Đề tài Thực trạng và một số giải pháp thực hiện công tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay

Mục lục Lời nói đầu 1 Chương 1 Lý luận chung về bảo hiểm xã hội và công tác chi trả BHXH 3 1.1Sự cần thiết khách quan của BHXH trong đời sống kinh tế xã hội. 3 1.2. Sự ra đời của BHXH. 5 1.3. Những nội dung cơ bản về BHXH. 6 1.3.1. Bản chất, chức năng và nhiệm vụ của BHXH. 6 1.3.2. Quỹ Bảo hiểm xã hội. 10 chi đầu tư cơ sở vật chất. 12 1.3.3. Vấn đề chi trả BHXH. 13 Chương 2 Thực trạng công tác chi trả các chế độ BHXH ở Việt Nam hiện nay 16 2.1. Vài nét về chính sách BHXH ở Việt Nam 16 2.1.1. Trước năm 1995 16 2.1.2. Thời kỳ năm 1995 đến nay. 19 2.2. Mô hình tổ chức BHXH ở Việt nam hiện nay. 22 2.3. Thực trạng công tác chi trả các chế độ BHXH ở Việt Nam 24 2.3.1. Khái quát chung về quỹ BHXH và hệ thống các chế độ BHXH ở nước ta hiện nay. 24 2.3.2. Tình hình thực hiện chi trả các chế độ BHXH 30 2.3.3. Đánh giá chung về công tác chi trả các chế độ BHXH 36 Chương 3 Giải pháp hoàn thiện công tác chi trả các chế độ BHXH ở việt nam hiện nay 41 3.1. Những thuận lợi và khó khăn trong công tác chi trả 41 3.1.1. Những thuận lợi 41 3.1. 2. Những khó khăn. 42 3.2. Các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện tốt công tác chi trả 45 3.2.1. Tiếp tục củng cố và hoàn thiện các mô hình chi trả đang được thực hiện. 45 3.2.2. Đào tạo, nâng cao tinh thần trách nhiệm và trình độ chuyên môn cán bộ làm công tác quản lý chi trả. 47 3.2. 3. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong công tác chi trả. 50 3.2.4. Đẩy mạnh việc cải tiến quy trình và thủ tục chi trả 52 3.2.5. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền. 53 3.2. 6. Đầu tư phương tiện tin học, nối mạng trong toàn ngành BHXH để quản lý các hoạt động BHXH. 54 3.2.7. Bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH 55 3.2.8. Tăng cường giám sát hoạt động công đoàn cơ sở trong thực hiện chính sách BHXH. 56 3.2.9. Đầu tư cho phương tiện đi lại và công tác đảm bảo an toàn tiền mặt trong quá trình chi trả 57 3.2.10. Có kế hoạch hợp tác với các ngành, các cấp trong việc tổ chức thực hiện. 57 kết luận 59

doc80 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1956 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và một số giải pháp thực hiện công tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giảm dần. Như vậy, Quỹ BHXH phải gánh nhận đối tượng nhiều hơn, do đó đòi hỏi phả i thực hiện tốt công tác quản lý chi trả vì khối lượng tiền nhiều hơn. . Chế độ tử tuất Bảng 10 cho ta thấy: cơ cấu chi của BHXH cho trợ cấp tử tuất theo thời gian và theo nguồn chi đã có sự giảm dần về tỷ trọng chi từ NSNN trong cơ cấu chi BHXH cho trợ cấp tuất. Từ 96,79% năm 1995 xuống còn 75,84% năm 2004. Đây là một dấu hiệu rất đáng mừng của BHXH Việt Nam. Tuy nhiên, sự giảm xuống này biến động không đều qua các năm vì bệnh tật, ốm đau và rủi ro chết là những điều không thể biết trước được. Trong cơ cấu tổng chi BHXH thì tỷ trọng chi BHXH cho trợ cấp tuất và mai táng phí chiếm con số rất nhỏ,nhưng có xu hướng tăng dầnnăm 1997 tỷ trog trong cơ cấu chi là 1,035 % nhưng đến năn 2004 tỷ trong trong cơ cấu chi là 24,165% 2.3.3. Đánh giá chung về công tác chi trả các chế độ BHXH 2.3.3.1. Những kết quả đạt được: Việc giải quyết chính sách và chi BHXH do thay đổi lại phương thức quản lý: người lao động chỉ lập hồ sơ, chứng từ ban đầu đề nghị cho người lao động được hưởng các chế độ BHXH. Cơ quan BHXH phải kiểm tra hồ sơ chứng từ, xác định mức hưởng và tổ chức thẩm định trước khi ra quyết định cho đối tượng được hưởng các chế độ BHXH. Do đó, việc giải quyết các chế độ, chính sách BHXH được chặt chẽ, đúng đối tượng, đúng chế độ. Việc chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH đảm bảo đúng kỳ, đủ số, tận tay, không phiền hà cho người được hưởng. Riêng năm 2003đã giải quyết 1009378 lượt người nghỉ ốm, với số tiền chi trả là 155,5 tỷ đồng; số người hưởng chế độ thai sản 116416 người, với số tiền chi trả là 443.8 tỷ đồng. Tính đến cuối năm 2003, tổng số người hưởng các chế độ: hưu, TNLĐ- BNN, thai sản, mất sức lao động và tuất hàng tháng là 2.763.485 người. Tổng số tiền chi BHXH trong năm 2003là 13937,2 tỷ đồng. Nói chung, công tác chi trả các chế độ BHXH của BHXH Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, cụ thể là: a) Chế độ trợ cấp ốm đau: Chế độ trợ cấp ốm đau có chức năng trả trợ cấp thay lương trong những ngày người lao động nghỉ ốm hoặc nghỉ chăm sóc con dưới 7 tuổi bị ốm. - Hàng năm BHXH Việt Nam đã thực hiện chế độ trợ cấp ốm đau đã góp phần ổn định cuộc sống cho những người lao động và gia đình họ khi gặp rủi ro ốm đau, tạo điều kiện để người lao động nhanh chóng phục hồi sức khoẻ, tiếp tục tham gia lao động sản xuất - Mức trợ cấp 75% tiền lương đã gắn với mức đóng góp, đồng thời thể hiện rõ tính cộng đồng chia sẻ rủi ro, người không ốm đau thì không hưởng trợ cấp để bù đắp cho những người ốm đau. - Việc quy định thời gian nghỉ ốm đau được hưởng trợ cấp từ 30 đến 60 ngày tuỳ theo số năm đóng BHXH và điều kiện lao động đã thể hiện sự công bằng và quan tâm của Nhà nước đối với lao động nặng nhọc, độc hại. b) Chế độ thai sản: áp dụng đối với lao động nữ sinh con thứ nhất và thứ hai, khi sinh con được nghỉ hưởng nguyên lương từ 4 đến 6 tháng tuỳ theo điều kiện lao động (khi bị xảy thai hoặc sau khi sinh mà con bị chết cũng được hưởng trợ cấp). Mức trợ cấp thai sản bằng 100% tiền lương đóng BHXH, ngoài ra còn được trợ cấp một lần với mức 1 tháng tiền lương. - Chế độ trợ cấp thai sản đối với lao động nữ đã thể hiện tính trách nhiệm của toàn xã hội trong việc bảo vệ sức khoẻ của phụ nữ và trẻ em, được thể hiện thông qua việc quy định người sử dụng lao động phải đóng BHXH để tạo nguồn quỹ trợ cấp cho phụ nữ khi sinh con. Số liệu thống kê cho thấy: năm 1997 đã trợ cấp cho 95202 chị em với số tiền là 119.3 tỷ đồng; năm 1998 đã trợ cấp cho 89049 chị em với số tiền là 140,6 tỷ đồng; năm 1999 đã trợ cấp cho 100066 chị em với số tiền là 158 tỷ đồng;…. và năm 2003 đã trợ cấp cho 116416 chị em với số tiền là 443,8 tỷ đồng. - Do thời gian nghỉ sinh con được hưởng trợ cấp bằng 100% lương kéo dài từ 4 đến 6 tháng tuỳ theo điều kiện lao động mà phụ nữ đã mau chóng phục hồi sức khoẻ và có điều kiện chăm sóc trẻ mới sơ sinh tốt hơn, giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong ở trẻ em, ổn định cuộc sống gia đình trong thời kỳ thai sản. c) Chế độ trợ cấp TNLĐ- BNN Điều lệ BHXH quy định rõ trách nhiệm chi trả các khoản chi phí điều trị, tiền lương... của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn từ khi sơ cứ phải cấp cứu đến điều trị thương tật ổn định. Ngoài ra, người sử dụng còn phải