Đề tài Thực trạng vốn đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư ở Bắc Giang

Cùng với với xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới, cũng như các nước trong khu vực. Việt Nam đang nỗ lực vuơn lên hoà chung vào tiến trình phát triển, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá, xây dựng một nền kinh tế mở hướng ra bên ngoài, điều này được thể hiện rõ qua các văn kiện Đaị hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, thư IX vừa qua. Đảng ta xác định muốn đi lên thành một nước có nền kinh tế phát triển thì trước hết cần phả đảm bảo điều kiện về đời sống kinh tế xã hội của người dân, phải đảm bảo phát triển cân đối cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ, phát triển cần phải dựa trên cơ sở đồng đều và một nền tảng vững chắc. Dựa trên quan điểm này Đảng và Nhà nước ta đã tích cực chú trọng tới việc phát triển và cải thiện đời sống kinh tế xã hội của người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc miền núi, tạo điều kiện phát triển miền núi thông qua hỗ trợ, khuyến khích đầu tư ở các vùng này. Bắc Giang là một trong những tỉnh miền núi còn có nhiều khó khăn, trong những năm qua được sự hỗ trợ của Đảng và Nhà nước, cùng với nỗ lực của chính mình Bắc Giang đã thực hiện tốt công cuộc cải cách kinh tế, tăng cường đầu tư phát triển kinh tế xã hội và đã đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên, quá trình phát triển hệ thống các giải pháp đẩy mạnh đầu tư nhằm phát huy những thành tựu đã đạt được và giải quyết các khó khăn bất cập còn tồn tại. Để làm được điều đó đỏi hỏi cần có sự nghiên cứu, tỉm hiểu một cách nghiêm túc và đó cũng chính là vấn đề mà đề tài quan tâm.

doc85 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 879 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng vốn đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư ở Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cực làm thay đổi cục diện kinh tế của tỉnh. Từ khi tái lập tỉnh đến nay, nhiệm vụ thu hút vốn đầu tư phát triển trên địa bàn đã được tỉnh uỷ, HĐND và UBND tỉnh tập trung chỉ đạo theo hướng ra sức phát huy nội lực, đồng thời tích cực huy động các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài. Do vậy đã thu hút được một khối lượng đáng kể vốn từ nhiều nguồn vốn đầu tư, đã thực hiện đầu tư cho nhiều công trình giao thông, thuỷ lợi, điện, trường học, ... Nhiều công trình hoàn thành đi vào khai thác và sử dụng. Trong đó có nhiều công trình lớn có vị trí quan trọng như hệ thống đường giao thông, nhà máy xi măng Hương sơn, nhà máy gạch Hồng thái... một số công trình xây dựng dở dang kéo dài nhiều năm đã hoàn thành đưa vào sử dụng. Đồng thời đã đầu tư xây dựng mới và nâng cao năng lực về thiết bị và công nghê sản xuất của một số doanh nghiệp, phát triển kinh tế vườn đồi, trang trại... Cùng với việc đầu tư hoàn thành, các dự án khác đã làm tăng thêm mốt số năng lực sản xuất mới. Trung bình mỗi năm từ 1992-1998 giá trị tài sản cố định mới tăng 19.78% và hệ số huy động tài sản cố định của thời kỳ này có xu hướng tăng lên đảm bảo mục tiêu công trình hoàn thành đưa vào sử dụng hàng năm do Chính phủ quy định. Kết quả đầu tư phát triển trên đã thực thấy tăng trưởng GDP ở mức khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Lĩnh vực sản xuất nghiệp có tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm (1998-2002) là 5.85%/năm và tạo ra giá trị tổng sản phẩm xã hội chiếm 49.9%; Lĩnh vực công nghiệp trên địa bàn tỉnh có 19 doanh nghiệp Nhà nước, trong đó có 7 doanh nghiệp TW, 12 doanh nghiệp địa phương, 9901 doanh nghiệp ngoài quốc doanh tạo ra giá trị tổng sản phẩm công nghiệp-xây dựng chiếm 15.7%. Lĩnh vực dịch vụ như hệ thống thông tin bưu chính, dịch vụ ngân hàng, giao thông vận tải... có bước phát triển mạnh, mạng lưới rộng, trang thiết bị khá hiện đại, tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm (1998-2002) là 7.5% và tạo ra giá trị tổng sản phẩm xã hội chiếm 34.9%. Lĩnh vực kinh tế đối ngoại, kim ngạch xuất khẩu bình quân 5 năm (1998-2002) là 12410 ngàn USD, liên doanh với nước ngoài có 6 doanh nghiệp với tổng vốn đầu tư là 5.6 triệu USD; thu ngân sách bình quân 5 năm (1998-2002) là 907 tỷ đồng, đáp ứng 35% nhu cầu chi (tăng 5% so với giai đoạn 1992-1997). Thu nhập bình quân đầu người tăng, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm xuống còn 18.34% (theo tiêu chuẩn mới). Bảng 10 Bảng 11. Hiệu suất đầu tư và hệ số ICOR của một số năm của Việt Nam Chỉ tiêu 1991 1993 1995 1997 2002 1- Hiệu suất đầu tư 6 5.6 2.89 3.08 2.96 2- Hệ số ICOR 2 4 6 5 Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư Mức ICOR trong tỉnh luôn ở mức thấp hơn so với cả nước , chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của tỉnh là cao so với cả nước. Trên giác độ lý thuyết hệ số ICOR càng thấp hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Bảng12. Một số chỉ tiêu hiệu quả đầu tư về xã hội Chỉ tiêu Đơn vị 1998 1999 2000 2001 2002 1.Tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh Tỷ 354 416 503 688 761 2.Trong đó: thu trợ cấp từ trung ương Tỷ 230 279 344 463 499 3.Chi ngân sách địa phương Tỷ 345 399 483 630 731 4.Tỷ lệ hộ đói nghèo % 23.9 18.5 13.82 22.9 18.34 5.GDP/người theo giá trị thực tế 1000đ 1871 2092 2205 2370 2570 2) Một số hạn chế về công tác đầu tư phát triển của tỉnh Bắc Giang. Tuy đã có cố gắng trong việc huy động vốn cho đầu tư phát triển, xong các chỉ tiêu liên quan đến tích luỹ và huy động vốn đầu tư phát triển đều thấp xa so với bình quân cả nứơc. Cụ thể 5 năm qua (1998-2002), tỷ lệ tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên GDP mới đạt bình quân 22.4%. Tỷ lệ chi đầu tư XDCB trên tổng chi ngân sách Nhà nước thấp, bình quân đạt 18%. Một điều đáng quan tâm là trong điều kiện hoà nhập những lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài của tỉnh còn rất hạn chế. Đến nay cả tỉnh mới có 6 dự án liên doanh với nước ngoài, với tổng vốn đầu tư 5.6 triệu USD nhưng hiệu quả thấp. Khu vực ngoài quốc doanh tỷ trọng vốn đầu tư phát triển giảm, đến nay chưa có doanh nghiệp nào đầu tư có quy mô lớn và hiệu quả rõ nét. Đây là khó khăn thách thức đặt ra cho địa phương phải quan tâm. a. Công tác kế hoạch vốn đầu tư đến nay mới làm được các nguồn vốn ngân sách tập trung, vốn ODA, OECF và các chương trình mục tiêu. Còn nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước chưa phản ánh trong kế hoạch. Việc tổ chức theo dõi các nguồn vốn đầu tư của trung ương, nguồn tài trợ của nước ngoài đầu tư cho các ngành ở địa phương, vốn đầu tư của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, của dân cư chưa đầy đủ, kịp thời, đầu tư phát triển của khu vực ngoài quốc doanh chưa có định hướng và quản lý của Nhà nước mà hướng