Đề tài Tìm hiểu thái độ của học sinh một số trường PTTH ở Hà Nội khi được giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên

MỤC LỤC PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1 CHƯƠNG I: 5 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 5 A. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU. 5 I. NGHIÊN CỨU VỀ THÁI ĐỘ. 5 1. Nghiên cứu thái độ trong tâm lý học Phương Tây. 5 2. Nghiên cứu thái độ trong tâm lý học Liên Xô (cũ). 6 3. Nghiên cứu thái độ ở Việt Nam. 7 II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC SKSSVTN. 8 B. CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN. 9 I. THÁI ĐỘ. 9 1. Định nghĩa thái độ: 9 2. Đặc điểm của thái độ. 11 3. Chức năng của thái độ. 12 4. Cấu trúc của thái độ 12 5. Các yếu tố quyết định đến sự hình thành và phát triển thái độ: 14 2. Những nguy cơ dễ xảy ra khi vị thành niên quan hệ tình dục sớm. 16 II. KHÁI NIỆM HỌC SINH PHỔ THÔNG TRUNG HỌC. 18 1. Quan niệm về lứa tuổi. 18 2. Đặc điểm tâm - sinh lí lứa tuổi. 18 III. KHÁI NIỆM GIÁO DỤC SKSSVTN. 20 1. Giáo dục giới tính là gì. 20 2. Giáo dục SKSSVTN. 21 CHƯƠNG II 25 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN 25 I. NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH PHỔ THÔNG KHI ĐƯỢC GIÁO DỤC SKSSVTN TRONG NHÀ TRƯỜNG. 25 1. Nhận thức của học sinh phổ thông về “giáo dục SKSSVTN”. 26 2. Nhận thức của học sinh sự phát triển tính dục của cơ thể ở tuổi dậy thì. 29 3. Nhận thức của học sinh phổ thông về các mối quan hệ ở tuổi vị thành niên (tình yêu, quan hệ tình dục) và hậu quả của nó. 30 4. Nhận thức của các em về công tác phòng chống HIV/AIDS. 34 II. XÚC CẢM - TÌNH CẢM CỦA HỌC SINH PHỔ THÔNG KHI ĐƯỢC GIÁO DỤC SKSSVTN. 38 1. Xúc cảm - tình cảm của học sinh với những vấn đề liên quan tới SKSSVTN nói chung. 38 2. Xúc cảm - tình cảm của học sinh phổ thông với chương trình giáo dục SKSS đang được học. 42 III. HÀNH VI CỦA HỌC SINH PHỔ THÔNG KHI ĐƯỢC GIÁO DỤC SKSSVTN. 47 1. Mức độ tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan khi được giáo dục? 47 2. Mức độ sẵn sàng tham gia thực hiện nội dung bảo vệ SKSSVTN. 48

doc62 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1963 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu thái độ của học sinh một số trường PTTH ở Hà Nội khi được giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uổi, đã sẵn có một vốn kiến thức cơ bản về tự nhiên và xã hội nên nhạy cảm với cái mới, nhu cầu cao về hiểu biết, dễ tiếp thu những cái mới được coi là tiến bộ và hiện đại. Vì vậy, vị thành niên có thuận lợi hơn ai hết trong việc tiếp thu tính nhân bản của khái niệm SKSS. - Vị thành niên một khi đã ý thức được nội dung - yêu cầu của SKSS có thể trở thành những tuyên truyền viên của cuộc vận động dân số - kế hoạch hoá gia đình và phòng chóng AIDS một cách tích cực nhất. - Vị thành niên cũng sẽ là những người tiêu biểu nhất, gương mẫu của mô hình văn hoá mới về bình đẳng nam nữ trong đời sống và trong mọi vận động liên quan đến SKSS. - Vị thành niên chuẩn bị bước vào cuộc sống xã hội và gia đình, phải trực tiếp đối diện với những vấn đề về nhiệm vụ, bộ phận, trách nhiệm, đời sống vật chất.... Vì vậy, trong hành trang kiến thức của vị thành niên cần có những kiến thức về SKSS. Vì những lí do trên, giáo dục SKSS đã trở thành vấn đề cần được ưu tiên khẩn cấp và tiếp tục duy trì sự quan tâm. C - VÀI NÉT VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN TỚI SKSS Ở VIỆT NAM. Giáo dục SKSS cho vị thành niên ở nước ta đang trên đà phát triển mạnh mẽ sau hai hội nghị quốc tế Cairô và Bắc Kinh. Những dự báo về tình hình sinh sản của lứa tuổi này cũng là vấn đề khiến cộng đồng phải quan tâm. Theo tổng cục thống kê quốc gia 1989: hơn 28 triệu thanh thiếu niên tuổi 14 - 28 (chiếm gần 1/3 dân số của cả nước) đã bước vào sinh