Đề tài Thực trạng việc ký kết hợp đồng kinh tế và hướng hoàn thiện pháp luật về ký kết hợp đồng kinh tế

Các căn cứ để xác định một hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ quy định khoản 1 - Điều 8 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế . + Thứ nhất : Điểm c - Khoản 1 - Điều 8 quy định : Người ký kết hợp đồng kinh tế không đúng thẩm quyền “ Hợp đồng kinh tế sẽ vô hiệu toàn bộ. Đây là quy định khá hợp lý, song trên thực tế có trường hợp văn bản uỷ quyền của Giám đốc cho phó Giám đốc đó được phê chuẩn sau khi đã ký hợp đồng thì văn bản đó có hợp lệ không ? lúc nào được coi là hợp lệ “. Do đó, pháp luật kinh tế cần phải phân biệt sự xác lập uỷ quyền trước và sau khi phát sinh tranh chấp .Theo đó, sự phê chuẩn uỷ quyền thực hiện trước khi phát sinh tranh chấp đối với hợp đồng thì sự uỷ quyền đó là hợp lệ, khi đó văn bản phê chuẩn được coi là văn bản bổ sung kèm theo văn bản hợp đồng kinh tế đã ký. Nếu sự phê chuẩn thực hiện sau khi phát sinh tranh chấp, đã khởi kiện thì sự phê chuẩn không được thừa nhận, bởi vì như thế chỉ là cách thức hợp pháp hoá để trốn tránh trách nhiệm. + Thứ hai : Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định hành vi “lừa đảo” của các bên ký kết hợp đồng kinh tế là chưa xác đáng. Thật vậy, muốn xác định hành vi “lừa dối” của các bên ký kết hợp đồng kinh tế phải có kết luận của cơ quan có thẩm quyền (Toà án, Viện kiểm sát.), nên chưa có kết luận của cơ quan này mà đã kết luận. Hợp đồng kinh tế vô hiệu do người ký có hành vi “lừa đảo“ và đưa ra xử lý là chưa đảm bảo cơ sở pháp lý. Để hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế cần quy định hành vi “lừa dối” thay cho hành vi “lừa đảo” thì hợp lý hơn. Bởi vì các hợp đồng kinh tế được thực hiện dưới tác động của sự lừa dối thay cho hành vi “ lừa đảo “ thì hợp lý hơn. Bởi vì các hiệp kinh tế được thực hiện dưới tác động của “sự lừa dối” đã đủ để hợp đồng đó vô hiệu, không nhất thiết phải nâng lên thành hành vi “lừa đảo”. Bên cạnh hành vi “lừa dối“ có thể bổ sung thêm các hành vi “lừa đảo” .

doc67 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1178 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng việc ký kết hợp đồng kinh tế và hướng hoàn thiện pháp luật về ký kết hợp đồng kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ồng có thể do các bên ký kết bằng nhiều hình thức khác nhau, các bên có thoả thuận bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Pháp luật có thể quy định đối với một loại hợp đồng nhất định nào đó phải được ký kết dưới một hình thức nhất định. Trong trường hợp luật pháp có quy định, hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản, phải được chứng nhận của công chứng Nhà nước, chứng thực, đăng ký, xin phép thì các bên ký kết hợp đồng phải tuân theo các quy định đó, nếu không hợp đồng sẽ không có giá trị. Ví dụ, đối với hợp đồng mua bán tài sản thông thường, Bộ luật dân sự không quy định hình thức của hợp đồng, do đó các bên ký kết hợp đồng có thể lựa chọn hình thức của hợp đồng. Đối với hợp đồng mua bán nhà ở, Điều 443 Bộ luật dân sự quy định “Hợp đồng mua bán nhà ở phải lập thành văn bản có chứng nhận của công chứng Nhà nước hoặc chứng thực của uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền “. Do đó các bên ký hợp đồng mua bán nhà ở phải ký kết dưới hình thức văn bản và phải có chứng nhận của Công chứng Nhà nước hoặc có chứng thực của uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền thì hợp đồng mới có giá trị theo quy định hiện hành, hợp đồng kinh tế phải được ký kết bằng văn bản . Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế quy định: ”Hợp đồng kinh tế được ký kết bằng tài liệu giao dịch, công văn, điện báo, đơn chào hàng,đơn đặt hàng. Ở đây, chỉ quy định hợp đồng kinh tế được ký kết bằng văn bản chứ không quy định phải ký kết bằng văn bản nhưng mọi người đều hiểu rằng hình thức hợp đồng kinh tế phải bằng văn bản. Chỉ có sự thoả thuận bằng văn bản hoặc tài liệu giao dịch “viết“ khác như công văn, điện báo, đơn chào hàng mới được coi là hợp đồng kinh tế. Sở dĩ từ trước đến nay chúng ta cho rằng hợp đồng kinh tế phải được ký kết bằng văn bản vì giá trị của hợp đồng kinh tế thường rất lớn, lại liên quan trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh doanh và có thể liên quan đến kế hoạch của Nhà nước. Do đó phải ghi nhận rõ ràng những điều mà các bên đã thoả thuận để xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên, nhằm nâng cao trách nhiệm của các bên trong việc thực hiện hợp đồng và để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có thể kiểm tra được tính hợp pháp của mối quan hệ kinh tế trong hợp đồng và giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm nếu có. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện nay, luật hợp đồng áp dụng cho các chủ thể kinh doanh cần phải linh hoạt, mềm dẻo, ít tính hình thức, đơn giản thuận tiện bởi vì trong quan hệ giữa các nhà kinh doanh với nhau họ phải quyết định một cách nhanh chóng, việc chứng minh hợp đồng cần dễ dàng. Có thể chứng minh hợp đồng bằng mọi phương tiện : văn bản, người làm chứng hay suy đoán và trong trường hợp có tranh chấp, cơ quan tài phán (Toà án kinh tế hay Trọng tài kinh tế phi Chính phủ) phải xem xét một cách thông minh, sáng suốt và thận trọng. Do vậy việc ký kết hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường cũng không nhất thiết phải bằng văn bản. Có thế lập hợp đồng kinh tế thông qua việc trao đổi bằng điện thoại hoặc thư từ. Đối với các nhà kinh doanh, uy tín, danh dự, là rất quan trọng, lời hứa của họ không thể “gió bay”. Trong hệ thống pháp luật phương Tây, để tạo điều kiện thuận lợi, nhanh chóng cho các nhà kinh doanh, pháp luật quy định hình thức của hợp đồng thương mại rất linh hoạt. Hợp đồng có thể ký bằng văn bản, có thể không và không phải tuân theo thủ tục bắt buộc. Ký kết hợp đồng kinh tế dưới hình thức nào là do các nhà kinh doanh tự quyết định. Các chuyên gia pháp lý chỉ khuyên các nhà kinh doanh nên ký hợp đồng văn bản, còn pháp luật thì không bắt buộc. Để đảm bảo cho Pháp lệnh hợp đồng kinh tế của chúng ta linh hoạt mềm dẻo, đáp ứng yêu cầu của hoạt động kinh doanh, theo chúng tôi pháp luật không nên quy định hình thức văn bản đối với tất cả các hoạt động kinh tế mà chỉ quy định hình thức văn bản đối với một số loại hợp đồng kinh tế nhất định. Như vậy, ký kết hợp đồng kinh tế các chủ thể có thể lựa chọn hình thức thích hợp, thuận tiện đối với họ, trừ trường hợp pháp luật quy định hình thức văn bản thì các bên phải tuân thủ quy định của pháp luật đối với từng loại hợp đồng kinh tế đó. Đề cập đến vấn đề hình thức của hợp đồng các bên thường mắc sai lầm khi không lưu lại toàn bộ chứng từ, tài liệu từ việc chào hàng, chấp nhận , chào hàng và văn bản đều là những chứng cứ khi có tranh chấp xảy ra. Do đó cần phải giữ lại toàn bộ các giấy tờ liên quan đến thươngvụ. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định tất cả các hợp đồng kinh tế phải được ký kết bằng văn bản không phù hợp với tình hình thực tế hiện nay khi mà công nghệ thông tin đã được hiện đại hoá, đa dạng hoá góp nhiều lần so với thời điểm ban hành pháp lệnh. Do đó, cần phải khắc phục nhưng hạn chế của pháp luật hiện hành về vấn đề này. - Một đặc điểm khác đáng lưu ý về thực trạng pháp luật hợp đồng kinh tế cần phải kể đến là Việt Nam chưa tham gia công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán quốc tế các hàng hoá (Công ước viên 1980)-United Nations Convention on Contracts for the Inter International Sale ò Good of Goods (Viena,1980). Có thể nói đây là một công ước rất quan trọng trong xu hướng quốc tế hoá các loại quan hệ kinh tế trên thế giới cũng như đối với việc thực hiện chính sách kinh tế. -Việc ban hành Bộ luật dân sự năm 1995 và nghiên cứu soạn thảo Luật thương mại hiện nay đã đặt ra vấn đề cần phải xem lại vị trí, nội dung Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Chính vì thế mà có không ít bài viết các cuộc tranh luận trao đổi về vấn đề này. Quan điểm chung đều cho rằng sự tồn tại của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 là không còn cơ sở vì nó lạc hậu so với sự phát triển của kinh tế và bất cập so với nhiề văn bản pháp luật mới ban hành. Nhưng giải quyết hậu qủa này như thế nào thì lại có nhiều loại ý kiến khác nhau mà có thể tổng hợp lại thành ba loại chủ yếu. - Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, cần phải ban hành luật về hợp đồng kinh tế mới thay cho Pháp lệnh hợp đồng kinh tế cũ. Điều đó không có nghĩa là thay đổi về hình thức mà phải đổi cả về nội dung. - Loại ý kiến thứ hai cho rằng cần phải ban hành một văn bản pháp luật thay cho Pháp lệnh hợp đồng kinh tế nhưng không phải là luật hợp đồng kinh tế mà là Luật hợp đồng kinh doanh vì quan hệ kinh tế là khái niệm rất rộng không thể điều chỉnh bằng một loại hợp đồng được. Việc thay đổi tên gọi dựa trên cơ sở là các hợp đồng kinh doanh là hợp đồng phục vụ cho mục đích kiếm lợi nhuận của nhà kinh doanh. - Loại ý kiến thứ ba cho rằng cần phải thay thế Pháp lệnh hợp đồng kinh tế bằng một số loại hợp đồng chuyên biệt được quy định trong Luật thương mại (nếu được Quốc hội thông qua) và có thể là trong một số văn bản pháp luật khác nữa. Các hợp đồng này là các loại hợp đồng chuyên biệt. Nếu theo phương án này thì các quy định hợp đồng trong Bộ luật dân sự được coi là quy định gốc. Các hợp đồng chuyên biết được áp dụng ưu tiên, nếu có các quy định về lĩnh vực nào đó thì sẽ áp dụng theo Bộ luật Dân sự . Trong ba loại ý kiến trên, chúng tôi cho rằng loại ý kiến thứ nhất có khả năng thích hợp với truyền thống lập pháp cũng như các định chế hiện tại (Toà kinh tế - Toà dân sự). Nếu chúng ta nghiên cứu để ban hành một luật hợp đồng kinh doanh thì điều đó có thuận lợi là khái niệm kinh doanh đã được định nghiã trong pháp luật Việt Nam. 2.1.3. Sự vô hiệu của hợp đồng kinh tế . Một hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu khi hợp đồng kinh tế đó ký kết trái với những quy định của pháp luật. Những nội dung về quyền và nghĩa vụ của các bên được xác lập trái với những quy định của pháp luật thì không có hiệu lực thực hiện. Có hai loại hợp đồng kinh tế vô hiệu là : -Hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ. -Hợp đồng quốc tế vô hiệu từng phần. Việc kết luận hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ hay từng phần thuộc thẩm quyền của Toà án kinh tế . Chế định hợp đồng kinh tế vô hiệu là chế định mới được đưa vào pháp luật hợp đồng kinh tế nhằm bảo đảm trật tự kỷ cương trong hoạt động kinh tế. Những hợp đồng kinh tế nào có một trong các nội dung sau đây thì bị còn là vô hiệu toàn bộ ngay từ khi hợp đồng kinh tế được hình thành. Điều 8-Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định : 1. Những hợp đồng kinh tế sau đây bị coi là vô hiệu toàn bộ . a-Nội dung của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật . Ví dụ : các bên thoả thuận sản xuất, tiêu thụ hàng giả, mua bán, vận chuyển hàng cấm. b- Một trong các bên ký kết hợp đồng kinh tế không có đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật để thực hiện công việc đã thoả thuận trong hợp đồng. Nếu pháp luật quy định để thực hiện công việc đó đòi hỏi cả hai bên có đăng ký kinh doanh mà một trong các bên không có đăng ký kinh doanh thì hợp đồng kinh tế đó bị coi là vô hiệu toàn bộ. c. Người ký kết hợp đồng kinh tế không đúng thẩm quyền hoặc có hành vi lừa đảo. Người ký kết không đúng thẩm quyền tức là người đó không phải là đại diện hợp pháp, không phải là người được uỷ quyền hoặc được uỷ quyền nhưng vượt quá phạm vị uỷ quyền mà nội dung ký hợp đồng nằm toàn bộ trong phạm vi vượt quá uỷ quyền đó. Khi người ký kết hợp đồng có hành vi lừa đảo như giả danh, giả mạo giấy tờ,chữ ký, con dấu, thì hợp đồng đó được coi là vô hiệu toàn bộ. - Hợp đồng kinh tế bị vô hiệu từng phần khi nội dung của phần đó vi phạm điều cấm của luật, nhưng không ảnh hưởng tới phần còn lại của hợp đồng, tức là chỉ vô hiệu những phần thoả thuận trái pháp luật, còn những phần khác vẫn có hiệu lực thực hiện. Trong trường hợp hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu từng phần thì các bên phải sửa đổi điều khoản trái pháp luật, khôi phục các quyền và lợi ích ban đầu, đồng thời có thể bị xử lý theo các quy định của pháp luật đối với phần vô hiệu đó. Nguyên tắc xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu từng phần được áp dụng giống như nguyên tắc xử lý vô hiệu toàn bộ. Cách đây 7 năm các nhà soạn thảo Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã có những cố gắng lớn trong việc xây dựng chế định về sự vô hiệu của hợp đồng kinh tế. Qua một thời gian đưa vào áp dụng chế định hợp đồng kinh tế vô hiệu đã góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn kỷ cương, nâng cao ý thức pháp luật, bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên tham gia ký kết hợp đồng. Theo thống kê của Trọng tài kinh tế Nhà nước, thì kết quả xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu trong những năm đầu thi hành pháp luật hoạt động kinh tế như sau : - Năm 1990 trong tổng số 4732 vụ do Trọng tài kinh tế Nhà nước thụ lý giải quyết, có 394 vụ phải xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu. Số vụ giải quyết hợp đồng kinh tế vô hiệu chiếm 8,32% tổng số vụ do trọng tài kinh tế giải quyết. - Năm 1991 con số này là 3420 vụ do Trọng tài kinh tế Nhà nước giải quyết, có 526 vụ phải xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu, chiếm 5,38% tổng số vụ do Trọng tài kinh tế giải quyết. - Năm 1992 con số này là 1648 vụ do Trọng tài kinh tế Nhà nước giải quyết, có 324 vụ phải xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu, chiếm 19,72% tổng số vụ do