mang tính tự phát. Việc bố trí kế hoạch hàng năm thường phân tán, dàn trải, kéo dài, một số dự án chưa đủ điều kiện đã ghi kế hoạch. Trong điều kiện tổng số vốn đầu tư ít nhưng cả hai khối trung ương và địa phương đều bố trí quá nhiêù công trình, dự án nên vốn đầu tư ứ đọng ở khâu xây dựng dở dang lớn, thường chiếm 30-40% số vốn đầu tư. Đối với khối địa phương, qua thống kê sơ bộ có nhiều dự án đầu tư kéo dài trên 2 năm, 3 năm, 5 năm, 6 năm. Điển hình là công trình rạp sông thương, hồ làng thum... Đối với khối trung ương, việc bố trí kế hoạch đầu tư của một số Bộ, ngành không hợp lý, không theo tiên độ và khối lượng thực hiện nên đã gây ra tình trạng thực hiện khối lượng vượt kế hoạch dẫn đến nợ nần dây dưa. Chỉ tính riêng ngành giao thông, mấy năm qua giá trị thực hiện rất lớn, xong kế hoạch hàng năm bố trí rất thấp gây ra tình trạng thiếu vốn thanh toán cho các đơn vị thi công, làm tăng phụ phí dẫn đến hiệu quả đầu tư hạn chế. b.Công tác chuẩn bị đầu tư một số dự án chưa tốt, một số trường hợp do chất lượng công tác tư vấn lập dự án, thiết kế thẩm định yếu làm cho cấp có thẩm quyền khi ra những quyết định liên quan đến trình tự, thủ tục XDCB như quyết định đầu tư, quyết định phê duyệt thiết kế kỹ thuật - tổng dự toán, dự toán chi tiết thiếu chính xác, dẫn đến phải điều chỉnh bổ sung. Ví dụ như các dự án hồ làng thum, nhà thi đấu, trụ sở huyện uỷ Sơn động,... phải điều chỉnh dự án đến lần thứ ba. Nhiều trường hợp, cơ quan phê duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán, thậm chí có công trình chỉ định thầu khởi công được 3-4 tháng nhưng vẫn chưa được duyệt cách thủ tục trên. Đây là những sơ hở trong công tác quản lý đầu tư và xây dựng. c.Công tác đấu thầu xây dựng thường chậm và lúng túng, phần do quy chế trong một thời gian ngắn nhưng nhiều lần thay đổi, trình tự thủ tục quy định còn rườm rà, chưa phù hợp, phần do chủ đầu tư và nhà thầu mới tiếp cận với cách thức quản lý này nên chất lượng đấu thầu một số công trình chưa cao. Thậm chí còn trường hợp ách tắc, chậm trễ làm cho một số công trình đến cuối năm mới triển khai được. d.Việc giải ngân vốn đầu tư nói chung còn chậm. Nguyên nhân do việc phân khai kế hoạch vốn của nhiều Bộ, ngành chậm, công tác giải phóng mặt bằng, tổ chức đấu thầu chậm, nhất là đối với dự án tín dụng, thủ tục thanh toán còn nhiều giấy tờ, việc cân đối vốn thuộc ngân sách tỉnh còn nhiêu thời kỳ khó khăn, nên thông thường 6 tháng đầu năm tốc độ giải ngân chậm, bình quân chỉ đạt 35-40% kế hoạch năm. e.Việc quyết toán công trình, dự án hoàn thành thường làm chậm. Một số chủ đầu tư không muốn quyết toán. Nhiều công trình đầu tư bằng vốn ngân sách huyện, hoặc vốn hỗ trợ đã hoàn thành nhiều năm nhưng đến nay vẫn chưa quyết toán. Tóm lại, Công tác đầu tư phát triển của tỉnh Bắc Giang trong thời gian qua đã có những bước khởi sắc, tổng số vốn đầu tư ngày một tăng, cơ cấu đầu tư tương đối hợp lý, cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng kinh tế kỹ thuật xã hội được tăng cường tạo thêm năng lực sản xuất cho nền kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, đời sống nhân dân được cải thiện một bước. Song lĩnh vực đầu tư phát triển còn bộc lộ nhiều hạn chế. Đến nay nền kinh tế của tỉnh vẫn ở điểm xuất phát thấp, thu nhập bình quân đầu người năm 2002 mới đạt 2.570 ngàn đồng. Chương III một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư Kinh nghiệm về hoạt động đầu tư của một số nước trên thế giới. kinh nghiệm thu hút FDI Vốn đầu tư nước ngoài rất quan trọng trong việc thành công công nghiệp hoá và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, vì vốn đầu tư nước ngoài không chi góp phần thoả mãn nhu cầu khổng lồ về vốn đầu tư cho công nghiệp hoá mà còn tạo cho phía nhân vốn học tập được nhiều kinh nghiệm bổ ích về tiêu thụ sản phẩm, quản lý công nghệ hiện đại, tổ chức sản xuất, quản lý tài chính.... nhằm đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Vì vậy, các nước đã có những chính sách và chiến lược để khuyến khích dòng vốn này. Để thu hút được nhiều dòng vốn FDI, cần phải tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Các rào cản, phiền hà phương hại đến việc gọi vốn đầu tư nước ngoài đều được loại bỏ và được nhất quán từ cấp trên xuống cấp dưới, từ chủ trương đến hành động cụ thể như ở Trung Quốc và nhiều nước khác. Để đạt được mục tiêu huy động được vốn đầu tư nước ngoài, nhiều nước đã áp dụng những chính sách ưu đãi đặc biệt, cởi mở hơn trong lĩnh vực cần phát triển nhất là lĩnh vực đầu tư, đã có nới lỏng các quy định về đầu tư, miễn giảm thuế giảm bớt thủ tục hành chính để các đối tác có điều kiện ngắn nhất tìm đến đầu tư và mở rộng thời hạn cho việc thực hiện các dự án BOT,... Các nước đang phát triển và chuyển đổi đang nỗ lực cải thiện môi trường chính sách, kích thích tiêu dùng nội địa, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng để khuyến khích các nhà đầu tư. Mỹ là nước thu hút FDI nhiều nhất thế giới, khoảng 200 tỷ USD, chủ yếu là do việc mua bán và sáp nhập công ty mang lại và chiếm lượng vốn FDI khoảng 1/3 lượng vốn FDI trên thế giới. Nhật Bản năm 2000 tăng 105% so với năm 1999 đạt 21.51 tỷ USD. Nước Nga, tình hình chính trị đã ổn định làm cho các nhà đầu tư yên tâm và năm 2000-2001 thu hút được 5-6 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài. Đông Nam á, sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997-1999, để thu hút đầu tư đã tháo bỏ rào cản đối với đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực bảo hiểm, viễn thông và năng lượng. Năm 2000, Trung Quốc thu hút được khoảng 43,5 tỷ USD tăng hơn 8 tỉ so với năm 1999 và sau khi trở thành thành viên chính thức WTO, mỗi năm thu hút khoảng 60 tỉ USD. Trong nhiều thập kỷ qua, Trung Quốc có nền kinh tế ổn định và phát triển với tốc độ tăng trưởng luôn đạt tốc độ cao. Hàn Quốc thu hút khoảng 16 tỉ USD do việc bán và sáp nhập các công ty phá sản và các tập đoàn nước ngoài đã giúp cho Hàn Quốc có hàng trăm triệu USD cho sự phục hồi kinh tế. Thái Lan, năm 1999 thu hút được 6,08 tỉ USD. Năm 2000 thu hút được 1000 dự án đầu tư nước ngoài đạt giá trị 300 tỷ bạt (7.45tỷ USD). Malaixia, 8 tháng đầu năm 2000, nhân được các dự án đầu tư khoảng 6.7 tỷ USD trong đó năm 1999 là 3.7 tỷ USD. Kinh nghiệm huy động, thu hút vốn FDI và sử dụng thành công nguồn vốn này bằng những chiến lược, sách lược để phát triển kinh tế trên nguyên tắc "hai bên cùng có lợi". 