải xử lý môi trường theo Quyết định 64, nghiêm túc thực hiện các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm, Bộ Công nghiệp đã phối hợp với UBND thành phố Hồ Chí Minh triển khai thực hiện chương trình di dời các cơ sở công nghiệp gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trên địa bàn Thành phố. Đến nay, đã có 465 cơ sở thực hiện di dời, 372 cơ sở đã ngưng sản xuất, 47 cơ sở đã thay đổi ngành nghề. Bộ Công nghiệp cũng đã chỉ đạo tổ chức tốt mạng lưới quản lý môi trường nhằm quản lý tốt các hoạt động BVMT, ngăn ngừa và nắm bắt kịp thời các vấn đề ô nhiễm môi trường phát sinh, nhanh chóng đưa ra các biện pháp quản lý phù hợp. Hoạt động nghiên cứu, đào tạo nâng cao nhận thức, năng lực quản lý và BVMT cũng được Bộ quan tâm chỉ đạo triển khai có kết quả, cụ thể: - Chỉ đạo triển khai nhiều chương trình, dự án nghiên cứu phục vụ BVMT như Dự án “Kế hoạch tổng thể ngăn ngừa ô nhiễm công nghiệp” với sự tài trợ của Tổ chức JICA Nhật Bản; Chương trình KH&CN trọng điểm cấp Bộ về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; trình Chính phủ ban hành Nghị định số 102/2003/NĐ-CP phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2006-2015 (Quyết định số 79/2006/QĐ-TTg)… - Chỉ đạo các tổng công ty xây dựng các Quy chế BVMT ngành, chiến lược và chương trình BVMT lồng ghép trong các chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành Điện, Than, Dệt-May… - Tổ chức nhiều lớp tập huấn và hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp công nghiệp áp dụng sản xuất sạch hơn và hệ thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14.000; tổ chức các phong trào xanh, sạch, đẹp trong các doanh nghiệp công nghiệp; phát động các tuần lễ quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường; ngày môi trường thế giới… II. Xây dựng định hướng chiến lược về phát triển công nghiệp bền vững Nhằm thực hiện Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam, Bộ Công nghiệp đang chỉ đạo xây dựng Định hướng chiến lược phát triển bền vững ngành Công nghiệp. Nội dung cơ bản sẽ tập trung vào một số vấn đề sau: 1. Tập trung phát triển mạnh những ngành có lợi thế so sánh để tạo tích luỹ, thu hút lao động xã hội, bao gồm các ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày dép, lắp ráp cơ điện tử, chế biến nông – lâm – thủy – hải sản, ngành công nghệ cao như công nghệ điện tử tin học, công nghệ sinh học, vật liệu mới…; kêu gọi đầu tư nước ngoài vào những ngành công nghiệp cần nhiều vốn, dựa vào nguồn tài nguyên như dầu khí, luyện kim,… 2. Từng bước chuyển hướng từ xuất khẩu sản phẩm sơ cấp sang xuất khẩu dựa chủ yếu vào xuất khẩu sản phẩm thứ cấp, nhằm nâng cao ưu thế so với các nước trong việc khai thác, sử dụng nguồn lao động dồi dào; khuyến khích xuất khẩu, mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế, đồng thời nhận thêm các nguồn vốn ODA và FDI, tạo môi trường cho người lao động tiếp xúc với công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn và quản lý, góp phần nâng cao chất lượng và năng lực khai thác nguồn nhân lực. 3. Từng bước tái cơ cấu công nghiệp theo hướng giảm dần tỷ trọng khu vực nhà nước, tăng dần khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài: chú trọng phát triển hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ; hình thành các tập đoàn công nghiệp đa thành phần, đa ngành nghề để phối hợp sức mạnh và lợi thế của các thành phần, các ngành nghề, đồng thời làm đối tác cho các hoạt động kinh tế quốc tế, trụ cột cho nền kinh tế quốc dân. 4. Thực hiện cơ cấu phân bố công nghiệp theo hướng