Đề tài Thuế giá trị gia tăng và hoàn thuế giá trị gia tăng

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 NỘI DUNG 3 I.THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG LÀ GÌ ? 3 1.Nguồn gốc về thuế GTGT 3 2.Một số khái niệm cơ bản. 3 3. Đặc điểm của thuế GTGT 4 4.Phạm vi áp dụng thuế GTGT. 5 4.1.Đối tượng chịu thuế. 5 4.2. Đối tượng nộp thuế GTGT. 6 4.3 Đối tượng không chịu thuế GTGT 6 5.Căn cứ tính thuế 6 6. Phương pháp tính thuế GTGT 7 6.1 Phương pháp khấu trừ thuế: 7 6.2 Phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng 8 7.Sự cần thiết của thuế GTGT 8 II. HOÀN THUẾ GTGT 12 III. NHỮNG TỒN TẠI TRONG VIỆC HOÀN THUẾ GTGT 12 1.Một số vấn đề chung. 12 2.Hoá đơn, chứng từ. 13 3.Hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu (XNK). 14 4.Hoàn thuế GTGT đối với hàng nông lâm thuỷ sản 16 5.Tội phạm trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT 17 a) Những con số đáng báo động 17 b) Những thủ đoạn của bọn tội phạm trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT. 18 IV.HƯỚNG HOÀN THIỆN HOÀN THUẾ GTGT. 19

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2249 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thuế giá trị gia tăng và hoàn thuế giá trị gia tăng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế hiện đại, thuế không chỉ là công cụ thu ngân sách nhà nước (NSNN) mà còn là công cụ của nhà nước để quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Do vậy, khi nền kinh tế của mỗi nước chuyển sang một giai đoạn mới với những chủ trương, chính sách định hướng sự phát triển kinh tế thay đổi thì chính sách thuế của quốc gia cũng phải được cải cách cho thích hợp. Cuộc cải cách thuế nước ta từ năm 1990 đến nay được xem là một cuộc cải cách thuế toàn diện, sâu sắc. Qua bước 1 của cuộc cải cách (1990-1995), hệ thống thuế nước ta đã đạt được một số thành tựu quan trọng như: thống nhất hệ thống thuế áp dụng cho các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế trong cả nước, tăng thu NSNN, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, cuộc cải cách thuế bước 1 vẫn còn một số hạn chế như: hạn chế khuyến khích đầu tư, đáp ứng yêu cầu hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới, hạn chế về tính đơn giản, rõ ràng, chặt chẽ. Chính vì vậy, hệ thống thuế nước ta lại được tiếp tục cải cách ở bước 2. Việc áp dụng thuế GTGT thay thế thuế doanh thu (TDT) kể từ ngày 1/1/1999 là một trong những nội dung quan trọng của bước cải cách này. Việc ban hành thuế GTGT thay thế cho TDT là nhằm khắc phục những nhược điểm của TDT, kích thích sản xuất phát triển đồng thời từng bước hoàn thiện hệ thống chính sách thuế của nước ta phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đáp ứng nhu cầu hội nhập với nền kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới, thu hút vốn đầu tư của nước ngoài cũng như của các nhà đầu tư trong nước, thúc đẩy tăng cường công tác hạch toán kế toán, chứng từ hoá đơn của các doanh nghiệp, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế, hạn chế thất thu thuế, đảm bảo nguồn thu ổn định, thường xuyên, lâu dài và ngày càng tăng cho NSNN. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, thuế GTGT cũng còn nhiều vấn đề như: thuế suất, phương pháp tính thuế, và đặc biệt là vấn đề hoàn thuế giá trị gia tăng. Nhận thức tầm quan trọng của vấn đề này, em đã chọn đề tài: “THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG k HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG”. Do còn hạn chế về mặt kiến thức, kinh nghiệm và với lòng mong muốn được học hỏi, em rất mong được thầy cô, bạn bè chỉ bảo. Em cũng chân thành cảm ơn Cô giáo trực tiếp hướng dẫn em làm đề tài này. NỘI DUNG I.THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG LÀ GÌ ? Thuế GTGT tuy mới được áp dụng ở nước ta từ ngày 1/1/1999 song đã phát huy được vai trò to lớn trong việc quản lý vĩ mô nền kinh tế và là nguồn thu chủ yếu của ngân sách quốc gia. Còn trên thế giới, thuế GTGT đã được áp dụng ở hầu hết các nước. Vậy thuế GTGT là gì, tại sao lại phổ biến như vậy? 1.Nguồn gốc về thuế GTGT Thuế GTGT có tên gọi theo tiếng Anh là “VALUE ADDED TAX”(VAT). Năm 1918, một người Đức có tên là Carl Fredric Von Stemens đã đề xuất thuế GTGT nhằm khắc phục sự chồng chéo của thuế doanh thu nhưng những kiến nghị của ông đã không được nước Đức quan tâm. Năm 1947, Chao, nhà kinh tế học người Mỹ, lại đề cập đến thuế GTGT trong tác phẩm “Cải tổ hệ thống thuế” của mình. Ở Nhật Bản, một dự án về thuế này đã được đệ trình quốc hội năm 1953 nhưng không được thông qua. Phải đến năm 1954 Pháp mới là nước đầu tiên thực hiện thuế GTGT nhưng chỉ mới áp dụng ở khâu sản xuất. Năm 1968 chỉ có 47 nước áp dụng thuế GTGT. Ngày nay đã có hơn 120 nước áp dụng loại thuế này. Riêng ở Châu Á, thuế GTGT ngày càng trở thành loại thuế phổ biến. Ở VIỆT NAM, thuế GTGT được nghiên cứu và áp dụng thử nghiệm năm 1993 ở 11 đơn vị (ngành đường, dệt, xi măng)ban hành thành luật và được thông qua tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá 9 ngày 10 tháng 5 năm1997 để chính thức áp dụng từ ngày 1/1/1999. 