Đề tài Thuế giá trị gia tăng và việc sử dụng sắc thuế này ở Việt Nam cùng với những vấn đề vướng mắc còn tồn tại và những giải pháp cần tháo gỡ

· Tóm lại, để thực hiện mục tiêu hoàn thành hệ thống thuế GTGT ở Việt Nam, các giải pháp cần tập trung vào 3 vấn đề chính sau: · Thứ nhất, hoàn thiện về cơ hế chính sách. Trong đó, về đối tượng chịu thuế thì cần phải mở rộng các đối tượng chịu thuế GTGT, giảm bớt tối đa hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế.Về thuế suất thuế GTGT thì cần giảm tối đa còn 2 mức thuế suất. Điều chỉnh các mức thuế suất để đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nưởctong khi thực hiện lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu khi Việt nam tham gia AFTA. Về phương pháp tính thuế thì cần thực hiện thống nhất mọt phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ thuế. Phân loại các hộ kinh doanh có quy mô nhỏ và đẩy mạnh thực hiện chế độ kế toán đói với các hộ kinh doanh có quy mô lớn. Bên cạnh đó đối với các đối tượng khác như HTX,công ty TNHH, bắt buộc thực hiện chế độ kế toán,hoá đơn chứng từ. Về hoàn thuế GTGT thì cần phải đẩy nhanh hơn nữa tốc độ hoàn thuế cho các doanh nghiệp, góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp trong sản xuất,kinh doanh.

doc32 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1336 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thuế giá trị gia tăng và việc sử dụng sắc thuế này ở Việt Nam cùng với những vấn đề vướng mắc còn tồn tại và những giải pháp cần tháo gỡ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chứng từ,hoá đơn,tạo căn cứ pháp lý cho việc thu thuế sát hơn với thực tế kinh doanh.Trường hợp thất thu thuế ở khâu trước sẽ được khắc phục ở khâu sau.Song dù sao cũng không thể xây dựng mức thuế suất GTGT quá cao,gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp,tác động không tốt đến sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng xấu tới ngân sách nhà nước. Nếu việc nghiên cứu,xây dựng mức thuế suất hợp lý với tính toán kỹ lưỡng để bảo đảm thuế GTGT thường hay cao hơn 5%-10% so với thuế doanh thu,sẽ mang tính khả thi,tạo được sốthu cho ngân sách nhà nước một cách tích cực,đồng thời góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất,mở rộng lưu thông có lợi cho quốc kế dân sinh Những điểm giống nhau và khác nhau giữa thuế GTGT và thuế doanh thu Những điểm giống nhau Thuế GTGT và thuế doanh thu đều là thuế gián thu đánh vào người tiêu dùng hàng hoá hoặc được cung ứng dịch vụ.Thuế này do người sản xuất,kinh doanh dịch vụ nộp cho nhà nước,nhưng thực chất người tiêu dùng là người chịu thuế.Nhà doanh nghiệp đóng vai trò là người thu hộ thuế cho nhà nước,họ đã phải cộng số thuế gián thu phải nộp vào giá bán của sản phẩm hoặc giá dịch vụ để người tiêu dùng trả,nên họ phải nộp đầy đủ số thuế thu hộ này vào ngân sách Nhà nước. Thuế gián thu bảo đảm cho mọi người có thể tự do lựa chọn hàng hoá,quyết định tiêu dùng để chịu thuế cao hay thấp tuỳ thuộc vào túi tiền,sở thích của mình.Thuế tránh được mối quan hệ trực tiếp giữa người tiêu dùng là người chịu thuế với cơ quan thuế nên có phần dễ thu hơn thuế trực thu.Đồng thơì,dễ điều chỉnh mức thuế tăng lên vì thuế gián thu thường nằm ẩn trong giá hàng hoá,dịch vụ,người chịu thuế thường ít cảm nhận được ngay đầy đủ gánh nặng của loại thuế này.Do vậy,phản ứng của dân chúng về thuế gián thu cũng ít gay gắt hơn so với thuế trực thu.Về mặt quản lý,thuế GTGT và thuế doanh thu không quan tâm đến các khoản chi phí hoạt động sản xuất,kinh doanh,dịch vụ của doanh nghiệp nên chi phí có phần thấp hơn thuế trực thu. Những điểm khác nhau Giữa thuế GTGT và thuế doanh thu có những điểm khác nhau cơ bản là: Thuế GTGT chỉ đánh vào giá trị tăng thêm của sản phẩm ở từng khâu sản xuất,lưu thông.Nhưng thuế doanh thu lại đánh trên toàn bộ doanh thu của sản phẩm,qua mỗi lần chuyển dịch từ sản xuất đến lưu thông. Thuế GTGT có khấu trừ thuế ở các giai đoạn trước thuế doanh thu không khấu trừ thuế đã nộp ở giai đoạn trước. Tổng số thuế GTGT thu đối với từng sản phẩm không phụ thuộc vào sự tổ chức phân chia các chu trình kinh tế dù các công đoạn sản xuất kinh doanh được chuyên môn hoá cao,tập trung ở một số doanh nghiệp hay phân chia cho nhiều doanh nghiệp,tổng số thuế thu được vẫn bằng nhau. Ngược lại,số thuế doanh thu đối với từng sản phầm phụ thuộc vào sự tổ chức,phân chia các chu trình kinh tế.Sản phẩm hàng hoá càng phải trải qua nhiều công đoạn sản xuất,lưu thông thì tổng số thuế thu được đối với từng sản phẩm từ khâu đầu đến khâu cuối mà người tiêu dùng phải chịu ngày càng cao. Thuế GTGT thường có ít thuế suất hơn thuế doanh thu,nên có phần đơn giản rõ ràng,dễ thực hiện hơn thuế doanh thu. Những ưu điểm và nhược điểm của thuế Giá Trị Gia Tăng 1. Ưu điểm chủ yếu của thuế giá trị gia tăng. Tránh được hiện tượng đánh thuế chống lên thuế,phù hợp với nền kinh tế hàng hoá sản xuất theo cơ chế thị trường. Thuế GTGT thuộc loại thuế đánh vào tiêu dùng được áp dụng rộng rãi đối với mọi tổ chức,cá nhân có tiêu dùng sản phẩm,hàng hoá hoặc được cung cấp dịch vụ,nên có thể tạo được nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước. Thuế tính trên giá bán hàng hoá hoặc giá dịch vụ,nên không phải đi sâu xem xét,phân tích về tính hợp lý,hợp lệ của các khoản chi phí,làm cho việc tổ chức quản lý thu tương đối dễ dàng hơn các loại thuế trực thu Thuế được hoán đổi đối với hàng xuất khẩu nên có tác dụng giảm chi phí,đẩy mạnh xuất khẩu,tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế Thuế GTGT kết hợp với thuế nhập khẩu làm tăng giá vốn đối với hàng nhập khẩu,có tác dụng tích cực bảo vệ sản xuất,kinh doanh hàng nôi địa Tạo điều kiện thuận lợi cho việc chống thất thu thuế đạt hiệu quả cao. Việc khấu trừ thuế GTGT được thực hiện căn cứ trên hoá đơn mua vào đã thúc đẩy người mua phải đòi hỏi người bán xuất hoá đơn,ghi doanh thu đúng với hoạt động mua bán,khắc phục tình trạng thông đồng giữa người mua với bán để trốn lậu thuế. ở khâu bán lẻ,thường xảy ra trốn lậu thuế. Người tiêu dùng không cần đòi hoá đơn vì đối với họ không còn xảy ra việc khấu trừ thuế.Tuy vậy,ở khâu bán lẻ cuối cùng,giá trị tăng thêm thường không lớn, số thuế thu ở khâu này không nhiều. Nâng cao được tính tự giác trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người nộp thuế.Thông thường trong chế độ kê khai nộp thuế GTGT, cơ quan thuế tạo điều kiện cho cơ sở kinh doanh tự kiểm tra,tự tính thuế,tự kê khai,tự nộp thuế. Từ đó,tạo được tâm lý và cơ sở pháp lý cho đơn vị kinh doanh không phải hiệp thương,thoả thuận về mức doanh thu,mức thuế với cơ quan thuế. Việc kiểm tra thuế GTGT cũng có mặt thuận lợi vì đã buộc người mua,người