Đề tài Tiêu thụ sản phẩm và phương hướng, biện pháp thúc đẩy khả năng tiêu thụ, tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm ở Công ty Giấy Bãi Bằng

Hơn nữa, trong điều kiện nền kinh tế hội nhập với các nước trong khu vực và quốc tế, đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm được coi là chiếc cầu nối quan trọng không chỉ đối với các đơn vị, các vùng kinh tế trong nước với nhau thành một thể thống nhất, mà còn xiết chặt thêm các mối quan hệ quốc tế, nối liền thị trường trong nước với thị trường nước ngoài, thúc đẩy giao lưu thương mại quốc tế phát triển. Việc tiêu thụ sản phẩm ra thị trường nước ngoài sẽ cải thiện cán cân thương mại quốc tế, đưa nước ta ra khỏi tình trạng nhập siêu, thúc đẩy sản xuất phát triển. Từ những vai trò và ý nghĩa nói trên của công tác tiêu thụ sản phẩm, ta thấy, việc đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp là rất cần thiết, giữ vị trí số một trong quá trình sản xuất kinh doanh của bất cứ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường. Thực hiện tốt được công tác tiêu thụ sản phẩm sẽ đem lại kết quả vô cùng to lớn giúp cho doanh nghiệp thực hiện được các mục tiêu kinh tế của mình.

doc69 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1030 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tiêu thụ sản phẩm và phương hướng, biện pháp thúc đẩy khả năng tiêu thụ, tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm ở Công ty Giấy Bãi Bằng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bản Giáo dục, mua giấy để in sách giáo khoa, Công ty đã bán giảm 200.000 đồng/tấn. - Đối với các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty giấy Việt Nam gia công sản phẩm giấy, Công ty có chính sách giảm giá để khuyến khích sản xuất. - Đối với khách hàng truyền thống, khách hàng mua với số lượng lớn, Công ty có ưu tiên giảm giá hoặc cho phép thanh toán chậm trả dưới 45 ngày. +Trả hoa hồng cho đại lý: Công ty đã áp dụng đòn bẩy kinh tế này để kích thích các đại lý đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm. Vì được hưởng hoa hồng theo tỷ lệ % của doanh thu nên các đại lý bán được càng nhiều sản phẩm thì số hoa hồng được hưởng càng cao. Do vậy đã thúc đẩy các đại lý áp dụng phương pháp bàn hàng riêng của mình sao cho sản phẩm bán được nhiều nhất. Trong năm vừa qua, Công ty đã nhân rộng mạng lưới các đại lý của mình, nhờ đó thị trường tiêu thụ giấy được mở rộng. Mặt khác còn giúp cho Công ty tiết kiệm được khoản chi phí tiêu thụ rất đáng kể. Biện pháp này có tính khả thi cao và có lợi cho cả hai bên. + Đa dạng hoá các hình thức thanh toán. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng và phù hợp xu hướng kinh doanh hiện nay, Công ty đã vận dụng rất nhiều hình thức khác nhau như: thanh toán bằng tiền mặt, séc, chuyển khoản, ngân phiếu Thời hạn thanh toán tuỳ thuộc vào từng đối tượng cụ thể mà Công ty yêu cầu khách hàng trả tiền ngay hoặc trả chậm. + Quảng cáo, giới thiệu sản phẩm: Việc giới thiệu sản phẩm không chỉ được giới thiệu tại các đại lý, cửa hàng giới thiệu sản phẩm của Công ty mà còn được tiến hành thông qua việc quảng cáo trên các báo, tạp chí phổ thông và chuyên ngành. Công ty còn tham dự các hội chợ triển lãm hàng công nghiệp, hàng Việt Nam chất lượng cao Từ các hình thức quảng cáo đó, Công ty không những đưa được thông tin về sản phẩm, về hình ảnh của mình đến với khách hàng mà còn tiếp nhận thông tin từ phía khách hàng giúp cho Công ty thực hiện tốt công tác sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, góp phần nâng cao doanh thu và lợi nhuận của Công ty. Tóm lại: các biện pháp tài chính - kinh tế mà Công ty áp dụng trong thời gian qua đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế như: - Về chính sách giá cả: Do Công ty phải định giá bàn sản phẩm giấy theo khung giá quy định của Tổng công ty Giấy Việt Nam nên không thể áp dụng được chính sách giá cả linh hoạt. Do đó, Công ty không thể sử dụng chính sách giá làm công cụ cạnh tranh được, trong khi đó ở Việt Nam ta do mức thu nhập của người dân còn thấp nên một chính sách giá hấp dẫn vẫn có một vị trí quan trọng trong việc thu hút các khách hàng. - Biện pháp chiết khấu bán hàng cũng là một công cụ tài chính để đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, nhanh thu được tiền bán hàng, hạn chế nợ nần dây dưa Tuy nhiên, hiện nay, Công ty còn chưa áp dụng. Do vậy, cần xem xét và áp dụng nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác tiêu thụ sản phẩm góp phần tăng doanh thu tiêu thụ và lợi nhuận cho Công ty. *Kết quả thu được qua công tác tiêu thụ năm 2001: Trong năm 2001 cùng với việc áp dụng đúng dắn các chính sách trong công tác sản xuất và tiêu thụ, Công ty đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận sau: Biểu số 3: Tình hình tiêu thụ sản phẩm và doanh thu tiêu thụ năm 2000,2001 STT Loại sản phẩm Năm 2000 Năm 2001 Lượng tiêu thụ (kg) Doanh thu tiêu thụ (đ) Lượng tiêu thụ (kg) Doanh thu tiêu thụ (đ) 1 Giấy cuộn 57.427.220 576.454.434.360 58.909.659 614.545.562.688 2 Giấy ram 7.517.796 83.567.820.336 8.793.487 97.809.955.901 3 Giấy tập + vở 3.268.906 34.199.294.572 3.352.579 37.260.563.006 4 Bìa xanh 26.868 118.219.200 27.798 121.394.940 Cộng 68.240.790 694.339.768.468 71.082.523 749.737.476.535 Qua số liệu ở biểu số 3 ta thấy rằng, số lượng các sản phẩm tiêu thụ năm 2001 đều tăng so với năm 2000, tổng mức tăng là 2.841.733 kg tương ứng với tỷ lệ tăng 4,16% doanh thu tiêu thụ của Công ty năm 2001 đã tăng thêm 55.397.708.067 (đ) tương ứng với tỷ lệ tăng là 7,98% so với năm 2000, đây là dấu hiệu đáng mừng cho Công ty. Tuy nhiên để xem xét Công ty có hoàn thành kế hoạch tiêu thụ hay không ta cần thiết phải so sánh giữa thực tế và kế hoạch tiêu thụ trong năm 2001, từ đó mới có thể nói lên công tác lập kế hoạch tiêu thụ Công ty là chính xác và sát với thực tế hay không. Từ đó mới có thể tìm ra nguyên nhân , biện pháp khắc phục những hạn chế, tồn tại và định hướng cho lập kế hoạch sau này ( Lập biểu 4) Qua số liệu ở biểu 4 ta thấy rằng: - Sản lượng giấy tiêu thụ các loại kế hoạch là 66.000.000 kg, nhưng thực tế sản lượng giấy tiêu thụ là 71.082.523 kg, tăng lên 5.082.523 kg tương ứng với tỷ lệ tăng là 7,7% trong đó giấy cuộn tăng thêm 3.109.659 kg tương ứng với tỷ lệ tăng là 5,57%, giấy ram tăng thêm 2.713.487 kg tương ứng với tỷ lệ tăng 44,63%; giấy bìa xanh tăng 798 kg, tương ứng tỷ lệ là 3,07%; còn giấy tập + vở giảm 741.421 kg tương ứng với tỷ lệ giảm là 18,11%. - Giá bán bình quân: Giá bán các sản phẩm giấy thực tế trong năm 2001 hầu hết đều giảm so với kế hoạch (trừ giá các sản phẩm bìa xanh giữ nguyên). Tuy nhiên, mức giảm tương đối