bồi thường cho người bị tai nạn lao động bị chết hoặc mất sức lao động từ 81% trở lên. Sau khi thương tật ổn định được đi giám định y khoa được hưởng trợ cấp một lần nếu tỷ lệ thương tật từ 5 đến 30% hoặc trợ cấp hàng tháng nếu tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên. - Chế độ TNLĐ- BNN đã đảm bảo ổn định cuộc sống người lao động và gia đình trong trường hợp gặp tai nạn thông qua việc điều tiết chia sẻ rủi ro giữa những người lao động cùng tham gia BHXH. Nhờ có chế độ này mà hàng ngàn người lao động bị TNLĐ, không còn khả năng làm việc nhưng vẫn có nguồn sống ổn định thông qua trợ cấp của quỹ BHXH. Năm 1996 quỹ trợ cấp cho 11315 người;; năm 1998 là 17123 người; năm 1999 là 19805 người ….,và năm 2003 khoảng 24723 người. Việc quy định người sử dụng lao động phải chịu mọi chi phí từ khi bị tai nan lao động đến khi điều trị ổn định, đã nâng cao trách nhiệm của người sử dụng người lao động trong việc đầu tư trang thiết bị an toàn lao động, trong việc phổ biến, tuyên truyền về an toàn lao động cho người lao động, từ đó hạn chế TNLĐ xảy ra. - Ngoài trợ cấp TNLĐ người bị TNLĐ vẫn hưởng chế độ hưu trí, tử tuất nếu đủ điều kiện. d) Chế độ hưu trí: Điều lệ BHXH quy định điều kiện để hưởng chế độ hưu trí của người lao động khi có đủ 60 tuổi (đối với nam), 55 tuổi (đối với nữ) và có 20 năm đóng BHXH trở lên. Đồng thời điều lệ BHXH cũng quy định giảm 5 năm tuổi đời để nghỉ hưu đối với lao động làm nghề nặng nhọc, độc hại hoặc nơi có phụ cấp có hệ số 0,7 trở lên. Mức lương hưu đối với người có đủ 15 năm đóng BHXH là 45 % mức tiền lương bình quân 5 năm cuối đóng BHXH, sau đó cứ thêm một năm đóng BHXH được tính thêm 2% lương hưu, cao nhất không quá 75%. Trong những năm qua, chế độ hưu trí đã bảo đảm ổn định cuộc sống của hàng triệu người lao động khi hết tuổi lao động hoặc mất sức lao động, thông qua đó góp phần ổn định xã hội và công bằng xã hội. Số liệu báo cáo các năm qua cho thấy, số người hưởng trợ cấp hưu trí hàng năm dao động trong khoảng 1,18-1,20 triệu người, mức lương hưu bình quân khoảng 320000 đồng/ tháng (không kể lực lượng vũ trang). Với mức lương hưu như vậy, cuộc sống của người về hưu tương đối ổn định. - Mức trợ cấp hưu trí mới đã khắc phục được tính bình quân, bao cấp. Mức hưởng của mỗi người phụ thuộc vào mức đóng và thời gian đóng của người đó, cùng với việc chuyển hệ số quy đổi thời gian công tác kháng chiến sang hưởng chính sách người có công tạo ra công bằng trong chế độ hưu trí, tránh được giải quyết chế độ trùng lặp. - Việc quy định tuổi nghỉ hưu phù hợp với từng nhóm điều kiện lao động khác nhau đã thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với mọi người lao động làm những nghề nặng nhọc, độc hại. e) Chế độ tử tuất: Chế độ tử tuất quy định người lao động tham gia BHXH chết được nhận tiền mai táng phí bằng 8 tháng tiền lương tối thiểu và có đủ 15 năm đóng BHXH trở lên còn có thân nhân (con dưới 15 tuổi hoặc bố mẹ già hết tuổi lao động) thì được hưởng trợ cấp hàng tháng bằng 40% mức tiền lương tối thiểu. Trường hợp người được hưởng trợ cấp không có nguồn thu nhập khác và không còn người trực tiếp nuôi dưỡng thì mức trợ cấp bằng 70% lương tối thiểu. Chế độ tuất đã góp phần ổn định cuộc sống của thân nhân người lao động bị chết. Trong những năm qua, chế độ tuất đã trợ cấp cho hàng trăm ngàn con và bố mẹ già của họ. Năm 1996 trợ cấp 178.970 người;tương ứng 135, tỷ, năm 1997 trợ cấp 175.709 người;vơi143,7 tỷ năm 1998 trợ cấp 161787 người170,6 tỷ…, và năm 2003 trợ cấp 188974 người.ứng với 371,8 tỷ đồng 2.3.3.2. Những tồn tại. BHXH Việt nam trong những năm qua đã thực hiện theo quy trình lập, kiểm tra và thẩm định hồ sơ các chế độ BHXH. Việc quy định cụ thể trách nhiệm của đơn vị sử dụng lao động, của BHXH tỉnh, BHXH huyện và của BHXH VN, đã chấm dứt tình trang làm hồ sơ giả, khai khống thời gian nghỉ ốm để hưởng các chế độ BHXH. Theo quy định thì “Các cơ sở khám chữa bệnh của Nhà nước, cơ sở khám chữa bệnh của các lực lượng vũ trang (gọi chung là các cơ sở khám chữa bệnh Nhà nước); cơ sở khám chữa bệnh của tập thể và tư nhân, cơ sở khám chữa bệnh có vốn đầu tư nước ngoài (gọi chung là cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân) có ký hợp đồng với Bảo hiểm Y tế Việt Nam để khám chữa bệnh và cấp giấy chứng nhận nghỉ ốm được hưởng BHXH cho người lao động tham gia BHXH” (Thông tư liên tịch số 11/ 1999/ TTLT - BYT- BHXH ngày 22/6/ 1999 giữa Bộ Y tế và BHXH VN hướng dẫn các cơ sở khám chữa bệnh cấp giấy chứng nhận nghỉ việc cho người bệnh tham gia BHXH). Tại điều 2.1, 2.2 mục II của Thông tư số 11/1999/TTLT-BYT-BHXH của Bộ Y tế và BHXH Việt nam do không quy định rõ cho nghỉ tối đa mấy lần nên nhiều cơ sở y tế cứ cấp giấy cho người lao động nghỉ nhiều đợt, còn đơn vị sử dụng lao động khăng khăng yêu cầu cơ quan BHXH phải thanh toán cho người lao động với số ngày nghỉ tối đa là 27 ngày. Đây là một khó khăn nữa cho cơ quan BHXH. Một số cơ sở Y tế đã không thực hiện nghiêm túc trong việc cấp giấy chứng nhận nghỉ việc cho người bệnh, đã chứng nhận khống cho người lao động để làm hồ sơ hưởng các chế độ BHXH. Hiện tượng trên xảy ra nhiều ở các đơn vị làm ăn thua lỗ, thiếu việc làm cho người lao động, phải dùng hình thức này để lấy tiền của quỹ BHXH làm thu nhập. Có một số doanh nghiệp lại có “ Sáng kiến ” cho người lao động thay nhau “ nghỉ ốm giả ” để rút tiền của quỹ BHXH chia nhau. Về chủ quan, trong những năm qua, đã xảy ra tình trạng cán bộ công chức viên chức của ngành cố tình vi phạm chế độ quản lý để mưu lợi cá nhân, dùng tiền chi BHXH để chiếm đoạt (BHXH Đăk Lăk, BHXH Ninh Bình) và đã bị pháp luật trừng trị. Công tác quản lý tiền mặt chưa đảm bảo an toàn, vẫn còn một số Đại lý chi trả ở phường, xã (ở BHXH TP. Hồ Chí Minh, Hà Tĩnh, Thái Nguyên) để mất trong quá trình vận chuyển, và cất giữ tại nhà (mặc dù số tiền đó đã thu được hoặc Đại lý phải bồi hoàn). cho nghỉ vẫn ký giấy nghỉ. Chương 3 giải pháp hoàn thiện công tác chi trả các chế độ BHXH ở việt nam hiện nay 3.1. Những thuận lợi và khó khăn trong công tác chi trả 3.1.1. Những thuận lợi - Từ khi thành lập tổ chức BHXH Việt nam, các hoạt động BHXH đã được tập trung vào một đầu mối. Đây là một thuận lợi rất cơ bản, tạo điều kiện để BHXH Việt nam thống nhất các tỉnh, thành phố về tổ chức và nghiệp vụ trong các hoạt động của ngành. Trên cơ quan BHXH, Ban quản lý chi BHXH được hình thành với chức năng, nhiệm vụ giúp Tổng giám đốc thực hiện quản lý và chỉ đạo công tác chi trả các chế độ BHXH ở các tỉnh, thành phố. Trải qua hơn 30 năm hoạt động quản lý và thực hiện chính sách BHXH cho người lao động, Tổng Liên đoàn đã có một cơ chế quản lý hướng dẫn bổ sung sửa đổi tương đối hoàn chỉnh và