Trọng tài kinh tế giải quyết. Như vậy số vụ giải quyết hợp đồng kinh tế vô hiệu chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng số vụ trọng tài kinh tế Nhà nước giải quyết. Những năm sau này kể từ ngày Trọng tài chấm dứt hoạt động toà án nhân dân không được giao nhiệm vụ phát hiện hợp đồng kinh tế vô hiệu thì việc xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu giảm đi. Nếu pháp luật quy định chỉ cần một bên có đăng ký kinh doanh (ví dụ, bên bán, bên làm dịch vụ, bên nhận thầu, bên chủ phương tiện vận tải ...) mà bên đó không có đăng ký kinh doanh thì hợp đồng cũng bị coi là vô hiệu toàn bộ. Đối với hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu toàn bộ, dù các bên chưa thực hiện,đang thực hiện hoặc đã thực hiện xong đều phải xử lý theo quy định của pháp luật.Cụ thể như sau : Điều 39 -Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định. + Nếu nội dung công việc trong hợp đồng chưa thực hiện các bên không phép thực hiện. + Nếu nội dung công việc trong hợp đồng là thực hiện một phần thì các bên phải chấm dứt việc thực hiện và bị xử lý tài sản, kể cả trong trường hợp hợp đồng đã được thực hiện xong, tức là các bên có nghĩa vụ hoàn trả cho nhau tất cả tài sản đã nhận được từ việc thực hiện hợp đồng.Trong trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả hàng bằng tiền nếu tài sản đó không bị thu theo quy định của pháp luật. Thu nhập bất hợp pháp phải nộp vào ngân sách Nhà nước,thiệt hại phát sinh các bên phải chịu. Từ thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh tế của trọng tài kinh tế Nhà nước và toà án kinh tế, cũng như từ sự nghiên cứu lýluận chúng tôi thấy chế định của hợp đồng kinh tế vô hiệu còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót mà vào năm 1989 các nhà soạn thảo Pháp lệnh hợp đồng kinh tế không thể lường trước được sự phức tạp của vấn đề này. ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến một số hạn chế,thiếu sót của chế định này. - Thứ nhất : Khi ký kết hợp đồng kinh tế mặc dù các bên được quyền tự do thoả thuận nội dung của hợp đồng tuy nhiên quyền tự do này phải trong khuôn khổ pháp luật. Tại khoản 1 - điểm a - Điều 8 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989 qui định một hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu toàn bộ khi: Nội dung của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật là quá rộng, chỉ nên nói đến những điều khoản chủ yếu của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật. - Thứ hai : Cũng tại khoản 1 - điểm b - Điều 8 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định “một trong các bên ký hợp đồng kinh tế không có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc đã thoả thuận trong hợp đồng “ là không phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường, chỉ nên coi đây là điều kiện để xác định chủ thể của hợp đồng kinh tế. Trong trường hợp vô hiệu này có liên quan trực tiếp đến tư cách pháp lý và năng lực hành vi của chủ thể quan hệ hợp đồng kinh tế. Nếu pháp luật quy định để thực hiện công việc đó đòi hỏi cả hai bên phải có đăng ký kinh doanh , mà một trong các bên ký kết hợp đồng không có đăng ký kinh doanh thì hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu toàn bộ. Nếu pháp luật quy định chỉ cần một bên có đăng ký kinh doanh mà bên đó không có đăng ký kinh doanh thì hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu toàn bộ. Đây cũng là một trong những lỗi thường gặp của các chủ thể khi ký kết hợp đồng kinh tế không kiểm tra giấy phép kinh doanh của đối tác. Thực tiễn cho thấy việc kiểm tra giấy phép đăng ký kinh doanh của đối tác là điều kiện khó thực hiện, tuy nhiên đây cũng là điều cần thiết phải làm để tránh những hậu quả đáng tiếc xảy ra, có thể thấy rõ điều này qua ví dụ sau: Ví dụ 1 : Tại các hợp đồng kinh tế ngày 16/3/1990và hợp đồng kinh tế ngày 30/3/1990, doanh nghiệp ánh sáng thành phố Hồ Chí Minh bán nhựa PVC thứ phẩm là mặt hàng không đăng ký kinh doanh của Công ty TNHH nhựa Đạt Hoà. Vì vậy 2 hợp đồng kinh tế này cũng bị vô hiệu toàn bộ theo quy định tại điểm b, khoản 1 ,Điều 8 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế . - Cũng theo quy định tại khoản 1 điểm c, Điều 8-Pháp lệnh hợp đồng kinh tế người ký kết hợp đồng kinh tế không đúng thẩm quyền cũng gây hậu quả hợp đồng vô hiệu. Vì vậy khi ký kết hợp đồng kinh tế phải xác định rõ tư cách của người ký hợp đồng, phải hội tụ đầy đủ các yếu tố như đã phân tích ở phần trên (đại diện ký hợp đồng ) Ví dụ : Về trường hợp hợp đồng kinh tế vô hiệu do người ký hợp đồng không đúng thẩm quyền. Ví dụ 1 : Ngày 4/4/1996, Công ty thương nghiệp xuất nhập khẩu tổng hợp Đồng Tháp ký hợp đồng bán gạo cho Công ty chế biến kinh doanh xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm Nghệ An. Đại diện bên mua ký kết hợp đồng có giấy uỷ quyền của Giám đốc Công ty. Vì vậy, hợp đồng kinh tế bị vô hiệu toàn bộ theo điểm c, khoản 1, Điều 8, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế Ví dụ 2: Ngày 1/3/1996, Công ty TNHH A ký kết hợp đồng uỷ thác với Công ty thành phố Hồ Chí Minh nhập khẩu lô hàng điện tử. Đại diện của bên uỷ thác là phó Giám đốc. Hợp đồng này bị coi là hiệu theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 8 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. - Thứ ba : Các văn bản pháp luật về hợp đồng kinh tế chưa quy định các điều kiện của hợp đồng kinh tế.Trong lúc đó các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng là cơ sở không thể thiếu để quy định và xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu. Cụ thể như sau : + Nếu nội dung công việc trong hợp đồng chưa thực hiện thì các bên không được phép thực hiện. + Nếu nội dung công việc trong hợp đồng đã được thực hiện một phần vì các bên phải chấm dứt việc thực hiện và bị xử lý tài sản, kể cả trường hợp hợp đồng đã thực hiện xong. Các bên có nghĩa vụ hoàn trả cho nhau tất cả các tài sản đã nhận từ việc thực hiện hợp đồng. Trong trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền, nếu tài sản đó bị tịch thu theo quy định của pháp luật hoặc về mặt thực tế không hoàn trả được. Ví dụ: Gỗ đã đóng thành đồ dùng, xi măng đã trở thành bê tông. - Thứ 4 : Khái niệm “ thu nhập bất hợp pháp” là gì chưa được làm rõ. - Thứ 5 : Pháp luật hợp đồng kinh tế qui định thiệt hại phát sinh các bên phải chịu là không hợp lý và công bằng, nên quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên có lỗi. Trên thực tế có nhiều trường hợp do không hiểu biết pháp luật dẫn đến việc ký kết hợp đồng vi phạm điều cấm bị thiệt hại hàng triệu đô la.Pháp luật bị vi phạm có thể là pháp luật của các nước có các bên tham gia ký kết hợp đồng, pháp luật của nước được chọn để điều chỉnh hợp đồng hoặc pháp luật của nước thứ ba có liên quan. Ví dụ : Có một Công ty của nước xã hội chủ nghĩa ký kết hợp đồng bán thiết bị cho một