nhỏ, giá của sản phẩm giấy cuộn giảm với tỷ lệ 0,03%, của sản phẩm giấy ram tỷ lệ giảm là 2,13% và của các sản phẩm giấy tập + vở tỷ lệ giảm là 4,47%. - Do sản lượng sản phẩm giấy tiêu thụ thực tế so với kế hoạch tăng lên đáng kể trong khi giá bán bình quân lại giảm không đáng kể nên doanh thu tiêu thụ thực tế năm 2001 đã vượt mức kế hoạch đặt ra là 50.617.900.535 (đ) tương ứng với tỷ lệ tăng 7,24%, trong đó giấy cuộn là sản phẩm có tỷ trọng lớn nhất, và doanh thu cao nhất. Qua số liệu ở biểu số 5 ta thấy số lượng sản phẩm giấy các loại Công ty sản xuất ra và số lượng sản phẩm tiêu thụ được là tương đối sát nhau, tổng số sản xuất ra là 72.814.478 kg, tổng số lượng sản phẩm tiêu thụ được là 71.082.523 kg. Trong đó các sản phẩm như giấy ram, giấy tập + vở, giấy bìa xanh, số lượng sản phẩm sản xuất ra và số lượng sản phẩm tiêu thụ tương đối sát nhau. Riêng giấy cuộn thì lượng tiêu thụ có giảm so với sản xuất là 1.792.001 kg tỷ lệ giảm là 2,95%. Tuy nhiên, số lượng sản phẩm giấy cuộn là rất lớn trong tổng sản lượng giấy sản xuất cho nên việc ứ đọng này hầu như không ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty. Nhưng không phải vì thế mà Công ty không cần phải quan tâm điều chỉnh số chênh lệch này. Việc điều chỉnh để số lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ sát nhau là rất tốt, tránh ứ đọng sản phẩm, tránh ứ đọng vốn, giúp Công ty có điều kiện để quay vòng vốn, hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra thuận lợi hơn. Về số lượng sản phẩm tồn kho, số tồn đầu năm so với số sản xuất chỉ bằng 0,86%, số tồn cuối kỳ so với tiêu thụ bằng 3,32%. Đây là những tỷ lệ nhỏ, từ đó ta có thể thấy rằng công tác sản xuất và tiêu thụ của Công ty hầu như đã phù hợp với nhu cầu thị trường. Số lượng hàng tồn kho cuối kỳ của các sản phẩm giấy ram, giấy tập + vở, bìa xanh đều giảm so với đầu kỳ. Như vậy, công tác tiêu thụ các sản phẩm này đã được Công ty thực hiện tốt. Riêng sản phẩm giấy cuộn, do số lượng sản phẩm tiêu thụ được ít hơn so với số lượng sản phẩm sản xuất, dẫn đến lượng sản phẩm tồn kho cuối kỳ tăng lên. Do vậy Công ty cần xem xét, tìm hiểu rõ nguyên nhân, đề ra các biện pháp thích hợp, như điều chỉnh lại kế hoạch sản xuất dựa trên xác định nhu cầu thị trường để cho công tác tiêu thụ được diễn ra tốt hơn. Tóm lại, doanh thu tiêu thụ của Công ty trong năm 2001 đã hoàn thành vượt mức kế hoạch đặt ra, đó là do có sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau, như: chất lượng sản phẩm, kết cấu sản phẩm, thị trường tiêu thụ và các biện pháp kinh tế – tài chính mà công ty áp dụng Nhưng để xem những nhân tố nào ảnh hưởng trực tiếp và mức độ ảnh hưởng của nó đến tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty như thế nào, ta sẽ đi vào nghiên cứu ở phần sau. 2.3.3. Phân tích tình hình thực hiện tiêu thụ sản phẩm của Công ty năm 2001. Phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm là quá trình nghiên cứu để đánh giá toàn bộ quá trình và kết quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Công ty nhằm làm rõ chất lượng hoạt động, những ưu thế và hạn chế trong công tác này, trên cơ sở đó có thể đề ra các phương án, các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất và tiêu thụ của Công ty. Phân tích tình hình tiêu thụ không những là công cụ để phát hiện khả năng tiềm tàng trong hoạt động tiêu thụ mà còn là công cụ cải tiến cơ chế quản lý công tác tiêu thụ, bởi thông qua đó thấy được nguồn gốc, nguyên nhân của vấn đề phát sinh và có giải pháp cụ thể để cải tiến quản lý. Do vậy, phân tích hoạt động tiêu thụ sản phẩm là cơ sở quan trọng để đề ra các quyết định sản xuất, quyết định tiêu thụ và cũng là biện pháp để đề phòng rủi ro. Việc tiêu thụ sản phẩm chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố khác nhau , như: đặc điểm của ngành nghề sản xuất kinh doanh, thị trường và khối lượng hàng hoá đem tiêu thụ trên thị trường, giá cả, chất lượng công tác tổ chức tiêu thụ Kết quả của công tác tiêu thụ là doanh thu tiêu thụ. Doanh thu tiêu thụ được biểu thi dưới công thức sau: DT = Trong đó: DT : Doanh thu tiêu thụ các loại giấy. SLi : Sản lượng tiêu thụ mỗi loại giấy. Gi : Giá bán bình quân mỗi loại giấy. i : Mặt hàng giấy tiêu thụ. (i = ) Qua công thức trên, ta có thể thấy được doanh thu tiêu thụ sản phẩm giấy của Công ty chịu ảnh hưởng của 3 nhân tố, đó là: Số lượng giấy tiêu thụ. Kết cấu các loại giấy tiêu thụ. Giá bán bình quân 1 đơn vị sản phẩm giấy. Để phân tích mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố trên đến sự thay đổi (tăng hoặc giảm) của doanh thu tiêu thụ sản phẩm thực tế so với kế hoạch., ta sẽ vận dụng phương pháp thay thế liên hoàn, trước hết ta đặt: DTK , DT1 : lần lượt là doanh thu tiêu thụ các loại giấy kỳ kế hoạch, kỳ thực tế năm 2001. SLK , SL1 : lần lượt là số lượng giấy tiêu thụ kỳ kế hoạch, kỳ thực tế năm 2001. SLKi , SL1i : lần lượt là số lượng từng loại giấy tiêu thụ kỳ kế hoạch và kỳ thực tế năm 2001. GKi , G1i : lần lượt là giá bán bình quân một đơn vị sản phẩm giấy mỗi loại kỳ kế hoạch, kỳ thực tế năm 2001. Từ số liệu ở biểu số 4, ta có mức chênh lệch doanh thu tiêu thụ giấy năm 2001 thực tế so với kế hoạch: DT = DT1 – DTK = 749.737.476.535 – 699.119.576.000 = +50.617.900.535 (đ) Với tỷ lệ Kết quả trên cho ta thấy doanh thu tiêu thụ sản phẩm giấy thực tế năm 2001 tăng so với kế hoạch là 50.617.900.535 (đ), tương ứng với tỷ lệ tăng là 7,24%. Mức tăng trên là do sự ảnh hưởng của các nhân tố sau: *Mức độ ảnh hưởng của nhân tố sản lượng sản phẩm giấy tiêu thụ đến sự tăng giảm doanh thu tiêu thụ giấy thực tế so với kế hoạch: Để thấy được mức độ ảnh hưởng của nhân tố sản lượng sản phẩm giấy tiêu thụ đến sự tăng giảm doanh thu tiêu thụ thực tế so với kế hoạch mà không bao hàm trong đó sự tác động của nhân tố kết cấu sản phẩm và giá bán bình quân đơn vị sản phẩm, ta phải cố định hai nhân tố kết cấu sản phẩm và giá bán bình quân đơn vị sản phẩm ở kỳ kế hoạch. Ta đi so sánh doanh thu trong điều kiện sản lượng giấy tiêu thụ thực tế, kết cấu sản phẩm giấy kế hoạch, giá bán bình quân một kg giấy kế hoạch với doanh thu trong điều kiện sản lượng giấy tiêu thụ kế hoạch, kết cấu sản phẩm giấy kế hoạch, giá bán bình quân một kg giấy kế hoạch (tức là DTK). Trong đó, kết cấu sản phẩm kế hoạch và thực tế được xác định bởi công thức: và . Ta có: Từ số liệu thực tế trên biểu số 4 và biểu số 6, thay vào công thức ta có: SL = 752.959.712.961 – 699.119.576.000 = + 53.840.136.961 (đ). . Như vậy, do sự biến động của số lượng sản phẩm tiêu thụ thực tế so với kế hoạch đã làm cho doanh thu tiêu thụ thực tế tăng 53.840.136.961 (đ) tương ứng với tỷ lệ tăng là 7,70% . Có được