được thực hiện phù hợp với từng giai đoạn nhất định. - Việc thực hiện các chế độ, chính sách BHXH theo cơ chế mới dựa trên nguyên tắc có đóng BHXH mới được hưởng quyền lợi về BHXH đã trở thành yếu tố quyết định cho việc hình thành quỹ BHXH tập trung và hạch toán độc lập với NSNN, tạo điều kiện để cơ quan BHXH chủ động nguồn kinh phí trong công tác chi trả cho đối tượng hưởng BHXH. - Ngay từ khi đi vào hoạt động, BHXH các tỉnh, thành phố đã khẩn trương tiếp nhận số đối tượng tham gia và hưởng BHXH do ngành Lao động Thương binh và Xã hội và Liên đoàn lao động bàn giao. Đây là một cố gắng rất lớn của BHXH các tỉnh, thành phố và cũng chính là một trong những thuận lợi cơ bản để cơ quan BHXH chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH cho các đối tượng hưởng BHXH không bị gián đoạn trong thời gian mới thành lập của ngành. - Công tác chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH liên quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày của hàng triệu đối tương, vì vậy, cơ quan BHXH luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo và giúp đỡ của các cấp Uỷ Đảng và Chính quyền từ Trung ương đến địa phương, của các Ban, Ngành chức năng liên quan cũng như sự cộng tác chặt chẽ của các đại lý chi trả ở xã, phường, thị trấn của các đơn vị sử dụng lao động và của đối tượng hưởng BHXH. Mặt khác, công việc cải cách hành chính trong lĩnh vực BHXH đã có nhiều tiến bộ, đã giảm thiểu được phần nào sự công bằng phức tạp để cho người lao động dễ dàng tham gia hơn cũng như tạo thuận lợi hơn trong công tác chi tiêu. Hiện nay, đối tượng tham gia BHXH ngày càng mở rộng, điều đó có nghĩa là làm quỹ BHXH tăng lên từ đó tạo thuận lợi cho công tác chi trả. Hiện nay, mức sống của người dân cũng như trình độ của họ được nâng lên, vì thế, yêu cầu về bảo hiểm cũng tăng lên. Khi họ tham gia kí kết hợp đồng với chủ sử dụng lao động, họ rất quan tâm đến vấn đề bảo hiểm. Như thế, trách nhiệm của chủ sử dụng lao động với người lao động cũng tăng lên. Điều này sẽ làm giảm tình trạng nợ đọng BHXH tạo thuận lợi cho công tác chi trả. 3.1. 2. Những khó khăn. Mặc dù các hoạt động BHXH đã được tập trung vào một đầu mối là BHXH Việt nam, nhưng về tổ chức chi trả trong toàn ngành lại chưa có sự thống nhất, thời kỳ đầu chỉ có 13 tỉnh, thành phố có quyết định thành lập phòng Quản lý chi BHXH (Quảng nam- Đà nẵng, Hà tĩnh, Hà tây, Hải Phòng, Nam Hà, Thanh hoá, Hải Hưng, Thái Bình, Vĩnh Phú, Nghệ An, TP. HCM, Hà Bắc và Quảng Ninh) số tỉnh còn lại chưa được thành lập. Đến 6/12/1996 BHXH Việt nam có Công văn số 2127 BHXH/TCCB quyết định hợp nhất csác phòng Quản lý chi BHXH ở các tỉnh, thành phố đã nhập với phòng Kế hoạch tài chính thành phòng Kế hoạch tài chính. Từ thời gian này, trên cơ quan BHXH Việt nam có Ban quản lý chi BHXH nhưng dưới địa phương không có phòng Quản lý chi BHXH, phòng KHTC cùng một lúc chịu sự chỉ đạo về nghiệp vụ của 2 Ban, điều này đã gây không ít khó khăn cho việc chỉ đạo của Ban quản lý chi BHXH cũng như các công việc có liên quan đến nghiệp vụ chi trả của BHXH các tỉnh, thành phố. - Cán bộ làm công tác chi trả của BHXH các tỉnh, thành phố phần lớn chưa được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ BHXH và quản lý tài chính, mặt khác, lại đang hoạt động trong một cơ chế bao cấp, cơ chế mà trong đó nhiệm vụ chi trả được thực hiện độc lập với các hoạt động BHXH khác, nay chuyển sang hoạt động trong một cơ chế mới trong đó có quyền lợi về BHXH luôn gắn với nghĩa vụ đóng BHXH của người lao động và đơn vị sử dụng lao động. Vì vậy, đòi hỏi cán bộ làm công tác chi trả ngoài việc phải có ý thức trách nhiệm cao trong việc phục vụ đối tượng, còn phải có nghiệp vụ về BHXH, về quản lý tài chính để phân tách và đánh giá hiệu quả của công tác chi trả các chế độ BHXH. Đây thực sự là một chuyển đổi khó khăn cả về nhận thức và trình độ chuyên môn mà không phải cán bộ nào cũng có khả năng thích ứng ngay được. - Đối tượng hưởng các chế độ BHXH đông (riêng số nhận bàn giao từ ngành Lao động Thương binh & Xã hội là: 1781858 người, ngoài ra trong 3 năm qua cơ quan BHXH đã xét duyệt trên 74.000 người hưởng các chế độ BHXH thường xuyên và hàng năm khoảng 1 triệu lượt người nghỉ hưởng chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ- BNN). Mặt khác lại phân bổ không đều ở các tỉnh, thành phố, ở các quận, huyện, thị xã và ở các xã phường, thị trấn trong phạm vi toàn quốc, đối tượng tập trung chủ yếu ở trung tâm các tỉnh, thành phố và các khu công nghiệp lớn, trong khi đó ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa lại rất ít. Điều này đòi hỏi BHXH các tỉnh, thành phố phải rất linh hoạt khi áp dụng các biện pháp trong công tác chi trả, nếu không sẽ ảnh hưởng đến thời gian nhận tiền của đối tượng. - Phương tiện đi lại và đảm bảo an toàn tiền mặt trong qúa trình chi trả hầu như chưa được trang bị, trong khi đó hàng tháng BHXH các tỉnh, thành phố vãn phải đảm bảo chi trả gần 500 tỷ đồng tiền mặt, vì vậy BHXH các tỉnh, thành phố mà trước hết là các cán bộ làm công tác chi trả đã gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nhất là ở các tỉnh miền núi. - Lệ phí chi trả thấp, chưa khuyến khích được cán bộ làm công tác chi trả ở các đại lý chi trả, nhất là ở các xã có ít đối tượng và các xã vùng sâu , vùng xa. Vì vậy, trên thực tế ở nhiều xã thuộc các tỉnh miền núi không thành lập được các đại lý chi trả. - Từ 1/1/1995 hoạt động BHXH được thực hiện theo cơ chế mới, nhưng việc chuẩn bị hồ sơ và chứng từ khi xét duyệt, thanh toán các chế độ BHXH của nhiều đơn vị sử dụng lao động vẫn theo như ở thời kỳ bao cấp, nhất là trong việc xét duyệt và chi trả các chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ- BNN. Đây thực sự là một trở ngại lớn cho cơ quan BHXH và cũng là một trong những nguyên nhân chính để có những ý kiến cho rằng cơ quan BHXH gây phiền hà cho người lao động. - Do đặc thù của đối tượng hưởng BHXH và yêu cầu quản lý quỹ BHXH nên cùng một lúc cơ quan BHXH phải sử dụng 2 nguồn kinh phí để chi trả. Nguồn từ NSNN chi trả cho các đối tượng về nghỉ hưởng BHXH trước ngày 1/1/1995 và nguồn từ quỹ BHXH chi trả cho đối tượng nghỉ BHXH từ ngày 1/1/1995 trở đi. Với cơ chế sử dụng nguồn kinh phí chi trả như trên, cơ quan BHXH chỉ có thể chủ động được nguồn kinh phí chi trả từ quỹ BHXH, nguồn do NSNN cấp đôi khi còn bị chậm và chưa được cấp bổ sung kịp thời mỗi khi có những chế độ, chính sách liên quan đến quyền lợi của người được hưởng các chế độ BHXH. Ngoài ra, hai nguồn kinh phí này, hàng năm, phải được hạch toán riêng biệt, do vậy cũng tạo nên những khó khăn nhất định cho công tác chi trả và quản lý của ngành. Hơn nữa, nhiều chính sách về BHXH do nhà nước