bán phải lập và lưu giữ chứng từ,hoá đơn đầy đủ nên việc thu thuế thường tương đối sát với thực tế hoạt động kinh doanh. Việc khấu trừ thuế đã nộp ở đầu vào còn có tác dụng khuyến khích hiện đại hoá,chuyên môn hoá sản xuất,tích cực đầu tư,mua sắm trang thiết bị mới để hạ giá thành sản phẩm. Nhìn chung,trong các sắc thuế gián thu,thuế GTGT được coi là phương pháp thu tiến bộ nhất hiện nay,được đánh giá cao do đạt được các mục tiêu lớn của chính sách thuế, như tạo được nguồn thu lớn cho Ngân Sách Nhà Nước, đơn giản,trung lập. 2. Nhược điểm chủ yếu của thuế GTGT Nhược điểm của thuế GTGT được thể chủ yếu ở các mặt sau: Chi phí về quản lý,thu thuế GTGT rất tốn kém. Để thực hiện tốt thuế GTGT,công tác ghi chép hoá đơn, sổ sách kế toán của người nộp thuế phải rõ ràng,minh bạch.Trên thực tế không phải tất cả các doanh nghiệp vừa và lớn thuộc mọi thành phần kinh tế đều làm tốt công tác này.Do đó, hầu hết các nước đang thực hiện thuế GTGT đều sử dụng hệ thống vi tính để đảm bảo chống thất thu đạt hiệu quả và quản lý thu thuế được thuận lợi. Nếu không theo dõi,quản lý thuế chặt chẽ,dễ xảy ra tình trạng phải hoàn thuế nhiều hơn là thu được thuế. Thuế GTGT có ít thuế suất nên người tiêu dùng có thu nhập cao hay thất thường phải nộp giống nhau,thuế mang tính luỹ thoái. Tỷ lệ động viên qua thuế GTGT với người có thu nhập thấp lại lớn hơn tỷ lệ động viên đối với người có thu nhập cao,thuế không đảm bảo yêu cầu công bằng trong chính sách động viên giữa người giàu và người nghèo. Giữa lý luận và thực tế,thuế GTGT cũng có những điểm chưa được nhất quán.Thuế GTGT đánh trên phần giá trị tăng thêm nhưng đối với một số nghành dịch vụ (như phục vụ sửa chữa,chuyển giao công nghệ,dịch vụ khoa học) cách đánh thuế và khấu trừ thuế GTGT như thế nào là hợp lý ? Đối với tài sản cố định,mức khấu trừ thuế đã nộp ở đầu vào thế nào là thoả đáng...Những vấn đề này là nội dung tranh luận trong nhiều cuộc hội thảo trên thế giới,nhưng đến nay ở nhiều nước vẫn có nhiều quan điểm và cách xử lý khác nhau. Thuế GTGT có ưu điểm là tính tập trung rất cao.Đồng thời cũng lại có nhược điểm là thiếu linh hoạt, mềm dẻo,không thật thích hợp với nền kinh tế mới bước đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tham gia. PHần 2 Vấn Đề Xây Dựng Và áp Dụng Mô Hình Thuế GTGT ở Việt Nam I. Thực trạng của việc áp dụng thuế doanh thu ở nước ta trong những năm trước đây. 1. Ưu điểm của thuế doanh thu. Thuế doanh thu là một loại thuế thu vào các hoạt động sản xuất,kinh doanh, dịnh vụ.Thuế doanh thu mang tính chất của một loại thuế gián thu,một yếu tố cấu thành trong giá,nhằm động viên đóng góp sự của người tiêu dùng cho ngân sách Nhà nước. Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 7 đã thông qua luật thuế ngày 30 tháng 6 năm 1990,có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 10 năm 1990 thay thế chế độ thu quốc doanh ( đối với kinh tế quốc doanh) và một số loại thuế ( trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh) như thuế doanh nghiệp, thuế buôn chuyến, thuế muối, thuế hàng hoá đối với một số cơ sở sản xuất trước đây thuộc diện nộp thuế hàng hoá,nay không phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt. Thuế doanh thu được áp dụng thống nhất chung đối với các thành phần quốc doanh và ngoài quốc doanh nhằm bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế và sự công bằng, bình đẳng về chính sách động viên thuế giữa những người tiêu dùng cho ngân sách Nhà nước. Thuế được áp dụng rộng rãi đối với mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thuộc mọi nghành nghề, mọi hình thức, hoạt động thường xuyên hoặc không thường xuyên, có địa điểm cố định hay lưu động ( trừ sản xuất nông nghiệp trước nộp thuế nông nghiệp và từ 01-01-1994 nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp, sản xuất mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và sản xuất hàng xuất khẩu ). Vì vậy thuế doanh thu đã trở thành một nguồn thu tương đối tập trung, ổn định của ngân sách Nhà nước. Từ 1991 đến 1995,thuế doanh thu đã tăng nhanh qua các năm ( từ 35% đến 45% ) và chiếm từ 16,5% đến 20,3% tổng số phí và thuế trong ngân sách Nhà nước. Thông qua cơ cấu thuế suất cao, thấp khác nhau ( từ 0% đến 30%) giữa các ngành nghề,Nhà nước thể hiện quan điểm khuyến khích hay hạn chế,nhằm hướng dẫn,điều chỉnh nền kinh tế có lợi cho quốc kế dân sinh theo hướng phát triển của đất nước. Biện pháp tính thuế doanh thu đơn giản, thuận tiện cho việc kiểm tra của cán bộ thuế. Các mức thuế suất được có kế thừa chế độ thu trước, không gây đảo lộn về giá cả, về số thu ngân sách trong những năm đầu chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Riêng đối với khu vực kinh tế quốc doanh, đã được Nhà nước ưu đãi, chiếu cố về miễn,giảm thuế giúp đỡ khắc phục một số khó khăn trong bước đầu chuyển đổi cơ chế sản xuất,kinh doanh, bảo đảm nộp được thuế và có lãi. Số xí nghiệp làm ăn thua lỗ hiện nay chỉ còn dưới 5% tổng số xí nghiệp, cùng với một số xí nghiệp được sắp xếp lại cho phù hợp với cơ chế mới. 2. Nhược điểm và hạn chế của thuế doanh thu Trong quá trình thực hiện thuế doanh thu đã bộc lộ những nhược điểm, hạn chế chủ yếu là : Thuế tính trên toàn bộ doanh thu ( gồm cả thuế doanh thu ) qua từng khâu luân chuyển hàng hoá từ sản xuất,bán buôn đến bán lẻ đã ảnh hưởng không tốt đến giá cả và sản xuất,kinh doanh. Cùng một mặt hàng nếu được tổ chức sản xuất và luân chuyển qua ít khâu tổng số thuế phải nộp sẽ thấp hơn so với việc tổ chức qua nhiều khâu không phù hợp với cơ chế thị trường. Do thuế doanh thu còn nhiều nhóm thuế suất khác nhau nên đã hạn ché tính trùng lặp của thuế.Trong nghành sản xuất thương nghiệp, dịnh vụ thuế suất phân biệt quá chi li, nhưng tiêu thức sắp xếp cho từng loại thuế cụ thể thiếu rõ ràng, khó phân biệt để áp dụng được thuế suất chính xác.Có trường hợp hiểu thế nào cũng đúng, áp dụng thế nào cũng được mặc dù thuế suất chênh lệch nhau rất lớn.Ví dụ hoá chất cơ bản 1% và hoá chất thông thường đến 4% ; trong nghành cơ khí sản xuất máy móc, thiết bị cong cụ 1% ; các sản phẩm cơ khí khác 2%-4%...Do nhiều căn cứ xác định thuế chính xác , thuế suất lại chênh lệnh nhau nhiều nên đẫ phát sinh không ít tiêu cực, tuỳ tiện trong vận dụng luật thuế. Thuế doanh thu chưa thu đối với mặt hàng thuộc diện đánh thuế tiêu thụ đặc biệt, hàng nhập khẩu, hàng xuất khẩu nên chưa tạo được môi trường thuận lợi cho việc hoà nhập với thông lệ khu vực, quốc tế, chưa hỗ trợ hàng xuất khẩu giảm giá thành để có điều kiện thuận lợi trong cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Mục tiêu,yêu cầu và điều kiện thay thế thuế doanh thu bằng thuế GTGT 1/ Mục tiêu,yêu cầu của việc ban hành thuế