mức tăng và tỷ lệ tăng như trên là do nguyên nhân sau: Khi lập kế hoạch tiêu thụ cho cả năm 2001, Công ty đã dự kiến số lượng tiêu thụ thấp hơn số lượng tiêu thụ thực tế rất nhiều, trừ sản phẩm giấy tập + vở, vì Công ty lập kế hoạch tiêu thụ dựa trên kế hoạch sản xuất trong năm của mình. Trong 4 loại sản phẩm giấy của Công ty thì giấy cuộn là sản phẩm được lập kế hoạch nhiều nhất và tiêu thụ cũng nhiều nhất, do đây là sản phẩm chính, luôn luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng sản lượng giấy của Công ty. So với kế hoạch, sản lượng sản phẩm giấy cuộn tiêu thụ được tăng 3.109.659 kg tương ứng với tỷ lệ là 5,57%. Sản phẩm giấy ram thực tế tiêu thụ cũng tăng đáng kể so với kế hoạch, mức tăng là 2.713.487 kg tương ứng tỷ lệ tăng là 44,63%. Đay là một tỷ lệ cao, do trong năm, nhu cầu của thị trường về loại sản phẩm này tăng lên, làm cho sản lượng tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ sản phẩm này cũng tăng lên. Riêng sản phẩm giấy tập + vở, sản lượng tiêu thụ thực tế có giảm so với kế hoạch là 741.421 kg tương ứng tỷ lệ giảm là 18,13%. So với tổng sản lượng thì mức giảm này là không đáng kể. Do hiện nay trên thị trường xuất hiện nhiều cơ sở gia công, chế biến sản phẩm giấy, họ mua đầu vào là giấy cuộn của Công ty để gia công ra những sản phẩm vở học sinh, sổ đa dạng về chủng loại và màu sắc, trang trí bìa có hình ảnh đẹp, có độ bóng và độ bền. Mặt khác, khách hàng chủ yếu của loại sản phẩm này lại là học sinh, đây là nhóm khách hàng có yêu cầu cao về hình thức của sản phẩm. Tuy nhiên, đây chỉ là sản phẩm phụ của Công ty nên vấn đề này chưa được chú trọng. Do vậy, việc tiêu thụ sản phẩm này của Công ty trong năm có giảm so với kế hoạch. Trong tương lai, Công ty cần quan tâm, đầu tư dây truyền sản xuất để tạo ra những sản phẩm phù hợp nhu cầu thị trường nhằm tăng doanh thu cho đơn vị mình. Vì đây là mặt hàng có lượng khách hàng tiêu thụ lớn mà trong quá trình sản xuất Công ty có sẵn tư liệu đầu vào. *Mức độ ảnh hưởng của nhân tố kết cấu sản phẩm giấy tiêu thụ đến sự tăng giảm doanh thu tiêu thụ giấy thực tế so với kế hoạch: Tỷ trọng sản phẩm tiêu thụ có ảnh hưởng rất lớn đến doanh thu tiêu thụ. Mỗi loại sản phẩm có giá trị khác nhau nên có giá bán khác nhau, do đó nếu tăng tỷ trọng mặt hàng có giá bán cao, giảm tỷ trọng mặt hàng có giá bán thấp với tổng sản lượng tiêu thụ là không đổi sẽ làm cho doanh thu tiêu thụ tăng lên và ngược lại. Để thấy được mức độ ảnh hưởng của nhân tố kết cấu sản phẩm giấy tiêu thụ đến việc tăng giảm doanh thu tiêu thụ thực tế so với kế hoạch năm 2001, ta phải cố định nhân tố sản lượng giấy tiêu thụ ở kỳ thực tế, cố định giá bán bình quân ở kỳ kế hoạch. Ta đi so sánh doanh thu tiêu thụ giấy trong điều kiện sản lượng giấy thực tế, kết cấu sản phẩm giấy thực tế, giá bán bình quân một kg giấy kế hoạch với doanh thu tiêu thụ giấy trong điều kiện sản lượng giấy thực tế, kết cấu sản phẩm giấy kế hoạch, giá bán bình quân một kg giấy kế hoạch. Ta có: Từ số liệu ở biểu số 6, thay vào ta có: (đ). . Nhận xét: Ta thấy rằng trên thực tế kết cấu mặt hàng giấy tiêu thụ có sự thay đổi so với kế hoạch, điều đó được thể hiện ở biểu số 7. Sự thay đổi kết cấu sản phẩm tiêu thụ thực tế so với kế hoạch đã làm cho doanh thu tiêu thụ tăng 825.857.485 (đ), tương ứng với tỷ lệ tăng là 0,12%. Tỷ trọng tiêu thụ sản phẩm giấy cuộn theo kế hoạch là 84,545%, thực tế là 82,875%, giảm 1,67% nhưng sản lượng tiêu thụ thực tế vẫn tăng lên là 3.109.659 kg. Tỷ trọng tiêu thụ sản phẩm giấy ram tăng 3,159%, tương ứng với sản lượng giấy tăng là 2.713.487 kg. Tỷ trọng tiêu thụ sản phẩm giấy tập + vở giảm 1,488%, tương ứng với sản lượng giấy giảm là 741.421 kg. Tỷ trọng tiêu thụ sản phẩm bìa xanh có giảm 0,001% nhưng sản lượng tiêu thụ vẫn tăng là 798 kg. Nguyên nhân: Do nhu cầu tiêu thụ trong năm 2001 có sự thay đổi, sản phẩm giấy ram được tiêu thụ nhiều hơn, còn sản phẩm giấy tập + vở tiêu thụ kém đi, nên kết cấu sản phẩm có sự thay đổi. Để đáp ứng nhu cầu thị trường, bản thân Công ty phải tự vận động, điều chỉnh từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ. Đây là sự cố gắng lớn của Công ty trong việc nắm bắt được nhu cầu thị trường nhằm đưa ra biện pháp sản xuất và tiêu thụ phù hợp, tăng doanh thu và lợi nhuận cho Công ty. Cụ thể, sản phẩm giấy cuộn là sản phẩm chính, luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong kết cấu sản phẩm, mặc dù tỷ trọng thực tế có giảm so với kế hoạch nhưng sản lượng tiêu thụ thực tế vẫn lớn hơn rất nhiều so với kế hoạch. Còn sản phẩm giấy ram, do hiện nay trên thị trường xuất hiện rất nhiều cửa hàng in, photocopy, cho nên nhu cầu về sản phẩm này tăng lên. Ngược lại, sản phẩm giấy tập, vở học sinh của Công ty chỉ có ít, với hình thức, mẫu mã sơ sài, nghèo nàn về chủng loại, nên nhu cầu về sản phẩm này không cao. Hơn nữa, Công ty không chú trọng vào đầu tư vì cho rằng nó quá vụn vặt và thủ công, sản xuất sản phẩm chỉ nhằm mục đích giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. * Mức độ ảnh hưởng của nhân tố giá bán bình quân một kg giấy đến sự tăng giảm doanh thu tiêu thụ thực tế so vơí kế hoạch năm 2001: Để thấy được sự tác động của nhân tố này đến sự tăng, giảm của doanh thu tiêu thụ giấy thực tế so với kế hoạch thì ta phải cố định hai nhân tố sản lượng giấy và kết cấu sản phẩm giấy ở kỳ thực tế. Ta đi so sánh doanh thu tiêu thụ giấy các loại trong điều kiện sản lượng giấy thực tế, kết cấu sản phẩm giấy thực tế và giá bán bình quân một kg giấy thực tế (tức là DT1) so với doanh thu tiêu thụ giấy trong điều kiện sản lượng giấy thực tế, kết cấu sản phẩm giấy thực tế và giá bán bình quân một kg giấy kế hoạch. Ta có: Từ số liệu ở biểu số 6, thay vào ta có: (đ). . Qua số liệu ở biểu số 8, ta thấy rằng giá bán bình quân của 4 loại giấy hầu hết đều giảm (trừ sản phẩm bìa xanh giá vẫn giữ nguyên) đã làm cho doanh thu tiêu thụ giảm 4.048.093.911 đ, tương ứng với tỷ lệ giảm là 0,58%. Sở dĩ giá của hầu hết các loại sản phẩm đều giảm là do trong năm 2001, Công ty đã tiết kiệm được chi phí đầu vào, hạ giá thành sản phẩm, hạ giá bán, điều này cũng thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm được nhiều và nhanh hơn. Do đó, mặc dù giá bán sản phẩm thực tế có giảm đi nhưng sản lượng sản phẩm giấy tiêu thụ vẫn tăng lên và doanh thu tiêu thụ cũng tăng lên. Tập hợp cả 3 nhân tố lại, ta có: =53.840.136.961+825.857.485+(-4.048.093.911) =+50.617.900.535 (đ). =7,70%+0,12%+(-0,58%) =+7,24%. Kết luận: Qua phân tích sự ảnh hưởng của 3 nhân tố: sản lượng, kết cấu và đơn giá bình quân đến sự tăng giảm doanh thu tiêu thụ kỳ thực tế so với kế hoạch, ta thấy rằng: sản lượng sản phẩm tiêu thụ là nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm của Công ty , làm cho doanh thu tăng 53.840.136.961 (đ), tương ứng với tỷ lệ tăng là 7,7%. Tiếp theo là nhân tố kết cấu tiêu thụ đã làm cho doanh thu tăng 825.857.485 (đ) tương ứng với tỷ lệ tăng là 0,12%. Nhưng đối với nhân tố giá bán bình quân lại làm cho doanh thu giảm 4.048.093.911 (đ) với tỷ lệ giảm là 0,58%. 