2.Một số khái niệm cơ bản. Thuế GTGT là thuế gián thu tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh từ quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng và được nộp vào ngân sách theo mức độ tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ. Giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ là phần giá trị tăng thêm của hàng hoá dịch vụ sau mỗi quá trình sản xuất và lưu thông. Về hình thức, thuế GTGT do các nhà sản xuất kinh doanh nộp hộ người tiêu dùng thông qua việc tính nộp thuế này vào giá bán mà người tiêu dùng phải thanh toán. Về bản chất, người chịu thuế GTGT là người tiêu dùng. Tuy nhiên, ngưòi sản xuất và người tiêu dùng đều phụ thuộc vào mối quan hệ cung cầu của hàng hoá đó trên thị trường, do vậy đều chịu ảnh hưởng của thuế GTGT. 3. Đặc điểm của thuế GTGT Thuế GTGT mang tính gián thu, một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hóa dịch vụ, nhằm động viên một phần thu nhập của người tiêu dùng khi họ tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ chịu thuế. Thuế GTGT đánh vào tất cả các giai đoạn sản xuất kinh doanh nhưng chỉ tính trên phần giá trị gia tăng của mỗi giai đoạn. Vì vậy, tổng số thuế thu được ở các giai đoạn sẽ bằng với số thuế tính theo giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng. Doanh nghiệp Đầu vào Đầu ra Thuế GTGT Doanh số mua chưa cóthuế Thuế GTGT Doanh sốbán chưa có thuế Thuế GTGT 1DN sợi Mua bông 300 30 Bán sợi thành phẩm 400 40 40-30=10 2.Dn dệt Mua sợi 400 40 Bán vải 500 50 50-40=10 3.DN may Mua vải 500 50 Bán quần áo 550 55 55-50=5 Tổng thuế người tiêu dùng phải chịu: 30+10+10+5=55 Vấn đề cơ bản nhất khi nghiên cứu bản chất của thuế GTGT là phải xác định được thành phần của giá trị tăng thêm ở mỗi giai đoạn sản xuất kinh doanh. Như vậy mới tính được một cách chính xác số thuế GTGT của mỗi giai đoạn đó. Thuế GTGT có tính trung lập được thể hiện ở các khía cạnh: Thuế GTGT không chịu ảnh hưởng của kết quả kinh doanh của người nộp thuế. Dù nền kinh tế và mức sống của xã hội tăng hay giảm thì người dân vẫn luôn luôn có những nhu cầu nhất định, do đó việc tiêu thụ hàng hoá dịch vụ vẫn phải diễn ra. Thuế GTGT không bị ảnh hưởng bởi quá trình tổ chức và phân chia các chu trình kinh tế, nghĩa là việc phân đoạn chu trình kinh tế nhiều hay ít đều không ảnh hưởng đến số thuế GTGT thu được. Thuế GTGT đem lại nguồn thu thường xuyên và chủ yếu cho NSNN tuỳ theo quan điểm động viên của mỗi Quốc gia. Thuế GTGT phụ thuộc vào mức tiêu dùng xã hội. Phần lớn các nước áp dụng thuế GTGT có số thu về thuế GTGT chiếm khoảng 15%-30% tổng thu ngân sách(Khoảng 5% đến 10% GDP). 4.Phạm vi áp dụng thuế GTGT. 4.1.Đối tượng chịu thuế. Theo quy định tại Điều 2 Luật thuế giá trị gia tăng và Điều 2 Nghị định số 79/ 2000/ NĐ-CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ thì đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam, trừ 26 nhóm hàng hoá, dịch vụ theo quy định tại điều 4 Luật thuế GTGT hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT bao gồm : Hàng hoá, dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng trong nước. Hàng hoá, dịch vụ được nhập khẩu tiêu dùng trong nước. Hàng hoá, dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng nội bộ. Hàng hoá, dịch vụ được mua, bán dưới mọi hình thức, bao gồm cả trao đổi bằng hiện vật (Không thanh toán bằng tiền). 4.2. Đối tượng nộp thuế GTGT. Theo quy định tại Điều 3 Luật thuế gía trị gia tăng và Điều 3 Nghị định số 79/2000/ NĐ-CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế GTGT thì tất cả các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT ở Việt Nam, không phân biệt ngành nghề, hình thức, tổ chức kinh doanh (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân khác có nhập khẩu hàng hoá chịu thuế GTGT(gọi chung là người nhập khẩu)đều là đối tượng nộp thuế GTGT. 4.3 Đối tượng không chịu thuế GTGT Các hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT theo quy định tại Điều 4 Luật thuế gía trị gia tăng và điều 4 Nghị định số 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ. 5.Căn cứ tính thuế Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất. Giá tính thuế : Giá tính thuế GTGT đối với hàng hoá dịch vụ là giá bán chưa có thuế GTGT, giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu tại cửa khẩu cộng với thế nhập khẩu. Ngoài ra, giá tính thuế GTGT đối với một số trường hợp khác cũng được quy định cụ thể tại Điều 7 Luật thuế gía trị gia tăng và Điều 6 Nghị định số 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ. Thuế suất: Hiện nay, luật thuế GTGT quy định có 4 mức thuế suất là 0%, 5%, 10%, 20% và được quy định cụ thể tại Điều 8 Luật thuế gía trị gia tăng và Điều 7 Nghị định số 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ. Thuế suất 0% : Áp dụng cho hàng hoá dịch vụ xuất khẩu. Thuế suất 5% : Áp dụng cho hàng hoá dịch vụ có tính chất thiết yếu trong đời sống kinh tế, xã hội. Thuế suất 10% : Áp dụng cho các nhóm hàng hoá, dịch vụ thông thường trong đời sống kinh tế, xã hội. Thuế suất 20% : Áp dụng cho nhóm hàng hoá, dịch vụ cao cấp cần phải điều tiết cao. 6. Phương pháp tính thuế GTGT Có 2 phưong pháp là phưong pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT. 6.1 Phương pháp khấu trừ thuế: Đối tượng áp dụng : là các đơn