GTGT Việc ban hành thuế GTGT thay thé thuế doanh thu ở Việt Nam nhằm những mục tiêu và yêu cầu chủ yếu sau : Hạn chế những nhược điểm tồn tại của thuế doanh thu, góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển, đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu.Thuế GTGT được ban hành gắn với việc sửa đổi, bổ sung một số sắc thuế ( thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu...) làm cho hệ thống thuế của Việt Nam ngày càng hoàn thiện, phù hợp với cơ chế thị trường, tương đồng với hệ thống thuế trong khu vực và trên thế giới, góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Tăng cường việc thực hiện chế độ hoá đơn, sổ kế toán và hạch toán kinh tế đối với các nhà doanh nghiệp, bảo đảm ngày càng sát hơn với thực tế hoạt động của từng cơ sở kinh doanh, tập trung được nguồn thu thuế GTGT vào ngân sách Nhà nước ngay từ khâu sản xuất hạn chế được thất thu về thuế. 2. Điều kiện cần thiết để áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam Những điều kiện cần thiết cho việc áp dụng thuế GTGT là : Các hoạt động sản xuất, kinh doanh,mua bán hàng hoá lớn và vừa phải thực hiện đầy đủ chế độ chứng từ, hoá đơn, thuận tiện cho việc kiểm tra, xác định doanh thu tính thuế và khấu trừ thuế đối với từng cơ sở kinh doanh. Trình độ cán bộ quản lý thu thuế được nâng cao về chế độ chứng từ , hoá đơn, sổ kế toán, thông thạo về ché độ quản lý, tính thuế, khấu trừ thuế, hoán thuế GTGT. Cơ quan thuế từng bước trang bị hệ thống máy vi tính, cán bộ ngày càng thông thạo việc sử dụng các mạng máy vi tính đạt hiệu quả cao. Mở rộng diện thanh toán mua bán hàng hoá thông qua các tài khoản ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định doanh thu bán hàng, làm căn cứ cho việc tính thuế đựơc chính xác. ý thức tự nguyện,tự giác chấp hành các luật thuế của các nhà doanh nghiệp từng bước được nâng nên theo phương châm tăng cường “đức trị” gắn với việc xử lý các vi phạm về thuế nghiêm minh theo phương châm “pháp trị”. Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh và đưa dần việc thực hiện pháp luật vào nề nếp, kỷ cương, cả trong nhận thức tư tưởng và trong hành động thực tề. Mỗi điều kiện đều có vai trò, vị trí quan trọng khác nhau,đồng thời có mối quan hệ, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau để việc triển khai luật thuế GTGT được đồng bộ đạt hiệu quả tốt. Sau hơn hai năm triển khai thực hiện luật thuế GTGT 1. Luật thuế mới đã góp phần khuyến khích đầu tư, xuất khẩu, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và sắp xếp cơ cấu lại nền kinh tế. Sau khi đạt tốc độ tăng trưởng kỷ lục 9,54% năm 1995,từ cuối năm 1996, kinh tế bắt đầu có biểu hiện trì trệ, nhịp độ tăng trưởng suy giảm liên tục, năm 1999 chỉ đạt 4,8%. Nền kinh tế Việt Nam đã mấy lần lâm vào thiểu phát. Thiểu phát gắn với suy giảm đầu tư, tốc độ tăng trưởng kinh tế có biểu hiện phức tạp gây tác động tiêu cực trên nhiều phương diện. Trong điều kiện nước ta hiện nay, để ngăn chặn thiểu phát , thúc đẩy tăng trương nhanh, tạo ra việc làm và hiệu quả kinh tế cao, Nhà nước đã tiến hành các giải pháp kích cầu theo kiểu áp dụng học thuyết Keynes. muốn kích câù phải tăng khối lượng tiêu dùng cá nhân các hộ gia đình và Nhà nước lên, đồng thời phải kích thích tăng đầu tư của tư nhân và của Nhà nước để đạt được “cầu hiệu quả” có quan hệ trực tiếp đến chính sách thuế nói chung, trong đó có thuế gián thu.Chính vì vậy việc thực hiện các luật thuế mới đã góp phần khuyến khích đầu tư, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh.Việc thực hiện luật thuế GTGT đã tạo điều kiện cho giá thành các công trình đầu tư xây dựng cơ bản giảm khoảng 10%. Trong năm 1999, tuy gặp nhiều khó khăn do đầu tư trực tiếp của nước ngoài giảm khoảng 12,3% nhưng tổng vốn đầu tư vẫn tăng so với năm 1998, trong đó vốn đầu tư trong nước tăng khoảng 28,6%; vốn ODA tăng khoảng 16%. Một số sản phẩm chủ yếu đạt khá so với năm 1998 là : dầu thô tăng 19% ; sữa hộp tăng 8,7% ; đường mật tăng 28%; bia tăng 1,5% ; giấy bìa tăng 8,8%; xi măng tăng 9,2%; thép cán tăng 12,9%; điện phát ra tăng 9,7%... Đại bộ phận các doanh nghiệp nộp được thuế GTGT theo đúng luật mà vẫn có lãi. Theo quy định của luật thuế GTGT, hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất 0%, tức là được toàn bộ số thuế GTGT đã nộp ở đầu vào, giúp cho doanh nghiệp xuất khẩu tập trung được nguồn hàng trong nước để xuất khẩu và có điều kiện cạnh tranh với hàng hoá trên thị trường quốc tế.Trong năm 1999 đã hoàn thành 1800 tỷ đồng, trong đó chủ yếu là hoán thuế cho hàng hoá xuất khẩu. Trong đó, những mặt hàng được hoán thuế đầu vào nhiều, xuất khẩu tăng so với năm 1998 như là : cao su 37,2% ; cà phê 27,6% ; gạo 21,4% ; thuỷ sản 14,1% ; giày dép 36,3% ; dệt may 15,1% ; thủ công mỹ nghệ 52% ; điện tử 54%;... Thuế GTGT và thuế tiêu thụ đặc biệt vào hàng hoá nhập khẩu góp phần bảo hộ có hiệu quả sản xuất trong nước, đây là biệt pháp hết sức quan trọng. Thực tế trong năm 1999, Việt Nam đã giảm thuế nhập khẩu 569 lần mặt hàng, với số thuế giảm gần 100 tỷ đồng và giảm thuế theo chương trình cắt giảm thuế quan CEPT 3591 dòng hàng (tính đến năm 1999 ) trong đó riêng năm 1999 là 1872 dòng hàng. Trong năm 2000, tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng đều qua các quý : quý I là 5,6% ; quý II - 6,7% ; quý III – 7,0% ; quý IV tăng khoảng 7,2%. Ngoại trừ tốc độ tăng giá khác xa so với kế hoạch năm 2000, các chỉ tiêu chủ yếu còn lại đều đạt và vượt. Chính Phủ nhận định chúng ta “đã chặn được đã giảm sút về nhịp độ tăng trưởng kinh tế ” ( tốc độ tăng trưởng năm 1997 là 8,2% ; năm 1998 là 5,8% ; năm 1999 là 4,8% ) “song chưa vững chắc ” do những tồn tại yếu kém từ những năm trước. Năm 2000, với tốc độ tăng trưởng GDP 6,75%, Việt Nam vượt qua nhiều nước trong khu vực về tốc độ tăng trưởng ( Thái Lan 5,3% ; ấn Độ 5,5% ; Indonesia 3,8% ; Philipin 3,4% ) tuy nhiên vẫn thấp hơn tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc (8% ) Malaysia (7,5%) Hàn Quốc(8,5%). Kim nghạch xuất khẩu khu vực trong nước chỉ tăng 5,7% do giá giảm. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 27,9% GDP, tăng 20% so với năm 1999, cao hơn so với năm 1998 ( 26,9% GDP, tăng 0,4% ) và 1999( 26,0%, tăng 6,8% ), tạo cơ sơ cho tăng trưởng kinh tế song vẫn thấp hơn so với năm 1997 (30,9% GDP ). Việc thực hiện các luật thuế mới đã góp phần cơ cấu lại nền kinh tế được thể hiện rõ nét trên các mặt : hợp lý hoá và giảm số thuế suất, từ đó đòi hỏi và khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả,đạt và vượt lợi nhuận trung bình của xã hội. Thông qua việc ưu đãi đầu tư, các luật thuế mới đã khuyến khích việc đầu tư vào các lĩnh vực, ngành, nghề, vùng kinh tế theo định hướng phát triển của Nhà nước, thúc đẩy việc chuyên môn hoá, hợp tác hoá, không còn đánh trùng thuế như thuế doanh thu trước đây, khuyến khích việc sản xuất kinh doanh những hàng hoá mà Việt Nam có thế mạnh như : nông sản,lâm sản, hải sản, thủ công mỹ nghệ do được khấu trừ vào một tỷ lệ ấn định từ 3%- 5%, khi mua hàng của nông dân. Trường hợp nông sản, lâm sản, hải sản xuất khẩu nếu có thuế GTGT đầu vào cũng được hoán thuế. 2. Việc triển khai thực hiện không gây biến động về giá không làm ảnh hưởng lớn đến kế hoạch thu NSNN. Theo tài liệu của tổng cục thống kê thì chỉ số giá tiêu dùng cả năm 1999 chỉ tăng 0,1% so với tháng 2 năm 1998 trong đó giá lương thực giảm 1,9%, giá thực phẩm giảm 7,8%. Nếu loại trừ nhóm lương thực, thực phẩm thì giá các nhóm hàng công nghệ phẩm và dịch vụ trong năm tăng 3% là mức bình thường và phổ biến của nhiều nền kinh tế tronh khu vực và trên thế giới. Năm 1999 là năm chỉ số giá tiêu dùng có tốc độ tăng thấp nhất từ năm 1990 đến nay. Trong năm 2000,tình hình giá cả chưa thoát khỏi đà suy giảm liên tục, năm 1999 chỉ số giá tiêu dùng chỉ tăng 0,1% thì năm 2000 chỉ số giá tiêu dùng không tăng so với cuối năm 1999, do có tới 6 tháng chỉ số giá ở mức âm so với tháng trước. Đặc biệt lương thực giảm mạnh, gây bất lợi cho người nông dân. Hiện nay chúng ta vẫn chưa chứng minh được chỉ số giá tiêu dùng thấp và nhiều tháng âm là tốt hay xấu đối với nền kinh tế và có nên đồng nhất tăng CPI với hiệu quả kích cầu hay không. Nhìn chung tình hình giá cả ổn định nêu trên là do : Tình hình sản xuất kinh doanh tiếp tục phát triển và việc chỉ đạo điều hành của chính phủ được sát hơn đối với các bộ,các nghành, các địa phương trong việc quản lý thị trường, quản lý giá cả. Bản chất của thuế GTGT là không làm tăng giá, tuy nhiên trong thời gian ngắn ban đầu thực hiện luật thuế,giá hàng hoá có nhích nên do một số doanh nghiệp và hộ tư nhân thiếu hiểu biết đã lợi dụng nâng gía nhưng sau đó đã được chấn chỉnh. Năm 1999, tổng thu NSNN ước đạt 102,1% so với dự toán năm. Số thu từ nội địa do nghành thuế quản lý ước đạt 105% dự toán năm.Thuế thu từ hoạt động xuất nhập khẩu do nghành Hải quan quản lý tăng 34,8% so với năm 1998. Riêng số thuế thu từ thuế GTGT sau khi trừ, hoán thuế đạt được mức tương đương thuế doanh thu trước đây. Các nhiệm vụ cơ bản về ngân sách năm 2000 đều được thực hiện tốt. Thu ngân sách hoàn thành vượt dự toán 8,9% riêng thu trong nước không kể dầu thô tăng 2%.Ước cả năm thu ngân sách đạt 18,1%GDP xấp xỉ tỷ lệ năm 1999(18,2%), tỷ lệ tương đối phù hợp để kích thích sản xuất kinh doanh. Để đạt được kết quả trên là nhờ sự quan tâm chỉ đạo sát sao của đảng của Chính phủ, các bộ, các ngành, các địa phương. Đồng thời công tác tuyên truyền, phổ biến về pháp luật thuế, tập huấn nhiệm vụ có nhiều tiến bộ hơn so với việc triển khai các luật thuế trước đây. Hơn nữa các cơ sở kinh doanh và mọi tầng lớp nhân dân đều hưởng ứng và đồng tình thực hiện các luật thuế mới do các luật thuế mới tiến bộ hơn và có nhiều ưu điểm hơn các luật thuế cũ. Bên cạnh đó chính sách thuế đã có những điều chỉnh phù hợp với nhiệm vụ năm 2000, đồng thời tương đối uyển chuyển nhằm đối phó với những biến động của thị trường đảm bảo khuyến khích sản xuất phát triển. Trọng tâm cải cách thuế bước 2 năm 2000 là điều chỉnh mức thuế GTGT cho phù hợp với từng nghành nghề sản xuất kinh doanh, thực hiện hoán thuế một cách thuận lợi. Trước tình hình giá dầu tăng Chính phủ chủ động giảm thuế nhập khẩu xăng dầu từ 10 % xuống 0% giúp các doanh nghiệp giữ chi phí sản xuất ở mức hợp lý, bảo đảm sức cạnh tranh mặc dù số thực thu thuế xuất nhập khẩu chỉ đạt khoảng 80% dự toán năm. 3. Luật thuế mới đã bước đầu tác động đếncông tác quản lý của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho cơ quan Nhà nước kiểm tra,giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Từ 11 mức thuế suất thuế doanh thu xuống còn 3 mức thuế suất thuế GTGT và từ 3 mức thuế suất thuế lợi tức xuống còn 1 mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp, điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải phấn đấu sắp xếp lại sản xuất,đổi mới trang thiết bị, nâng cao trình độ quản lý để thực hiện các mức thuế suất mới.Sự chuyển biến này thể hiện rõ nhất trong các doanh nghiệp tư nhân,công ty TNHH, công ty cổ phần. Thông qua đó giúp cho các cơ quan chức năng của Nhà nước và cơ quan thuế từng bước nắm được sát tình hình sản xuất kinh doanh cũng như tăng cường kiểm tra, giám sát đối với doanh nghiệp. 4. Những tồn tại cần tiếp tục nghiên cứu xử lý. a/ Về thuế suất GTGT Tuy đã có những biện pháp xử lý cơ bản những khó khăn về thuế suất thuế GTGT,nhưng vẫn còn một số mặt hàng, nghành nghề vẫn còn vướng mắc cần tiếp tục nghiên cứu xử lý. Điều 8 luật thuế GTGT quy định 4 mức thuế suất đối với hàng hoá dịch vụ là 0%, 5%, 10% và 20%. Theo tinh thần của điều luật này lĩnh vực được ưu tiên có mức thuế suất thấp là hàng xuất khẩu, hàng hoá tạo ra từ sản xuất nông nghiệp, từ hoạt động y tế, giáo dục.Tuy nhiên đang từ thuế doanh thu có 11 mức thuế suất, tất yếu không thể tránh khỏi sự chênh lệch số thuế gián thu phải nộp giữa hai loại thuế này.Những sản phẩm trước đây phải chịu thuế doanh nghiệp với mức thấp 0,5%; 1%; 2% nay lên 10% trên giá chưa có thuế, mặc dù được khấu trừ thuế đầu vào nhưng số thuế GTGT phải nộp vẫn cao hơn thuế doanh thu phải nộp trước kia rất nhiều. Vì vậy khi áp dụng thuế GTGT, một số doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn về tài chính, có doanh nghiệp đang làm ăn có lãi nếu nộp đủ thuế GTGT thì bị lỗ. Chẳng hạn các doanh nghiệp chế tạo cơ khí trước đây, đang nộp thuế doanh thu từ 1%-2% ( trừ nhóm hàng điện dân dụng và lắp ráp ô tô dưới 24 chỗ có mức thuế suất 4% ) nay áp dụng thuế GTGT 10% đã gặp rất nhiều khó khăn. Để giải quyết khó khăn cho sản xuất, đồng thời thực hiện Nghị định số 18-1999/QH 10 ngày 25/11/1999 của Quốc hội khoá X Chính phủ đã ra Nghị dịnh số 102-1998/NĐ-CP tạm giảm 50% mức thuế GTGTđối với một số sản phẩm như : than đá, máy cày, máy kéo, máy bơm nước, máy công cụ, máy động lực, 7 hàng hoá chất cơ bản, khách sạn, du lịch, ăn uống, hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt ở các doanh nghiệp thương mại. Đến nay, nhiều doanh nghiệp đang đề nghị giảm mức thuế cho hàng hoa, dịch vụ. Đây là vấn đề rất quan trọng, cần cân nhắc thận trọng, nếu giải quyết tràn lan sẽ phá vỡ mục tiêu của cải cách thuế bước hai, không những không đẩy mạnh được công tác quản lý, hạch toán kế toán của các doanh nghiệp mà còn không có tác động khuyến khích sản xuất kinh doanh phát triển ảnh hương lớn tới thu ngân sách ở Trung ương cũng như ở các địa phương. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do việc sắp đặt các loại hàng hoá dịch vụ vài các nhóm thuế suất khác nhau chưa hợp lý nên dẫn tới hiện tượng một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những mặt hàng, nghành hàng có mức thuế GTGT nộp thấp hơn so với thuế doanh thu trước đây nên có lãi lớn, ngược lại, một số doanh nghiệp sản xuất kinh doand các mặt hàng, nghành hàng có mức thuế GTGT nộp cao hơn so với mức thuế doanh thu trước đây bị lỗ lớn. Còn một số nguyên khác như khủng hoảng kinh tế thế giới và khu vực tác động lớn đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nước (giá hàng nhập khẩu và sản xuất hạ, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp...) trong khi sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn kém nên nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bị lỗ, không nộp được theo mức thuế GTGT hiện hành. b/ Về quản lý sử dụng hoá đơn chứng từ. Để xác định được số thuế đầu vào, luật thuế GTGT quy định Doanh nghiệp phải có đầy đủ chứng từ hoá đơn hợp lệ, ghi rõ số thuế GTGT đã thanh toán được ghi trên hoá đơn mua hàng hoặc giá thanh toán của hàng hoá dịch vụ mua vào.Lợi dụng quy định này một số doanh nghiệp đã sử dụng hoá đơn thật để ghi “ khống ” các khoản thuế và chi phí hàng hoá dịch vụ hợp lý để khấu trừ thuế đầu ra hay tăng chi phí nhằm trốn thuế, hoán thuế.Như vậy hoá đơn là có thật nhưng hàng hoá dịch vụ thể hiện trên hoá đơn là không có thật.Kết quả kiểm tra của một số địa phương cho thấy một số cửa hàng kinh doanh xăng dầu, bán lẻ cho người tiêu dùng không cần hoá đơn ( thường chiếm khoảng 50% khối lượng ) sau đó thoả thuận với một số doanh nghiệp có nhu cầu để xuất hoá đơn “khống” cho phần xăng dầu bán lẻ. Doanh nghiệp này sử dụng hoá đơn khống để hợp lý hoá chi phí đầu vào, khấu trừ thuế đầu ra nhằm trốn thuế chia nhau. Một số cửa hàng kinh doanh vật liệu sử dụng thủ đoạn này nhằm trốn thuế GTGT. Một căn cứ để xác định thuế GTGT là giá thanh toán ( hoặc giá tính thuế ) của hàng hoá dịch vụ đầu ra. Giả định đầu vào không đổi, muốn giảm số thuế phải nộp, các doanh nghiệp có thể giảm giá đầu ra bằng cách bán hàng không xuất hoá đơn rồi khai báo là hàng tồn kho để trốn thuế. Bên cạnh đó do người tiêu dùng trực tiếp không cần hoá đơn khi mua hàng nên một số doanh nghiệp đã lợi dụng lấy hoá đơn này ghi khống giá bán hàng thấp hơn giá thực tế để giảm giá thanh toán đầu ra (hoặc giá tính thuế ) nhằm trốn thuế GTGT. Thủ đoạn này đã được sử dụng trong trốn thuế doanh thu trước đây và hiện nay vẫn tiếp tục phát triển. Không những thế những quy định về thuế suất đã tạo ra kẽ hở cho một số doanh nghiệp có sản phẩm phục vụ cho các lĩnh vực có thuế suất khác nhau có điều kiện “nhập nhằng” để trốn thuế thông qua gian lận thuế suất. Đối với hoạt động xây dựng cơ bản, việc xác định thuế GTGT đầu vào của từng công trình để khấu trừ là rất khó khăn, phức tạp, để trùng lặp trong kê khai doanh nghiệp chính và tổ đội thi công Chúng ta đều biết vì căn cứ xác định thuế GTGT đầu vào là hoá đơn, chứng từ mà các tổ đội thi công trực thuộc doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân do đó hoá đơn, chứng từ mua vật tư,hàng hoá đều do doanh nghiệp chính mua và cấp lại cho tổ đội thi công, xây dựng. Vì vậy việc kê khai và xác định thuế GTGT đầu vào đối với các công trình xây dựng khác ở địa phương gặp nhiều vướng mắc. Còn đối với nghành giao thông vận tải, theo quy định doanh nghiệp chỉ kê khai và nộp thuế phần doanh thu của người nhận khoán nộp về, còn xuất hoá đơn GTGT khi chủ hàng yêu cầu thì doanh nghiệp phải kê khai như thế nào ? Vì khi doanh nghiệp xuất hoá GTGT phải thực hiện việc kê khai thuế GTGT đầu ra nhưng lại không có cơ sở tính thuế GTGT đầu vào để xác định thuế GTGT phải nộp, xác định chi phí hợp lý để xác định thu nhập chịu thuế ? Hơn nữa đối với trường hợp khoán gọn người nhận khoán tự do kinh doanh , chỉ nộp về cho doanh nghiệp một khoản đóng góp cố định không phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh của họ. Khoản thu này mang tính chất gần giống như doanh thu cho thuê phương tiện vận tải của doanh nghiệp, nhằm bù đứp cho các khoản chi phí, khấu hao phương tiện vận tải, sửa chữa lớn và một phần chi phí quản lý doanh nghiệp. Với phương thức khoán này, người nhận khoán là một chủ thể kinh doanh độc lập. c/ Việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Việc cho khấu trừ đầu vào theo một tỷ lệ ấn định đối với trường hợp không có hoá đơn GTGT đối với các mặt hàng nông, lâm, hải sản...là phù hợp với tinh thần thực tế của Việt Nam, nhưng chính đây cũng đang phát sinh những mâu thuẫn hoặc lợi dụng sơ hở chiếm đoặt tiền, trốn tránh thuế. Ban đầu việc khấu trừ này chi cho phép đối với một số cơ sở sản xuất chế biến nông, lâm, thuỷ sản của người sản xuất trực tiếp bán ra.Tuy nhiên trong quá trình thực thi thuế GTGT, do có những bất cập về chế độ thuế suất và hoá đơn, chứng từ nên diện khấu trừ “khống” đã phải mở rộng ra. Cho đến nay việc khấu trừ theo tỷ lệ % này đã thực hiện cả đối với trường hợp mua hàng có hoá đơn thông thường thì sự việc không còn chỉ dừng lại ở việc khấu trừ “ khống ”nữa . Một câu hỏi nghiêm túc đặt ra là : Thực chất của việc khấu trừ này là khấu trừ khống hay khấu trừ khoán ? Trước hết phải hiểu rằng, khống tức là không có mà vẫn có khấu trừ, còn khoán là việc cho khấu trừ theo tỷ lệ ấn định trên cơ sở đã có số thuế phát sinh ở khâu trước, song không rành mạch về mặt lượng. Như vậy khoán được thực hiện dựa trên cái có thật, còn khống là việc làm chủ quan xuất phát từ cái không tồn tại.Vì vậy, theo tôi không nên thực hiện việc khấu trừ khống. Trong các quan hệ kinh tế, không nên chấp nhận cái ảo, cái không có vì như vậy sẽ tạo ra hư số phản ánh không đúng bản chất của vấn đề, làm sai lệch những nhận định, phân tích. Đối với hàng nông, lâm, thuỷ sản chưa qua chế biến do các cơ sở sản xuất, chế biến, thương mại mua vào. Mặc dù những hàng hoá này chưa phải chịu thuế GTGT ở những khâu trước đó nhưng việc cho khấu trừ theo tỷ lệ 3% hoặc 5% không phải là khấu trừ khống. Vì trước khi đem ra bán, sản phẩm hàng hoá từ hoạt động sản xuất nông nghiệp đã chịu một loại thuế hỗn hợp dưới hình thức thu gộp là thuế sử dụng đất nông nghiệp. Vì thế xét về mặt bản chất cũng có thể coi là sản phẩm nông nghiệp cũng đã chịu thuế GTGT. Do đó việc cho khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với những sản phẩm này về thực chất là khấu trừ khoán. Tuy rằng đây là vấn đề có tính lý luận song lại rất quan trọng vì nó quyết định đến tính hợp lý của chính sách khấu trừ. Chế độ hiện hành quan niệm đây là khấu trừ khống nên chỉ cho khấu trừ đối với hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản mua ngoài , nếu không phải là sản phẩm của mua ngoài thì sẽ không cho khấu trừ. Trên thực tế sẽ không thể tránh khỏi việc các doanh nghiệp lợi dụng vấn đề này để được quyền khâú trừ mà thôi. Theo chế độ hiện hành, việc cho khấu trừ thuế đầu vào theo một tỷ lệ nhất định ( khấu trừ khoán ) không áp dụng đối với hàng hoá mua vào dùng làm nguyên liệu để sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu hay để mua xuất khẩu. Chưa cần đề cập đến tính hợp lý của quy định này cũng đã thấy nó bị vô hiệu hoá trên thực tế. Bởi vì nếu với cùng một mục đích là để xuất khẩu hoặc chế biến để xuất khẩu nhưng nếu thương vụ thực hiện trực tiếp sẽ không được khấu trừ, nếu thực hiện gián tiếp thông qua cơ sở thứ hai thì được khấu trừ hợp pháp. Ai có thể dám chắc rằng thương vụ gián tiếp đó thực chất không phải là một màn kịch ? d/ Về hoàn thuế GTGT Vấn đề hoàn thuế GTGT còn chậm. Nguyên nhân một phần do doanh nghiệp chưa làm đúng thủ tục, hồ sơ, một phần do cơ quan thuế sợ trách nhiệm. Tính đến hết 6 tháng đầu năm 1999, cả nước mới hoàn thuế được 236 tỷ đồng trên tổng số 350 tỷ đồng xin hoàn thuế của 800 doanh nghiệp tại 49 địa phương ( tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ) và tính đến hết tháng 12 năm 1999, tổng số thuế các doanh nghiệp yêu cầu được hoàn đã trên 2000 tỷ đồng nhưng nghành thuế mới chỉ giải quyết hoàn thuế gần 1800 tỷ đồng. Sở dĩ công tác hoàn thuế còn chậm so với thời gian quy định xuất phát vì những lý do sau : Thủ tục hoàn thuế còn rất phức tạp. Hiện nay, tại cục thuế Hà Nội, 1 hồ sơ hoàn thuế phải có đủ 8 chữ ký thì mới được thực hiện. Hiện nay trên thị trường có nhiều loại hoá đơn bất hợp pháp đang lưu hành chính vì vậy việc tiến hành xét hồ sơ hoàn thuế mất rất nhiều thời gian để xác minh tính trung thực của các tờ hoá đơn xin hoàn thuế. Do bản thân các doanh nghiệp chưa hiểu rõ về chính sách thuế, trình tự và thủ tục hoàn thuế... nên phải mất rất nhiều thời gian để hoàn tất thủ tục. Do trình độ của một số cán bộ còn hạn chế nên hướng dẫn các đơn vị chưa đầy đủ, chính xác ... vì vậy phải mất nhiều thời gian mới hoàn tất hồ sơ. Ngoài ra các cơ quan thuế còn dè dặt trong việc hoàn thuế vì sợ số liệu trong hồ sơ xin hoàn thuế không chính xác. Bên cạnh đó, việc xử lý hoàn thuế GTGT được thực hiện theo trình tự “ hoàn thuế trước kiểm tra sau”. Theo nhận định của các chuyên gia thuế, việc quy định như vậy chính là “ cơ hội vàng”cho những kẻ gian lợi dụng để chiếm đoạt tiền của NSNN ( nếu bị phát hiện sẽ hoàn tiền lại sau hoặc nếu không bị phát hiện sẽ chiếm đoạt luôn ). Đặc biệt do diện doanh nghiệp được hoàn thuế rộng ( không chỉ doanh nghiệp xuất khẩu mà cả doanh nghiệp có thuế đầu vào lớn hơn thuế đầu ra trong 3 tháng liền ) thì trong nhiều trường hợp chỉ có sự thông đồng nhỏ giữa cán bộ thuế và doanh nghiệp là ngân sách nhà nước có thể mất hàng tỷ đồng một cách nhanh gọn. Ngoài ra, một số doanh nghiệp đã rút tiền hoàn thuế của ngân sách nhà nước bằng cách thông đồng với bạn hàng, cán bộ hải quan, cán bộ thuế, ... để khai khống số lượng hàng xuất nhập khẩu hay tồn kho để có chênh lệch giả tạo giữa thuế đầu vào với thuế đầu ra. Tại Hà Nội, đã phát hiện hành vi gian lận qua kê khai của một số doanh nghiệp, thu hồi về cho ngân sách 450 triệu đồng, Đồng Nai thu hồi 23 triệu đồng, Bình Định thu hồi trên 150 triệu đồng... e/ Về thu ngân sách: Tuy năm 1999 đạt và vượt so với dự toán nhưng vẫn còn thất thu ngân sách ở nhiều lĩnh vực, đặc biệt là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực công nghiệp, dịch vụ ngoài quốc doanh. Các doanh nghiệp lợi dụng các kẽ hở trong luật thuế GTGT để trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế hoặc tìm mọi cách để được hàn thuế GTGT. Các doanh nghiệp thực hiện một số thu đoạn gian lận trong việc thực hiện thuế GTGT như : khai khống hoá đơn đầu vào. Ví dụ như cục thuế thành phố Hồ Chí Minh phát hiện công ty TNHH Phước Bình ( phường 2 Quận 8 ) sử dụng 5 hoá đơn “khống” của công ty TNHH Việt Vạn Đại (phường 13 Quận Tân Bình ) chiếm dụng 78 triệu đồng tiền thuế và trả “hoa hồng” cho công ty Việt Vạn Đại 30% số thuế chiếm dụng. Các doanh nghiệp còn sử dụng thủ đoạn không xuất hoá đơn khi bán hàng làm giảm giá thanh toán đầu ra để trốn thuế hoặc hoán thuế. Chẳng hạn công ty xà phòng Hà Nội nhập một lượng hoá chất lớn rồi bí mật chuyển giao cho bên liên doanh Lever Haso hàng chuyển đi song không xuất hoá đơn mà báo cáo là hàng bị “tồn kho”. Do số thuế GTGT đầu vào lớn hơn số thuế GTGT đầu ra nên công ty đã nhận được 1,8 tỷ đồng tiền hoàn thuế trong 6 tháng đầu năm 1999. Đây là thủ đoạn rất tinh vi và làm thất thoát ngân sách Nhà nước. Phần 3 Những giải pháp tháo gỡ vướng mắc còn tồn tại và hoàn thiện luật thuế GTGT trong quá trình phát triển KT-XH ở Việt Nam 1. Về vấn đề thuế suất thuế GTGT Theo tôi giải pháp thỉnh thoảng tạm giảm 50% thuế suất ở một số nhóm hàng cụ thể là rất thụ động và chưa hợp lý.Nhiều ngành có hàng trăm nhóm hàng,khi xét giảm sẽ không đảm bảo tính chính xác,tạo ra sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp.Trước mắt cần tiếp tục nghiên cứu để sắp xếp,điều chỉnh lại các loại hàng hoá,dịch vụ vào các mức thuế suất khác nhau cho hợp lý,đảm bảo công bằng cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng góp vào ngân sách Nhà nước Việc sắp xếp điều chỉnh phải dựa trên các yếu tố sau: Thực tế sản xuất,kinh doanh của doanh nghiệp cũng như khả năng đóng góp của doanh nghiệp. Sự khuyến khích hay hạn chế của nhà nước đối với các loại hàng hoá dịch vụ cụ thể. Việc sắp xếp,điều chỉnh không được làm tăng số lượng thuế suất đã quy định trong luật,không được làm ảnh hưởng tới nguồn thu ngân sách Nhà nước,phải phù hợp với quá trình cải cách chính sách thuế và quá trình hội nhập. Việc sắp xếp hàng hoá và dịch vụ vào mức thuế suất thấp phải có căn cứ cụ thể,không loang rộng ra những hàng hoá và dịch vụ khác. Về lâu dài,để thuế GTGT là một sắc thuế mang tính trung lập,đơn giản hiệu quả thì chỉ nên có 2 mức thuế 5% và 10% (không kể thuế suất 0 %) và bắt đầu áp dụng từ năm 2006.Sở dĩ nên áp dụng 2 mức thuế suất là do các nguyên nhân khác nhau. Việc chỉ áp dụng 2 mức thuế suất 5% và 10 %,loại bỏ mức 20% giúp nhà nước có thể điều tiết nền kinh tế vĩ mô thông quá thuế GTGT (do vẫn còn giữ mức thuế chênh lệch )đảm bảo nguồn thu không bị biến động lớn (vì trên thực tế số thu thuế GTGT đối với hàng hoá và dịch vụ chịu thuế suất 20% hiện nay là không đáng kể, chỉ khoảng 20 tỷ đồng )mà thu lại rất khó khăn do đa phần các doanh nghiệp chịu mức thuế suất này sản xuất kinh doanh gặp rất nhiều khó khăn thua lỗ … Trong những