2.3.4. Những vấn đề cần giải quyết trong công tác sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của Công ty trong thời gian tới. Trong năm 2001, Công ty Giấy Bãi Bằng đã hoàn thành kế hoạch tiêu thụ sản phẩm do Công ty đặt ra. Sản phẩm của Công ty có uy tín và được ngưi tiêu dùng trong cả nước chấp nhận. Hiện nay Công ty đang phấn đấu giữ vững thị phần là 70% khối lượng giấy tiêu thụ trên cả nước. Tuy vậy, qua xem xét, nghiên cứu, thực trạng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm vẫn còn những mặt hạn chế sau đây mà Công ty cần phải giải quyết: Chất lượng, mẫu mã sản phẩm: Nhìn chung chất lượng sản phẩm giấy của Công ty so với các sản phẩm giấy trong nước đã đạt tiêu chuẩn chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng, nhưng so với sản phẩm của nước ngoài thì còn kém về độ trắng và độ bóng của tờ giấy. Sản phẩm giấy tập, vở học sinh còn chưa được Công ty chú trọng, chủng loại, kích cỡ chưa đa dạng, phong phú, trình bày bìa còn sơ sài, kém thẩm mỹ chưa đáp ứng được nhu cầu của phần đông học sinh. Giá bán: Giá bán sản phẩm của Công ty được xác định theo khung giá bán của Tổng công ty Giấy Việt Nam nên Công ty không thể tăng giá bán để tăng doanh thu được. Hơn nữa, để cạnh tranh với sản phẩm của nước ngoài, Công ty cần chú trọng đến chất lượng sản phẩm, tăng số lượng sản xuất và tiêu thụ, hạ giá thành và giá bán sản phẩm, như vậy mới có thể kích thích tiêu thụ, tăng doanh thu và lợi nhuận cho Công ty. Các biện pháp kinh tế - tài chính mà Công ty áp dụng trong năm vừa qua mặc dù đã đạt được kết quả đáng ghi nhận nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số biệ pháp mang tính chất đòn bẩy mà Công ty vẫn chưa áp dụng, như: hồi khấu, chiết khấu Công tác quảng cáo, giới thiệu sản phẩm: Nhìn chung thông điệp quảng cáo của Công ty còn đơn giản, nghèo nàn về màu sắc, hình ảnh lẫn nội dung, không có sự thay đổi trong một khoảng thời gian dài nên dẫn đến sự nhàm chán cho công chúng nhận tin khi tiếp xúc với các thông điệp này. Tóm lại, Công ty Giấy Bãi Bằng đã có nhiều cố gắng trong những năm vừa qua. Sản lượng tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ luôn tăng hàng năm. Mỗi năm Công ty đều đóng góp vào Ngân sách Nhà nước một khoản đáng kể. Nhưng bên cạnh đó, còn một số tồn tại mà Công ty cần phải nhanh chóng khắc phục để không những thực hiện tốt những kế hoạch của mình, những kế hoạch của Nhà nước giao mà còn phải chiếm lĩnh ra thị trường khu vực và quốc tế, cạnh tranh được với những sản phẩm cùng loại khi nước ta bãi bỏ hàng rào thuế quan với các nước trong khu vực. Chương 3 Những phương hướng, biện pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy khả năng tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm ở Công ty Giấy Bãi Bằng. 3.1. Phương hướng phát triển sản xuất kinh doanh của Công ty trong thời gian tới: Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, văn hoá, giáo dục, nhu cầu tiêu dùng về sản phẩm giấy ngày càng tăng lên. Để định hướng phát triển tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu tiêu thụ trong thời gian tới, Công ty cần căn cứ vào mục tiêu chiến lược của ngành, của Tổng công ty Giấy Việt Nam, vào thực lực phát triển sản xuất kinh doanh của Công ty và kết quả bước đầu nghiên cứu thị trường. Qua đó, Công ty đề ra mục tiêu kinh doanh như sau: Mục tiêu kinh doanh chung: + Chiếm lĩnh 75% thị phần nội địa. + Bước đầu xâm nhập thị trường một số nước trong khu vực Đông Nam á, Trung Quốc. + Nâng cao chất lượng sản phẩm. + Xâm nhập thị trường bằng giấy in, viết có tráng phủ bề mặt. + Tăng hiệu quả sử dụng vốn, tăng lợi nhuận và vòng quay vốn, giảm lãng phí. Mục tiêu kinh doanh cụ thể năm 2002: + Sản lượng: 74.000 tấn/năm. Trong đó: 70.000 tấn giấy in + viết. 4.000 tấn giấy tissiu các loại. + Doanh thu: 866 tỷ đồng. Hiện nay Công ty Giấy Bãi Bằng đang chuẩn bị tích cực cho hội nhập khu vực và quốc tế bằng các chương trình đầu tư mở rộng sản xuất với tổng vốn đầu tư là 63 triệu USD, nhằm nâng cao sản lượng bột giấy lên 61.000 tấn/ năm, và nâng sản lượng giấy lên 100.000 tấn/năm với chất lượng quốc tế và môi trường đạt tiêu chuẩn quốc gia. Chương trình này đang được thực hiện và sẽ kết thúc vào giữa năm 2003. Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu hội nhập nói chung, cũng như đáp ứng nhu cầu nội tại của Công ty trong quá trình phát triển, Công ty cần phải chú trọng hơn nữa đến công tác đào tạo, làm cho trình độ của cán bộ công nhân viên của Công ty không ngừng được nâng cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của công việc. 3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm góp phần đẩy mạnh tiêu thụ, tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm ở Công ty Giấy Bãi Bằng. Để có thể đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm của Công ty đòi hỏi phải có sự tác động tổng hợp từ nhiều phía: kinh tế, kỹ thuật, tài chính, quản lý, Với vốn kiến thức đã được học ở Học viện Tài chính Hà Nội, em đã cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu về quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty nói chung và tập trung đi sâu vào tìm hiểu quá trình tiêu thụ sản phẩm của Công ty nói riêng. Từ đó thấy được những điểm mạnh cũng như những tồn tại, vướng mắc của Công ty trong quá trình tiêu thụ sản phẩm. Do đó, em xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến góp phần đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Những ý kiến này được đưa ra dưới góc độ tài chính doanh nghiệp nhìn nhận và đánh giá nên chưa thể toàn diện, chúng cần được đặt trong sự kết hợp hài hoà với các giải pháp về quản lý, kỹ thuật, marketing, mới có thể hoàn thiện và phát huy tác dụng mạnh mẽ. 3.2.1. Hoàn thiện công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm: Việc lập kế hoạch là công việc rất quan trọng và hoàn toàn cần thiết đối với Công ty vì sản xuất với một quy mô lớn, khối lượng sản phẩm nhiều. Việc lập kế hoạch tiêu thụ của Công ty là dựa vào kế hoạch sản xuất nhằm có được sự trùng khớp giữa sản xuất và tiêu thụ. Hơn nữa, việc sản xuất sản phẩm của Công ty phụ thuộc vào các đơn đặt hàng, các hợp đồng kinh tế đã ký kết với khách hàng, do đó, kế hoạch sản xuất và tiêu thụ đã phản ánh được phần nào tình hình thực tế tiêu thụ. Trong