Công ty nước ngoài, giá trị hợp đồng là 20 triệu USD (điều kiện FOB - Free on board tức là giao trên boong tàu). Thời hạn giao hàng là một năm, sau ngày ký hợp đồng . Vì là hợp đồng có giá trị rất lớn, nên bên mua đã đưa ra điều kiện chặt chẽ, như: kiểm tra hàng hoá tại nước ngoài bán, kiểm tra hàng hoá tại nước người mua, điều kiện lắp đặt, điều kiện bảo hành bảo dưỡng và điều kiện về chuyên gia ... cùng với quy định chế tài phạt rất nặng đối với bất kỳ điều kiện nào không đạt yêu cầu làm ảnh hưởng đến tiến độ lắp ráp đều bị phạt rất nặng. Bên bán, trước trách nhiệm rất cao cho giá trị hợp đồng lớn cũng tính toán hết mọi chi phí và dự tính đến cả giá các nguyên vật liệu chế tạo ( như: sắt thép, nhôm, đồng, crôm...) sẽ biến động như thế nào khi sản xuất . Ngoài ra họ còn tính đến tỷ giá hối đoái và biến động của đồng USD khi thanh toán, bên bán căn cứ vào giá trị hàng hoá của mình trên thị trường thế giới lúc ký kết hợp đồng kinh tế để quy ra vàng tiêu chuẩn và từ số lượng vàng tiêu chuẩn đó ra đồng USD tính trên hàm lượng vàng của đồng tiền USD và yêu cầu khi thanh toán sẽ căn cứ vào giá vàng tiêu chuẩn trên thị trường thế giới để điều chỉnh hàm lượng vàng USD. Sau 10 ngày đàm phán nghiêm túc, 2 bên đã ký xong hợp đồng và thấy yên tâm,thoả mãn với các điều kiện đã được quy định trong hợp đồng. Cụ thể như sau : +Trị giá (FOB) hợp đồng là 20.000.000USD (đô la Mỹ) khi thanh toán sẽ căn cứ vào giá vàng tiêu chuẩn trên thị trường thế giới và hàm lượng vàng của đồng USD để điều chỉnh giá thanh toán của hợp đồng. +Phương thức thanh toán : người mua sẽ mở như tín dụng (L/C) không thể huỷ ngang. Lần thứ nhất L/C mở bằng 3/4 tổng giá trị hợp đồng, 30 ngày trước ngày hàng sẵn sàng giao. Lần thứ hai là toàn bộ giá trị hợp đồng còn lại sau khi đã được điều chỉnh căn cứ vào giá vàng tiêu chuẩn trên thị trường thế giới và hàm lượng vàng của đồng tiền thanh toán, ngay sau khi hàng đã được giao qua lan can tàu căn cứ trên vận đơn vạch. - Điều khoản về giải quyết tranh chấp hợp đồng này sẽ được đưa ra tổ chức trọng tài kinh tế của một nước thứ ba do bên bị khiếu nại lựa chọn. Một năm sau,thời hạn giao hàng đã đến, lúc này đồng USD mất giá 15% . Vì người bán đã dự phòng trước sự biến động của đồng tiền thanh toán nên việc giao hàng vẫn bình thường và thư tín dụng(L/C) đã được mở như điều kiện quy định trong hợp đồng.Sau khi hàng được giao lên tàu người bán đã có vận đơn sạch, tính toán lại giá trị hợp đồng tại thời điểm thanh toán như quy định trong hợp đồng và yêu cầu người mua mở L/C thanh toán nốt. Tưởng như vậy là xong, bên bán yên tâm chờ nhận nốt số tiền còn lại, nhưng khi nhận được thông báo của Ngân hàng, bên bán chỉ nhận được số tiền bằng 1/4 giá trị hợp đồng còn lại mà không có khoản điều chỉnh tăng 15% bù vào đồng USD mất giá. Lúc này người bán vẫn cho rằng có thể người mua chưa tính toán xong phần chênh lệch chứ không thể có sự tráo trở, vì điều kiện hợp đồng quy định chặt chẽ và đầy đủ... hai bên điện đi điện lại, tranh chấp kéo dài không giải quyết được đình ninh rằng mình sẽ thắng kiện, người bán đưa vụ tranh chấp ra trọng tài kinh tế. Tuy nhiên phán quyết Trọng tài lại trái ngược với phỏng đoán của bên bán. Trọng tài phán căn cứ hợp đồng hai bên đã ký kết và căn cứ vào việc thực hiện hợp đồng, hai bên mua và bán đã chứng tỏ được tinh thần trách nhiệm của mình khá đầy đủ. Trên các điều khoản của hợp đồng đã chứng tỏ hợp đồng được soạn thảo một cách rất chặt chẽ.Tiếc thay trong hợp đồng có một điều khoản đã vi phạm vào điều cấm của pháp luật, đó là điều khoản thanh toán. theo Hiến pháp của nước Mỹ thì không có một cơ quan quyền lực nào được điều chỉnh hàm lượng vàng của đồng USD ngoài Quốc hội Mỹ. Nhân danh pháp luật đại diện cho cả 2 bên, Toà tuyên bố : “ Điều khoản thanh toán của hợp đồng do hai bên ký kết là vô hiệu, bên mua đã thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán của mình. Các chi phí về đi lại của 2 bên để hầu kiện và chi phí để tổ chức phiên toà do bên bán chịu. Ví dụ trên cho thấy, những thận trọng trước khi ký hợp đồng bao giờ cũng là điều hết sức cần thiết nhằm trách những thiệt hại đáng xảy ra. Với ví dụ trên để khắc phục, chỉ còn quy định một chế định trong hợp đồng phải đảm bảo mua được số lượng vàng nguyên chất 999,9% (hoặc USD) tại thời điểm ký kết hợp đồng . Trong hợp đồng cần quy đổi tổng giá trị hợp đồng theo đồng tiền thanh toán sang vàng hoặc đô la Mỹ. - Thứ sáu : Tại khoản 1, điểm c, Điều 8 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định cụm từ “ hành vi lừa đảo” dùng không chính xác khi nói đến sự vô hiệu của hợp đồng, nên thay bằng thuật ngữ “hành vi lừa dối”. “Lừa dối“ là một trong những điều kiện làm cho hợp đồng trở nên vô hiệu vì nó phải đi yếu tố tự nguyện, yếu tố thoả thuận giữa các bên. Tuy nhiên việc xác định thế nếu là “ hành vi lừa dối” không phải là vấn đề đơn giản nhất là trong lĩnh vực hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự. Vậy “ Lừa dối” là gì ? Tại sao nó làm cho hợp đồng vô hiệu. Trong giáo trình Luật hình sự Đại học Luật Hà Nội, “lừa dối” được định nghĩa như sau : “Lừa dối là hành vi cố ý đưa ra thông tin sai không đúng sự thật nhằm để người khác tin đó là sự thực”. Trong giáo trình Luật dân sự Đại học Luật - Hà Nội ở trang 219 có định nghĩa về lừa dối như sau : Lừa dối là việc một bên cố ý làm cho bên kia tưởng tượng, hình dung sai về các điều khoản của hợp đồng mà giao kết hợp đồng một cách có lợi cho mình. Trong Bộ luật dân sự thì “lừa dối” được định nghĩa như sau: “Lừa dối là hành vi cố ý của một bên nhằm làm cho bên kia tưởng tượng, hình dung sai về các điều khoản của hợp đồng mà giao kết hợp đồng một cách có lợi cho mình” . Để có thể xem xét một hành vi lừa dối trong hợp đồng hay không thì ở nhiều nước người ta căn cứ vào các yếu tố sau đây : - Có sự giới thiệu - Sự sai lệch trong sự giới thiệu đó - Nội dung của sự giới thiệu - Người giới thiệu biết về sự sai lệch hoặc bỏ qua sự thật. - Người nghe tin vào sự giới thiệu - Người nghe có truyền tin vào sự giới thiệu như vậy - Có thiệt hại xảy ra do vì trên vào sự giới thiệu đó. - Thứ bảy : Khái niệm “thu nhập bất hợp pháp“ là gì chưa được làm rõ. - Thứ tám : Pháp lệnh hợp đồng kinh tế chưa phân biệt hợp đồng vô hiệu tuyệt đối và hợp đồng vô hiệu tương đối (có thể vô hiệu) trong lúc đó sự phân biết này là cần thiết để từ đó xử lý đối với mà loại hợp đồng vô hiệu khách quan và công bằng hơn. Những trường hợp nêu trên, cần phải nắm vững pháp luật một cách sâu sắc, toàn diện để cân nhắc trước khi ký kết hợp đồng cũng là một yếu hết sức quan trọng,đòi hỏi phải có những phương hướng hoàn thiện để khôi phục những vấn đề trên. 2.2. KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989 đã đề cập đến khác niệm hợp đồng kinh tế, phạm vi và đối tượng điều chỉnh của Pháp luật hợp đồng kinh tế. Song các vấn đề này