vị, tổ chức kinh doanh, doanh nghệp thành lập theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước, Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp Tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các đơn vị, tổ chức kinh doanh khác trừ các đối tượng áp dụng tính thuế theo phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT. b) Xác định thuế GTGT phải nộp : Số thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ Trong đó: Thuế GTGT đầu ra = Giá tính thuế của hàng hoá ,dịch vụ chịu thuế bán ra X Thuế suất thuế GTGT của hàng hóa , dịch vụ đó Thuế GTGT đầu vào bằng tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịnh vụ (bao gồm cả tài sản cố định dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịnh vụ chịu thuế GTGT ), số thuế GTGT ghi trên chứng từ nộp thuế của hàng hoá nhập khẩu, hoặc thuế GTGT được khấu trừ khống đối với các trường hợp theo quy định với các tỷ lệ từ 2% -3% gía trị hàng hoá mua vào. 6.2 Phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng Đối tượng áp dụng: là các cá nhân sản xuất, kinh doanh là người Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế. Xác định thuế GTGT phải nộp: Sốthuế GTGT Phải nộp += Giá trị gia tăng của hàng hoá dịch vụ chịu thuế C X Thuế suất thuế GTGT của hàng hoá , dịch vụ đó GTGT củahàng hoá dịch vụ + = Doanh số của hàng hoá, dịch vụ bán r a - Giá vốn của hàng hoá, dịch vụ bán ra 7.Sự cần thiết của thuế GTGT Thuế GTGT khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp của TDT. Thuế GTGT lẫn TDT đều là những sắc thuế gián thu, đều nhằm mục tiêu chính là động viên một phần thu nhập của đông đảo người tiêu dùng tạo nên nguồn thu lớn và ổn định cho NSNN. Nhưng trong nền kinh tế với sự phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, chuyên môn hoá sản xuất ngày càng cao như hiện này thì TDT với đối tượng tính thuế là toàn bộ doanh thu không còn thích hợp nữa. Khi phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất chưa phát triển, từ nguyên liệu thô, qua nhiều công đoạn chế biến để được thành phẩm hữu ích đến với người tiêu thụ cuối cùng, có thể chỉ do một người hay một đơn vị sản xuất thực hiện: Trồng lúa và thu hoạch lúa Xay xát gạo Chế biến gạo thành bột gạo Làm bánh Bán bánh đến tay người tiêu dùng (toàn bộ quy trình nói trên do một người/một đơn vị sản xuất thực hiện) Người bán bánh phải nộp TDT: toàn bộ doanh thu bán bánh x thuế suất, điều này không làm phát sinh tình trạng thuế chồng lên thuế. Khi phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất phát triển thì mỗi công đoạn trong quy trình trên sẽ do những người khác nhau đảm trách, thậm chí giữa những người sản xuất này còn có thể có ít nhất một nhà buôn làm trung gian. Do đó, TDT được tính trên toàn bộ doanh thu của mỗi ngưòi cũng có nghĩa là TDT được tính chồng lên TDT của những khâu sản xuất trước đó. TDT mà mỗi nhà sản xuất kinh doanh phải nộp không phản ảnh được phần giá trị mới sáng tạo mà họ đóng góp cho xã hội. TDT không khuyến khích chuyên môn hoá sản xuất, hạn chế sự phát triển phong phú các ngành, nghề, các loại hình kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Có ý kiến cho rằng, việc tính trùng TDT trong quá trình luân chuyển hàng hoá nhằm hạn chế nhiều khâu trung gian không cần thiết. Tuy nhiên thực tế, trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều khâu trung gian cần thiết; hơn nữa, qua sự đào thải hoặc chấp nhận của thị trường bản thân từng nhà kinh doanh tự xác định được là họ có cần thiết hay không. Về phía Nhà nước, có thể hạn chế, điều chỉnh họ bằng một lại thuế nào đó thật rõ ràng, với thuế suất cao, không cần phải làm cho thuế chồng lên thuế. Thuế GTGT với đối tượng tính là phần giá trị gia tăng của hàng hoá qua mỗi khâu sản xuất kinh doanh nên có thể khắc phục tính trùng lắp của TDT. Thuế GTGT mang tính trung lập về mặt kinh tế. Xét trong nội bộ nền kinh tế, thuế GTGT, đánh vào người tiêu dùng, không đánh vào người sản xuất,được áp dụng rộng rãi, có phạm vi đối tượng thu rất rộng (Thu vào mọi tổ chức, cá nhân người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ) nên có thể tạo ra nguồn thu ngày càng tăng cho NSNN. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chỉ là khâu trung gian, thu thuế hộ Nhà nước rồi nộp vào KBNN mà thôi. Đây là đặc điểm“cách mạng”của thuế GTGT nhờ phương pháp khấu trừ của nó. Ngoài ra, tính trung lập còn được thể hiện trong các nghiệp vụ chuyển dịch sản phẩm và dịch vụ cũng như đối với việc tập trung thu vào Ngân sách. Một loại thuế được gọi là trung lập khi nó không nhằm vào hay không được dẫn tới hậu quả sinh ra một áp lực trên người chịu thuế để họ phải hoạt động hay không hoạt động theo một hướng đã định. Thuế GTGT khuyến khích hoạt động xuất khẩu bằng việc áp dụng thuế suất 0% và được thoái trả lại toàn bộ số thuế GTGT đã thu ở khâu trước. Đồng thời có tác dụng bảo hộ hàng hoá sản xuất trong nước thông qua việc đánh thuế vào hàng nhập khẩu (làm tăng giá vốn hàng nhập khẩu)sẽ kích thích sản xuất trong nước phát triển tạo điều kiện hội nhập vào nền kinh tế khu vực và kinh tế toàn cầu. Thuế GTGT còn mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh, giải quyết nhu cầu lao động