năm sắp tới,hệ thống thuế Việt nam vẫn phải coi trọng và dựa chủ yếu vào thuế gián thu (chiếm 35 % đến 38% tổng số thu từ thuế và phí vào NSNN),trong đó thuế GTGT là một loại thuế gián thu đánh vào tiêu dùng rộng rãi (kể cả hàng hoá trong nước và hàng hoá nhập khẩu ).Thuế GTGT là loại thuế hiệu quả hơn cả về thu và nộp thuế :nó phân tán gánh nặng về thuế cho số đông người tiêu dùng mà người tiêu dùng thì lại càng cao. ở Việt Nam,thu nhập của dân cư còn thấp,số doanh nghiệp làm ăn có lãi lớn chưa nhiều,trong một thời gian dài,thuế thu nhập chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu NSNN hàng năm.Trong khi việc kiểm tra,xác định đúng số thu nhập chịu thuế còn nhiều khó khăn,việc định hướng áp dụng mức thuế suất GTGT 5% và 10% là phù hợp,nhằm đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước Sắp tới khi Việt nam tham gia vào các tổ chức thương mại khu vực và thế giới như AFTA, APEC, WTO … thì nguồn thu từ thuế nhập khẩu sẽ bị giảm đáng kể, như chương trình cắt giảm thuế quan (CEPT) sẽ hoàn thành cơ bản vào năm 2006. Khi đó thuế suất nhập khẩu của các mặt hàng chủ yếu chỉ còn tối đa 5% và thuế suất GTGT với 2 mức thuế suất 5% và 10% (áp dụng từ năm 2006) sẽ trở thành nguồn thu quan trọng để bù đắp số thu từ thuế nhập khẩu bị cắt giảm do hội nhập. Vừa qua một số nhóm hàng hoá,dịch vụ đã được Chính phủ xử lý cho tạm giảm thuế GTGT nhằm tháo gỡ kịp thời khó khăn cho doanh nghiệp.Để ấn định luật thuế có thể điều chỉnh mức thuế suất từ 10% xuống 5% đối với hàng hoá và dịch vụ là các sản phẩm thuộc tư liệu sản xuất phục vụ cho quá trình sản xuất tiếp theo để sản xuất ra sản phẩm khác và một số sản phẩm tiêu dùng mang tính cần thiết như phương tiện cho người tàn tật…Hơn nữa trên cơ sở tổng hợp ý kiến của ngành,địa phương và các doanh nghiệp,Bộ Tài chính đã phối hợp với các bộ,các ngành liên quan bổ sung đối tượng chịu thuế GTGT như : đưa dịch vụ xuất khẩu phần mềm máy tính,sửa chữa máy móc thiết bị,phương tiện vận tải cho nước ngoài,dịch vụ xuất khẩu lao động vào đối tượng chịu thuế với mức thuế suất là 0%.Bổ sung hàng hóa tiêu thụ đặc biệt xuất khẩu vào đối tượng chịu thuế GTGT nhằm khuyến khích xuất khẩu hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.Đưa ngành than đá xuất khẩu vào đối tượng chịu thuế 0%,đưa hoạt động kinh doanh chứng khoán vào danh mục hàng hoá không chịu thuế GTGT nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho việc kinh doanh chứng khoán về vấn đề quản lý hoá đơn chứng từ Một trong những nguyên nhân của tình trạng các doanh nghiệp gian lận trong việc thực hiện thuế GTGT là do thuế GTGT là một sắc thuế mới được áp dụng ở nước ta,do đó,có những khó khăn lúng túng trong việc tổ chức thực hiện là tất yếu khách quan.Mặt khác do trình độ phát triển kinh tế còn thấp kém,nhiều cơ sở kinh doanh tư nhân không sử dụng sổ sách kế toán,hoá đơn cũng gây khó khăn không nhỏ cho việc thực hiện thuế GTGT. Để hạn chế tình trạng trên theo tôi cần phải Tiếp tục tuyên truyền sâu rộng cho quần chúng nhân dân về thuế GTGT,đồng thời xây dựng,củng cố nề nếp sử dụng hoá đơn trong việc mua bán hàng hoá để tạo cơ sở cho việc thực hiện thuế GTGT,hạn chế hiện tượng dư thừa hoá đơn dẫn đến ghi khống. Bộ Tài chính kết hợp với các cơ quan chức năng,xây dựng cơ chế quản lý,kiểm tra hoá đơn phát hành,kịp thời thu hồi hoá đơn của các doanh nghiệp phá sản,xử lý thật nặng những doanh nghiệp gian lận trong báo mất hoá đơn hàng bằng những biện pháp kể cả kinh tế và hình sự. Về việc khấu trừ thuế đầu vào Để giải quyết những mâu thuẫn đã nói ra ở phần trên thì chúng ta cần phải xuất phát từ quan điểm khấu trừ khoán thuế mà không nên xuất phát từ quan điểm khấu trừ khống như đã lập luận ở trên.Nếu xuất phát từ quan điểm khoán thì việc khấu trừ khoán thuế sẽ phải được thực hiện đối với tất cả các hàng hoá nằm trong diện được khấu trừ,không phân biệt mua trực tiếp hay gián tiếp,hay tự mình sản xuất ra,dùng để sản xuất,chế biên hàng trong nước hay xuất khẩu.Hơn nữa,quy định như vậy mới đúng với chủ trương khuyến khích xuất khẩu vì hàng mua vào để sản xuất,bán trong nước được khấu trừ thuế nên có điều kiện hạ giá bán hơn hàng mua vào để xuất khẩu. Nghị định 102/1998/NĐ-CP ngày 21/12/1998 và nghị định số 78/1999/NĐ-CP ngày 20/8/1999 của chính phủ cho phép mở rộng diện khấu trừ thuế cho các hàng hoá là nông,lâm,thuỷ sản,phế liệu,hàng chịu thuế TTĐB của cơ sở thương mại mua trực tiếp của người sản xuất … thực chất là khuyến khích sản xuất,chế biến hàng nông lâm thuỷ sản,hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất,kinh doanh,để các doanh nghiệp không phải nộp thuế GTGT cao hơn thuế doanh thu.Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đã nảy sinh những mâu thuẫn mới: Có quá nhiều tỷ lệ khấu trừ,gây phức tạp cho quá trình thực hiện và không khuyến khích thực hiện hoá đơn,chứng từ.Việc cho phép khấu trừ khống,dựa vào bản kê khai đã tạo ra khe hở cho việc khai không trung thực để được khấu trừ hoặc hoàn thuế,gây thất thu cho ngân sách Nhà nước. Doanh nghiệp kinh doanh trong nước các mặt hàng nông,lâm,hải sản thì được khấu trừ,doanh nghiệp xuất khẩu thì không được khấu trừ và hoàn thuế.Điều này không khuyến khích được xuất khẩu. Chính sách thuế không thống nhất,chưa công bằng giữa các đối tượng nộp thuế như chưa cho khấu trừ thuế đối với dịch vụ chịu thuế GTGT có hoá đơn bán hàng thông thường như:vận tải,bốc xếp,sửa chữa.. trong khi các hàng hoá,dịch vụ khác được khẩu trừ và hoàn thuế. Công tác hoàn thuế còn chậm. Bên cạnh đó,việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào còn nảy sinh một số vấn đề như:theo mục III,phần A,thông tư số 100/1998/TT-BTC ngày 15/7/1998 của bộ tài chính,đối với cơ sở kinh doanh mua tài sản cố định dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh mua tài sản,hàng hoá dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT thì số thuế đầu vào của TSCĐ không được khấu trừ và được tính vào giá trị tài sản mua vào.Theo mục III,phần B,thông tư số 89/1998/TT-BTC ngày 27/6/1998 của Bộ Tài chính,đối với cơ sở kinh doanh có số thuế đầu vào của tài sản cố định như đối với vật tư hàng hoá khác. Như vậy giả sử doanh nghiệp có đầu tư mua phương tiện vận chuyển hàng hoá và theo phương án kinh doanh đã được duyệt thì phương tiện này chỉ vận chuyển hàng hoá trong nước nên doanh nghiệp đã kê khai số thuế đầu vào được khấu trừ của TSCĐ theo hoá đơn mua tàu. trong quá trình kinh doanh doanh nghiệp được cấp phép vận chuyển hàng hoá đi nước ngoài ( thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT ) và doanh số hàng hoá vận chuyển trong nứơc ( thuộc đối tượng chịu thuế GTGT ). Như vậy, có một thực tế đặt ra là : Xác định số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ cảu tài sản cố định được căn cứ theo tỷ lệ (%) giữa doanh số chịu thuế GTGT so với tổng doanh số bán ra. Nếu đã tính khấu trừ liên tục trong 3 tháng mà số thuế đầu vào không ? Đây thực sự là một vấn đề bức xúc đang được đặt ra đối vớiđược khấu trừ vẫn còn thì doanh nghiêp có được hoàn lại số thuế GTGT vẫn còn này các cơ quan ngành thuế.Việc khấu trừ thuế đầu vào cần phải được đặt ra một cách cụ thể và chi tiết hơn nữa để tránh trường hợp các doanh nghiệp lợi dụng kẽ hở trong Luật thuế để gian lận trong việc khấu trừ thuế đầu vào nói riêng và việc trốn thuế nói chung. 