2. Kinh nghiệm sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư Để quản lý lĩnh vực đầu tư có hiệu quả, hầu như quốc gia nào cũng coi trọng việc đầu tư, việc xây dựng chiến lược và kế hoạch đầu tư vào việc xây dựng một hệ thống đơn giá, định mức kinh tế kỹ thuật một cách khoa học, chặt chẽ nhất trong lĩnh vực đầu tư xây dựng. Công tác kiểm tra,giám sát được tiến hành chặt chẽ theo nguyên tắc, kèm theo việc xử lý nghiêm minh các hiện tượng làm lãng phí, thất thoát vốn đầu tư. Đối với công tác quản lý dự án, vai trò của chủ đầu tư, chủ dự án được phân định rõ ràng trong điều luật. Chủ đầu tư là nhà tư bản, do vậy Nhà nước chỉ xem xét việc đầu tư có nằm trong quy hoạch, đảm bảo môi trường. Còn mọi yếu tố khác nhà đầu tư phải nghiên cứu kỹ lưỡng, vì mọi yêú tố liên quan đến dự án là liên quan đến hiệu quả dự án và tính toán không đầy đủ, chính xác thì dự án sẽ không mang lại hiệu quả, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của nhà đầu tư. Khai thác vốn đầu tư rất khó, nhưng sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả để phát triển kinh tế đất nước còn khó khăn hơn nhiều. Kinh nghiệm của WB, thông qua các chương trình đầu tư, WB ước tính trong 10 năm (1986-1996) đã giúp châu phi tiết kiệm được 45 tỷ USD cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, cho việc tu bổ đường sá. WB cũng cho cũng cho những kinh nghiệm về công tác quản lý trên nguyên tắc: áp dụng sự quản lý phải mang tính thương mại tức là phải có giá cả thật sự, được xây dựng theo một quy chuẩn, đầu tư vào đâu, vào lĩnh vực gì để mang lại hiệu quả, chống lãng phí, thất thoát. Khu vực Đông nam á, đều có chính sách đầu tư mạnh mẽ cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Việc ưu tiên đầu tư cho các công trình trọng điểm, đầu tư phải đồng bộ cho vùng sản xuất hàng hoávà đầu tư cho hệ thống thông tin liên lạc, điện, nước phải đi trước một bước. Nhà nước của những nước này đã có những chính sách phát triển kinh tế nông thôn như, chính sách phát triển thuỷ lợi và thu thuỷ lợi phí, cụ thể: - Trong những năm 1987, WB đã giành từ 65-70% số tiền cho các nước trong khu vực, Đông nam á, Nam á, Trung Đông và Bắc phi vay vào mục đích nông nghiệp để xây dựng và phát triển thuỷ lợi. - Thái Lan, chính phủ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các dự án có quy mô lớn nhằm thu hút nguồn lực tại chỗ, hạn chế xây dựng các dự án lớn để tập trung xây dựng một hệ thống thuỷ lợi cho nông dân trồng trọt, chăn nuôi và phát huy tiềm năng của các nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. - Nhật Bản, Hàn Quốc tập trung vốn đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn như cải tạo, nâng cấp đường sá, cầu cống, bệnh viện, trường học, khu thể thao, . để cho cuộc sống vùng nông thôn được cải thiện tốt hơn để giảm áp lực dân số khu công nghiệp và khu đô thị. - Triều tiên, Malaixia có chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp để tăng nhanh sản phẩm nông nghiệp và lương thực, chú trọng việc đầu tư xây dựng vào các dự án thuỷ lợi, chính phủ không thu phí thủy lọi và coi đây là khoản hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp. Chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng nhất là khu vực sản xuất nông nghiệp nhằm phát triển kinh tế nông thôn của một số nước trong khu vực được các nước rất coi trọng và coi đó là chính sách lớn trong đường lối phát triển kinh tế nông thôn của một số nước trong khu vực được các nước rất coi trọng và coi đó là chính sách lớn trong đường lối phát triển kinh tế, chiếm tỷ trọng vốn đầu tư lớn của Chính phủ. Các nước này Chính phủ rất coi trọng và tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển nhằm thu hút nội lực. 3. Kinh nghiệm sử dụng vốn đầu tư trong lĩnh vực khoa học công nghệ Trong quá trình chuyển từ nền kinh tế vật chất sang nền kinh tế tri thức, khoa học công nghệ và trí tuệ con người đóng vai trò rất quan trọng. Trung Quốc rất quan tâm đến việc đào tạo hàng ngũ nhân tài để thích ứng vói sự cạnh tranh kinh tế quốc tế, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước trên mọi lĩnh vực nhất là nguồn nhân lực tri thức có kiến thức phong phú, am hiểu về tiến trình toàn cầu hoá kinh tế, có trình độ ngoại ngữ cao và kiến thức chuyên môn nghiệp vụ và có thể sử dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn đầu tư cho đất nước. Các nước Đông á và Đông nam á chú trọng đầu tư cho nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ, đặc biệt chú trọng đầu tư vào "tư bản con người" làm cho hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được nâng cao và quá trình công nghiệp hoá được hoàn thành nhanh chóng. Định hướng phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Bắc Giang. Những mục tiêu chủ yếu đến năm 2010: Tập trung cho mục tiêu phát triển, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm 10%. Trong đó, giá trị sản lượng sản phẩm công nghiệp và xây dựng cơ bản tăng 16.2%, nông nghiệp tăng 5%, dịch vụ tăng 15.3%, GDP bình quân đầu người đạt 350USD. Muốn đạt được mục tiêu đó tỉnh phải tập trung giải quyết những vấn đề sau: Chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn: Đẩy mạnh thâm canh cây lương thực, mở rộng diện tích cây trồng, cây ăn quả, tăng nhanh đàn gia súc, gia cầm, phát triển kinh tế đồi rừng, tăng nhanh sản lượng hàng hoá, mở rộng thị trường. Gắn sản xuất nông lâm nghiệp với công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Tiếp tục thực hiện chương trình 327 của Chính phủ. Quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn viện trợ, vốn vay phát triển nông nghiệp. Phát triển công nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá Trước mắt củng cố, khôi phục những đơn vị hiện có, quy hoạch các khu, cụm sản xuất công nghiệp, sản xuất vật liệu xây dựng. Nghiên cứu loại hình thiết bị, công nghệ phù hợp để xây dựng các cơ sở, nhà máy chế biến thực phẩm, hoa quả. Quy hoạch, xây dựng một số dự án khu công nghiệp quy mô vừa, sản xuất các mặt hàng chế biến xuất khẩu vật liệu xây dựng, trang trí nội ngoại thất cao cấp, cơ khí lắp ráp điện tử.... Đẩy mạnh kinh tế đối ngoại và xuất nhập khẩu. Đầu tư xây dựng cơ sở chế biến, bảo quản hàng xuất nhập khẩu, quy hoạch vùng sản xuất hàng nông sản xuất khẩu, đổi mới cơ cấu, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2010 đạt 30 triệu USD. 4. Thương mại, dịch vụ du lịch Hình thành trung tâm thương mại ở thị xã Bắc Giang, thị trấn Chũ. Khuyến khích thương nghiệp ngoài quốc doanh phát triển đúng hướng. Xây dựng các trung tâm, cụm, xã miền núi ở Sơn động, Lục Nam thành những trung tâm kinh tế thương mại văn hoá vùng. Mở rộng hình thức liên doanh thu hút vốn, tăng cường cơ sở vật chất phục vụ du lịch. Phát triển du lịch gắn với các di tích lịch sử - văn hoá - thắng cảnh. 5. Phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội - về giao thông - Bưu điện: Phấn đấu đến năm 2010: 100% số xã có đường ôtô vào cả mùa mưa lũ. Xây dựng bến phà: Thái sơn... Củng cố lực lượng vận tải, khuyến khích các thành phần kinh tế liên doanh để phát triển vận tải thuỷ. Đến năm 2010 bình quân 100 dân có 3 máy điện thoại. Phát triển nội lưới điện: Phấn đấu đến năm 2010: 100% xã trung du, miền núi có điện lưới phục vụ sản xuất, tiêu dùng. Đưa mức điện năng tiêu thụ bình quân đầu người lên mức 345Kwh/năm vào năm 2010. Về thuỷ lợi: Nâng cao hệ số sử dụng công suất các công trình hiện có lên khoảng 75-80% công suất thiết kế để tăng thêm diện tích tưới tiêu chủ động. III. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư Nâng cao chất lượng công tác xây dựng chiến lược đầu tư. * Nâng cao chất lượng công tác xây dựng chiến lược đầu tư, xác định chủ trương đầu tư theo mục tiêu và định hướng phát triển kinh tế giai đoạn 2001-2010. Căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2010 đã được nêu rõ, xây dựng kế hoạch dài hạn, ngắn hạn để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định và vững chắc. Nghiên cứu, dự báo thị trường tiêu thụ trong nứơc và ngoài nước để định ra một bức tranh “tổng thể” cho đầu tư phát triển của cả nước, từng vùng, từng địa bàn. Trên cơ sở đó định ra kế hoạch đầu tư hàng năm để chủ động bố trí các khoản chi trong dự toán chi NSNN cho bộ máy quản lý Nhà nước, hoạt động sự nghiệp, an ninh quốc phòng và cùng nguồn vốn khác cho đầu tư phát triển nhằm phục vụ các mục tiêu của tỉnh. Coi trọng công tác quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các ngành, huyện, xã, vùng nông thôn một cách nhất quán, tránh trường hợp phối hợp không chặt chẽ nên thời gian tính toán không thống nhất, nội dung và phương pháp lập quy hoạch mang tính chủ quan nên đưa nhiều mục tiêu, nhiều mũi nhọn mà chưa tính đến tính cân đối theo nhu cầu thị trường dẫn đến sự sai lệch giữa quy hoạch ngành và vùng. Chỉ đạo thống nhất đến địa phương và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch là bước cụ thể hoá của chiến lược, thực sự trở thành công cụ hữu hiệu cho kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. * Nâng cao chất lượng công tác kế hoạch hoá. Yếu tố quan trọng hàng đầu là sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Việc tập trung vào công tác kế hoạch hoá là rất quan trọng nhằm thực hiện phương hướng, cơ cấu, mục tiêu kế hoạch đã đề ra, tạo điều kiện thời gian cho việc lập dự án. Cần có quy hoạch tổng thể, quy hoạch vùng nông thôn, quy hoạch phát triển nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, để dự báo kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn kể cả tháng, quí, năm phục vụ cho định hướng kinh tế phát triển. Có kế hoạch chiến lược huy động GDP vào NSNN, động viên nguồn vốn trong dân cư, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế vì nguồn này là yếu tố quyết định. Ưu tiên các dự án trọng điểm thuộc các ngành kinh tế mũi nhọn theo định hương của Nhà nước. Khắc phục tình trạng thiếu năng động, còn bị gò bó trong kế hoạch kinh tế của Nhà nước, chưa thể hiện vai trò của mình trong việc định hướng toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Củng cố công tác, thống kê, kế toán, điều tra xã hội học, dự báo phân tích kinh tế, thông tin kinh tế. Có kế hoạch giành vốn một cách hợp lý cho các dự án XDCB có tính chất hạ tầng kinh tế - xã hội nhằm khuyến khích và thu hút vốn đầu tư. Xây dựng chiến lược đầu tư và kế hoạch đầu tư nhằm mục tiêu: + Xoá bỏ tình trạng “ngẫu hứng” trong đầu tư : Như các quyết định đầu tư vội vàng thiếu các yếu tố nghiên cứu điều kiện tự nhiên, điều tra xã hội học, môi trường sinh thái, khí hậu thuỷ văn, ... vi phạm các quy trình đầu tư phải chấm dứt. Cần có chính sách sử dụng vốn này có trọng tâm, trọng điểm, tránh tình trạng đầu tư tràn lan. + Khắc phục hiện tượng vừa thiết kế vừa thi công để nâng cao chất lượng dự án, chất lượng thiết kế, đảm bảo đầu tư có hiệu quả. + Quản lý chặt chẽ vốn đầu tư theo đúng trình tự, thủ tục quy định, đề ra các chương trình đầu tư phục vụ phát triển kinh tế phải nghiên cứu tỉ mỉ, nghiêm túc. + Mở rộng quyền tự chủ thực sự cho các doanh nghiệp, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Kiểm soát chặt chẽ doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài vị thực tế hiện nay nhiều doanh nghiệp liên doanh đều rơi vào tình trạng thua lỗ, sau một thời gian buộc phải bán các cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài. Vấn đề này, đền một thời hạn nào đó, không còn đơn thuần là kinh tế mà cón liên quan đến chính trị và an ninh quốc gia. + Xoá bỏ tình trạng đầu tư dàn trải: Dự án thiếu vốn phải thi công kéo dài gây nên nhiều lãng phí và thất thoát vốn đầu tư và làm mất thơì cơ kinh doanh, cân đối đủ vốn để thực hiện tiến độ dự án và cấp quyết định đầu tư chịu trách nhiệm của mình về hiệu quả của dự án, kiên quyết không bố trí vốn quá 2 năm cho dự án nhóm C. + Xoá bỏ cơ chế “ xin-cho”: Nguyên nhân phát sinh tiêu cực không chỉ làm thất thoát vốn đầu tư mà còn làm hư hỏng cán bộ do tham nhũng thoái hoá, đồng thời làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. 2. Nâng cao chất lượng công tác tư vấn, khảo sát thiết kế và xây dựng dự án. * Nâng cao chất lượng dự án khả thi. Phải có thời gian cần thiết đủ cho các nhà tư vấn có điều kiện thu thập nghiên cứu khảo nghiệm các số liệu liên quan đến dự án. Thời gian càng dài thì số liệu của dự án khả thi càng chính xác, độ tin cậy càng cao. Muốn vậy, công tác kế hoạch háo đầu tư phải được thực hiện nghiêm túc. Phải đảm bảo cho các nhà tư vấn có vị trí độc lập khách quan khi làm tư vấn dự án và chịu trách nhiệm trước pháp luật về những kết luận của mình, về dự án do mình làm chủ nhiệm. Đồng thời trong mọi trường hợp, dự án có khả thi để được duyệt hay không thì nhà tư vấn vẫn được nhận tiền theo hợp đồng kinh tế. Bên cạnh trách nhiệm phải chịu trước pháp luật, nhà tư vấn không chỉ nhận được tiền tư vấn mà còn được hưởng chế độ ưu đãi phù hợp, kể cả việc được khắc tên vào công trình mà nhà tư vấn làm chủ nhiệm đồ án thiết kế. Cơ quan thẩm định dự án chịu trách nhiệm xem xét các yếu tố, các số liệu cần và đủ để nhà tư vấn khẳng định tính khả thi của dự án. Khi có những vấn đề chưa xác định rõ cơ quan thẩm định phải yêu cầu nhà tư vấn giải thích làm rõ hoặc phải phúc tra lại trước khi trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt dự án. Vì một dự án có liên quan đến nhiều tổ chức cá nhân nên Nhà nước cần phải phân định rõ bằng văn bản trách nhiệm từng tổ chức, từng cá nhân liên quan đến việc cung cấp số liệu để xây dựng dự án, đến kết luận của các nhà tư vấn, đến trách nhiệm của tổ chức thẩm định và người phê duyệt dự án. Đồng thời nó cũng tránh tình trạng khi xem xét một loạt dự án không khả thi thì không thể phân định được trách nhiệm thuộc về ai, cơ quan nào và mức độ xử lý đến đâu. * Cải tiến công tác chọn thầu tư vấn và khảo sát thiết kế. Để nâng cao chất lượng việc chọn tư vấn dự án đầu tư không nên