ngày càng tăng của xã hội. Thuế GTGT thúc đẩy hoạt động đầu tư mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ hiện đại, bởi lẽ thuế GTGT không đánh vào hoạt động đầu tư tài sản cố định, toàn bộ số thuế GTGT phải trả khi mua sắm tài sản cố định sẽ được Nhà nước cho khấu trừ hoặc hoàn lại cho doanh nghiệp. Thuế GTGT có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước thông qua việc đánh thuế vào hàng hoá nhập khẩu. Điều này làm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước, bảo hộ được thị trường tiêu thụ hàng hoá nội địa, kích thích sản xuất trong nước phát triển, tạo điều kiện hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới khi buộc phải cắt giảm thuế xuất nhập khẩu, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài cũng như các doanh nghiệp trong nước. Khi được triển khai áp dụng, thuế GTGT sẽ góp phần đổi mới tư duy về cơ chế thu nộp thuế. Đổi mới tư duy là vấn đề khó khăn lâu dài. Tuy nhiên, nếu được áp dụng đúng, thuế GTGT sẽ phát huy bản chất trung lập kinh tế, không ảnh hưởng đến kết quả quản lý của các doanh nghiệp. Cơ chế thu thuế sẽ được đổi thành cơ chế tự động kê khai, nộp thuế, thực hiện kiểm tra sau. Vấn đề này không được dễ hiểu và áp dụng đúng trong giai đoạn đầu. Việc ban hành luật thuế GTGT gắn với việc sửa đổi, bổ sung luật thuế TTĐB, luật thuế XNK khiến hệ thống thuế của Việt Nam ngày càng phù hợp với thông lệ quốc tế, cho phép chúng ta nối tiếng nói chung với các nước trong khu vực và trên thế giới trong lĩnh vực thuế. Khi thuế GTGT đi vào cuộc sống, các mặt hàng cùng loại sau khi chịu thuế NK sẽ cùng chịu một mức thuế GTGT như nhau, không phân biệt hàng sản xuất trong nước hay hàng nhập khẩu. Điều này giúp chúng ta nhìn nhận như một nước có môi trường kinh doanh bình đẳng. Do vậy, thuế GTGT có tác dụng thúc đẩy các doanh nghiệp vươn ra thị trường nước ngoài và thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Thuế GTGT hạn chế được việc trốn thuế. Tự cơ chế tính thuế mang lại cơ hội kiểm soát của cơ quan thuế bởi vì mỗi đơn vị nộp thuế phải chịu trách nhiệm về số thuế phải nộp theo luật định và chỉ có thể nộp giảm thuế khi chứng minh được rằng mình cũng đã nộp thuế khi mua các yếu tố đầu vào. Đương nhiên, để chứng minh được số thuế đã nộp ở khâu trước, doanh nghiệp phải lưu trữ đầy đủ hoá đơn mua hàng và hoá đơn bán hàng cho khách hàng. Cơ chế thuế GTGT đòi hỏi các doanh nghiệp để bảo vệ quyền lợi của mình phải hạch toán rõ ràng chính xác đầy đủ mọi khoản giao dịch trên hoá đơn. Việc ghi chép sai lầm về kế toán có thể gây thiệt hại cho chính đơn vị nộp thuế nhất là khi đơn vị phải ánh không đầy đủ phần mua hàng. Do vậy doanh nghiệp phải sắp xếp, tổ chức lại sản xuất, đổi mới trang thiết bị, công tác quản lý, củng cố lại công tác kế toán, chú trọng đến việc mở sổ, ghi chép kế toán, hoá đơn chứng từ. Nhìn bao quát chung do tác đông tích cực của các luật thuế mới nên nhều doanh nghiệp năm trước bị lỗ năm sau đã có hiệu quả khá hơn, nộp đủ thuế và có lãi. Trên đây là một số ưu điểm của thuế GTGT và nhìn chung thuế GTGT được đánh giá là sắc thuế tiến bộ nhất trong các sắc thuế gián thu. Tuy vậy, đối với Việt Nam đây là một sắc thuế mới nên việc vận dụng nó trong thực tiễn kinh doanh chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn, thách thức đối với nhà nước, doanh nghiệp cũng như xã hội, đòi hỏi phải có giải pháp thích hợp khắc phục nhằm phát huy ưu điểm, hạn chế nhược điểm của sắc thuế này. II. HOÀN THUẾ GTGT Đối tượng và trường hợp được hoàn thuế GTGT. Hồ sơ được hoàn thuế GTGT. Trách nhiệm của đối tượng được hoàn thuế GTGT 4. Thẩm quyền và trình tự giải quyết hoàn thuế GTGT Được quy định đầy đủ rõ ràng trong luật thuế GTGT, Nghị định số 79/2000/NĐ-CP ngày 29/12/2000 của Chính phủ. và các thông tư số 122 và 82. III. NHỮNG TỒN TẠI TRONG VIỆC HOÀN THUẾ GTGT 1.Một số vấn đề chung. Thủ tục hoàn thuế còn rất phức tạp. Hồ sơ hoàn thuế tưởng chừng rất đơn giản nhưng đơn vị phải chạy đi chạy lại rất nhiều lần mới có thể hoàn tất được hồ sơ. Hiện nay tại cục thuế Hà Nội, 1 hồ sơ hoàn thuế phải có đủ 8 chữ kỹ thì mới được thực hiện. Do bản thân các doanh nghiệp chưa hiểu rõ chính sách thuế, trình tự thủ tục hoàn thuế ...nên phải mất rất nhiều thời gian để hoàn tất các thủ tục. Chẳng hạn một số DN chưa hiểu rõ chính sách thuế nên đã kê khai khấu trừ để hoàn thuế đầu vào cả tiền lệ phí, tiền thuê đất, cá biệt có cả DN kê khai cả thuế NK vào thuế đầu vào để xin khấu trừ. Do trình độ của một số cán bộ thuế còn hạn chế nên hướng dẫn các đơn vị chưa đầy đủ, chính xác... vì vậy phải mất nhiều thời gian mới hoàn tất thuế vị sợ số liệu trong hồ sơ xin hoàn thuế không chính xác(do DN chế biến số liệu tinh vi, sử dụng hoá đơn bất hợp pháp ...) 