phát triển và dịch chuyển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động về nông thôn, hình thành công nghiệp nông thôn, phát triển mạnh doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn cho hoạt động sơ chế, chế tạo chi tiết linh kiện cho các cơ sở công nghiệp lớn, tập trung ở các đô thị trong điều kiện đặc thù Việt Nam, đảm bảo phát triển cân đối; chú trọng phát triển công nghiệp theo các tuyến giao thông (cảng biến, trục giao thông, trục đường thủy, bộ) để phát huy các lợi thế. 5. Chú trọng đổi mới công nghệ trong các ngành công nghiệp nhằm nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp; giảm ô nhiễm môi trường; sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; đặc biệt trong ngành khai thác và chế biến khoáng sản. 6. Đổi mới tổ chức, quản lý KH&CN, nâng cao vai trò của KHCN trong việc đổi mới, hiện đại hóa công nghệ của các ngành, đồng thời tăng cường tiếp nhận, làm chủ và phát triển các công nghệ mới, hiện đại. 7. Phát triển công nghiệp đi đôi với bảo vệ môi trường. Thực hiện tốt công tác quản lý và bảo vệ môi trường, đầu tư mới và cải tạo các hệ thống xử lý chất thải, nhằm thực hiện nghiêm chỉnh việc xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; chú trọng áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn; nghiên cứu hình thành và phát triển ngành công nghiệp môi trường, ưu tiên ứng dụng công nghệ sạch và công nghệ thân thiện với môi trường. 8. Tăng cường công tác vệ sinh an toàn, bảo hộ lao động, phòng chống cháy nổ, đặc biệt trong ngành khai thác mỏ; khuyến khích áp dụng các hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế như ISO 9.000; ISO 14.000; SA 8.000, HACCP; quan tâm chăm lo đời sống, sức khoẻ, bệnh nghề nghiệp cho người lao động. 9. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về phát triển bền vững trong ngành Công nghiệp. 10. Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế, thu hút hỗ trợ của quốc tế về kinh nghiệm, kỹ thuật, công nghệ và tài chính để hội nhập, phát triển và bảo vệ môi trường công nghiệp. C - KẾT THÚC VẤN ĐỀ. 17 năm đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội vừa qua không phải là một tiến trình thẳng tắp luôn đi lên về mọi mặt và trong mọi lúc. Trái lại, đó là những chặng đường gian khó, có thăng trầm, có những bước tiến suôn sẻ nhẹ nhàng và cũng có những bước tiến trầy trật, vất vả, thậm chí có cả sự do dự, ngập ngừng. Nhìn lại 17 năm đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội, thành tựu là to lớn, như một cuộc đổi đời so với 20 năm trước đây. Đại hội Đảng lần IX đã đánh giá rất thích đáng công cuộc đổi mới là một trong ba thắng lợi lớn của Cách mạng Việt Nam. Nhưng thành tựu ấy chưa phát huy được hết khả năng và tiềm năng, cũng chưa đáp ứng được nguyện vọng và đòi hỏi của dân tộc ta. Nguyên nhân đó đã được vạch ra trong nhiều nghị quyết của Đảng và đã thể hiện rõ trong thực tế cuộc sống mà nguyên nhân mấu chốt nhất hiện nay là tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế dộ ta. Tình trạng lãng phí, quan liêu còn khá phổ biến. Chặng đường sắp tới của đổi mới và phát triển kinh tế xã hội là chặng đường tiếp tục đấu tranh mậnh mẽ hơn, dứt khoát hơn, kiên quyết hơn để khắc phục những yếu kém trên đây, phát huy những thế mạnh của đất nước. Các thành quả đổi mới đã đạt được, chiếm lĩnh những kiến thức tiên tiến của thời đại, tạo ra những bước bứt phá mới. Chặng đường sắp tới là chặng đường vươn lên chất lượng cao để đạt tốc độ nhanh của sự phát triển.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10613.doc
Tài liệu liên quan