tổ chức đấu thầu để chọn giá rẻ như trước đây vẫn làm. Vì công tác tư vấn là một lĩnh vực đặc thù, giá trị của nó phụ thuộc vào “chất xám” và mức độ tin cậy của các thiết bị chuyên dùng của tổ chức tư vấn. Mặt khác, giá trị thiết kế thường chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với toàn bộ giá trị của dự án nên dù chọn được giá rẻ hơn, xét cho cùng cũng chẳng lợi được bao nhiêu. Việc cải tiến công tác chon thầu tư vấn thực hiện theo hai hình thức: dựa vào năng lực thực tế và kết quả tư vấn của các dự án tương tự mà các tổ chức tư vấn làm tốt để chọn. Đối với các công trình đặc thù như thiết kế thi công các công trình xây dựng, các công trình mỹ thuật, tượng đài, tranh hoành tráng... tổ chức thi sáng tác, tuỳ theo quy mô công trình để lựa chọn phương án thích hợp, có hội đồng chấm thi gồm các nhà khoa học, các chuyên gia trong lĩnh vực đó để lựa chọn tác phẩm có giá trị nhất. Làm điều này sẽ tạo cơ hội chọn được nhiều công trình có chất lượng cao. Công tác khảo sát địa chất công trình và địa chất thuỷ văn cũng là một lĩnh vực đặc thù mang tính chuyên sâu. Mục đích của công tác này là xác định các tài liệu về nguồn nước, lưu lượng, trữ lượng và chất lượng nước ngầm, nước mạch ở từng khu vực; xác định các số liệu về địa chất và các số liệu khác có liên quan đến việc tính toán, xử lý nền móng công trình. Nếu các số liệu này tính toán thiếu chính xác và cung cấp cho các nhà tư vấn, tất yếu sẽ dẫn đến những kết luận sai lệch và gây rất nhiều lãng phí cho việc sử lý nền móng sau này. Vì vậy để nâng cao chất lượng công tác khảo sát thiết kế có thể chọn thầu khảo sát thiết kế bằng cách kết hợp cả hai hình thức giống như trọn thầu tư vấn nói trên hoặc đấu thầu nhằm tìm ra những tổ chức có nhiêù chuyên gia giỏi, có kinh nghiệm, có hệ thống máy móc thiết bị kiểm nghiệm hiện đại tin cậy, làm cơ sở cho việc xác định và cung cấp những số liệu về khảo sát thiết kế tốt nhất, phục vụ tốt cho công tác tư vấn thiết kế. 3. Cải tiến công tác quản lý dự án trong quá trình thực hiện dự án. a. Đấu thầu * áp dụng rộng rãi quy chế đấu thầu về mua sắm trang thiết bị vật tư. Mức đầu tư thiết bị, vật tư thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng mức đầu tư. Do ít am hiểu về công nghệ kỹ thuật của chủ đầu tư hoặc ban quản lý dự án nên việc mua sắm các trang thiết bị của dự án thường được mua với giá cao hoặc đã qua sử dụng. Vì vậy, thực hiện rộng rãi quy chế đấu thầu nhằm nâng cao tính cạnh tranh và chuyên môn hoá công tác cung ứng thiết bị vật tư vơi chất lượng đảm bảo và giá cả hợp lý góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. * Hoàn thiện công tác đấu thầu, thực hiện đúng đắn hình thức đấu thầu khoán gọn. Công tác chuẩn bị phải đi trước một bước và đủ điều kiện mới tổ chức đấu thầu. Chỉ nên áp dụng 2 hình thức: đấu thầu và chỉ định thầu, bỏ bớt hình thức đấu thầu. Thống nhất phương thức phân chia gói thầu từ khi quyết định đầu tư nhằm tránh hiện tượng chia nhỏ goí thầu để trốn thủ tục, nâng trách nhiệm của người quyết định đầu tư. Khuyến khích hình thức đấu thầu khoán gọn và thực hiện hợp đồng chỉ định còn một hình thức đó là hợp đồng chọn gói theo giá khoán gọn thay cho nhiều phương thức thực hiện hợp đồng như hiện nay. Một số tỉnh phía nam (An Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, ...) đang áp dụng hính thức khoán chọn gói thầu cho các nhà thầu nghĩa là khi xong khối lượng hạng mục công trình, các nhà thầu được thanh toán một số tiền đã thoả thuận trước. Hình thức này gọi là đấu thầu khoán gọn. Với hình thức này các nhà thầu phải lo toan tính toán vì không được thanh toán khoản chênh lệch vốn do trượt giá. Tránh trường hợp chủ đầu tư và nhà thầu cố tình tạo ra phát sinh hoặc quy trách nhiệm cho tổ chức thiết kế tính toán không chính xác. Để thực hiện được hình thức khoán gọn. Cơ quan quản lý cấp trên của chủ dự án phải quản lý chặt chẽ dự toán trên cơ sở định mức kinh tế và kỹ thuật, căn cứ quan trọng để lập dự toán một cách chính xác; giá khoán gọn chính là giá dự toán dùng để quyết toán, áp dụng hình thức này vào hoạt động đầu tư xây dựng là một giải pháp tích cực để chống lãng phí, thất thoát vốn. Nâng cao trách nhiệm của các chủ đầu tư từ khâu lập kế hoạch đấu thầu, tổ chức công tác đấu thầu, giám sát quá trình triển khai dự án của các nhà thầu và có chế độ xử phạt khi nhà thầu vi phạm, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. b. Kiện toàn công tác tổ chức quản lý dự án. phải triệt để tuân thủ trình tự xây dựng cơ bản từ công tác kế hoạch hoá, công tác qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, qui hoạch ngành, qui hoạch chi tiết về xây dựng đô thị và nông thôn, công tác chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị thực hiện dự án vì thực hiện đúng trình tự này là điều kiện tiên quyết đảm bảo nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Nâng cao chất lượng xây dựng, thẩm định phê duyệt các dự án của cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư. Qui định rõ cá nhân làm chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm một cách toàn diện về chất lượng thực hiện dự án và nhà thầu phải chấp hành đầy đủ nội dung như cam kết hợp đồng đã ký kết. Sớm ban hành Nghị định về công tác lập, thẩm định dự án đầu tư, phê duyệt dự án của cấp có thẩm quyền để nâng cao trách nhiệm cá nhân của cấp quyết định đầu tư. Quán triệt phương châm đầu tư có trọng điểm và dứt điểm. Theo đó, mặc cho dự án đầu tư được thực hiện bằng nguồn vốn nào cũng phải được cân đối đủ vốn để hoàn thành theo đúng tiến độ được phê duyệt nhằm khuyến khích các nhà thầu đẩy nhanh tiến độ thi công mà không bị dàng buộc bởi kế hoạch hàng năm như hiện nay mà phụ thuộc vào dự toán đã được xây dựng theo kế hoạch ngắn hạn, dài hạn. Kiên quyết không bố trí vốn dàn trải. Thực hiện giá khoán gọn đối với tất cả các loại dự án không có sự phân biệt dự án đấu thầu hay chỉ định thầu. c. Chấn chỉnh và tăng cường kỷ luật quyết toán công trình hoàn thành. Khi dự án hoàn thành, trong vòng sáu tháng phải quyết toán để đánh giá tài sản và bàn giao tài sản cho người sử dụng. Trong thực tế rất nhiều dự án của các ngành Trung ương và địa phương chưa thực hiện tốt quy định này. Hiện nay, nhiều dự án đầu tư đã thực hiện xong và đưa vào sử dụng từ lâu nhưng vẫn chưa quyết toán. Việc chấn chỉnh và tăng cường kỷ luật quyết toán công trình là cần thiết và được coi như một giải pháp quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Hướng chấn chỉnh và tăng cường kỷ luật quyết toán khi dự án đầu tư đưa vào sử dụng tư lâu nhưng vẫn chưa quyết toán. Việc chấn chỉnh và tăng cường kỷ luật quyết toán công trình là cần thiết và được coi như một giải pháp quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Hướng chấn