4. Về việc hoàn thuế Để khắc phục những tồn tại chính trong công tác hoàn thuếGTGT thì ta cần phải tiến hành các bước sau: Tổng kết, đánh giá công tác hoàn thuế trong năm để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm về những kết quả đạt được cũng như những vướng mắc cần giải quyết.Những đơn vị,cá nhân có thành tích tốt trong công tác hoàn thuế thì được khen thưởng;những đơn vị,cá nhân dể xảy ra sai sót trong công tác hoàn thuếthì cần phải phê bình, kiểm điểm cũng như có hình thức xử lý thích đáng nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác hoàn thuế. Cần thành lập ngay một ban thanh tra về công tác hoàn thuế đặt dướ sự chỉ đạo cửa Tổng cục thuế. Nhiệm vụ của ban thanh tra này là tiến hành kiểm tra lại toàn bộ các hồ sơ đã được hoàn thuế trong năm, đặc biệt là nhũng hồ sơ có số hoàn thuế lớn. Muốn hoàn thuế chính xác, kịp thời thì vấn đề quan trọng là phải đảm bảo được tính chính xác, hợp pháp của hoá đơn phải đối chiếu, kiểm tra háo đơn đầu vào, đầu ra. Muốn làm được điều này cần phải đề cao trách nhiệm của người xin hoàn thuế, còn cục thuế thì phải trực tiếp chỉ đạo việc hoàn thuế. Nếu chúng ta chỉ dựa vào việc kiểm tra sau khi đã tiến hành hoàn thuế thì sẽ không đảm bảo vì với số lượng xin hoàn thuế quá lớn sẽ dẫn tới hiện tượng “lọt lưới” những hồ sơ bất hợp pháp, gây thất thu cho ngân sách Nhà nước. Cơ quan thuế cần tăng cường hướng dẫn và giải thích chi tiết về thủ tục hoàn thuế cho các đối tượng xin hoàn thuế nhằm giúp họ chuẩn bị các thủ tục xin hoàn thuế đúng quy định, tránh hiện tượng phải làm đi làm lại nhiều lần mới xong. Sau khi đối tượng xin hoàn thuế xuất trình giấy tờ cần thiết, cơ quan hoàn thuế cần nhanh chóng giải quyết, tránh tình trạng “ngâm vốn” của các doanh nghiệp. Đối tượng xin hoàn thuế phải tự nghiên cứu kỹ về quy trình,thủ tục hoàn thuế, để từ đó thực hiện đúng, khỏi phải mất nhiếu thời gian cho việc xin hoàn thuế hoặc dẫn tới những khiếu nại, tố cáo không cần thiết. Trong thời gian tới cần bổ sung quy định về điều kiện được hoàn thuế, đối với trường hợp xuất khẩu phải có chứng từ đã thu tiền bán hàng xuất khẩu để đảm bảo quản lý chặt chẽ việc hoàn thuế tránh lợi dụng lập hồ sơ giả để hoàn thuế khống. Cần bổ xung hoàn thuế GTGT đầu vào đối với các đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt xuất khẩu và dịch vụ xuất khẩu. Điều chỉnh thời gian quy định về đối tượng,được hoàn thuế trong trường hợp có thuế GTGT đầu vào lớn hơn thuế GTGT đầu ra thời hạn từ 3 tháng liên tục lên thời hạn một năm.Các trường hợp thuế GTGT đầu vào lớn hơn thuế GTGT đầu ra(trừ trường hợp xuất khẩu) chỉ là cá biệt và xảy ra trong một thời gian nhất định do DN có giá trị hàng hoá dịch vụ mua vào lớn hơn giá trị hàng hoá dịch vụ bán ra,nhưng nếu tính theo một chu kì sản xuất kinh doanh thì sẽ không phát sinh trường hợp này,nếu có xử lý thì chỉ xử lý cho các trường hợp các doanh nghiệp bị ứ đọng hàng hoá không tiêu thụ được, hoặc đầu tư tài sản cố định mới phát sinh thuế GTGT đầu vào lớn…để tháo gỡ khó khăn về vốn cho DN.Xử lý như trên sẽ làm giảm áp lực và khối lượng công việc của ngành thuế trong quá trình xử lý hoàn thuế,hạn chế các tiêu cực xảy ra trong quá trình hoàn thuế,đặc biệt là đối với các DN bán lẻ hàng hoá cho người tiêu dùng cuối cùng,do không quản lý được giá bán thực tế nên xảy ra tình trạng hoá đơn có giá bán thấp hơn giá thực tế,dẫn đến thuế GTGT đầu vào lớn hơn thuế GTGT đầu ra,trường hợp này không quản lý được gây thất thu thuế. Trước tình trạng hoá đơn bất hợp pháp đang lưu hành trên phạm vi cả nước thì việc kết nối mạng vi tính thông suốt hữu hiệu nhanh nhậy giữa 61 tỉnh,thành phố đang lầ một đòi hỏi bức bách.Phương pháp sử dụng công nghệ thông tin sẽ giúp kiểm soat hoá bất hợp pháp nhanh hơn nhiều lần so với phương pháp thủ công,góp phần ngăn chặn những loại hoá đơn này lưu hành trên thị trường,gây thất thu cho NSNN. kết luận Tóm lại, để thực hiện mục tiêu hoàn thành hệ thống thuế GTGT ở Việt Nam, các giải pháp cần tập trung vào 3 vấn đề chính sau: Thứ nhất, hoàn thiện về cơ hế chính sách. Trong đó, về đối tượng chịu thuế thì cần phải mở rộng các đối tượng chịu thuế GTGT, giảm bớt tối đa hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế.Về thuế suất thuế GTGT thì cần giảm tối đa còn 2 mức thuế suất. Điều chỉnh các mức thuế suất để đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nưởctong khi thực hiện lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu khi Việt nam tham gia AFTA. Về phương pháp tính thuế thì cần thực hiện thống nhất mọt phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ thuế. Phân loại các hộ kinh doanh có quy mô nhỏ và đẩy mạnh thực hiện chế độ kế toán đói với các hộ kinh doanh có quy mô lớn. Bên cạnh đó đối với các đối tượng khác như HTX,công ty TNHH,…bắt buộc thực hiện chế độ kế toán,hoá đơn chứng từ. Về hoàn thuế GTGT thì cần phải đẩy nhanh hơn nữa tốc độ hoàn thuế cho các doanh nghiệp, góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp trong sản xuất,kinh doanh. Thứ hai, cải cách hành chính thuế. Hoàn thiện các văn bản pháp luật về thuế,đăc biệt là thuế GTGT. Hoàn chỉnh chế độ xử phạt hành chính trong lĩnh vực thuế. Cải cách hệ thống kế toán thuế GTGT cho đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện. Nâng cao tính hiệu quả trong công tác quản lý sử dụng hoá đơn, chứng từ,đẩy nhanh nối mạng phần mềm quản lý thuế trong phạm vi toàn quốc nhằm quản lý chặt chẽ hơnviệc pháp hành và sử dụng hoá đơn chứng từ của các đối tượng nộp thuế. Thứ ba, củng cố tổ chức bộ máy ngành thuế. Củng cố theo hướng thống nhất về mặt hành chính trong quản lý thu thuế. Bộ máy hành thu phải bao gồm cả hệ thống thuế nội địa và hệ thống thuế xuất nhập khẩu. Hình thành chức năng quản lý, kiểm tra, thanh tra thuế một cách độc lập trong thực thi luật, pháp lệnh về thuế. Tách riêng tổ chức, dịch vụ về thuế để hình thành các công ty :dịch vụ tư vấn thuế, dịch vụ kê khai thuế.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35056.doc
Tài liệu liên quan