lại gây ra nhiều tranh cãi và không thống nhất, làm nảy sinh ra nhiều vướng mắc trong vấn đề xác định Luật áp dụng và thực tiễn giải quyết các tranh chấp.Do đó, nhằm hoàn thiện Pháp lệnh hợp đồng kinh tế cần phải sửa đổi và bổ sung các quy định về vấn đề này. 2.2.1. Về khái niệm hợp đồng kinh tế. Điều 1 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định : “Hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản,tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình “ . Khái niệm này mang tính liệt kê, không bao hàm hết các lĩnh vực cần điều chỉnh, không phản ánh rõ các đặc trưng chủ yếu của hợp đồng kinh tế. Thật vậy, xung quanh vấn đề phạm vi điều chỉnh của hợp đồng kinh tế hiện nay còn có nhiều quan điểm khác nhau như - Có quan điểm cho rằng một hợp đồng chỉ cần thoả mãn Điều1 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì phải thoả mãn đồng thời 3 điều kiện quy định tại các Điều 1, Điều 2, Điều 11 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế . Nếu thiếu một trong ba điều kiện thì hợp đồng đó không phải là hợp đồng kinh tế và không chịu sự điều chỉnh của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế . Các điều kiện đó là . + Các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng phải có mục đích kinh doanh. + Các bên chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng phải là pháp nhân, cá nhân có đăng ký kinh doanh. + Hình thức của hợp đồng phải bằng văn bản hoặc tài liệu giao dịch, công văn giấy tờ, điện báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng ... Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng Pháp lệnh hợp đồng kinh tế cũng như thực tiễn kinh doanh đã tạo ra nhiều ngoại lệ như những trường hợp sau: - Trường hợp thứ nhất : Khi hợp đồng được ký kết giữa các chủ thể kinh doanh không có tư cách pháp nhân trong hoạt động kinh doanh thì hợp đồng đó có phải là hợp đồng kinh tế hay không? Ví dụ : Một doanh nghiệp tư nhân ký kết hợp đồng với một doanh nghiệp tư nhân, hay cá nhân kinh doanh bằng văn bản mà nội dung phục vụ cho hoạt động kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận của các bên ký kết. Nếu căn cứ theo Điều 2 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì đây không phải là hợp đồng kinh tế, bởi doanh nghiệp tư nhân và cá nhân kinh doanh đều là những chủ thể kinh doanh không có tư cách pháp nhân. Hơn nữa Điều 1 - Luật thương mại còn quy định thương - một loại chủ thể kinh doanh cũng không có tư cách pháp nhân. Như vậy, việc quy định bắt buộc một bên phải có tư cách pháp nhân trong quan hệ hợp đồng kinh tế là không phù hợp với thực tiễn, bởi cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, rất nhiều chủ thể kinh doanh mới ra đời. Mặt khác, bên cạnh những chủ thể kinh doanh truyền thống có tư cách pháp nhân như doanh nghiệp Nhà nước, hợp tác xã... còn có những chủ thể kinh doanh không có tư cách pháp nhân như doanh nghiệp tư nhân, người kinh doanh dưới vốn pháp định, hộ kinh tế gia đình... Tất cả các chủ thể kinh doanh này phải hoàn toàn bình đẳng với nhau trong các quan hệ pháp luật. Nên trong pháp luật hợp đồng kinh tế, cần sửa đổi không nên quy định cứng nhắc một bên chủ thể trong quan hệ hợp đồng phải là pháp nhân, mà chỉ nên quy định : “Hợp đồng kinh tế là hợp đồng được ký kết giữa các chủ thể kinh doanh “. - Trường hợp thứ hai : Hợp đồng kinh tế phải có mục đích kinh doanh và hướng đến lợi nhuận. Trong đó lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của các bên tham gia hợp đồng kinh tế, nhưng mục tiêu này có đặt ra cho tất cả bên tham gia quan hệ hợp đồng hay không ? hay chỉ cần một chủ thể có mục đích lợi nhuận là đủ ? trong thực tiễn rất nhiều quan hệ hợp đồng mà chỉ có một bên chủ thể tham gia vì mục tiêu lợi nhuận. Ví dụ : Trường Đại học Luật ký kết với một Công ty xây dựng về việc xây dựng cơ sở vật chất cho trường. Trường Luật - đơn vị hành chính sự nghiệp, tham gia quan hệ hợp đồng không phải vì mục tiêu lợi nhuận, mà vì mục tiêu giáo dục. Công ty xây dựng - đơn vị kinh doanh dịch vụ, hoạt động vì mục tiêu kinh doanh. Do vậy, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế cần quy định rõ ràng hơn về mục đích kinh doanh và mục tiêu lợi nhuận của các bên chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế. - Trường hợp thứ ba : Một hợp đồng được ký kết giữa các tổ chức có tư cách pháp nhân trong hoạt động kinh doanh, mà không được thể hiện bằng văn bản là hợp đồng kinh tế hay hợp đồng dân sự ? Nếu là hợp đồng dân sự, đương nhiên sẽ phải chịu điều chỉnh của Pháp luật dân sự, hơn nữa nếu hợp đồng này phát sinh tranh chấp thì đương nhiên do Toà án dân sự giải quyết. Như vậy, việc dùng Pháp luật dân sự, điều chỉnh những quan hệ mang tính chất kinh doanh hiện có phù hợp và đạt hiệu quả cao hay không?. Hơn nữa, trong cơ chế thị trường hết sức năng động, quyết định cứng nhắc về hình thức hợp đồng sẽ không phù hợp, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà công nghệ thông tin học đã và đang là phương tiện để các bên giao kết hợp đồng thương mại. Việc pháp luật hợp đồng kinh tế quy định hợp đồng kinh tế phải được ký kết bằng văn bản , thì một số hợp đồng kinh tế được quy định là phải ký bằng văn bản. Hợp đồng kinh tế có thể ký bằng văn bản hợp đồng: hợp đồng mẫu, thư điện tử, fax truyền tin hoặc bằng tài liệu giao dịch, mà các bên tham gia quan hệ hợp đồng tự chọn hình thức của hợp đồng kinh tế, trừ một số hợp đồng kinh tế mà pháp luật quy định phải ký kết bằng văn bản. Pháp luật hợp đồng kinh tế nên để các bên tham gia quan hệ hợp đồng lựa chọn hình thức của hợp đồng kinh tế, trừ một số hợp đồng kinh tế mà pháp luật quy định phải ký kết bằng văn bản những hợp đồng này thường có giá trị lớn mang tính chất quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt đối với các bên, có ý nghĩa đối với Nhà nước, như hợp đồng nhận thầu trong xây dựng cơ bản. Từ những phân tích ở trên, pháp luật hợp đồng kinh tế cần đưa ra khái niệm về hợp đồng kinh tế như sau : “Hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận giữa các chủ thể kinh doanh về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong các quan hệ kinh tế, mà trong đó một hoặc các bên nhằm mục đích kinh doanh “. 