chỉnh và tăng cường kỷ luật quyết toán khi dự án đầu tư đưa vào khai thác cần được tập trung vào các nộ dung sau đây: Cần phân định rõ trách nhiệm của các cơ quan chủ quản đầu tư đối với công tác tổ chức, chỉ đạo kiểm tra, kiểm soát, công tác lập báo cáo quyết toán vốn đầu tư các dự án hoàn thành giai đoạn thực hiện cả về nội dung và thời gian. Nâng cao trách nhiệm của chủ đầu tư trong công tác lập và báo cáo quyết toán một cách khoa học, kịp thời, chính xác, tổ chức thẩm tra báo có quyết toán trước khi phê duyệt đối vơi những dự án thuộc thẩm quyền của mình. Gắn tránh nhiệm cá nhân trong công tác quyết toán vốn đầu tư và có chế độ khen chê rõ ràng. Riêng đối với dự án nhóm A, vơi tư cách là cơ quan chủ quản đầu tư của chủ đầu tư có trách nhiệm xem xét, nhận xét và đề nghị cơ quan được Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền thẩm tra, phê duyệt. Tổ chức thường xuyên công tác thẩm tra, thanh tra việc chấp hành trình tự XDCB nói chung, công tác quyết toán vốn đầu tư khi dự án hoàn thành giai đoạn thực hiện đưa vào khai thác nói riêng. Đối với công tác này cần có kỷ luật nghiêm minh và kịp thời khi có sự vi phạm chế độ. * Cải cách thủ tục hành chính nhằm đảm bảo thanh toán và cho vay vốn đầu tư của dự án nhanh chóng kịp thời. Hiện nay công tác thanh toán và cho vay vốn đầu tư còn chậm gây nên tình trạng vốn đầu tư thừa thiếu giả tạo. Điều này làm cho việc thực hiện tiến độ nhiều dự án chậm chễ và cùng là nguyên nhân ảnh hưởng tơí nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Đơn giản hoá thủ tục hành chính trong khâu thanh toán vốn đầu tư và quy định rõ trách nhiệm của ngươì đề nghị thanh toán và người thanh toán. Kiên quyết xử lý hiện tượng còn tồn tại như hiện nay. Cơ quan chủ quản phê duyệt thiết kế kỹ thuật tổng dự toán và dự toán chậm. Bên A không làm hoặc làm thủ tục nghiệm thu, thanh toán cho bên B chậm. Việc bố trí kế hoạch không khớp với tiến độ dự án được duyệt, kể cả những dự án chuyển tiếp, vốn kế hoạch thường xác định thấp hơn giá trị khối lượng đã thực hiện, thậm chí chưa đủ điều kiện ghi vào kế hoạch. Thủ tục để thanh toán và cho vay vốn đầu tư quá nhiều như: Kế hoạch đấu thầu, kết quả trúng thầu được cấp có thẩm quyền duyệt,... Khắc phục tồn tại còn phổ biến trong tất cả các Bộ, ngành, các địa phương từ Trung ương đến địa phương cần quy định rõ chế độ trách nhiệm từng khâu, từng mắt xích và có chế độ xử lý vi phạm cụ thể đối với từng cấp, từng cá nhân có liên quan. Đồng thời cần tình giảm giấy tờ và thủ tục hành chính. Trên đây là nhóm giải pháp tài chính nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Để phát huy cao độ và triệt để tác dụng của các nhóm giải pháp này cần thực hiện các nhóm giải pháp hỗ trợ sau. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tham gia vào quá trình đầu tư xây dựng. * Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước về đầu tư xây dựng. Đổi mới chương trình đào tạo lại. Chương trình đào tạo phân ra nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau để công chức nào đang công tác thuộc lĩnh vực chuyên môn nào thì được đào tạo lại theo lĩnh vực chuyên môn đó. Tập hợp được vướng mắc trong thực tế, hàng loạt vấn đề mới được đặt ra, được giải quyết và được kiểm nghiệm qua thực tế. Dành thời gian chức xuống cơ sở tìm hiểu thực tế về lĩnh vực mình đang phụ trách, như vậy công chức thực sự mới đủ năng lực để nâng cao hiệu suất công tác họ đang đảm nhận trong lĩnh vực đầu tư góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Đào tạo lại cán bộ quản lý dự án đầu tư. Có thể nói công tác quản lý dự án đấu thầu hiện nay còn nhiều bất cập. Nguyên nhân chủ yếu là vì từ trước tới nay chưa thực sự có trường hoặc lớp nào đào tạo cán bộ quản lý dự án đầu tư. Cũng như nhiều hoạt động khác công tác quản lý dự án đầu tư cần được coi là một nghề và vì vậy cần phải có những cán bộ chuyên nghiệp, do đó cần phải đào tạo cán bộ chuyên nghiệp thuộc lĩnh vực này. Những cán bộ tốt nghiệp một trường đại học nào đó về lĩnh vực liên quan đến đầu tư như xây dựng, giao thông, thuỷ lợi, tài chính,... muốn trở thành một cán bộ chuyên nghiệp làm nghề quản lý dự án đầu tư xây dựng cần phải được đào tạo qua một trường quản lý dự án. Chuyên ngành đào tạo, chương trình đào tạo, thời gian đào tạo và phương thức thi tuyển phải được qui định rõ ràng. * Đào tạo cán bộ tư vấn, thiết kế kỹ thuật và kỹ sư xây dựng. Đào tạo lại cán bộ tư vấn, thiết kế kỹ thuật và kỹ sư xây dựng theo hướng chuyên nghiệp hoá. Đối với việc đào tạo lại cán bộ tư vấn, chỉ chọn những người đã tốt nghiệp đại học theo chuyên ngành gì thì được làm tư vấn theo đúng lĩnh vực đó. Nhưng muốn trở thành tư vấn thì còn phải được đào tạo lại qua trường từ 1 đến 2 năm liên tục. Nhà tư vấn không chỉ phải hiểu sâu về chuyên môn của lĩnh vực mình phụ trách mà còn phải hiểu biết khá rộng và chắc kiến thức của một số lĩnh vực như xã hội học, pháp luật địa lý kinh tế và một số lĩnh vực khác liên quan đến lĩnh vực chuyên môn, phải có thời kỳ thực tập nghề, chỉ được hành nghề tư vấn đúng theo chuyên môn được đào tạo. Trước mắt hiện nay, trong đội ngũ tư vấn đang hành nghề tại các công ty tư vấn nên lựa chọn những kỹ sư có khả năng tiếp tục đào tạo để thành những tư vấn thực sự có năng lực. Có như vậy, mới từng bước nâng cao được năng lực đội ngũ tư vấn nước ta và tạo điều kiện cho họ tiếp cận và hoá nhập với đội ngũ tư vấn thế giới. Đối với việc đào tạo lại kiến trúc sư. ở Việt Nam cũng cần có Luật hành nghề kiến trúc sư. Theo đó các kiến trúc sư phải được thi tuyển, đào tạo lại theo nội dung thích hợp và khi thi tốt nghiệp được cấp chứng chỉ hành nghề kiến trúc sư. Chỉ những kiến trúc sư nào có chứng chỉ hành nghề mới được giao sáng tác, thiết kế cấp công trình qui đình theo chứng chỉ. Còn các kiến trúc sư chưa được cấp chứng chỉ thì chỉ được làm các công việc can hoạ mà không được làm các công việc sáng tác. Rõ ràng là một kiến trúc sư chưa được cấp chứng chỉ hành nghề một cách nghiêm túc, đồng nghĩa với việc hiểu sâu sắc lịch sử dân tộc, phong tục tập quán và bản sắc văn hoá của dân tộc thì làm sao có thể thiết kế những công trình có giá trị sống mãi với thời gian. Đối với việc đào tạo lại đội ngũ kỹ sư, trước hết cần phân định rõ chức danh cụ thể của kỹ sư: kỹ sư tính toán, kết cấu; kỹ sư giám định Nhà nước về chất lượng công trình và kỹ sư giám sát thi công. Trong mỗi loại kỹ sư cũng cần phân biệt lại các cấp bậc cụ thể. Những người tốt nghiệp chương trình đào tạo lại được cấp giấy phép hành nghề theo đúng loại hình chuyên môn và cấp bậc kỹ sư đào tạo. - Thực hiện việc đào tạo lại cán bộ như vậy, chắc chắn năng lực của cán bộ trong lĩnh vực đầu tư xây dựng được nâng cao và sẽ góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. IV. Những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện các giải pháp Để đảm bảo cho các giải pháp trên nhanh chóng phát huy tác dụng trong quá trình hoạt động đầu tư xây dựng cần phải quan tâm đến việc thực hiện các điều kiện sau: 1. Bổ sung, sửa đổi và ban hành đồng bộ hệ thống pháp luật trong lĩnh vực đầu tư xây dựng Nhà nước có mạnh, có hiệu lực mới kiểm soát và định hướng cho sự phát triển nền kinh tế đất nước, mới khuyến khích được mọi thành phần kinh tế, tầng lớp dân cư trong nước, kiều bào nước ngoài, các nhà đầu tư mạnh dạn bỏ vốn vào đầu tư, nhằm mang lại lợi ích cho doanh nghiệp họ, cá nhân họ và từ đó chính là mang lại lợi ích cho đất nước. Như trên đã phân tích, hệ thống văn bản pháp luật trong lĩnh vực đầu tư xây dựng ở nước ta hiện nay vừa chồng chéo lại vừa trống thiếu thậm chí có những nội dung mâu thuẫn nhau làm cho việc quản lý trong lĩnh vực đầu tư xây dựng rất khó khăn. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Để đảm bảo áp dụng có kết quả các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư cần phải khẩn trương bổ sung sửa đổi và ban hành đồng bộ hệ thống pháp luật để điều chỉnh các hoạt động trong lĩnh vực đầu tuư. Việc bổ xung sửa đổi hệ thống văn bản trước hết nên tập trung vào công tác qui hoạch, công tác kế hoạch hoá đầu tư, phân cấp quản lý đô thị, xây dựng và ban hành hệ thống định mức tiêu chuẩn trong đầu tư xây dựng, hoàn thiện các mô hình giao thầu hợp lý (ngoài phương thức "đấu thầu" thay cho "chỉ định thầu" như hiện nay, còn cần bổ sung phương thức "khoán gọn" và giao thầu theo chỉ tiêu kế hoạch), ban hành qui định về sự lựa chọn cũng như phân định quyền hạn của chủ đầu tư, ban quản lý dự án, các qui định về điều kiện hành nghề của các nhà tư vấn, kiến trúc sư, Các giải pháp đề xuất sẽ khó thực hiện nếu các vấn đề trên không được bổ sung sửa đổi thông qua các văn bản pháp luật. 2. Hoàn thiện và phát triển thị trường vốn và lao động Hoàn thiện và phát triển thị trường vốn sẽ tạo điều kiện cho việc khơi thông các nguồn và kênh dẫn vốn. Theo đó nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước được huy động vào lĩnh vực đầu tư phát triển. Hoàn thiện và mở rộng thị trường vốn làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường vốn. Do đó một khối vốn đầu tư sử dụng phải được tính toán cân nhắc rất kỹ lưỡng. Bằng cách đó hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được nâng cao. Hiện nay các thị trường vốn ở nước ta đang được dần dần phát triển và hoàn thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu. Đặc biệt đã xuất hiện thị trường chứng khoán và những kết quả ban đầu của nó đã cho thấy sự ra đời của nó rất cần thiết. Tuy nhiên phải nhận rằng chất lượng hoạt động và qui mô hoạt động của sở giao dịch chứng khoán đã mở vẫn chưa như mong muốn. Các cơ quan có trách nhiệm cần nghiên cứu nâng cao chất lượng hoạt động của sở giao dịch hiện có và mở thêm các sở giao dịch chứng khoán ở các thành phố có điều kiện. Thị trường lao động cũng vậy, là nơi tạo điều kiện cho cung lao động và cầu lao động gặp nhau. Theo đó nhiều lực lượng lao động được sử dụng để phát triển kinh tế - xã hội. Mặt khác qua thị trường lao động, tính cạnh tranh trong các lực lượng lao động được tăng cường, bao gồm sự cạnh tranh giữa nưgời đang có việc làm với nhau và sự cạnh tranh giữa người hữu nghiệp và người thất nghiệp. Điều này không chỉ tác động làm cho người thất nghiệp phải học tập, rèn luyện tay nghề để chờ cơ hội làm việc mà còn đánh tan sự thờ ơ, "bằng chân như vại" của những người đang chờ việc. Vì nếu họ không tích cực tham gia vào quá trình đào tạo và sự đào tạo để nâng cao kiến thức chuyên môn và tay nghề thì sẽ bị đào thải. Đó là những điều kiện giúp cho việc lựa chọn đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực vào hoạt động đầu tư, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. 3. Đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước Cổ phần hoá nhằm cải cách, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước làm cho lĩnh vực này hoạt động có hiệu quả hơn. Thực tế ở nước ta cũng như ở nhiều nước khác đã chỉ ra rằng, khi chủ sở hữu vốn và chủ sử dụng vốn là một thì vốn được sử dụng có hiệu quả hơn các trường hợp chủ sở hữu vốn cách biệt với chủ sử dụng vốn. Trong thành phần kinh tế nhà nước, người chủ sở hữu vốn rất chung chung, là "Nhà nước", nhưng người sử dụng vốn lại rất cụ thể là giám đốc DNNN hoặc là chủ đầu tư hạc trưởng ban quản lý dự án đầu tư thuộc vốn Nhà nước. Trong điều kiện đó, nếu công cụ quản lý Nhà nước chưa đủ mạnh để kết hợp "3 lợi ích" và hệ thống hoá lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích toàn xã hội thì những chủ sử dụng vốn rất dễ có cơ hội biến tài sản của Nhà nước thành tài sản cá nhân và đó là nguyên nhân quan trọng gây nên lãng phí thất thoát vốn. Vì vậy các nước đang phát triển và nhất là các nước chuyển từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế hỗn hợp (như Séc, Sloven, Hungari) đã thực hiện việc tư nhân hoá và tái tư nhân hoá các cơ sở kinh tế rất sâu rộng (ngược với chính sách quốc hữu hoá trước kia họ đã làm). ở Việt Nam ta, mặc dù từ bỏ mô hình kinh tế chỉ huy nhưng đang xây dựng một nền kinh tế đa thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, theo định hướng XHCN nên cổ phần hoá DNNN là một chính sách đúng đắn tạo cho các công ty cổ phần được hình thành từ các DNNN được cổ phần hoá hoạt động có hiệu quả hơn. Vì chủ sở hữu vốn lúc này không chỉ còn là Nhà nước nữa mà là một tập thể hội đồng quản trị đại diện cho lợi ích của Nhà nước và của các cổ đông. Vì lợi ích kinh tế của mình, việc sử dụng vốn được quản lý giám sát cụ thể nên hiệu quả hơn. Cổ phần hoá DNNN được tiến hành ở nước ta mấy năm nay và đã thu được kết quả quan trọng. Tuy nhiên, do đó những quan niệm nhận thức khác nhau, chưa thống nhất, làm cho tốc độ cổ phần hoá khi nhanh khi chậm, không theo đúng lộ trình. Vì vậy, đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các DNNN cũng là tiền đề là điều kiện áp dụng có kết quả các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. 