2.Hoá đơn, chứng từ. Như chúng ta đã biết, các chứng từ, hoá đơn, sổ sách là cơ sở để DN có thể được hoàn thuế. Chính vì vậy, đối với những DN làm ăn không minh bạch thì đây là cơ hội để “móc tiền” của NSNN thông qua những hành vi gian lận như khai khống hoá đơn đầu vào, mua bán bất hợp pháp hoá đơn. Hiện nay, theo cán bộ ngành thuế cho biết, thị trường mua bán hóa đơn khống cũng hết sức sôi động và đa dạng bao gồm : Hoá đơn giả: rất dễ nhận biết qua các công cụ kiểm tra như đèn chiếu ... Hóa đơn giả như thật: là hoá đơn thật 100% nhưng bằng con đường hợp pháp nào đó tuồn ra ngoài hoặc do một số DN giải thể, mất tích bán ra thị trường. Hoá đơn thật: là hoá đơn được cung cấp có địa chỉ, có dấu nhưng khi hoàn thuế phải rà soát đối chiếu kỹ, mà nhân lực và kinh phí có hạn, nên nhiều khi bị bỏ sót. Vấn đề này đã làm đau đầu cơ quan thuế hơn bao giờ hết. Trước đây khi sử dụng thuế DT, sử dụng hoá đơn giả chỉ có thể ăn gian thuế trên số hàng bán ra, còn bây giờ với hoá đơn giả Nhà nước không những không thu được một khoản thuế nào mà ngược lại còn phải chi thêm tiền để hoàn thuế. Bên cạnh đó, việc sử dụng hoá đơn bất hợp pháp tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các DN. DN nào không trốn thuế được sẽ mất dần sức cạnh tranh, những cơ sở trốn thuế sẽ có điều kiện hạ giá thành để cạnh tranh, hậu quả là những đơn vị làm ăn chân chính lại bị thua thiệt, sân chơi giữa các DN trở nên bất bình đẳng. Nếu tình trạng này không được ngăn chặn và xử lý kịp thời sẽ làm cho nguồn ngân sách nhà nước bị thâm hụt một khoản rất lớn và tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta, làm giảm hiệu lực của luật thuế. 3.Hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu (XNK). Điều 1 Chương 1 Luật thuế GTGT quy định: “Thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Đồng thời quy định hàng NK về đến cửa khẩu là đối tượng chịu thuế GTGT (trừ một số trường hợp đặc biệt) và giá tính thuế GTGT đối với hàng NK là: “giá nhập tại cửa khẩu cộng với thuế NK”. Không ai có thể chứng minh được rằng, toàn bộ giá trị của hàng NK tại cửa khẩu là giá trị tăng thêm của hàng hoá. Song theo luật, việc thu thuế GTGT tại các cửa khẩu vẫn cứ phải tiến hành. Việc “tiền, hậu bất nhất” như trên đã được các quan chức ngành Thuế giải thích nhiều, song những lý giải ấy đã không xuất phát từ các căn cứ khoa học của một sắc thuế mà chỉ xuất phát từ những ý chí chủ quan. Các DN kinh doanh XNK cũng có ý kiến rất nhiều về vấn đề này ngay khi luật Thuế GTGT được ban hành. Mặc dù vậy luật vẫn được thực thi, các DN vẫn phải nộp thuế GTGT ngay tại cửa khẩu và chờ đợi để được hoàn thuế. Như vậy, rõ ràng là, các DN đã phải ứng trước một số tiền vào ngân sách nhà nước và chỉ thu lại được khi đã được hoàn thuế. Từ đó có thể thấy rằng, hoàn thuế GTGT cho các DN là vấn đề đặc biệt quan trọng. Thông tư 89/1998/TT-BTC ngày 27/6/1998 của Bộ Tài chính đã quy định về hồ sơ hoàn thuế GTGT gồm có: Công văn đề nghị hoàn thuế GTGT đầu vào đã nộp có nêu lý do xin hoàn thuế và số thuế xin hoàn kèm theo. Bảng kê khai tổng hợp số thuế phát sinh đầu ra, số thuế đầu vào được khấu trừ, số thuế đã nộp, số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra đề nghị hoàn lại. Bảng kê hàng hoá, dịch vụ mua vào, bán ra trong kỳ liên quan đến việc xác định thuế GTGT đầu vào, đầu ra (mẫu số 09/GTGT kèm theo thông tư này). Những thủ tục hành chính của việc rút tiền từ ngân sách nhà nước hoàn lại cho DN như nêu trên là cần thiết. Song, tốc độ của việc hoàn thuế cho các DN trong thời gian qua lại quá chậm. Theo một nguồn tài liệu đã công bố, số thuế GTGT của hàng NK dự kiến phải hoàn cho các DN trong năm 1999 là khoảng 5 ngàn tỷ đồng và đến hết tháng 6/1999, số thuế đã được xét hoàn mới là 350 tỷ đồng. Điều đó chứng tỏ, các DN đã và đang bị chiếm dụng một lượng vốn quá lớn. Hậu quả tất yếu là kinh doanh của các DN bị lỗ vị phải trả lãi tiền vay để nộp thuế GTGT. Những dẫn chứng điển hình nêu trên cho thấy, các DN nói chung, đặc biệt là các DN kinh doanh XNK đang gặp khó khăn quá lớn phát sinh từ việc thực hiện hoàn thuế GTGT. Trong bối cảnh khó khăn về thị trường tiêu thụ, sản xuất kinh doanh bị giảm sút, những khó khăn trên lại càng nghiêm trọng hơn. Vì vậy, tìm ra những nguyên nhân để tháo gỡ khó khăn này đang là nhiệm vụ cấp bách hiện nay. Vấn đề quan trọng là giải đáp câu hỏi: vì sao việc hoàn thuế GTGT cho các DN lại rơi vào tình trạng nêu trên. Theo chúng tôi có những nguyên nhân cơ bản sau: Một là bản thân việc thu thuế GTGT với hàng hoá nhập khẩu ngay tại cửa khẩu, khi những hàng hoá này chưa hề có một chút giá trị tăng thêm là không hề có căn cứ khoa học. Hại là, ngành Thuế chưa có phương án giải quyết tối ưu, chưa thực sự xuất phát từ lợi ích của các DN. Nhiều vấn đề trong chỉ đạo thể hiện sự lúng túng:“chữa cháy” do đó càng gỡ lại càng bí. Ba là việc quản lý hoá đơn, chứng từ còn nhiều sơ hở. Tình trạng gian lận về hoá đơn chứng từ và hoá đơn giả còn xảy ra rất nghiêm trọng. Công tác kiểm tra phát hiện còn thủ công, thô sơ vì vậy tốc độ xét giải quyết một hồ sơ xin hoàn thuế còn quá chậm. Bốn là dù được quán triệt đến mức nào thì việc hoàn thuế cho DN cũng là phục hồi cơ chế “xin – cho” vì vậy, sẽ không tránh khỏi những tác động ngược phát sinh từ cơ chế này. DN bỏ tiền ứng trước nộp thuế vào ngân sách và ngay sau đó đã ở vị thế “người đi xin”, ngược lại người có trách nhiệm hoàn thuế cho DN lại ở vị thế “người cho”. Do vậy, nếu những người trách nhiệm không công tâm thì ảnh hưởng tiêu cực rất lớn đến việc hoàn thuế. 4.Hoàn thuế GTGT đối với hàng nông lâm thuỷ sản Trong những năm qua để tạo điều kiện cho kinh tế nông