thực tế, việc lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của Công ty so với tình hình tiêu thụ thực tế còn chênh lệch lớn về sản lượng sản phẩm, tăng 7,7%. Do nhu cầu về sản phẩm của Công ty tăng lên dẫn đến việc sản xuất và tiêu thụ thực tế đều tăng so với kế hoạch. Vì vậy, Công ty cần chú trọng hơn nữa trong việc đề ra một đội ngũ cán bộ điều tra, nghiên cứu thị trường nhằm thu thập, phân tích tổng hợp các thông tin, giúp cho việc sản xuất và tiêu thụ được diễn ra thuận lợi, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và mở ra nhiều phương hướng hoạt động cho Công ty. 3.2.2. Hoàn thiện hơn nữa công tác tổ chức bán hàng: Hiện nay, trên thực tế, Công ty đã có một hệ thống phân phối sản phẩm trên thị trường được mở rộng thông qua các đại lý, cửa hàng giới thiệu sản phẩm trên toàn quốc. Ngoài các đại lý, Công ty còn tiến hành bán hàng cho những người chuyên bán buôn và bán lẻ sản phẩm cho Công ty. Với đối tượng là bán đại lý và bán buôn thì khi Công ty thực hiện việc giao hàng trước và thanh toán tiền sau, cần phải chú ý đến vấn đề thanh toán, tránh để xảy ra hiện tượng chậm thanh toán, cố tình dây dưa, chiếm dụng vốn của Công ty. Do vậy, Công ty cần đặt ra kỷ luật thanh toán chặt chẽ, yêu cầu các đại lý, các cửa hàng bán buôn thiết lập hệ thống sổ sách, chứng từ đầy đủ. Định kỳ có thể hàng tháng, hàng quý, Công ty cần trực tiếp đi kiểm tra, phát hiện kịp thời các sai sót, yếu kém và có biện pháp khắc phục kịp thời. Tuy nhiên, Công ty cũng cần có các hình thức hướng dẫn, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các đại lý, cửa hàng bán buôn phát triển lớn mạnh, hoạt động có hiệu quả, đảm bảo bán hàng, thanh toán tiền hàng cho Công ty nhanh và đúng thời hạn. 3.2.3. Nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, đa dạng hoá sản phẩm: a) Nâng cao chất lượng sản phẩm: Để nâng cao chất lượng sản phẩm, Công ty đã đề ra mục tiêu về chất lượng giấy như sau: Biểu số 9: Mục tiêu về chất lượng giấy của Công ty Giấy Bãi Bằng. Tên chỉ tiêu Đơn vị Giấy viết Giấy in Giấy photocopy Số lượng Tấn 30.000 65.000 5.000 Độ trắng % 84- 85 84- 85 85- 92 Độ nhám Ml/ph 250 250 250 Độ chặt Kg/m3 700 250 250 Độ tro % 10 1 12 1 12 1 Để đáp ứng được mục tiêu chất lượng như trên, Công ty có thể áp dụng một số biện pháp sau: *Đầu tư, mua sắm, sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị: Việc đầu tư, đổi mới trang thiết bị sản xuất là đầu tư theo chiều sâu nhằm tăng năng lực sản xuất, nâng cao trình độ kỹ thuật máy móc thiết bị, hiện đại hoá dây truyền sản xuất, giúp Công ty sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao, tăng khả năng cạnh tranh và tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm. Công ty có thể tìm nguồn cung cấp vật tư, phụ tùng trong nước cùng loại để thay thế cho ngoại nhập, tiết kiệm được chi phí, khuyến khích việc tự gia công, chế tạo tại Công ty. Hiện nay, Công ty đang đầu tư mở rộng dây truyền sản xuất thông qua các công trình cải tạo, nâng cấp sau: Công trình cải tạo phân xưởng bột. Công trình nâng cấp 2 máy xeo. Công trình xử lý nước thải. Công trình nâng cấp 2 nồi hơi. Các chương trình nâng cấp và cải tạo này cần được quản lý, giám sát chặt chẽ để hoàn thành đúng tiến độ và đảm bảo chất lượng. Ngoài ra, để duy trì và phát huy năng lực sản xuất của máy móc thiết bị, Công ty cần tổ chức bảo dưỡng theo đúng chế độ, thời gian và tình trạng của máy móc thiết bị. Để đảm bảo cho công tác sửa chữa, bảo dưỡng được tiến hành tốt, Công ty cần phải tính toán, dự trù đảm bảo vốn cho công tác này và điều quan trọng là phải tính toán đến hiệu quả của việc sử dụng vốn cho việc sửa chữa và bảo dưỡng đó. Hiện nay ở Công ty có 1 xí nghiệp bảo dưỡng với số lượng lớn công nhân đảm bảo tay nghề và kinh nghiệm để chịu trách nhiệm về ván đề này. Trong mỗi một năm sản xuất kinh doanh, Công ty đều dành thời gian để đóng máy bảo dưỡng sửa chữa máy móc trong vòng 1 tháng. Công ty cần duy trì việc bảo dưỡng này và tăng cường quản lý, giám sát để công tác này được thực hiện tốt hơn, đem lại hiệu quả cho sản xuất kinh doanh. * Đảm bảo nguồn nguyên vật liệu đúng về số lượng và chất lượng: Công ty cần tập trung giải quyết vấn đề cung cấp đủ vật tư, nguyên liệu cho sản xuất. Một mặt, Công ty phải mở rộng thu mua nguyên liệu ra các tỉnh ngoài, thu mua mảnh chặt thủ công, nhập thêm bột ngoại. Mặt khác, Công ty cần đầu tư trồng thêm vùng nguyên liệu, đảm bảo đủ đầu vào cho sản xuất. Các vật liệu phải nhập ngoại (bột) hoặc nhập theo mùa (than) Công ty cần phải có kế hoạch dự trữ để phục vụ kịp thời, đảm bảo cho hoạt động sản xuất được diễn ra liên tục, tránh hiện tượng phải ngừng sản xuất do thiếu vật tư, hay khi cầu về vật tư quá cao dẫn đến giá vật tư bị đẩy lên ảnh hưởng đến giá thành sản xuất. *Nâng cao năng lực, trình độ tay nghề của công nhân sản xuất: Công nhân sản xuất là người trực tiếp vận hành máy móc thiết bị, cho nên ngay cả trng điều kiện sản xuất tự động hoá thì máy móc thiết bị vẫn chịu sự điều khiển của con người. Trong điều kiện sản xuất hiện nay, với quy trình công nghệ sản xuất hiện đại, sản xuất theo dây truyền nên rất cần những người có trình độ để cá thể điều khiển được máy móc thiết bị nhằm đảm bảo đúng tiến độ sản xuất và chất lượng sản phẩm. Vì vậy, cần thiết phải nâng cao năng lực, trình độ tay nghề của công nhân sản xuất và để thực hiện được điều này Công ty có thể áp dụng các hình thức khác nhau, như: Mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kỹ thuật ngắn hạn. Tổ chức các buổi họp hội thảo, rút kinh nghiệm, báo cáo kinh nghiệm trong phạm vi từng phân xưởng cũng như toàn Công ty. Huấn luyện kỹ thuật, rút kinh nghiệm trực tiếp trên máy móc thiết bị, phương tiện sản xuất. Tổ chức các hội thi tay nghề, thi thợ giỏi một cách thường xuyên, liên tục để công nhân tự phấn đấu, học hỏi nâng cao tay nghề, tích luỹ kinh nghiệm sản xuất. Ngoài ra, Công ty cần sử dụng tốt các đòn bẩy tiền lương, tiền thưởng: duy trì và thực hiện tốt hình thức trả lương theo bậc thợ, theo thời gian làm việc. Công nhân có nỗ lực phấn đấu nâng cao tay nghề, có sáng kiến tăng năng suất lao động có thể được tăng bậc lương trước kỳ hạn, Cùng với tiền lương còn có hình thức khen thưởng thích đáng đối với những công nhân có tay nghề cao, chịu khó học hỏi, cắt thưởng phạt lương đối với những công nhân có tay nghề yếu kém, không chịu phấn đấu vươn lên, làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, Công ty cũng cần cải thiện điều kiện làm việc cho công nhân, như: điều kiện về nhà xưởng, ánh sáng, độ thông gió, không gian sản xuất, điều kiện vệ sinh môi trường, để công nhân có khả năng phát huy và nâng cao tay nghề. b) Cải