4. Đẩy mạnh quá trình cải cách hành chính Cải cách hành chính nhằm sắp xếp, tinh giản bộ máy, chống quan liêu cửa quyền, nâng cao hiệu lực hoạt động của bộ máy hành chính. Cải cách hành chính do đó tạo cho nền kinh tế - xã hội năng động, thông thoáng, hoạt động có hiệu quả. Riêng ở lĩnh vực đầu tư xây dựng, cải cách hành chính sẽ giảm nhiều sự trì trệ trong khâu lập và phê duyệt dự án, giải phóng mặt bằng, khâu cấp phát và tín dụng đầu tư... nhờ đó mà giảm cửa quyền, phiền hà, chống lãng phí thất thoát đầu tư đồng thời đưa được nhanh chóng hoàn thành đưa vào khai thác nên nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Hiện nay, trong nhiều đơn vị thí điểm về cải cách hành chính, thực hiện một cửa một dấu chống phiền hà nên được quần chúng ủng hộ. Tuy nhiên, cải cách hành chính không chỉ giảm bớt nhân viên, bớt bộ phận này, thêm bộ phận kia và thay đổi lề lối làm việc. Kết quả cuối cùng là hiệu lực của bộ máy hành chính và hiệu suất làm việc của cán bộ hành chính. Điều này phụ thuộc nhiều vào phẩm chất và năng lực nhân viên hành chính có ngang tầm với vị trí công việc được đảm nhiệm không. Do đó, cải cách hành chính liên quan đến công tác đào tạo được trình bày ở phần sau. 5. Tăng cường đầu tư cho đào tạo và đào tạo lại cán bộ Đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư vào tư bản con người có ý nghĩa rất quan trọng trong thời kỳ phát triển khoa học công nghệ và trong giai đoạn chuyển biến từ nền kinh tế vật chất sang nền kinh tế tri thức như đã được trình bày ở phần trên. kết luận Cùng với với xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới, cũng như các nước trong khu vực. Việt Nam đang nỗ lực vuơn lên hoà chung vào tiến trình phát triển, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá, xây dựng một nền kinh tế mở hướng ra bên ngoài, điều này được thể hiện rõ qua các văn kiện Đaị hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, thư IX vừa qua. Đảng ta xác định muốn đi lên thành một nước có nền kinh tế phát triển thì trước hết cần phả đảm bảo điều kiện về đời sống kinh tế xã hội của người dân, phải đảm bảo phát triển cân đối cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ, phát triển cần phải dựa trên cơ sở đồng đều và một nền tảng vững chắc. Dựa trên quan điểm này Đảng và Nhà nước ta đã tích cực chú trọng tới việc phát triển và cải thiện đời sống kinh tế xã hội của người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc miền núi, tạo điều kiện phát triển miền núi thông qua hỗ trợ, khuyến khích đầu tư ở các vùng này. Bắc Giang là một trong những tỉnh miền núi còn có nhiều khó khăn, trong những năm qua được sự hỗ trợ của Đảng và Nhà nước, cùng với nỗ lực của chính mình Bắc Giang đã thực hiện tốt công cuộc cải cách kinh tế, tăng cường đầu tư phát triển kinh tế xã hội và đã đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên, quá trình phát triển hệ thống các giải pháp đẩy mạnh đầu tư nhằm phát huy những thành tựu đã đạt được và giải quyết các khó khăn bất cập còn tồn tại. Để làm được điều đó đỏi hỏi cần có sự nghiên cứu, tỉm hiểu một cách nghiêm túc và đó cũng chính là vấn đề mà đề tài quan tâm. Một lần nữa em xin cảm ơn cô giáo Nguyễn Thu Hà, cùng các thầy cô giáo trong Bộ môn Kinh tế đầu tư và các cô chú trong phòng Đầu tư - Sở Tài chính Vật giá đã giúp đỡ em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này của mình. Tài liệu tham khảo 1. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Giang thời kỳ 2000-2010 của BCH Đàng bộ tỉnh Bắc Giang. 2.Niên giám thống kê tỉnh Bắc Giang 2000 3. Giáo trình kinh tế đầu tư - Trường ĐHKTQD 4.Giáo trình lập và quản lý dự án 5. Các quy định về quản lý đầu tư- NXB quốc gia. 6. UBND tỉnh Bắc Giang, báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh Bắc Giang 1996-2000, 2001-2005. 7. Cục thống kê Bắc Giang- Niên giám thống kê 8. Bưu điện Bắc Giang, chiến lược phát triển bưu chính viễn thông tỉnh Bắc Giang đến năm 2010 9. Quy hoạch phát triển Bắc Giang giai đoạn 2005-2010- Sơ kế hoạch đầu tư Bắc Giang. 10. Sở giao thông Bắc Giang, Báo cáo kế hoạch phát triển giao thông nông thôn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 1999-2010. Mục lục Lời nói đầu 1 Chương I: Lý luận chung về vốn đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư 3 I. Khái niệm về đầu tư và vốn đầu tư 3 1. Khái niệm về đầu tư 3 2. Đặc điểm vể đầu tư 4 3. Khái niệm về vốn đầu tư 7 4. Các nguồn hình thành vốn đầu tư 7 II. Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn đầu tư 10 1. Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn đầu tư ở tầm vĩ mô 10 2. Các chỉ tiêu hiệu quả vốn đầu tư ở tầm vĩ mô 13 III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả vốn đầu tư 16 1. Chiến lược công nghiệp hoá 17 2. Các chính sách kinh tế 17 3. Công tác tổ chức quản lý đầu tư xây dựng 19 4. Tổ chức khai thác, sử dụng các đối tượng đầu tư hoàn thành 21 IV. Khái quát chung về tình hình kinh tế xã hội tỉnh Bắc Giang 21 1. Vị trí địa lý 22 2. Tiềm năng, nguồn lực 22 3. Thực trạng một số ngành chủ yếu 23 4. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội 24 5. Sự cần thiết phải đầu tư ở Bắc Giang 25 Chương II: Thực trạng vốn đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư ở Bắc Giang 28 I. Tổng quan đầu tư tỉnh Bắc Giang 28 II. Đầu tư theo vùng lãnh thổ 31 III. Thực trạng đầu tư theo lĩnh vực ngành kinh tế 34 1. Ngành Nông - Lâm - Ngư nghiệp 36 2. Ngành công nghiệp - xây dựng 40 3. Đầu tư - thương mại - kinh doanh - dịch vụ 42 4. Đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật 43 5. Đầu tư kết cấu hạ tầng xã hội 48 IV. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư 51 1. Những thành tích đạt được 51 2. Một số hạn chế về công tác đâu tư phát triển của tỉnh Bắc Giang 55 Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư 59 I. Kinh nghiệm thành công và chưa thành công về hoạt động đầu tư, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của một số nước trên thế giới. 59 1. Kinh nghiệm thu hút FDI 59 2. Kinh nghiệm sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư 60 3. Kinh nghiệm sử dụng vốn đầu tư trong lĩnh vực khoa học công nghệ 63 II. Định hướng phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Bắc Giang 63 1. Chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn 63 2. Phát triển công nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá 64 3. Đẩy mạnh kinh tế đối ngoại và xuất nhập khẩu 64 4. Thương mại, dịch vụ du lịch 64 5. Phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội 64 III. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư 65 1. Nâng cao chất lượng công tác xây dựng chiến lược đầu tư 65 2. Nâng cao chất lượng công tác tư vấn, khảo sát thiết kế và xây dựng dự án 68 3. Cải tiến công tác quản lý dự án trong quá trình thực hiện dự án 70 4. Nâng cao năn lực đội ngũ cán bộ tham gia vào quá trình đầu tư xây dựng 74 IV. Những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện các giải pháp 76 1. Bổ sung, sửa đổi và ban hành đồng bộ hệ thống pháp luật trong lĩnh vực đầu tư xây dựng 77 2. Hoàn thiện và phát triển thị trường vốn và lao động 78 3. Đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước 79 4. Đẩy mạnh quá trình cải cách hành chính 80 5. Tăng cường đầu tư cho đào tạo và đào tạo lại cán bộ 80 Kết luận 82 Tài liệu tham khảo 83

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9505.doc
Tài liệu liên quan