thôn phát triển, Nhà nước sử dụng nhiều công cụ và chính sách tài chính khuyến khích việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá nông nghiệp, đặc biệt là việc miễn thuế GTGT đầu ra và khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào đối với hàng nông lâm thuỷ sản. Thuế GTGT là loại thuế gián thu tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh ở từng khâu trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đén tiêu dùng hàng hoá. Thuế GTGT được thu trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông và được nộp vào NSNN dựa trên cơ sở giá trị tăng thêm của mỗi khâu và không đánh vào phần giá trị đã chịu thuế ở khâu trước. Vì vậy, nguyên tắc cơ bản của thuế GTGT là “đầu ra” chịu thuế thì “đầu vào” mới được khấu trừ. Như vậy, về mặt nguyên tắc, DN khi mua hàng nông, lâm, thuỷ sản về sản xuất, chế biến không được khấu trừ thuế GTGT“đầu vào“ vì mặt hàng này “đầu vào” được miễn thuế. Nhưng để khuyến khích các cơ sở sản xuất chế biến hàng nông lâm thuỷ sản, Nhà nước đã áp dụng biện pháp gián tiếp cho khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào với tỉ lệ 1% đối với hàng hoá là đối với hàng nông lâm thuỷ sản (thông tư số 82/2002/TT/BTC ngày 18/9/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Thông tư số 122/2000/TT/BTC ngày 29/12/2000.) Chưa qua chế biến khi mua của người bán không có hoá đơn, không phân biệt kinh doanh trong nước hay xuất khẩu (theo quy định tại Tiết b Điểm 1 mục III Thông tư 122/2000/TT/BTC hướng dẫn thi hành Nghị Định 79/2000/NĐ-CP của Chính Phủ. Điều này đã tạo điều kiện hỗ trợ giá, giảm bớt chi phí, tăng sức cạnh tranh, từng bước hội nhập thị trường khu vực và thế giới cho các cơ sở sản xuất chế biến, đặc biệt đối với các doanh nghiệp sản xuất chế biến hàng đối với hàng nông, lâm, thuỷ sản xuất khẩu. Tuy nhiên, có không ít DN lợi dụng chính sách này, tìm cách kê khai gian lận tăng thuế GTGT khấu trừ khống để nộp thuế GTGT thấp hoặc chiếm dụng của NSNN thông qua việc hoàn thuế GTGT đồng thời tăng chi phí sản xuất kinh doanh, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp gây thất thu cho NSNN cả về thuế gián thu (thuế GTGT ) và thuế trực thu (thuế TNDN). 5.Tội phạm trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT Luật thuế GTGT mới ra đời và có hiệu lực trong vòng ba năm, bên cạnh những ưu việt không thể phủ nhận trong việc huy động các đơn vị, cá nhân tích cực đóng góp vào nhân sách Nhà nước, thì trong quá trình thực hiện luật thuế này cũng đã và đang bộc lộ những tiêu cực đáng báo động. Hàng loạt các doanh nghiệp, cá nhân lợi dụng chính sách hoàn thuế GTGT để lập hồ sơ khống “rút ruột” Ngân sách nhà nước hàng trăm tỷ đồng. a) Những con số đáng báo động Nếu như năm 1999, (năm đầu tiên thực hiện Luật Thuế GTGT), lực lượng công an trong cả nước mới chỉ phát hiện 3 vụ vi phạm, trong đó có một vụ lớn nhất với số tiền chiếm đoạt 7,2 tỷ đồng; năm 2000 phát hiện 17 vụ thì năm 2001đã phát hiện 64 vụ và 6 tháng đầu năm 2002 đã xảy ra 22 vụ, trong đó có nhiều vụ chiếm đoạt từ 10 đến 20 tỷ đồng ....thậm chí có doanh nghiệp năm 2000 đã vi phạm, nay lại tái phạm với số tiền chiếm đoạt lớn hơn nhiều. Ngành thuế đã phải xác nhận trong ba năm thực hiện Luật Thuế GTGT, cả nước có 23799 bộ hồ sơ xin hoàn thuế GTGT với tổng số tiền xin hoàn là 15600 tỷ đồng, đã giải quyết 20347 bộ hồ sơ của 12567 doanh nghiệp với số thuế đã hoàn 14530 tỷ đồng. Năm 2001, Tổng cục Thuế kiểm tra điểm 1262 doanh nghiệp, phát hiện 493 đơn vị vi phạm quy định về hoàn thuế GTGT đã thu về ngân sách Nhà nước 39,9 tỷ đồng ...Nhưng những con số thống kê của lực lượng công an trong cả nước mới làm dư luận ngỡ ngàng. Tính đến tháng 5/2002 đã phát hiện 160 vụ vi phạm về hoàn thuế GTGT, với doanh số xuất khẩu khống hơn 2000 tỷ đồng, tổng số tiền bị chiếm đoạt khoảng 300 tỷ đồng, đã khởi tố 29 vụ và đang tiếp tục điều tra 46 vụ. Có quá nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng đáng lo ngại này. Công tác quản lý nhà nước của các ngành chức năng còn nhiều sơ hở, nhất là trong các văn bản pháp luật hướng dẫn việc hoàn thuế GTGT trong công tác kiểm tra, kiểm soát. Luật Doanh nghiệp “quá thoáng”, như chưa tạo cơ chế ràng buộc pháp nhân với thể nhân; gắn trách nhiệm cá nhân với pháp nhân, trách nhiệm của tổ chức cấp giấy đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận thành lập doanh nghiệp ...Từ đó nhiều cá nhân đứng ra thành lập doanh nghiệp “ma” không nhằm mục đích kinh doanh mà chỉ để mua bán hoá đơn GTGT, tiếp tay hoặc trực tiếp làm hồ sơ khống để “móc túi” ngân sách Nhà nước. Luật Doanh nghiệp không đặt ra quy định phải xác nhận lý lịch tư pháp nên một số đối tượng hình sự, nghiện ngập bị cấm kinh doanh cũng có thể dễ dàng thành lập một doanh nghiệp “ma”, đăng ký mã số thuế, mua vài cuốn hoá đơn GTGT rồi biến mất một cách khó hiểu....Tất cả những sơ hở trên đã và đang tạo nên một mảnh đất màu mỡ cho bọn tội phạm trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT sinh sôi và phát triển đến mức đáng báo động đỏ. b) Những thủ đoạn của bọn tội phạm trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT. Theo nhận định của Bộ Công an thực trạng vị phạm trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT ngày càng diễn biến phức tạp, với nhiều thủ đoạn tinh vi, sảo quyệt hơn. Tình trạng này đang làm cho hoạt động XNK bị lệch lạc, tiền hoàn thuế của Nhà nước không đến đúng địa chỉ mà rơi vào tay các tổ chức và cá nhân phạm tội; làm cho chính sách hoàn thuế không được thực thi một cách hiệu quả, cũng như không khuyến khích được các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đúng pháp luật. Bọn tội phạm thường tạo dựng nguồn hàng khống bằng cách kê khai các điểm mua hàng không có thật, không rõ địa chỉ, trôi nổi; lập hợp đồng mua bán nội địa khống với các phương thức thanh toán trực tiếp, không qua ngân hàng, hợp thức hoá việc mua bán này bằng các hợp đồng chứng từ mua bán giả gồm nhiều cung đoạn, qua nhiều doanh nghiệp. Tạo dựng nguồn tiền mua hàng xuất khẩu bằng cách lập ra các hợp đồng vay tiền khống. Làm giả hợp đồng vận chuyển, thanh toán cước vận chuyển hàng hoá trong nội địa và ra cửa khẩu; tạo dựng hợp đồng mua bán ngoại thương và thanh toán trực tiếp giả; quay vòng hàng nông sản ... Nghiêm trọng hơn, bọn tội phạm còn móc nối với một số cán bộ hải quan cửa khẩu để xác nhận khống bộ hồ sơ xuất khẩu (như vụ Hải quan Cửa khẩu Tân Thanh, Lạng Sơn) khai tăng giá và khối lượng, giá trị hàng xuất khẩu, bố trí hàng thật trên hàng giả hoặc chỉ có một xe hàng nhưng có đến 5-7 doanh nghiệp nhận là hàng của mình. Thực tế cho thấy, bọn tội phạm đã lập ra các đường dây gồm một số cá nhân, chi nhánh, văn phòng công ty chuyên làm dịch vụ hoàn thuế GTGT bằng hồ sơ giả với tỷ lệ ăn chia 40-60% tuỳ thoả thuận, khi bị phát hiện lập tức giải tán doanh nghệp, đốt sổ sách để phi tang. Dù đã thống kê được những thủ đoạn phương thức, thủ đoạn cũng như “điểm huyệt“ được những trò phù thuỷ của bọn tội phạm chuyên lập hồ sơ khống xin hoàn thuế GTGT, rút tuột ngân sách Nhà nước, nhưng dường như các cơ quan chức năng vẫn đang trĩu nặng âu lo về diễn biến phức tạp của loại tội phạm này. Ngân sách Nhà nước đã bị “móc túi” hơn 300 tỷ đồng kể từ ngày chính sách hoàn thuế GTGT ra đời và không cơ quan quản lý nào dám bảo đảm tương lai con số ấy sẽ không tăng lên gấp nhiều lần. IV.HƯỚNG HOÀN THIỆN HOÀN THUẾ GTGT. 1.Hoá đơn sổ sách kế toán là căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xác định được doanh thu, tiền thuế đầu ra, đầu vào phục vụ việc tính thuế, kê khai thuế chính xác và cung cấp tài liệu cho công tác kiểm tra thanh tra của cơ quan thuế. Cần phải kiên quyết chống việc sử dụng hoá đơn giả. Để phát hiện hoá đơn giả ngoài việc dùng kỹ thuật đèn chiếu, đòi hỏi phải nhanh chóng hoàn thiện việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý các hoá đơn do Bộ Tài chính phát hành và mã số đăng ký thuế của các đơn vị kinh doanh. Khi bán hoá đơn cho mã số nào, sẽ đưa ký hiệu hoá đơn đó vào trong máy vi tính. Trước tình trạng hoá đơn bất hợp pháp lưu hành trên phạm vi cả nước thì việc kết nối mạng vi tính thông suốt, hữu hiệu, nhanh nhạy giữa 61 tỉnh thành phố đang là một đòi hỏi bức bách. Trước mắt, do hạn chế về kinh phí, chúng ta có thể nối mạng vi tính giữa Tổng cục Thuế với một số cục thuế của các tỉnh và thành phố lớn trước sau đó tiến tới nối mạng vi tính giữa tất cả các cục thuế trong toàn quốc. Phương pháp sử dụng công nghệ thông tin sẽ giúp kiểm soát hoá đơn bất hợp pháp nhanh hơn nhiều lần so với phương pháp thủ công, giúp phần ngăn chặn những loại hoá đơn này lưu hành trên thị trường, gây thất thu cho NSNN. Mặt khác các DN phải thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hoá đơn, kế toán tạo thành thói quen bán hàng xuất hoá đơn, mua hàng đòi hoá đơn theo đúng quy định của Bộ Tài chính. Phải làm cho DN thấy việc đi mua hoá đơn của người khác, mua lầm hoá đơn giả để hợp thức hoá chứng từ đều gây tác hại cho DN. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan thuế, công an thanh tra tổ chức điều tra, thanh tra kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm khắc trường hợp bán hóa đơn mua tại cơ quan thuế ra thị trường hoặc mua bán hoá đơn giả. 2.Tổng kết đánh giá công tác hoàn thuế trong các năm trước, rút ra những bài học kinh nghiệm về những kết quả đã đạt được cũng như những vướng mắc cần giải quyết. Những đơn vị, cá nhân có thành tích tốt trong công tác hoàn thuế thì cần được khen thưởng; những đơn vị, cá nhân để xảy ra sai sót trong công tác hoàn thuế thì cần phải phê bình kiểm điểm cũng như có hình thức xử lý thích đáng nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác hoàn thuế. 3.Cần thành lập ngay một ban thanh tra về công tác hoàn thuế đặt dưới sự chỉ đạo của Tổng cục Thuế. Nhiệm vụ của ban thanh tra này là tiến hành kiểm tra lại toàn bộ các hồ sơ đã được hoàn thuế GTGT trong những năm trước. Việc thành lập ra ban thanh tra có thể gây tốn kém về chi phí, thời gian, công sức,...Song nếu ban thanh tra đi vào hoạt động thì chắc chắn sẽ có kết quả tốt, vì theo quy chế thưởng phạt như trên, ban thanh tra sẽ phải hoạt động một cách nghiêm túc và có hiệu quả. Khi ban thanh tra đi vào hoạt động một cách có hiệu quả thì có thể phát hiện nhiều trường hợp vi phạm mà cục Thuế chưa phát hiện kịp, tránh để “lọt lưới”. Thêm vào đó khi biết có ban thanh