tiến mẫu mã, đa dạng hoá sản phẩm: Trước tiên, muốn có được khả năng ban đầu để làm hài lòng khách hàng thì Công ty cần phải phát triển chủng loại hàng hoá, cải tiến sản phẩm sao cho chất lượng sản phẩm ngày càng một cao và đạt được mức tiêu chuẩn trung bình của quốc tế. Về sản phẩm vở, Công ty nên đưa ra những sản phẩm đa dạng hơn, về loại trang, về kích cỡ, để đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng đa dạng của người tiêu dùng. Về mẫu mã sản phẩm, Công ty có thể đưa ra thêm những loại vở có bìa nhiều màu sắc hay bìa có nhiều hình, độ bóng cao, thêm các loại vở đóng gáy, vở các loại có bìa bằng giấy Couche. Ví dụ như: Hiện nay Công ty chỉ sử dụng loại bìa màu xanh thậm, độ nhẵn thấp làm bìa cho vở kẻ ngang, như vậy Công ty có thể cải tiến loại bìa như: thêm bìa màu hồng, màu nâu vàng có độ nhẵn cao hơn, sẽ làm cho người tiêu dùng thích hơn và có thể lựa chọn nhiều vở trong sự đa dạng của nó. Với loại vở 48 trang, 96 trang, Công ty đã có thay đổi đưa ra nhiều loại bìa nhiều màu sắc nhưng vẫn chưa đẹp, trong khi các nhà cung cấp khác lại đã đưa ra thị trường sản phẩm có bìa được bọc bằng nilon nên trông rất bóng. Công ty cho rằng làm như vậy sẽ làm cho giá thành của sản phẩm tăng lên, dẫn đến giá bán tăng. Nhưng Công ty cũng nên biêt rằng nhưng sản phẩm như vậy thường chủ yếu là do học sinh phổ thông sử dụng, chúng thường ưa màu sắc, hơn nữa ở tuổi đó bố mẹ thường không mấy khi tiếc tiền để mua những loại vở như vậy cho con cái họ. Chính vì vậy Công ty có thể đưa ra những loại vở có bìa bọc nilon với nhiều màu sắc, nhiều hình ảnh mang tính giáo dục, phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Về bao gói của sản phẩm, để nâng cao khả năng cạnh tranh, Công ty nên chú trọng đến bao gói hơn như là một công cụ tạo ra sự khác biệt hay cũng là nâng cao khả năng để vươn tới ngang bằng với các đối thủ cạnh tranh. Bao gói là cần thiết để bảo vệ cho sản phẩm không bị hư hỏng, như rách, nhàu, trong quá trình vận chuyển. Công ty nên tận dụng bao gói để giới thiệu về Công ty hay về sản phẩm, như đưa thêm các thông tin về tiêu chuẩn của sản phẩm trong bao gói về định lượng, độ trắng, nhằm phân biệt với các sản phẩm khác cùng chủng loại nhưng khác nhau về tiêu thức phân biệt sản phẩm. Trên dây là một số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm và cải tiến mẫu mã, đa dạng hoá sản phẩm. Để có thể đưa các giải pháp trên vào thực tiễn, điều quan trọng là phải có lượng vốn đầu tư đủ lớn thì mới đủ sức đầu tư máy móc thiết bị, nâng cao trình độ công nhân sản xuất, mở rộng kho tàng, nhà xưởng,Do vậy, Công ty có thể huy động nguồn vốn tự có và nguồn vốn tín dụng theo một kết cấu hợp lý. Một khi Công ty đã đồng bộ hoá quy trình công nghệ, nâng cao trình độ tay nghề công nhân sản xuất, sử dụng vật tư đúng về số lượng và chất lượng thì tất yếu chất lượng sản phẩm được nâng cao, kết hợp với cải tiến mẫu mã, đa dạng hoá sản phẩm chắc chắn sẽ là những nhân tố góp phần vào đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ cho Công ty. 3.2.4. Phấn đấu hạ giá bán sản phẩm bằng cách tiết kiệm chi phí nhằm tăng khả năng cạnh tranh, đẩy mạnh tiêu thụ: Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, vì thế, để có thể bù đắp lại mọi khoản chi phí, đảm bảo kinh doanh có lãi, nhất thiết giá bán sản phẩm phải cao hơn giá thành sản xuất. Do vậy, để có thể tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm cũng như tăng khă năng cạnh tranh trên thị trường, Công ty cần phải giải quyết những vấn đề cơ bản sau: a. Hạ thấp chi phí đầu vào, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả: Trong công nghệ sản xuất giấy, các nguyên liệu hoá chất, như: NaCl, NaClO, CaCO3, NaSO4, xút, Công ty đều có thể dễ dàng mua hoặc sản xuất tại nhà máy hoá chất của Công ty. Riêng về nguyên liệu gỗ, tre, nứa trong điều kiện nước ta hiện nay, diện tích rừng đã bị hẹp, hơn nữa Nhà nước chưa quản lý được việc khai thác rừng đã dẫn đến nguồn nguyên liệu gỗ ngày càng khan hiếm. Mạt khác, việc thu mua gỗ vẫn còn gặp nhiều khó khăn do phải cạnh tranh với nhiều doanh nghiệp sản xuất sản phẩm từ nguyên liệu này. Ngoài ra, Công ty còn phải nhập bột ngoại trong quá trình sản xuất. Tất cả những điều đó đã cản trở đến công tác hạ giá thánhp của Công ty. Do vậy, để có thể giải quyết được vấn đề này, Công ty cần phải cử cán bộ đến từng đơn vị kinh doanh lâm sản, từng vùng nguyên liệu để tìm hiểu về trữ lượng, chất lượng của nguyên liệu, xem xét khả năng thu mua của mình để có thể trực tiếp ký hợp đồng dài hạn với người cung cấp. Công ty nên có chính sách ưu đãi cho đơn vị bán về các khoản ứng trước tiền hàng, hoặc cung cấp vốn đầu tư để trồng rừng, vùng nguyên liệu phục vụ cho sản xuất. Đồng thời, Công ty cũng cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc sử dụng nguyên vật liệu, tránh sử dụng lãng phí, sai mục đích, kịp thời điều chỉnh những định mức kỹ thuật không phù hợp để vừa đảm bảo được chất lượng sản phẩm sản xuất, vừa tiết kiệm được nguyên vật liệu góp phần hạ giá thành sản phẩm. b. Tổ chức quản lý, phân công lao động khoa học, hợp lý, sử dụng có hiệu quả chi phí tiền lương, tiền thưởng: Trong công tác bố trí lao động, Công ty cần sắp xếp lao động theo đúng trình độ chuyên môn, tay nghề cân đối giữa các phân xưởng để có thể phát huy tối đa năng suất lao động của từng người, đồng thời khơi dậy tiềm năng trong mỗi người giúp họ gắn bó và cống hiến sức lực, tài năng cho Công ty. Việc tiết kiệm thời gian lao động cũng cần phải được áp dụng bằng cách bố trí hợp lý dây truyền sản xuất để tinh giảm lao động. Hơn nữa, phải tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện nội quy, kỷ luật lao động, đi về đúng giờ, tránh việc đi lại lộn xộn, sử dụng lãng phí thời gian lao động, từ đó nâng cao hiệu quả công việc của từng người. Chi phí tiền lương cần được sử dụng một cách có hiệu quả. Trước hết, bộ phận tài chính phải lập kế hoạch lao động và tiền lương của đơn vị mình, xem xét tốc độ tăng năng suất lao động và tiền lương bình quân kỳ báo cáo, chú trọng các yếu tố định mức lao động, đơn giá tiền lương cùng hình thức trả lương. Tiếp theo, thông qua việc thanh toán chi trả tiền lương, bộ phận tài chính doanh nghiệp cầnkiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch lao động, tiền lương và kế hoạch sản xuất, việc tăng lương là cần thiết nhưng tốc độ tăng tiền lương bình quân phải chậm hơn tốc độ tăng năng suất lao động. Đồng thời, hình thức trả lương phải được tính toán, chi trả hợp lý, khuyến khích được công nhân nâng cao năng suất lao động và sử dụng có hiệu quả tiền vốn. Định kỳ tiến hành phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch lao động, tiền lương để phát hiện tình trạng bất hợp lý, rút ra kinh nghiệm tốt trong việc quản lý lao động, tiền lương. Sử dụng tiền thưởng phải phát huy được vai trò đòn bẩy của nó. Công ty cần áp dụng nhiều hình thức thưởng như: thưởng tăng năng suất lao động, sử dụng tiết kiệm vật tư, thưởng phát minh, sáng kiến, nhưng cũng cần xử phạt đối với những trường hợp vi phạm kỷ luật lao động, làm lãng phí vật tư, hư hỏng sản phẩm, qua đó thúc đẩy việc tăng năng suất lao động, sử dụng tiết kiệm vật tư và hạ giá thành sản phẩm. c. Tiết kiệm chi phí tiêu thụ: Chi phí tiêu thụ là một bộ phận cấu thành nên giá thành tiêu thụ sản phẩm, nó bao gồm nhiều loại chi phí khác nhau, như: chi phí vận chuyển bốc dỡ, chi phí bảo quản sản phẩm, chi phí quảng cáo Hiện nay, do đặc điểm về tiêu thụ nên đối với sản phẩm giấy thì vận chuyển bằng đường bộ là thích hợp nhất. Đối với các thị trường ở xa Công ty thì chi phí vận chuyển sẽ cao, thị trường ở càng xa thì chi phí vận chuyển sẽ càng cao. Chi phí vận chuyển cao sẽ làm tăng giá bán sản phẩm, như vậy việc tiêu thụ sản phẩm sẽ gặp khó khăn. Vì thế để giảm thiểu chi phí vận chuyển cho các vùng thị trường này, Công ty có thể thuê phương tiện vận chuyển một chiều với chi phí thấp hơn. Ngoài ra, Công ty cần thiết phải lập nên một hệ thống các kho trung chuyển để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tiêu thụ bằng cách áp dụng linh hoạt việc điều tiết sản phẩm giữa các kho trung gian này, góp phần giảm chi phí vận chuyển. 3.2.5. Giải pháp đẩy mạnh công tác tiêu thụ, không ngừng mở rộng thị trường: Để có thể đẩy nhanh công tác tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường, Công ty phải tiếp tục đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm trên thị trường cả nước, từng bước mở rộng ra thị trường nước ngoài. Công ty cần phải giải quyết một số vấn đề sau: *Phát triển hệ thống đại lý phân phối sản phẩm rộng khắp: Hiện nay hệ thống kênh phân phối sản phẩm của Công ty đã có ở hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước. Công ty có 3 chi nhánh ở 3 thành phố lớn là: Hà Nội, Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh, đây là trung gian phân phối của Công ty, qua đây Công ty có thể mở rộng thêm mạng lưới đại lý, tìm kiếm bạn hàng, ký kết các hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, cung cấp hàng cho các đại lý ở mỗi khu vực.Số các đại lý của Công ty vào khoảng 100 đại lý, tiêu thụ khoảng 90% sản phẩm của Công ty. Do vậy, để đại lý vừa thực hiện chức năng tiêu thụ sản phẩm, nhưng đồng thời là tai mắt phục vụ đắc lực cho Công ty trong phân phối sản phẩm cũng như cung cấp các thông tin quan trọng về thị trường thì Công ty cần thiết phải có các biện pháp quản lý một cách chặt chẽ, có chính sách ưu đãi để kích thích mạng lưới các đại lý có uy tín rộng khắp. Muốn vậy, Công ty cần phải giải quyết tốt các yêu cầu sau: Về công tác tuyển chọn các đại lý: Tiêu chuẩn cần có của các đại lý là: Phải có giấy phép kinh doanh hợp pháp, có đơn xin làm đại lý với xác nhận của chính quyền địa phương, có khả năng thanh toán, chi trả tiền hàng. Bên cạnh đó, các tiêu chuẩn được ưu tiên xem xét là thái độ hợp tác, khả năng phát triển và uy tín trong kinh doanh. Về khuyến khích các đại lý: Do mục đích cuối cùng của các nhà kinh doanh là thu được lợi nhuận, nên để kích thích các đại lý hoạt động có hiệu quả cần thiết phải lập mối quan hệ chặt chẽ bằng cách áp dụng các biện pháp hỗ trợ cho các trung gian phân phối trong việc tiêu thụ như: hỗ trợ quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, tạo các điều kiện ưu đãi trong thanh toán, tăng dư nợ cho các trung gian; đối với các đại lý bán hàng, thanh toán theo hình thức giao hàng chuyến sau thanh toán chuyến trước, đồng thời cần phải áp dụng các hình thức chiết khấu hay đặt định mức tiêu thụ cho từng điểm bán, thưởng theo doanh số bán hàng để kích thích tiêu thụ. Đối với công tác quản lý: Công ty cần có quan hệ chặt chẽ với các đại lý và những người bán buôn để cùng phối hợp quản lý, nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi ích chung của cả hai bên. Muốn vậy, đối với từng điểm điểm bán hàng đều phải quản lý trên sổ giao nhận cụ thể, định kỳ hàng tháng Công ty cần đánh giá lại hoạt động của tất cả thành viên bằng cách phát cho họ những phiếu in sẵn có các nội dung thống nhất, như: số lượng hàng tồn đầu tháng, cuối tháng, số lượng nhận trong thánh, số lượng bán được, doanh số bán hàng, các ý kiến, thái độ , tâm lý người tiêu dùng Trên cơ sở tập hợp và đánh giá các thông tin này mà Công ty sẽ có các quyết định kịp thời để nâng cao hiệu quả hoạt động của các kênh phân phối phù hợp với từng thị trường cụ thể. * Đối với thị trường xuất khẩu: Cách đây 2 năm Công ty đã xuất khẩu sản phẩm của mình sang một số nước như: Singapore, Malaysia, Thái Lan, Lào, Mianma, Sirilanka, nhưng hiện nay Công ty ngừng việc xuất khẩu này. Đây là một thị trường hấp dẫn, Công ty nên duy trì việc xuất khẩu như trước đây, bằng cách tích cực tìm các biện pháp đẩy mạnh quan hệ, tìm kiếm bạn hàng, tiến tới xuất khẩu sang thị trường các nước trong khu vực và trên thế giới. 3.2.6. Tăng cường các biện pháp kinh tế tài chính có tính chất đòn bẩy đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm: - Giảm giá hàng bán: Đối với những khách hàng mua với khối lượng lớn thì Công ty có thể trích giảm theo một tỷ lệ nhất định tính trên tổng số tiền thu được do bán hàng. Đối với những khách hàng mới, Công ty nên giảm giá ở mức cao hơn để gây thiện cảm với khách hàng, từ đó mới có thể làm cho họ gắn bó với sản phẩm của Công ty hơn. Còn đối với những khách hàng ở xa, Công ty có thể sử dụng những khoản ưu đãi nhỏ, ví dụ như: hạ thấp định mức khối lượng trong chiết khấu khối lượng sản phẩm, nếu mua tại Công ty thì phải mua từ 80 –100 tấn giấy trở lên mới được hưởng chiết khấu giá nhưng với khách hàng ở xa thì định mức có thể thấp hơn 50 – 60 tấn chẳng hạn. Như vậy Công ty sẽ xâm nhập được vào nhiều vùng thị trường, đẩy mạnh tiêu thụ. Tuy nhiên, Công ty cần phải đánh giá, tính toán sao cho phù hợp, tránh tình trạng tạo khe hở làm xuất hiện gian lận, gây lãng phí, thất thoát không đáng có. - Chiết khấu và bớt giá: Hiện nay Công ty chưa sử dụng hình thức này trong hoạt động tiêu thụ của mình. Tuy nhiên với chiến lược sắp tới thì hình thức này là cần thiết. Hình thức này sử dụng để thưởng cho những khách hàng thanh toán tiền hàng trước, mua hàng với khối lượng lớn. Công ty có thể sử dụng các hình thức sau: + Chiết khấu vì thanh toán ngay: Tức là giảm giá cho những người mua thanh toán ngay. Ví dụ: Có thể dùng mức 1% = 100đ/kg cho những khách hàng thanh