ban hành chưa đồng bộ, còn nhiều điều chưa hợp lý, đồng thời trong quá trình thực hiện chế độ chính sách đối với người lao động còn nhiều bất cập gây khó khăn cho cơ quan BHXH trong việc thực hiện xét duyệt và chi trả BHXH cho người lao động. Do điều kiện thanh toán BHXH cho các chế độ BHXH chưa chặt chẽ nên có kẽ hở cho người lao động và chủ sử dụng lao động vận dụng gây thiệt hại đến quỹ BHXH. Trong điều kiện kinh tế thị trường hàng loạt các doanh nghiệp Nhà nước đang bươn trải và cố gắng duy trì để sản xuất và tồn tại. Nhiều đơn vị làm ăn thua lỗ hoặc thay đổi cơ chế quản lí đã không thể hoặc không có tiền nộp BHXH cho người lao động theo qui định trước đây. Đây chính là vấn đề khó khăn đối với cơ quan BHXH trong việc giải quyết nợ đọng quỹ BHXH,thực hiện chế độ chính sách cho người lao động, BHXH không có khả năng kiểm tra, kiểm soát hết được, nhất là các ngành công nghiệp phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp như các công ty chè, xí nghiệp chế biến nông sản và các nông trường, lâm trường Trong khi đó việc thanh toán trợ cấp BHXH nhất là các chế độ ngắn hạn chưa gắn được trách nhiệm của chủ sử dụng lao động với việc thực hiện đúng chính sách BHXH. Đặc biệt có những chủ sử dụng lao động còn tạo điều kiện khuyến khích cho công nhân viên chức của mình làm đủ thủ tục để thanh toán hết quyền lợi của người lao động theo cách hiểu là được hưởng bình quân 1năm theo chế độ Nhà nước đã qui định. Tiếp nữa là điều kiện phân cấp quản lí: Việc thay đổi về cơ chế quản lí trước đây cho công đoàn quản lí ba chế độ trên cơ sở cân đối thu chi và cố gắng giành lại một phần cho nghỉ ngơi dưỡng sức đã gắn liền trách nhiệm của chủ sử dụng lao động, cơ sở y tế, công đoàn trong việc phối hợp quản lí quỹ BHXH. Trên đây là những thuận lợi cũng như những khó khăn của công tác chi trả BHXH, vậy chúng ta phát huy những thuận lợi và khắc phục khó khăn như thế nào? Đó là một câu hỏi mà chúng ta cần quan tâm. 3.2. Các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện tốt công tác chi trả Có thể nói : chi trả là kết quả của quá trình thực hiện chính sách BHXH, là khâu cuối cùng của công tác giả quyết các chính sách BHXH liên quan đối với người lao động bị suy giảm sức lao động của mình- chế độ TNLĐ- BNN, chế độ ốm đau, thai sản... cho đối tượng hưởng lương hưu và các loại trợ cấp BHXH khi đã hoàn thành nghĩa vụ. Để đảm bảo tốt công tác chi trả BHXH, tôi xin đưa ra một số giải pháp cụ thể như sau: 3.2.1. Tiếp tục củng cố và hoàn thiện các mô hình chi trả đang được thực hiện. Hiện nay, có hai mô hình chi trả chủ yếu đang được áp dụng ở các điạ phương trong cả nước. Tuy nhiên, cho dù áp dụng mô hình chi trả nào cũng phải đáp ứng hai yêu cầu: - Quản lý chặt chẽ đối tượng - Chi trả kịp thời, chính xác cho đối tượng và phù hợp với điều kiện của mỗi địa phương Qua nghiên cứu thực tế các loại hình mà các địa phương trong toàn quốc đang áp dụng, thấy rằng mỗi loại hình chi trả đều có những ưu điểm và hạn chế của nó, vì vậy, cần linh hoạt trong việc phối hợp giữa các hình thức chi trả. Đối với những địa bàn tập trung nên thực hiện hình thức chi trả trực tiếp, nên phải có sự giám sát của chính quyền cơ sở trong quá trình tổ chức điều chỉnh tăng, giảm đối tượng hàng tháng do đại lý chi trả thực hiện song mức phụ cấp trách nhiệm có thể thấp hơn so với đại lý đảm nhận hình thức chi trả gián tiếp. Đối với những địa bàn có số lượng, đối tượng rải rác, có địa hình phức tạp cần hợp đồng với đại lý là cán bộ xã, phường, vừa đảm nhận công tác chính quyền cơ sở, vừa tham gia làm đại lý. Có như vậy mới phát huy được trách nhiệm của đại lý, nâng cao vai trò của chính quyền cơ sở, nơi trực tiếp quản lý đối tượng sinh sống. Đồng thời với việc sử dụng linh hoạt các hình thức chi trả, việc quy định trách nhiệm của các bên liên quan cũng phải được định ra một cách cụ thể, rõ ràng trong các hợp đồng ký kết. * Đối với đại lý: thực hiện chi trả toàn bộ tiền lượng hưu và trợ cấp hàng tháng đầy đủ, kịp thời, tận tay người hưởng, không được chi trả chậm hoặc chiếm dụng tiền làm ảnh hưởng đến đời sống của người hưởng. Khi có vướng mắc liên quan đến chế độ, chính sách mà đại lý không thể giải quyết được theo chức năng của mình thì báo cáo hoặc kiến nghị với BHXH huyện, thị xã để giải quyết thường xuyên nắm chắc tình hình diễn biến của đối tượng, lý do tăng giảm để báo cáo kịp thời với cơ quan BHXH( nếu có). Mở sổ sách đầy đủ để ghi chép theo và kiểm tra việc chi trả cho đối tượng. * Đối với BHXH huyện thị xã: Thường xuyên tổ chức kiểm tra, rà soát chặt chẽ, cụ thể từng trường hợp ở danh sách chi trả và phiếu nhận tiền, nếu phát hiện chưa đầy đủ chữ ký của đối tượng thì kiên quyết không chấp nhận hồ sơ quyết toán của đại lý. Đồng thời, báo cáo kịp thời cho UBND xã, phường cùng xử lý. Các trường hợp chi trả không đúng đối tượng thì BHXH huyện, thì xã phải thu hồi hoặc trừ lại tiền khi cấp ứng cho các đại lý. Trường hợp đại lý không chấp hành thủ tục hồ sơ, chứng từ thì không giải quyết thanh toán các khoản lệ phí chi trả và có biện pháp xử lý kịp thời theo quy định và hợp đồng đã ký kết. Thông qua kiểm tra, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của đối tượng nhằm giải thích kịp thời những vướng mắc về chế độ chính sách BHXH cho đối tượng hiểu và cùng thực hiện, đồng thời báo cáo lên cơ quan cấp trên về những trường hợp không thuộc quyền xử lý (Nếu có). * Đối với BHXH tỉnh: Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện củng cố và kết hợp hài hoà giữa hai hình thức chi trả, thường xuyên tổ chức kiểm tra công tác chi trả ở huyện, thị xã và đại lý xã, phường để sửa chữa, khắc phục những thiếu sót và tăng cường các biện pháp quản lý đối tượng, quản lý chi trả, quản lý tiền mặt đảm bảo an toàn, thuận lợi góp phần thực hiện tốt công tác chi trả tại các địa phương và cơ sở trong toàn tỉnh. Mặt khác, nghiên cứu phân bổ hợp lý lệ phí chi trả, có ưu tiên vùng sâu, vùng xa nhằm góp phần bù đắp một phần chi phí sức lao động và động viên đại lý chi trả hoàn thành nhiệm vụ. Chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH là nhiệm vụ trung tâm, là khâu cuối cùng của việc giải quyết chính sách cho đối tượng. Vì vậy, công tác chi trả BHXH phải tranh thủ được sự giúp đỡ của các cấp và các ngành trên địa bàn tỉnh. Như vậy, cần tiếp tục củng cố và hoàn thiện các mô hình chi trả đang thực hiện ở địa phương để công tác chi trả BHXH ở địa phương ngày càng hoàn thiện hơn, với phương châm đảm bảo thuận lợi nhất cho đối tượng cũng như việc đảm bảo các yêu cầu quản lý tài chính của ngành. 3.2.2. Đào tạo, nâng cao tinh thần trách nhiệm và trình độ chuyên môn cán bộ làm công tác quản lý chi trả. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) nêu rõ: “ Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của Cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”. ở bất kỳ lĩnh vực hay ngành nghề nào, trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức của người cán bộ là một yêu cầu vô cùng quan trọng. Đối với BHXH cũng vậy nhất là trong khâu chi trả phục vụ người lao động thì tinh thần trách nhiệm, sự tâm huyết với nghề nghiệp cũng như trình độ chuyên môn của người cán bộ bảo hiểm là hết sức cần thiết để đảm bảo nguyên tắc “ chi đúng, chi đủ, chính xác, kịp thời, an toàn”. Ta hãy đánh giá sơ bộ thực trạng đội ngũ cán bộ công chức của ngành BHXH nói chung cũng như cán bộ làm công tác chi trả BHXH nói riêng từ khi thành lập đến nay; đội ngũ cán bộ công chức có những mặt mạnh và hạn chế sau: * Mặt mạnh: - Được giáo dục rèn luyện, kinh qua thực tiễn công tác thể hiện bản lĩnh vững vàng, cán bộ công chức ngành BHXH đã kế thừa những kinh nghiệm sẵn có, nắm vững chính sách, pháp luật BHXH trước đây, nhanh chóng nghiên cứu nắm bắt những chíng sách BHXH đổi mới, chuyển đổi thích ứng với nhiệm vụ trong một tổ chức thống nhất, hoạt động theo cơ chế mới. - Thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng pháp luật các chế độ BHXH đối với các đối tượng tham gia BHXH. - Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, của công tác quản lý BHXH theo cơ chế mới, nhiều cán bộ cao cấp đã cố gắng vươn lên, chủ động học tập, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, tiếp thu những kiến thức mới về quản lý, về khoa học và công nghệ, tin học, ngoại ngữ,... để hoàn thành nhiệm vụ được giao. - Đội ngũ cán bộ công chức có độ tuổi trung bình trẻ, năng động, đoàn kết. Số công chức mới tuyển dụng phần đông được đào tạo cơ bản, dễ tiếp thu, thích ứng với cơ chế mới, thông qua chế độ thi tuyển chặt chẽ tạo thành lực lượng nòng cốt của ngành trong tương lai. - Đội ngũ cán bộ công chức được hình thành sớm và tiếp tục được tăng cường bổ sung, về cơ bản bảo đảm được những tiêu chuẩn quy định về phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ chuyên môn, năng lực quản lý... đáp ứng nhiệm vụ chính trị giao. * Hạn chế Bên cạnh những mặt mạnh, đội ngũ cán bộ công chức cũng bộc lộ những tồn tại, bất cập với nhiệm vụ, tập trung ở những điểm chính dưới đây: - Đội ngũ cán bộ công chức tập hợp chủ yếu do bàn giao từ hệ lao động thương binh và xã hội và Tổng LĐLĐ Việt Nam và tiếp nhận bổ sung từ nhiều nguồn khác nhau về ngành, không đồng đều về trình độ chuyên môn và năng lực; một số hẫng hụt về trình độ, năng lực, kiến thức quản lý... Phần lớn CBCC chưa được đào tạo có hệ thống, trưởng thành do tích luỹ kinh nghiệm lâu năm trong ngành, quen với cách làm việc theo cơ chế tập trung, bao cấp. - Đội ngũ CBCC nhìn chung trình độ học vấn chưa cao (tỷ lệ học đại học chỉ chiếm 30%); số có trình độ sơ cấp chiếm tỷ lệ đáng kể, thiếu số CBCC hiểu biết sâu về chế độ chính sách, lao động tiền lương, tài chính. - Đội ngũ cán bộ chủ chốt chưa đầy đủ đã phải dàn trải để đảm đương nhiệm vụ trong bối cảnh chuyển đổi cơ chế, chuyển đổi tổ chức, không có thời gian chuẩn bị đội ngũ, nhưng phải bảo đảm hoạt động liên tục, không ách tắc trong việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH đối với đối tượng tham gia BHXH. Một số cán bộ quản lý bộc lộ trình độ chuyên môn, năng lực quản lý bất cập với nhiệm vụ. Cho đến nay, các chức danh cán bộ quản lý ở cả ba cấp chưa đầy đủ, còn thiếu ở hầu hết các đơn vị. - Chế độ tiền lương, chính sách đãi ngộ của ngành chưa thoả đáng nên không tuyển chọn được CBCC giỏi về công tác tại ngành và chưa động viên được tinh thần làm việc, ý thức trách nhiệm, gắn bó với ngành và khuyến khích việc học tập nâng cao trình độ.... Số công chức mới tuyển dụng thì thâm niên, năng lực quản lý chưa đáp ứng được để đưa vào dự nguồn. Ngành đang bị hẫng hụt một thế hệ chuyển tiếp giữa thế hệ dày dạn kinh nghiệm và thế hệ trẻ trong công tác cán bộ. Vì vậy, đào tạo đội ngũ cán bộ bảo hiểm nói chung và cán bộ bảo hiểm làm công tác chi trả nói riêng có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao là một vấn đề cấp thiết. Biện pháp: * Xây dựng giáo trình chuyên ngành về BHXH * Đưa chương trình giảng dạy BHXH vào các trường đại học, cao đẳng, trung học thuộc khối kinh tế * Cần tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức hệ thống BHXH từ khâu quy hoạch, thi tuyển, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá sử dụng, quản lý đến việc xây dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ, chế độ chính sách đặc thù, cải thiện thu nhập... theo hướng dưới đây: - Rà soát lại các văn bản cán bộ, công chức của ngành, nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung để hoàn thiện phù hợp với các văn bản pháp quy của Nhà nước mới ban hành và phù hợp với thực tế quản lý điều hành của ngành. - Căn cứ vào chiến lược phát triển của ngành để xây dựng quy hoạch cán bộ, đặc biệt là cán bộ từ TW đến địa phương nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, dồi dào về năng lực chuyên môn, năng lực quản lý, đáp ứng yêu cầu phát triển ngành trong giai đoạn mới. - Xuất phát từ tính chất đặc thù của ngành, cần xúc tiến việc nghiên cứu xây dựng và đề nghị với cơ quan chức năng Nhà nước ban hành hệ thống tiêu chuẩn nghiệp vụ đầy đủ riêng cho công chức nghành BHXH làm căn cứ pháp lý để tuyển dụng, bố trí công chức làm đúng ngành nghề, đúng việc, đúng nhu cầu của ngành và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức của ngành. - Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cả nội dung chương trình lẫn phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, hướng trọng tâm vào các kiến thức cơ bản chuyên ngành BHXH, nâng cao chất lượng lý luận chính trị, quản lý hành chính Nhà nước, quản lý ngành trong cơ chế mới, pháp luật, tin học, ngoại ngữ và các kỹ năng hành chính nghiệp vụ khác. Sớm xây dựng giáo trình đào tạo chuyên ngành BHXH. - Triển khai thực hiện đề án khoán chi phí hoạt động bộ máy, quỹ lương và biên chế khi được Chính phủ phê duyệt nhằm tạo động lực, đổi mới hoạt động của ngành theo cơ chế mới. - Xây dựng trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt chế độ, chính sách đặc thù đối với công chức ngành BHXH phù hợp với tính chất đặc thù trong hoạt động của ngành nhằm tạo động lực khuyến kích động viên cán bộ, công chức nâng cao chất lượng thực thi công vụ, tránh bình quân trong hưởng thụ. Xây dưng chính sách phù hợp để có thể thường xuyên thay thế số cán bộ, công chức trình độ, năng lực hạn chế, bất cập với yêu cầu, nhiệm vụ của ngành hoặc thoái hoá, sa sút phẩm chất, đạo đức, kém ý thức tổ chức kỷ luật... và để tuyển chọn được những người có đức, có tài vào ngành. Đặc biệt đối với những cán bộ, công chức làm công tác chi trả BHXH cần có những chính sách khuyến khích như: tăng lệ phí chi trả, ưu tiên những cán bộ làm công tác chi trả ở các xã vùng sâu, vùng xa. 3.2. 3. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong công tác chi trả. - Trước hết tập trung vào việc sửa đổi, bổ sung các mẫu biểu có liên quan đến công tác chi trả, đến việc thanh, quyết toán của các đại lý chi trả với cơ quan BHXH, tạo điều kiện để các đại lý chi trả dễ thực hiện nhưng đồng thời vẫn đảm bảo yêu cầu quản lý của ngành. - Chính sách BHXH phải có những thay đổi cho phù hợp với tình hình hiện nay: + Đối với chế độ trợ cấp ốm đau: Nên chăng, ngành BHXH cần quy định chặt chẽ về thời hạn giải quyết trợ cấp ốm đau, đối với các đơn vị sử dụng lao động và người lao động phải được giải quyết dứt điểm trong tháng hoặc trong quý: quy định thời gian tối thiểu đóng BHXH trước khi được hưởng; thời hạn tối đa là 12 tháng hoặc 24 tháng được hưởng trợ cấp cho chế độ trợ cấp ốm đau dài ngày, không thể quy định như hiện nay. Sau điều trị, nếu chưa đủ điều kiện hưởng hưu, nên có chế độ trợ cấp tàn phế cho những người mất sức lao động từ 81% trở lên, mức trợ cấp tính theo lương tối thiểu và cao hay thấp tuỳ thuộc vào số năm đóng BHXH nhiều hay ít. Chế độ trợ cấp nghỉ thực hiện biện pháp dân số kế hoạch hoá gia đình nên chuyển sang cho chế độ trợ cấp thai sản quản lý. Ngoài ra, nên quy định rõ tối đa số lần được nghỉ ốm. + Đối với chế độ thai sản: Chế độ thai sản nên quy định thời gian dự bị (thời gian đóng BHXH trước khi hưởng chế độ nghỉ đẻ). Người lao động chỉ được hưởng trợ cấp thai sản khi đã đóng BHXH từ 12 tháng trở lên. Việc quy định thời gian nghỉ từ 4-6 tháng phụ thuộc vào điều kiện làm việc nặng nhọc hay bình thường là không phù hợp với nguyên tắc đóng- hưởng. + Đối với chế độ TNLĐ- BNN: Cần bổ sung điều kiện về thời gian tham gia BHXH ít nhất là 6 tháng trước khi xảy ra tai nạn mới được hưởng trợ cấp tai nạn lao động. Trong khoảng 6 tháng này, nếu xảy ra tai nạn lao động thì chủ lao động phải chịu toàn bộ chi phí điều trị và phải trả trợ cấp tai nạn lao động cho người lao động. Có như vậy mới ràng buộc người sử dụng lao động trong việc sắp xếp, bố trí công việc cho người lao động mới vào làm việc một cách phù hợp và thực hiện tốt công tác huấn luyện an toàn vệ sinh lao động. Đồng thời nên loại bỏ quy định khi bị tai nạn lao động trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc được xác định là tai nạn lao động nhằm loại bỏ kẽ hở dễ lợi dụng: cố tình nhầm lẫn TNGT với tai nạn lao động vì chế độ BHXH hiện nay không chỉ giới hạn trong cán bộ công chức, viên chức Nhà nước mà đã mở rộng đến người lao động làm việc có tham gia BHXH ở các thành phần kinh tế. + Đối với chế độ hưu trí: Nên chăng: -) Nâng cao tuổi nghỉ hưu của lao động nữ làm việc trong khối HCSN nhưng trên tinh thần tự nguyện nhằm phát huy hết được khả năng cũng như kinh nghiệm của họ; đối với lao động nữ làm việc trong khối lao động trực tiếp thì có thể giữ nguyên tuổi nghỉ hưu nhưng nếu họ có yêu cầu ở lại khi đến tuổi quy định thì cũng nên xem xét tạo điều kiện cho họ. -) Tiền lương làm cơ sở đóng BHXH phải căn cứ vào cơ chế tiền lương ở từng khu vực sản xuất, hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp liên doanh... để xác định cho hợp lý. Có thể quy định mức sàn đóng và mức trần đóng BHXH cụ thể đối với từng ngành nghề, khu vực, loại hình, đặc điểm, tính chất, công việc để đảm bảo khoảng cách hợp lý với những người hưởng lương hưu. -) Về cách tính lương hưu nên sửa đổi lại theo hướng tính tiền lương bình quân của cả quãng đời công tác, vừa đảm bảo công bằng giữa đóng BHXH đồng thời đảm bảo an toàn cho quỹ. + Đối với chế độ tử tuất: Nên chăng: -) Quy định tiền trợ cấp tuất theo thứ tự ưu tiên. Như ở các nước trợ cấp tuất danh ưu tiên cho người vợ quá cố và cô nhi là chủ yếu. Nước ta cũng nên xem lại và thực hiện theo hướng như ở nước này sẽ vừa đảm bảo được sự công bằng vừa có ý nghĩa thực tế hơn Khi đã xác định thứ tự ưu tiên thì không nên khống chế số xuất tuất là 4 xuất như hiện nay. Với điều kiện kinh tế xã hội ở nước ta, tiền lương của người nghỉ hưu còn thấp do đó việc xác định trợ cấp tuất một mặt dựa trên tiền lương hưu, mặt khác cũng nên dựa vào mặt bằng chung để đảm bảo mức sống tối thiểu cho những thân nhân đủ điều kiện hưởng chế độ. -) Đối với trợ cấp tuất một lần: do trợ cấp tuất một lần mang tính xã hội góp phần giảm mức khó khăn ban đầu khi người nghỉ hưu chết. Vì vậy nó đã thể hiện phần nào tính bồi hoàn khi người hưởng hưu chưa hưởng hết số tiền mình đáng được hưởng. Để đảm bảo hơn tính công bằng trong thụ hưởng, ta có thể tính toán lại số tiền trợ cấp một lần trên cơ sở thời gian đóng BHXH và số thời gian đã hưởng trợ cấp của người nghỉ hưu cho phù hợp hơn. -) Trong khi chưa có sự thay đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các quy định về thủ tục hồ sơ và chứng từ có liên quan đến việc thanh toán chế độ ốm đau, thai sản. BHXH Việt nam và các tỉnh, thành phố phải chủ động làm việc với Bộ Y tế và các sở y tế để có những hướng dẫn và quy định tạm thời nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động và các đơn vị sử dụng lao động khi thanh toán chế độ ốm đau, thai sản. Trong thời gian tới, cần tiếp tục nghiên cứu, cải tiến, tiếp tục hoàn thiện quy định đối với công tác chi trả BHXH theo hướng đơn giản hoá, giảm bớt thủ tục hành chính phiền hà nhưng đảm bảo quản lý có hiệu quả, với mục tiêu phục vụ người lao động tốt hơn. 3.2.4. Đẩy mạnh việc cải tiến quy trình và thủ tục chi trả Đối với việc thành lập đại lý chi trả, BHXH tỉnh, thành phố cần trao đổi để có hợp đồng trực tiếp với Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, thay cho việc lý hợp đồng với các cá nhân được chính quyền địa phương giới thiệu như hiện nay, sau đó tuỳ thuộc vào đối tượng hưởng BHXH có ở xã, phường, thị trấn vào sự thảo thuận với cơ quan BHXH, Uỷ ban nhân dân sẽ lựa chọn người và ký với họ để thành lập đại lý chi trả. - Trong 2 chế độ ốm đau, thai sản cần hạn chế đến mức thấp nhất việc chi trả trực tiếp bằng tiền mặt cho đơn vị sử dụng lao động, nên chi trả bằng hình thức chuyển khoản thông qua tài khoản của đơn vị để đảm bảo nguyên tắc quản lý tài chính cũng như số tiền chi trả đến được đúng đối tượng. - Danh sách chi trả nhất thiết phải được in và chuyển từ BHXH tỉnh, thành phố xuống BHXH các quận huyện, thị xã, sau khi đã điều chỉnh sự tăng giảm đối tượng thông qua khâu xét duyệt hồ sơ hưởng BHXH của cơ quan BHXH, qua việc cắt giảm đối tượng đã hết thời hạn hưởng và qua tình hình giảm đối tượng của các đại lý chi trả. Tránh hiện tượng danh sách chi trả được lập từ xã lên. 3.2.5. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền. Để đạt được mục tiêu chiến lược phát triển ngành BHXH từ nay đến năm 2010 nói chung và công tác chi trả BHXH nói riêng, phải đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền rộng rãi đến mọi người lao động, các Ngành, các cấp. * Nội dung tuyên truyền: Cần tuyên truyền các nội dung chính sau đây: - Tuyên truyền mục đích của BHXH, sự khác nhau giữa BHXH với bảo hiểm thương mại (BHTM). BHTM lấy lợi nhuận làm mục đích cho các hoạt động của mình, còn hoạt động BHXH là những hoạt động không phải vì mục đích lợi nhuận mà vì sự an toàn, an sinh con người, vì con người, đảm bảo quyền lợi cho người lao động trong suốt cuộc đời con người: từ khi còn trong bụng mẹ, đến khi về già. - Tuyên truyền về chế độ chính sách BHXH. Đây là nội dung tuyên truyền rất quan trọng, làm cho người lao động hiểu rõ chế độ chính sách BHXH, từ đó họ tự giác tham gia BHXH, vì họ hiểu rõ trách nhiệm và quyền lợi của mình trong việc tham gia BHXH. - Thông tin tuyên truyền về các hoạt động BHXH Việt nam, kinh nghiệm hoạt động BHXH của nước ngoài. * Biện pháp tuyên truyền: - Phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng ở TW và địa phương như: Đài truyền hình TW, Báo Nhân dân, Báo Quân đội nhân dân, các báo ngành và các cơ quan thông tin, báo chí ở địa phương. - BHXH phát hành các tài liệu tuyên truyền giải thích các chế độ chính sách về BHXH như: in sách giới thiệu về BHXH, in tờ gấp, khẩu hiệu, áp phích... - Tuyên truyền trên tờ Tạp chí BHXH phát hành hàng tháng. Muốn thực hiện tốt công tác tuyên truyền cần các điều kiện sau: - Phải đảm bảo kinh phí cho hoạt động thông tin tuyền truyền. - Đầu tư cán bộ có trình độ hiểu biết về BHXH chuyên trách làm công tác tuyên truyền từ TW đến cấp tỉnh, thành phố trực thuộc TW. - Đầu tư đầy đủ phương tiện làm việc để bảo đảm cho hoạt động thông tin, tuyên truyền. 3.2. 6. Đầu tư phương tiện tin học, nối mạng trong toàn ngành BHXH để quản lý các hoạt động BHXH. Việc ứng dụng công nghệ thông tin quản lý nghiệp vụ BHXH không chỉ có lợi ích giảm chi phí, mà còn giúp thống nhất cách nhìn của nhiều người, nhiều đơn vị, dưới cùng một tiêu chuẩn thống nhất; Tạo ra phong cách làm việc khoa học và hiệu quả, xây dựng các nguyên tắc bảo mật an toàn, có sự kiểm soát và tính toán khoa học khi lưu trữ, xây dựng được sự tin cậy đối với các đối tượng tham gia quan hệ BHXH... từ đó nâng cao chất lượng phục vụ. Đối với việc quản lý hồ sơ đối tượng BHXH, được quản lý, lưu trữ chi tiết các tiêu thức theo hồ sơ gốc của hàng triệu đối tượng trong toàn quốc, sẽ tạo tiền đề cho việc quản lý thống nhất trong toàn hệ thống. Số liệu có tính nhất quán và chính xác cao do được áp dụng thống nhất phương pháp tính toán ở tất cả các đơn vị. Phát hiện nhanh chóng các sai sót trong tính toán mức hưởng đối với các hồ sơ cũ. Quản lý chặt chẽ biến động, giúp loại trừ khả năng giả mạo hồ sơ và kê khống đối tượng hưởng. Cung cấp thông tin nhanh chóng cho yêu cầu quản lý. Đưa công nghệ thông tin vào quản lý tài chính quỹ BHXH từ các khâu: kế hoạch, thực hiện thanh quyết toán thu- chi, hệ thống sổ sách biểu mẫu kế toán, thống kê phân tích tài chính và dự báo xu thế... sẽ tiết kiệm thời gian, công sức tiền bạc và số người tham gia làm công tác quản lý tài chính, giúp các đơn vị thấy rõ tình hình tài chính ở nhiều góc độ khác nhau. Đối với công tác chi trả BHXH, việc áp dụng công nghệ quản lý bằng máy vi tính sẽ góp phần quan trọng vào mục đích nâng cao hiệu quả quản lý. Rõ ràng, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào nghiệp vụ quản lý BHXH nói chung và công tác chi trả BHXH nói riêng là một hướng phát triển tất yếu, đã và sẽ đem lại hiệu quả rất cao. Để ngày càng ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin vào nghiệp vụ quản lý BHXH, cần coi trọng hơn nữa quan hệ giữa các yếu tố cần thống nhất trong nghiệp vụ thu- chi, kế toán, chế độ chính sách. Từ đó cùng với những đổi mới về kỹ thuật, công nghệ xây dựng được hệ thống xử lý số liệu BHXH có chất lượng và hiệu quả. Muốn vậy, phải có sự phối hợp đồng bộ từ TW đến địa phương, giữa các cơ quan BHXH tỉnh, thành phố với nhau. Để có một mạng máy tính mạnh cho hệ thống BHXH, chúng ta phải mạnh dạn ứng dụng kỹ thuật hiện đại bằng việc quan tâm đầu tư, trang bị máy móc thiết bị hiện đại cho toàn hệ thống, đào tạo đội ngũ đáp ứng yêu cầu. Điều quan trọng và cần làm trước hết là xây dựng cho được hệ thống các tiêu chuẩn trong các nghiệp vụ BHXH. Chẳng hạn: chuẩn hoá các mã quản lý, danh mục các báo biểu, các chỉ tiêu thống kê và phương pháp tính... Ngoài ra, còn phải đầu tư cho các phần mềm đáp ứng nhu cầu tự động hoá cao có khả năng thích ứng với sự thay đổi về chế độ chính sách. 3.2.7. Bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH Như chúng ta đã biết, thực hiện tốt công tác chi trả các chế độ sẽ là nhân tố thúc đẩy hiệu quả thu, ngược lại, công tác thu thực hiện tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác chi trả. Như vậy tất yếu đặt ra vấn đề: Bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH, bởi vì quỹ BHXH tăng trưởng thì công tác chi trả cho các chế độ mới được thuận lợi và đảm bảo. Để tăng nguồn thu cho quỹ BHXH cần có những biện pháp sau đây: * Mở rộng đối tượng tham gia Đối tượng tham gia BHXH là yếu tố quan trọng bậc nhất trong việc đảm bảo an toàn xã hội và tăng nguồn đóng góp vào quỹ BHXH. Hầu hết các nước trên thế giới đều quan tâm đến các giải pháp tăng số lượng người tham gia. - Mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc: Chẳng hạn các doanh nghiệp sử dụng từ 5 lao động trở lên. - Thực hiện BHXH tự nguyện. Trong tương lai tiến tới thực hiện BHXH toàn dân để mọi người không còn lo lắng, yên tâm làm việc hơn vì đã có chính sách BHXH quan tâm. * Tiếp tục lấy nguyên tắc hạch toán cân đối thu chi quỹ làm căn bản trong trong chính sách BHXH. Trên cơ sơ nguyên tắc này, cần xác định mức đóng và mức trợ cấp hợp lý theo từng thời kỳ phù hợp với sự biến động của giá cả, khả năng đầu tư tăng trưởng nguồn quỹ. * Đầu tư nguồn quỹ nhàn rỗi Với mục tiêu hoạt động của BHXH là tự cân đối thu- chi, do đó quỹ BHXH luôn phải có một lượng tiền tích luỹ để chi các chế độ trợ cấp dài hạn như: hưu trí, tử tuất, thương tật. Lượng tiền tích luỹ này phải được hoạt động đầu tư để bảo tồn giá trị và tăng trưởng. Quỹ BHXH nhằm để đảm bảo chi trả các trợ cấp cho người thụ hưởng, nó liên quan đến lợi ích của rất nhiều người. Vì vậy, đầu tư quỹ BHXH có những đặc điểm và nguyên tắc nhất định đó là: Tính hiệu quả; độ an toàn cao; khả năng thanh toán và có lợi ích cho xã hội. Hiệu