tra được thành lập thì có nhiều kẻ đã và đang có ý định man trá trong việc hoàn thuế GTGT phải từ bỏ ý định đen tối đó. Ngoài ra, chỉ cần phát hiện ra một vài trường hợp vi phạm thì không những thu được về cho NSNN nhiều tỉ đồng mà còn có thể bù đắp lại toàn bộ các chi phí mà đoàn thanh tra phải bỏ ra.... 4.Muốn hoàn thuế chính xác kịp thời thì vấn đề quan trọng là phải đảm bảo được tính chính xác, hợp pháp của hoá đơn, phải đối chiếu, kiểm tra được hoá đơn đầu vào, đầu ra. Muốn làm được điều này cần phải đề cao trách nhiệm của người xin hoàn thuế, còn cục Thuế thì phải trực tiếp chỉ đạo việc hoàn thuế. Nếu chúng ta chỉ dựa vào việc kiểm tra sau khi đã tiến hành hoàn thuế thì sẽ không đảm bảo vì với số lượng hồ sơ xin hoàn thuế quá lớn sẽ dẫn tới hiện tượng “lọt lưới“ những hồ sơ bất hợp pháp gây thất thu cho NSNN. 5.Cơ quan thuế cần tăng cường hướng dẫn và giải thích chi tiết về thủ tục hoàn thế cho các đối tượng xin hoàn thuế nhằm giúp họ chuẩn bị các thủ tục xin hoàn thế đúng quy định, tránh hiện tượng phải làm đi làm lại nhiều lầm mới xong. Sau khi đối tượng xin hoàn thuế xuất trình đầy đủ các giấy tờ cần thiết, cơ quan thuế cần nhanh chóng giải quyết, tránh tình trạng “ngâm vốn” của DN. Đặc biệt đối với các DN có hoạt động nhập khẩu hàng hóa. 6.Đối tượng xin hoàn thuế phải tự nghiên cứu kỹ về quy trình, thủ tục hoàn thuế để từ đó thực hiện đúng, khỏi mất nhiều thời gian cho việc xin hoàn thuế hoặc dẫn tới những khiếu nại, tố cáo không cần thiết. Trong thời gian tới cần bổ sung quy định về điều kiện được hoàn thuế, đối với trường hợp XK phải có chứng từ đã thu tiền bán hàng XK để đảm bảo quản lý chặt chẽ việc hoàn thuế. Tránh lợi dụng lập hồ sơ giả để hoàn thuế khống. 7.Điều chỉnh thời gian quy định về đối tượng được hoàn thuế trong trường hợp có thuế GTGT đầu vào lớn hơn thuế GTGT đầu ra thời hạn từ 3 tháng liên tục lên thời hạn một năm. Bởi các trường hợp thuế GTGT đầu vào lớn hơn thế GTGT đầu ra (trừ trường hợp xuất khẩu) chỉ là cá biệt và xảy ra trong một thời gian nhất định do DN có giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào lớn hơn giá trị hàng hoá, dịch vụ bán ra, nhưng nếu tính theo một chu kỳ sản xuất kinh doanh thì sẽ không phát sinh trường hợp này, nếu có xử lý thì chỉ bị ứ đọng hàng hoá không tiêu thụ được, hoặc đầu tư tài sản cố định mới phát sinh thuế GTGT đầu vào lớn ...để tháo gỡ khó khăn về vốn cho DN. Xử lý như trên sẽ làm giảm áp lực và khối lượng công việc của ngành thuế trong việc hoàn thuế, hạn chế các tiêu cực xảy ra trong quá trình hoàn thế, đặc biệt là đối với các DN bán lẻ hàng hóa cho người tiêu dùng cuối cùng, do không quản lý được giá bán nên xảy ra tình trạng lập hoá đơn có giá bán thấp hơn giá thực tế, dẫn đến thuế GTGT đầu vào lớn hơn thuế GTGT đầu ra, trường hợp này không quản lý được gây thất thu thuế. 8. Đối với hàng nông, lâm, thuỷ sản. Theo em để khắc phục những tồn tại nêu trên, Nhà nước cần thực hiện tốt biện pháp sau: Quy định cụ thể cho các tổ chức hiệp hội nông dân, hội khai thác đánh bắt thuỷ sản ... phải có trách nhiệm cấp phát thẻ hội viên (như trường hợp cấp thẻ công chức của các ngành). Trong thẻ phải có đầy đủ họ tên, địa chỉ, ảnh nhận dạng, số hiệu, mà số vùng, ngành... khi bán hàng, người bản phải xuất trình thẻ (làm căn cứ để được miến thuế). Người mua hàng căn cứ vào thẻ hội viên để ghi vào chứng từ mua hàng và lên bảng kê. Đồng thời, căn quy định bổ sung bảng kê ghi rõ số hiệu, mà số vùng , ngành thẻ của người bán để phối hợp kiểm tra, kiểm soát, tránh tình trạng người kinh doanh thu gom lợi dụng trốn thuế. Tổ chức phối hợp các ngành thương mại, ngân hàng, hải quan... quy định chặt chẽ hơn các thủ tục đối với hàng xuất khẩu như thủ tục thanh toán, thủ tục kiểm tra, chứng nhận hàng thực xuất, nhất là xuất khẩu qua đường tiểu ngạch, đồng thời tăng cường hợp tác với cơ quan thuế các nước để kiểm tra, đối chiếu, xác nhận tờ khai hàng hoá của đơn vị kê khai với hàng hoá thực xuất khẩu từ nước ta sang nước khác này. Đây chính là cơ sở pháp lý chứng nhận hàng hoá xuất khẩu để được hưởng suất thuế GTGT đầu ra bằng không và được hoàn lại mọi khoản thuế GTGT và DN mua vào có hoá đơn GTGT. Tăng cường quản lý và có biện pháp chế tài hữu hiệu đối với thủ tục kiểm tra chứng nhận hàng xuất khẩu, đặc biệt đối với hình thức xuất khẩu qua đường biên giới, đất liền qua đó góp phần quan trọng hạn chế những tiêu cực trong công tác hoàn thuế cho các DN nói chung và DN SXKD xuất khẩu hàng nông - lâm - thuỷ sản nói riêng. Cùng với việc triển khai thực hiện các giải pháp nêu trên, trong thời gian đầu để vừa giảm bớt tiêu cực trong khấu trừ không thuế GTGT, vừa khuyến khích việc sản xuất và tiêu thụ hàng nông - lâm - thuỷ sản, em cho rằng, Nhà nước nên bỏ khấu trừ không thuế GTGT đầu vào đối với hàng nông - lâm - thuỷ sản, giảm thuế GTGT đầu ra của sản phẩm được chế biến từ hàng nông - lâm - thuỷ sản. 9. Đối với những trường hợp tội phạm trong hoàn thuế GTGT Việc phạm tội diễn ra trong bất cứ một hoạt động kinh tế nào do đó để khắc phục tình trạng này phải kết hợp tất cả các biện pháp nêu trên. KẾT LUẬN MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThue (11).doc
Tài liệu liên quan