2.2.2. Kiến nghị sửa đổi,bổ sung các quy định thủ tục ký kết hợp đồng kinh tế. Thủ tục ký kết hợp đồng kinh tế được quy định tại Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày25/09/1989, song các quy định đó còn sơ sài và đặc biệt hiện tại nó không còn phù hợp với các quy định của Bộ luật dân sự. Thật vậy, Điều 11 -Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã quan tâm đến yếu tố thoả thuận của hợp đồng song chưa thật đầy đủ. Nếu căn cứ vào các quy định của Bộ luật dân sự về vấn đề này tại các Điều 396, Điều 397và điều 399 thì thủ tục ký kết hợp đồng kinh tế nảy sinh hai vấn đề cần xem xét, đó là : a. Vấn đề thứ nhất : Thời hạn trả lời đề nghị có điều kiện bắt buộc phải ghi trong đề nghị giao kết hợp đồng hay không ? Nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng không ghi thời hạn trả lời thì bên đề nghị có ràng buộc bởi đề nghị của mình hay không ?Pháp lệnh hợp đồng kinh tế cần quy định bổ sung về vấn đề này : “ Thời hạn trảlà giao kết hợp đồng cần được thể hiện trong đó đề nghị giao kết hợp đồng, để tránh cho việc bên đề nghị giao kết hợp đồng phải chờ đợi bên được đề nghị mà có thẻ bỏ lỡ thời cơ kinh doanh, trong đó thời hạn thanh lý phải do người đề nghị ký hợp đồng án định”. b. Vấn đề thứ hai: Đó là khi một bên đề nghị bên kia giao kết hợp hợp đồng có nêu rõ nội dung chủ yếu của hợp đồng và thời hạn trả lời thì không được mời bên thứ ba giao kết hợp đồng trong thời hạn chỉ trả lời và phải chịu trách nhiệm và là đề nghị của mình (Điều 396 - Bộ luật dân sự) Với quy định này các nhà làm luật nhằm hạn chế việc “mua tranh bán cướp” hạn chế vi phạm nghĩa vụ của bên đưa ra đề nghị. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế chưa quy định về vấn đề này. Song pháp luật hợp đồng kinh tế cần quy định bổ sung về vấn đề này, đồng thời cũng cần làm rõ thêm rằng: Bên đề nghị chỉ không được mời bên thứ ba giao kết hợp đồng với nội dung đã được đưa ra trong hợp đồng đối với bên được đề nghị, còn với nội dung khác không thể hạn chế. Từ phân tích trên, thì pháp luật hợp đồng kinh tế phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự. Cụ thể cần quy định về những vấn đề sau : + Khi một bên đề nghị bên kia giao kết hợp đồng kinh tế ,mà trong văn bản đề nghị có ghi rõ nội dung chủ yếu của hợp đồng và thời hạn trả lời, thì bên đề nghị không được mời bên thứ ba giao kết (với nội dung hợp đồng đã đưa ra) trong thời hạn chỉ trả lời và phải chịu trách nhiệm về lời đề nghị của mình. + Khi bên đề nghị chấp nhận chỉ có hiệu lực thực hiện trong thời gian đó, nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết hạn trả lời thì lời chấp nhận này được coi là lời đề nghị mới của bên chậm trả lời. + Khi các bên trực tiếp đề nghị giao kết hợp đồng kinh tế với nhau thì bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hay không chấp nhận trường hợp có thoả thuận về thời hạn trả lời. Trong trường hợp việc trả lời được chuyển qua bưu điện thì thời điểm trả lời là gửi đi theo dấu bưu điện. Ở trên là việc đề nghị giao kết hợp đồng, còn việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị giao kết hợp đồng kinh tế như thế nào thì Pháp lệnh hợp đồng kinh tế chưa quy định. Do vậy để hoàn thiện hơn Pháp luật hợp đồng kinh tế cần qui định thêm về vấn đề này sao cho phù hợp cấp các quy định của Bộ luật dân sự. Một vấn đề nữa cần đặt ra, đó là việc Pháp lệnh hợp đồng kinh tế chỉ quy định rõ thời gian có hiệu lực của hợp đồng khí nó được ký kết trực tiếp.(Điều 11 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ). Còn việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng khi nó được ký kết bằng phương pháp gián tiếp thì lại không đơn giản, mà trong thực tế nó rất phức tạp. Thật vậy,để biết khi nào hợp đồng được hình thành là vấn đề khó trong những trường hợp các bên chỉ thương lượng với nhau bằng thư tín hay tài liệu giao dịch . Việc xác định thời điểm hình thành hợp đồng là vô cùng quan trọng. Điều 11 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế qụy định: Hợp đồng kinh tế có hiệu lực từ khi bên được đê nghị chấp nhận đề nghị giao kết hay từ khi bên đề nghị nhận lại bản hợp đồng đã được chấp nhận, dẫn đến giữa hai thời điểm này có khoảng cách nhất định ảnh hưởng đến việc xác định quyền và nghĩa vụ của các bên. Theo khoản 3- Điều 404 - Bộ luật dân sự quy định : “Hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp hợp đồng có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác“. Tại khoản 1 - Điều 403 - Bộ luật Dân sự quy định : “Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hoặc các bên đã thoả thuận xong nội dung chủ yếu của hợp đồng”. Như vậy với cách thức ký kết hợp đồng thông qua phương pháp gián tiếp Pháp luật hợp đồng kinh tế cần quy định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm khi bên đề nghị giao kết nhận được bản hợp đồng đã được chấp nhận. 2.2.3. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định về đại diện và uỷ quyển trong quan hệ hợp đồng kinh tế. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989 đã quy định về vấn đề người đại diện và uỷ quyền. Tuy nhiên, các quy định này chưa chặt chẽ,tạo ra nhiều khe hở và trong nhiều trường hợp làm cho các bên tham gia ký kết hợp đồng kinh tế dễ trốn tránh trách nhiệm của mình. Do vậy, để khắc phục những thiếu sót của Điều 9- Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Điều 5 - Nghị định 17/HĐBT, pháp luật hợp đồng kinh tế cần có những quy định ràng buộc trách nhiệm của người đại diện trong việc ký kết hợp đồng kinh tế bao gồm: trách nhiệm tài sản, trách nhiệm hành chính và cả trách nhiệm hình sự để có thể ngăn chặn nhưng tiêu cực có thể xảy ra. Mặt khác,cũng cần quy định trách nhiệm của người uỷ quyền cũng như của người được uỷ quyền khí ký kết hợp đồng kinh tế trong trường hợp hành vi của họ có thể gây thiệt hại cho Nhà nước. Về vấn đề này để cho phù hợp với các quy định của Bộ luật dân sự. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế cần quy định thêm về thủ tục uỷ quyền ký kết hợp đồng kinh tế như người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, cá nhân có đăng ký kinh doanh khi uỷ quyền cho người khác thay mình ký kết hợp đồng kinh tế phải làm hợp đồng uỷ quyền theo quy định của Bộ luật dân sự. Theo quy định tại Điều 585, Điều 586 - Bộ luật dân sự thì hợp đồng uỷ quyền là sự thoả thuận của các bên, theo đó bên được uỷquyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên uỷ quyền, bên uỷ quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định khác. Hợp đồng uỷ quyền phải được lập thành văn bản, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định khác hợp đồng uỷ quyền phải có chứng nhận của công chứng Nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Theo đó, trong hợp đồng uỷ quyền này sẽ ghi nhận các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia ký kết hợp đồng uỷ quyền, cũng như trường hợp hợp đồng uỷ quyền chấm dứt. 2.2.4. Bổ sung các quy định các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng kinh tế . Điều 8 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế có quy định vấn đề hiệu lực hợp đồng kinh tế, nhưng chưa được trình bày một cách rõ ràng, chỉ mới được gián tiếp thể hiện dưới hình thức các quy định về hợp đồng kinh tế vô hiệu. Nhằm làm cho các quy định của pháp luật được rõ ràng dễ vận dụng và thực hiện trong cuộc sống . Pháp luật hợp đồng kinh tế cần quy định hiệu lực của hợp đồng kinh tế nên được áp dụng, theo các quy định. + Hợp đồng kinh tế giao kết hợp pháp