toán ngay. + Chiết khấu vì mua số lượng lớn: Công ty nên đưa ra một định mức chung cho tất cả các khách hàng và thực hiện ưu đãi cho những khách hàng mua với số lượng vượt quá định mức mà Công ty đưa ra. Công ty có thể đưa ra định mức 80 – 100 tấn/ 1 lần mua sẽ được hưởng chiết khấu 1%, tức là khoảng 100.000 đ/ tấn, khi đó họ sẽ được giảm từ 8 – 10 triệu đồng. Hình thức này sẽ khuyến khích khách hàng mua nhiều hơn ở một người bán nhất định, chứ không mua ở nhiều nguồn khác nhau. + Chiết khấu theo thời vụ: Hình thức này áp dụng cho những khách hàng mua hàng với số lượng lớn vào trái thời vụ, tức là ngoài thời điểm mùa vụ là chuẩn bị cho năm học mới. Công ty có thể sử dụng mức chiết khấu 1-2% cho 1 mức giá. Việc này sẽ làm cho khách hàng có thể tiêu thụ sản phẩm nhanh hơn hay khuyến khích họ mua sản phẩm vào thời điểm trái vụ. + Bớt giá: là dạng khác của việc giảm giá so với biểu giá quy định. Hình thức này được sử dụng để thưởng cho những đại lý tham gia quảng cáo và các chương trình hỗ trọ tiêu thụ. + Trong trường hợp khách hàng thực hiện mua bán đồng thời thoả mãn các trường hợp trên thì Công ty có thể sử dụng một mức chiết giá ưu đãi hơn, ví dụ 1,5 - 2%. Ngoài ra, Công ty còn có thể áp dụng hình thức định giá khuyến mãi cho những trường hợp sau: + Định giá cho những đợt đặc biệt: Tức là Công ty đưa ra một mức giá đặc biệt vào một thời điểm nào đó, như là vào thời điểm kỷ niệm hoặc đại hội có liên quan đến học sinh + Mua bán trả chậm: Đây là hình thức mà Công ty đang sử dụng trong việc khuyến khích khách hàng mua hàng. Công ty có thể áp dụng khoảng thời gian mà Công ty đang sử dụng hiện nay vào khoảng 30 đến 45 ngày cho việc trả chậm. Hình thức này có tác dụng tốt trong trường hợp khách hàng chưa có khả năng thanh toán nhưng vẫn cần phải có một số lượng hàng để duy trì hoạt động kinh doanh của mình. 3.2.7. Tăng cường công tác quảng cáo, giới thiệu sản phẩm: Quảng cáo được coi là một công cụ có hiệu quả cao, có tầm quan trọng đối với quá trình tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Công ty cần phải thiết kế một thông điệp quảng cáo chung cho các phương tiện quảng cáo. Thông điệp truyền tin mà Công ty định sử dụng phải toát lên được lợi ích kinh tế của người mua, đề cập đến khía cạnh đạo đức, giáo dục, phải có màu sắc hấp dẫn và phải nói lên được chất lượng sản phẩm. Đặc biệt khi Công ty sử dụng catalog thì chất lượng giấy của Công ty phải được thể hiện ở ngay chính sản phẩm giấy catalog đó. Đồng thời cũng phải nêu lên được đầy đủ các thông tin về địa chỉ của Công ty, văn phòng đại diện, giao dịch, danh mục các sản phẩm, số điện thoại, số fax. Trong hoạt động quảng cáo, Công ty cần cố gắng nâng cao được hình ảnh của Công ty. Công ty có thể sử dụng các phương tiện như: báo , tạp chí đặc biệt là tạp chí chuyên ngành, qua catalog, qua mạng Internet, qua vô tuyến, Thông qua hoạt động quảng cáo, Công ty có thể gây ấn tượng tốt về hình ảnh của Công ty. Các chương trình quảng cáo, các thông điệp quảng cáo cũng cần xây dựng thành những chương trình có nội dung riêng nhấn mạnh vào từng loại sản phẩm khác nhau, các mục đích khách hàng quan tâm hoặc chính Công ty quan tâm, đồng thời lựa chọn các phương tiện truyền tin thích hợp. Để thông điệp quảng cáo được truyền tải đi thì việc xây dựng quỹ hay ngân sách cho quảng cáo phải được Công ty xem xét như một khoản chi phí thường xuyên không thể thiếu. Chi phí quảng cáo không phải là thấp so với ngân quỹ của Công ty, do đó vấn đề là lựa chọn phương tiện quảng cáo nào sao cho phù hợp, đạt hiệu quả. Như vậy, có thể nói việc phân tích, đánh giá tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty Giấy Bãi Bằng là hoàn toàn cần thiết. Qua đó Công ty đánh giá được các mặt mạnh của mình để tiếp tục phát huy đồng thời chỉ ra những mặt còn hạn chế, tìm hiểu rõ nguyên nhân để rút ra bài học kinh nghiệm, tìm ra những giải pháp tối ưu để khắc phục những hạn chế, tồn tại đó. Nếu Công ty làm tốt được việc này thì công tác tiêu thụ sản phẩm sẽ đạt hiệu quả cao hơn và khối lượng sản phẩm bán ra sẽ ngày một nhiều hơn. Kết luận Ngày nay, khi nền kinh tế thị trường trở thành nền kinh tế toàn cầu và phổ biến khắp các nước trên thế giới, nước ta đã và đang dần dần hội nhập với nền kinh tế trên thế giới và tất yếu cũng đi theo hướng đó. Bên cạnh những thuận lợi là nước đi sau là những khó khăn rất lớn cho các ngành kinh tế nước ta. Đối với ngành giấy Việt Nam lại càng cần đổi mới hơn nữa để đáp ứng nhu cầu phát triển giáo dục và phát triển kinh tế của nước nhà. Bởi đây là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Những năm gần đây, với sự năng động của đội ngũ cán bộ dám nghĩ, dám làm, những chính sách kinh tế đổi mới của Đảng và Nhà nước, và cũng do nhận thức được tầm quan trọng của cạnh tranh cùng yêu cầu cấp bách cho sự tồn tại và sự phát triển của Công ty, Công ty Giấy Bãi Bằng đã nỗ lực không ngừng tìm cho mình một hướng đi thích hợp. Bằng những cố gắng trong những năm qua Công ty đã đưa ra những sản phẩm ngày càng có chất lượng cao và tạo được một vị thế khá cao trên thị trường nội địa. Công ty cũng đang tiến hành những hoạt động ban đầu cho việc phát triển kinh doanh ra bên ngoài và giành thị trường. Từ thực tế tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty Giấy Bãi Bằng nói chung và tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty nói riêng, vận dụng những kiến thức đã được học trong nhà trườngvà thời gian tìm hiểu thực tế tại Công ty em đã cố gắng trình bày bản luận văn này theo quan điểm của tài chính doanh nghiệp về những vấn đề cơ bản về công tác tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Từ đó em đã mạnh dạn đề suất một số giải pháp cơ bản để thúc đẩy tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm của Công ty Giấy Bãi Bằng. Do còn hạn chế vê trình độ, kinh nghiệm thực tiễn và thời gian thực tập nên bản luận văn không thể tránh khỏi nhưng hạn chế về nội dung khoa học cũng như yêu cầu về phạm vi nghiên cứu. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ chỉ bảo của các thầy cô giáo trong bộ môn, các cán bộ trong Công ty và các bạn để bản luận văn được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong bộ môn đã cho em những kiến thức khoa học, đặc biệt em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Hoàng Văn Quỳnh đã chỉ bảo giúp đỡ tận tình, xin cảm ơn ban lãnh đạo Công ty Giấy Bãi Bằng, các cô chú ở phòng tài chính-kế toán, phòng thị trường và các bạn đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành bản luận văn này. Hà nội, ngày 25 tháng 4 năm 2002

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3380.doc
Tài liệu liên quan