quả của đầu tư (lãi đầu tư) là sự tăng lên toàn bộ giá trị đầu tư được tính trong một giai đoạn nhất định (thường là 1 năm). Lãi đầu tư làm tăng thu cho quỹ BHXH đồng thời cho phép hạ tỷ lệ đóng góp hoặc không làm tăng tỷ lệ đóng góp BHXH. Để đảm bảo an toàn cho quỹ BHXH thì phải lựa chọn cách đầu tư và lĩnh vực đầu tư để giảm thiểu rủi ro. Quỹ BHXH phải chi thường xuyên, nhất là chi trả các trợ cấp BHXH dài hạn, do đó, khi đầu tư phải lưu ý khả năng có thể rút được tiền ngay, đặc biệt là tiền mặt. Điều này đòi hỏi các nhà đầu tư bảo hiểm phải cân nhắc lĩnh vực đầu tư không nhất thiết phải là lĩnh vực đầu tư có lợi nhuận cao nhất nhưng rủi ro lớn hoặc lĩnh vực có nhiều lợi nhuận nhưng vốn lại bị “ găm” lâu như bất động sản. ở Việt nam, do tình hình kinh tế chưa phát triển, các doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn và môi trường cạnh tranh còn nhiều bất cập, nên trước mắt chỉ nên đầu tư vào lĩnh vực mua trái phiếu và bất động sản. Khi thị trường chứng khoán ổn định thì có thể tham gia nhưng phải có sự bảo lãnh đặc biệt. Ngoài ra, quỹ BHXH có thể liên doanh với một số công ty mạnh đầu tư vào lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng. 3.2.8. Tăng cường giám sát hoạt động công đoàn cơ sở trong thực hiện chính sách BHXH. Đây cũng là một nhiệm vụ rất cần thiết để thực hiện tôt công tác chi trả BHXH. Bởi vì , hiện nay, trong công tác chi trả BHXH còn rất nhiều khe hở có thể lợi dụng. Biện pháp: Công đoàn tổ chức kiểm tra, giám sát hoặc phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước để thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong việc thực hiện đóng đầy đủ, đúng kỳ tiền BHXH cho cơ quan BHXH theo quy định và đảm bảo việc quản lý chặt chẽ và cung cấp đầy đủ hồ sơ, tư liệu cần thiết làm cơ sở cho việc thực hiện các ché độ BHXH. - Giám sát hoạt động BHXH các cáp trong việc chi trả các chế độ BHXH, bảo đảm đầy đủ, kịp thời và thuận tiện. - Xây dựng chương trình phối hợp giữa công đoàn và BHXH các cấp để thực hiện tốt nội dung giám sát của công đoàn và BHXH các cấp để thực hiện tốt nội dung giám sát của công đoàn đối với hoạt động của BHXH. - Phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các cơ quan quản lý Nhà nước và BHXH các cấp giải quyết những vướng mắc, khiếu nại của người lao động về chế độ chính sách BHXH. 3.2.9. Đầu tư cho phương tiện đi lại và công tác đảm bảo an toàn tiền mặt trong quá trình chi trả Đây là một tồn tại mà cho đến nay về cơ bản cơ quan BHXH vẫn chưa khắc phục được, trong khi đó hàng tháng các tỉnh và thành phố vẫn phải đảm bảo chi trả an toàn gần 500 tỷ đồng tiền mặt. Trừ một số tỉnh, thành phố lớn có điều kiện giao thông đi lại thuận tiện thì phương tiện vận chuyển tiền từ Kho bạc và Ngân hàng xuống các đại lý chi trả chủ yếu dùng ôtô, các tỉnh còn lại, phương tiện vận chuyển chủ yếu là bằng xe máy và xe đạp. Ngoài ra ở các xã, phường nếu không chi hết tiền trong ngày, cũng không có két bạc chuyên dùng để bảo vệ tiền mặt đến ngày chi trả sau. Tồn tại trên nếu không sớm được khắc phục, sẽ là một trong những nguyên nhân làm mất hoăc thất thoát tiền của đối tượng trong quá trình chi trả. 3.2.10. Có kế hoạch hợp tác với các ngành, các cấp trong việc tổ chức thực hiện. ở TW: BHXH VN phải kết hợp chặt chẽ với các ngành đặc biệt là các ngành: Tài chính, Lao động- Thương binh- Xã hội, Liên đoàn Lao động VN. Tranh thủ sự chỉ đạo của lãnh đạo các bộ, các ngành trong việc thực hiện các chế độ chính sách BHXH. ở địa phương: BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc TW phải tranh thủ lãnh đạo và chỉ đạo các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương, hợp đồng kết hợp chặt với các ngành trong địa phương. Sự kết hợp với các ngành trong công tác tổ chức thực hiện các hoạt động BHXH phải được xây dựng thành kế hoạt hàng năm để chủ động trong sự phối kết hợp. 3.2.11. Hoàn thiện công tác cấp sổ BHXH. Mục đích của công tác cấp sổ BHXH nhằm quản lý chặt chẽ các đối tượng tham gia và đóng BHXH giúp cho người lao động có cơ sở pháp lý kiểm tra giám sát kết quả đóng và thực hiện các chế độ BHXH của người sử dụng lao động. Tạo điều kiện thuận lợi và đảm bảo sự công bằng cho người lao động khi chuyển nơi làm việc vẫn duy trì được quyền lợi BHXH... Ngoài ra, sổ BHXH còn là cơ sở giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa người lao động, người sử dụng lao động với cơ quan BHXH. Yêu cầu: Việc cấp sổ BHXH phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Tính trung thực trong việc kê khai thời gian làm việc, thời gian đóng BHXH. - Việc cấp sổ BHXH phải được thực hiện tại đơn vị cơ sở. - Phải được ghi chép chính xác, đầy đủ theo hồ sơ gốc của mỗi người đã xác định trong tờ khai cấp sổ BHXH. - Trong sổ không được tẩy, xoá và sửa chữa tuỳ tiện, không được sử dụng sai mục đích. Trên đây là một số giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện công tác chi trả các chế độ BHXH. Hy vọng rằng trong tương lai gần, công tác chi trả BHXH nói riêng và của ngành BHXH nói chung phát triển hơn nữa đáp ứng được nhu cầu của người tham gia BHXH, tạo được sự tin cậy của người lao động vào chính sách BHXH. kết luận Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước , chi trả trợ cấp BHXH là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cơ quan BHXH và của cơ quan quản chính nhà nước về góc độ xã hội cũng như lĩnh vực tài chính mà NSNN đảm nhận chi trả . Việc chi trả trợ cấp BHXH có kịp thời, đầy đủ và chính xác cho đối tượng hưởng BHXH hay không, có đáp ứng được nhu cầu phục vụ ngày càng cao của đối tượng hưởng BHXH hay không, có phù hợp với yêu cầu và điều kiện thực tiễn của từng địa phương, đơn vị hay không là những vấn đề luôn được các cấp, các ngành cũng như người lao động và người sử dụng lao động quan tâm. Để giải quyết tốt vấn đề đó cần phải đưa ra các giải pháp hữu hiệu phù hợp cả về lý luận và thực tiễn, có tính khả thi trong điều kiện cho phép. Xuất phát từ thực tiễn hoạt động và qua quá trình nghiên cứu luận văn em xin được nêu ra một số biện pháp nhằm đảm bảo thực công tác chi trả các chế độ BHXH. Hy vọng rằng đây sẽ là những giải pháp có hiệu quả thiết thực trong thời gian tới. Song, muốn thực hiện tốt các biện pháp đã nêu trên thì ngoài sự nỗ lực của riêng ngành BHXH còn phải có sự hỗ trợ của các ngành, các cấp có liên quan, đặc biệt là có được cơ chế quản lý và hệ thống chế độ, chính sách đồng bộ. Đó sẽ là tiền đề cho việc thực hiện tốt công tác chi trả BHXH nói riêng và hoạt động của ngành BHXH nói chung. Từ đó, phát huy hơn nữa mục đích cao đẹp của BHXH: vì dân sinh hạnh phúc, vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC1002.DOC
Tài liệu liên quan