có hiệu lực bắt buộc đối với các bên. Hợp đồng kinh tế có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật quy định khác. + Hợp đồng kinh tế chỉ có thể bị sửa đổi hoặc huỷ bỏ nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Vậy thế nào là một hợp đồng kinh tế được giao kết hợp pháp? theo đó, cần thiết phải nêu rõ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Bởi vì một hợp đồng được coi là giao kết hợp pháp khi nó tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Mặt khác, các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng kinh tế được suy ra từ các quy định hợp đồng kinh tế vô hiệu là không chính xác. Vì nơi làm và ngoại diện của hai vấn đề này (hiệu lực của hợp đồng và hợp đồng vô hiệu) trên thực tế không trùng hoàn toàn. Thật vậy, pháp luật hợp đồng kinh tế cần quy định các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng như sau: - Hợp đồng có nội dung phù hợp với pháp luật, đạo đức và trật tự công cộng. - Người ký kết hợp đồng có đủ năng lực chủ thể tham gia hợp đồng kinh tế. - Ý chí của các bên tham gia ký kết hợp đồng hoàn toàn tự nguyện. - Hình thức của hợp đồng phù hợp với những quy định của pháp luật. Một hợp đồng thoả mãn các điều kiện trên thì sẽ có hiệu lực pháp lý. Việc quy định các điều kiện để hợp đồng kinh tế có hiệu lực sẽ làm cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế trong quá trình ký kết ít mắc sai phạm hơn, đồng thời cũng giúp cho cả các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp dễ dàng hơn trong quá trình phán xử. 2.2.5. Kiến nghị bổ sung các căn cứ để xác định hợp đồng vô hiệu. Một hợp đồng được ký kết nếu không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực được pháp luật quy định thì nó sẽ bị vô hiệu trong hai trường hợp sau : + Hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ . + Hợp đồng kinh tế vô hiệu từng phần. a.Các căn cứ để hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ theo pháp luật . Các căn cứ để xác định một hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ quy định khoản 1 - Điều 8 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế . + Thứ nhất : Điểm c - Khoản 1 - Điều 8 quy định : Người ký kết hợp đồng kinh tế không đúng thẩm quyền “ Hợp đồng kinh tế sẽ vô hiệu toàn bộ. Đây là quy định khá hợp lý, song trên thực tế có trường hợp văn bản uỷ quyền của Giám đốc cho phó Giám đốc đó được phê chuẩn sau khi đã ký hợp đồng thì văn bản đó có hợp lệ không ? lúc nào được coi là hợp lệ “. Do đó, pháp luật kinh tế cần phải phân biệt sự xác lập uỷ quyền trước và sau khi phát sinh tranh chấp .Theo đó, sự phê chuẩn uỷ quyền thực hiện trước khi phát sinh tranh chấp đối với hợp đồng thì sự uỷ quyền đó là hợp lệ, khi đó văn bản phê chuẩn được coi là văn bản bổ sung kèm theo văn bản hợp đồng kinh tế đã ký. Nếu sự phê chuẩn thực hiện sau khi phát sinh tranh chấp, đã khởi kiện thì sự phê chuẩn không được thừa nhận, bởi vì như thế chỉ là cách thức hợp pháp hoá để trốn tránh trách nhiệm. + Thứ hai : Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định hành vi “lừa đảo” của các bên ký kết hợp đồng kinh tế là chưa xác đáng. Thật vậy, muốn xác định hành vi “lừa dối” của các bên ký kết hợp đồng kinh tế phải có kết luận của cơ quan có thẩm quyền (Toà án, Viện kiểm sát...), nên chưa có kết luận của cơ quan này mà đã kết luận. Hợp đồng kinh tế vô hiệu do người ký có hành vi “lừa đảo“ và đưa ra xử lý là chưa đảm bảo cơ sở pháp lý. Để hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế cần quy định hành vi “lừa dối” thay cho hành vi “lừa đảo” thì hợp lý hơn. Bởi vì các hợp đồng kinh tế được thực hiện dưới tác động của sự lừa dối thay cho hành vi “ lừa đảo “ thì hợp lý hơn. Bởi vì các hiệp kinh tế được thực hiện dưới tác động của “sự lừa dối” đã đủ để hợp đồng đó vô hiệu, không nhất thiết phải nâng lên thành hành vi “lừa đảo”. Bên cạnh hành vi “lừa dối“ có thể bổ sung thêm các hành vi “lừa đảo” . Đồng thời bổ sung thêm các hành vi cưỡng ép, đe dọa của người ký hợp đồng kinh tế cũng làm cho hợp đồng đó vô hiệu. Hợp đồng vô hiệu dưới tác động của sự “đe doạ”. “Đe doạ” là hành vi trái pháp luật được thực hiện nhằm làm cho một bên trong hợp đồng không có cơ hội, không khả năng thể hiện ý chí của mình một cách tự nguyện sẽ làm cho hợp đồng kinh tế vô hiệu. Trong giáo trình Luật dân sự của trường Đại học Luật Hà Nội ở trang 219 có định nghĩa đe doạ như sau : Đe doạ là sự tác động của một bên đối với bên kia cho bên kia họ sợ phải giao kết hợp đồng có lợi cho bên “đe doạ”. Trong Bộ luật dân sự được định nghĩa ở Điều 142 như là hành vi cố ý của 1 bên nhằm làm cho bên kia sợ hãi mà thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh các tổn thất về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm của bản thân mình hoặc giới hạn. Đe doạ là yếu tố làm cho sự thoả thuận của các bên không phù hợp với ý chí và nguyện vọng thực của người tham gia giao dịch dân sự hay không. Hành vi cưỡng ép - theo luật Anh - Mỹ – “Cưỡng ép” tức là dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực của một bên làm cho bên kia phải ký hợp đồng. Hành vi “cưỡng ép” rất đa dạng ví dụ: Tống tù, khởi kiện, làm lộ bí mật riêng tư, hay đình công chẳng hạn làm cho bên kia sợ hãi phải ký hợp đồng. Mục đích cuối cùng của bên cưỡng ép là để có một hợp đồng thường là có lợi cho mình, có hại cho bên kia buộc phải ký . Hậu quả sẽ làm hợp đồng vô hiệu hay hợp đồng có thể bị vô hiệu. b- Cần bổ sung thêm một số căn cứ làm cho hợp đồng kinh tế vô hiệu. Hợp đồng kinh tế vô hiệu khi mà vi phạm về mặt hình thức hoặc thiếu một trong những điều khoản chủ yếuđược quy định tại Điều 1 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế . Quy định này chỉ phù hợp với các quy định về hợp đồng kinh tế có hiệu lực khi thoả mãn các điều kiện đã nêu ở (mục 2.2,4, chương này ). Song nếu căn cứ vào các Điều 138 và Điều 141 - Bộ luật dân sự thì còn tồn tại một số trường hợp hợp đồng kinh tế vô hiệu như là : + Hợp đồng kinh tế vô hiệu do “giả tạo” trong đó hợp đồng được xác lập nhằm che đậy một hợp đồng khác mà các bên thực sự mong muốn thực hiện thay hợp đồng kinh tế ( Điều 138 - Bộ luật dân sự ) + Hợp đồng kinh tế vô hiệu do “nhầm lẫn” là hợp đồng được ký kết nhưng có sự nhầm lần của các bên tham gia về điều khoản chủ yếu của hợp đồng như đối tượng, số lượng, chất lượng, giá cả... dẫn đến hợp đồng vô hiệu. “Thế nào là nhẫm lẫn” : + Giáo trình Luật dân sự của Đại học luật Hà Nội định nghĩa nhầm lẫn là sự hình dung sai về đối tượng hay về một điều khoản của hợp đồng.Chẳng hạn hai bên ký kết hợp đồng mua bán gạch chịu lửa song khi ký hợp đồng lại nhầm sang gạch xây dựng thông thường do mỗi bên có sự hiểu khác nhau về các thông số kỹ thuật của gạch chịu lửa. + Nhầm lẫn là việc các bên nghĩ rằng mình đang thoả thuận về một điều kiện cụ thể song mỗi bên lại có nhận thức khác nhau về điều kiện đó. Chẳng hạn A và B ký hợp đồng mua bán gạch nói trên là ví dụ. Ở một số nước “nhầm lẫn” được định nghĩa là niềm tin không phù hợp với thực tế, suy ra cái nghĩ trong đầu không phù hợp với cái thực tế. Nhầm lẫn xảy ra do nhiều nguyên nhân. Theo Pháp luật Việt Nam, đáng chú ý nhất là các nguyên nhân sau: - Do sự khác nhau về ngôn ngữ : Nghĩa là, trong giao dịch, việc hiểu đúng, chính xác ý chí của nhau là hết sức cần thiết, là điều kiện quan trọng cho việc xác lập, thực hiện tốt các hợp đồng. Vì vậy, việc sử dụng tiếng phổ thông đàm phán, soạn thảo hợp đồng là hết sức quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho các bên cùng hiều, dễ hiểu trách được tình trạng hiểu lầm, dẫn tới việc thực hiện hợp đồng sai, gây thiệt hại cho cả 2 bên. Việc dùng tiếng phổ thông trong quan hệ với người ngoài tạo điều kiện thuận lợi cho việc dịch thuật ra tiếng nước ngoài, giúp cho người nước ngoài hiểu đúng đắn ý chí của chúng ta để việc thực hiện hợp đồng có hiệu quả cao, thiết thực góp phần củng cố mối quan hệ kinh tế giữa các bên nói riêng và quan hệ ngoại giao nước ngoài nói chung. - Do diễn đạt sai : Nghĩa là khi ký kết (soạn thảo) hợp đồng phải chọn những từ ngữ, viết những câu văn sao cho chỉ được hiểu một nghĩa, tránh dùng những từ hoặc viết những câu có thể hiểu hai, ba nghĩa . Ví dụ: Bên B phải thanh toán cho bên A bằng ngoại tệ. Ý đồ của bên A là muốn được thanh toán bằng đô la Mỹ (USD) như mọi trường hợp làm ăn thiện chí khác, nhưng bên B lại thanh toán đồng Rúp của Nga bằng ngoại tệ nên khả năng giao dịch rất yếu và giá trị không ổn định, kém hiệu lực rất nhiều so với đồng đô la Mỹ (USD). - Do sự khác nhau về tiêu chí, nhất là tiêu chí kỹ thuật để xác định phẩm chất hàng hoá, dịch vụ. Do sự bất cần của những người tham gia ký kết hợp đồng. Trên cơ sở này, cần bổ sung thêm một số trường hợp hợp đồng kinh tế vô hiệu để góp phần hoàn thiện hơn Pháp luật hợp đồng kinh tế . Kết luận Hợp đồng kinh tế là một chế định đặc thù của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đó là một loại hợp đồng xuất hiện trong điều kiện một nền kinh tế có kế hoạch dựa trên cơ sở chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất . Trong cơ chế tập trung thống nhất, hợp đồng kinh tế có những vai trò và chức năng cực kỳ “vĩ đại”, hợp đồng kinh tế được coi là công cụ cơ bản để quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, góp phần xây dựng và thực hiện kế hoạch của Nhà nước, đảm bảo chế độ hạch toán kinh tế, là cơ sở công tác tín dụng và thanh toán. Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, Bộ luật dân sự và gần đây nhất là Luật Thương mại ngày10/5/1997 đã ra đời có nhiều luật gia cho rằng, Pháp luật hợp đồng kinh tế đã “hết đất” tồn tại. Nhưng theo tôi, khái niệm hợp đồng kinh tế vẫn cần thiết được duy trì: + Về mặt học thuật, hiện nay chưa có khái niệm nào, kể cả khái niệm hợp đồng thương maị có thể thay thế được khái niệm hợp đồng kinh tế vì nó có nội hàm riêng của nó. Thương mại là mua bán hàng hoá nên các hoạt động kinh doanh như: Vận tải, Ngân hàng, du lịch, xây dựng, hàng không, hàng hải bảo hiểm, mua bán cổ phiếu thì không được coi là có tính chất thương mại. Các dịch vụ liên quan đến mua bán hàng hoá theo luật Thương Mại gồm: Đại diện thương mại, mô giới thương mại, uỷ thác mua bán hàng hoá, gia công thương mại, đấu giá hàng hoá, dịch vụ giao nhận kho vận, dịch vụ giám định hàng hoá, quảng các thương mại, hội trợ, triển lãm thương mại. Như vậy khái niệm thương mại có nội hàm rất hẹp. Thương mại là một lĩnh vực của hoạt động kinh tế, hợp đồng thương mại là một dạng của hợp đồng kinh tế . + Việc duy trì khái niệm hợp đồng kinh tế bên cạnh khái niệm hợp đồng dân sự nhằm tạo điều kiện cho việc điều chỉnh chúng một cách tốt hơn. Như vậy, việc duy trì pháp luật hợp đồng kinh tế là rất cần thiết Pháp lênh hợp đồng kinh tế năm 1989 là một bước phát triển mới của pháp luật về hợp đồng kinh tế ở nước ta, thể chế hoá được tư tưởng đổi mới quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước. Pháp lệnh này đã quy định rõ ràng về hình thức, nội dung, cách thức ký kết và thực hiện cũng như các nguyên tắc của hợp đồng kinh tế . Sau hơn 10 năm ra đời và phát triển, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 đã cơ bản đáp ứng được những yêu cầu của nền kinh tế mới, đóng vai trò là công cụ chủ yếu để Nhà nước quản lý có hiệu quả các quá trình kinh tế, đồng thời là phương tiện hữu hiệu giúp các nhà kinh doanh củng cố và phát triển các doanh nghiệp của mình. Tuy nhiên, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 được ban hành vào thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới, khi mà cơ cấu của nền kinh tế hàng hoá chưa định hành, tri thức của chúng ta về nền kinh tế thị trường còn thiếu, bởi vậy nhiều quy định của Pháp lệnh đến nay đã bộc lộ những điểm yếu kém, nhiều quy định không còn phù hợp, không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cuộc sống. Yêu cầu đặt ra là phải nghiên cứu một cách nghiêm túc nhằm hoàn thiện Pháp luật về hợp đồng kinh tế. Luận văn đã thực hiện nghiên cứu tổng quát về khái niệm đặc điểm của hợp đồng kinh tế, các nguyên tắc ký kết, cách thức ký kết, cũng như các nội dung cần thoả thuận trong hợp đồng khi ký kết ... một số vấn đề khác có liên quan đến việc ký kết hợp đồng kinh tế. Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng, Luận văn có đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần cho việc sửa đổi và hoàn thiện pháp luật về hợp đồng kinh tế. Hy vọng rằng, cùng với các quy định cơ bản có tính nguyên tắc của Bộ luật dân sự, các quy định của Luật Thương mại, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế mới sẽ tạo thành hệ thống pháp luật về hợp đồng, là chỗ dựa tin cậy của các chủ thể kinh doanh khi thực hiện các giao dịch kinh tế TÀI LIỆU THAM KHẢO Hợp đồng kinh tế và các hình thức giải quyết tranh chấp kinh tế. ThS. Nguyễn Thị Khế - NXB Đồng Nai. Những nội dung cơ bản của Luật kinh tế, Luật sư Nguyễn Thái Luật gia Nguyên Trung, An Minh - NXB Thống kê. Hợp đồng kinh tế, thuộc tổ Luật học Uỷ ban khoa học xã hội - NXB khoa học. Bàn về hợp đồng kinh tế. Dương Đăng Huê. Những lỗi thường gặp trong ký kết hợp đồng dân sự, kinh tế ngoại thương. Luật gia Nguyễn Thích Thảo, Lê Nguyễn Thành Nam - NXB Thống kê Giáo trình Luật Kinh tế - Đại học Luật Hà Nội. Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 1966. Giáo trình Luật Hình sự - Đại học Luật Hà Nội. NXB Công an nhân dân, năm 1966. Thông tin chuyên đề - Viện nghiên cứu Khoa học Pháp lý - Bộ tư pháp - tháng 10 năm1999. Tạp chí Luật học Đại học Luật Hà Nội, các số năm 1999. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật - Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, các số 1998, 1999.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0004.doc
Tài liệu liên quan