sản, tức là đã có quan hệ tình dục, trong đó 80% tổng số sống ở nông thôn. Hàng năm ở nước ta có khoảng nửa triệu đôi nam nữ thanh niên bước vào hôn nhân, khoảng 7 triệu thanh niên lứa tuổi 14 - 28 sắp sửa bước vào hôn nhân, hơn 13 triệu nam nữ thanh niên đã kết hôn tạo lực lượng sinh sản chính ở Việt Nam. Người ta ước tính có đến 60 - 70% số ca sinh nở nằm trong lứa tuổi này. Những thay đổi về môi trường xã hội khiến cho quan hệ tình dục ở vị thành niên tăng lên, dẫn tới tình trạng có thai không mong muốn, nạo phá thai, lây nhiễm các bệnh lây truyền tình dục, kể cả HIV/AIDS. Ngày nay, mối quan tâm lớn của xã hội đối với SKSSVTN nói chung đã được xác định rõ, đó là quan hệ tình dục sớm dẫn đến mang thai không mong muốn, nạo thai không an toàn, nguy cơ nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục, gồm cả HIV/AIDS và những chấn thương tâm lí là hậu quả của sự cố nói trên. 1. Quan hệ tình dục sớm là vấn đề xã hội của nhà nước. Không phải chỉ riêng nước ta mà ở nhiều nước trong khu vực và thế giới, những nước đang phát triển và những nước đã phát triển, cũng phải đối diện với vấn đề quan hệ tình dục sớm ở thanh thiếu niên và đã có những biện pháp để đề phòng hậu quả của nó (giáo dục phòng tránh thai và các bệnh lây truyền tình dục...). Viễn cảnh đen tối, bế tắc của việc làm mẹ ở những cô gái trẻ lỡ có thai ngoài hôn nhân là một thực trạng dễ nhận thấy: họ thiếu sự hỗ trợ về tình cảm (bạn tình bỏ rơi, gia đình ruồng rẫy) và không có điều kiện kinh tế để nuôi con. Nhiều cô gái phải chịu đựng một giai đoạn dài vất vả, tủi hổ, lẩn tránh để cuối cùng phải bỏ lại đứa trẻ cho nhà hộ sinh hoặc bệnh viện nào đó, thậm chí trên ghế đá công viên hay trong thùng rác vì không thể nuôi nổi con hay để rảnh rang làm lại cuộc đời. Một số em mang thai có thể đi đến hôn nhân một cách miễn cưỡng, những thường tan vỡ hoặc không có hạnh phúc (vì đó là kết quả của hành vi tình dục lầm lỡ, dối lừa, không có sự tôn trọng và tình yêu đích thực). CHƯƠNG III KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN A - VÀI NÉT VỀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU Khách thể nghiên cứu của chúng tôi bao gồm 150 em ở các trường trung học phổ thông ở Hà Nội. Cụ thể: 50 em học sinh lớp 9 trường trung học cơ sở Quang Trung 52 em học sinh lớp 10 trường trung học phổ thông Trần Phú 48 em học sinh lớp 11 trường trung phổ thông Đinh Tiên Hoàng Tất cả các em đều đã được tiếp xúc với chương trình giáo dục SKSSVTN trong nhà trường phổ thông. Các em lại thuộc các giai đoạn khác nhau của cùng độ tuổi và được giáo dục trong môi trường khác nhau nên chắc chắn sẽ có những thái độ khác nhau với cùng một vấn đề. B - THỰC TRẠNG THÁI ĐỘ CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở HÀ NỘI KHI ĐƯỢC GIÁO DỤC SKSSVTN Để đánh giá thực trạng thái độc của các em, chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên ba bình diện: nhận thức, xúc cảm - tình cảm, hành vi. Đây là kết quả nghiên cứu của chúng tôi dựa vào sơ đồ cấu trúc thái độ như đã trình bày ở phần cơ sở lí luận. I. NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH PHỔ THÔNG KHI ĐƯỢC GIÁO DỤC SKSSVTN TRONG NHÀ TRƯỜNG. Để đánh giá thái độ của một cá thể với bất kì đối tượng nào đó, trước hết phải nắm bắt được những hiểu biết nhất định của cá thể về đối tượng đó. Những hiểu biết mà cá thể có được là do quá trình nhận thức chủ thể, vừa tiếp nhận - vừa phát hiện, khám phá ra bản chất của đối tượng. Vì thế, nhận thức được coi là cơ sở hình thành thái độ và tái hiện thái độ. Chúng tôi xuất phát từ quan điểm đó để đánh giá thái độ của khách thể nghiên cứu. Để tìm hiểu nhận thức của học sinh một số trường trung học phổ thông ở Hà Nội khi được giáo dục SKSSVTN, chúng tôi tiến hành nghiên cứu sự hiểu biết của các em về các vấn đề sau: + Thuật ngữ giáo dục SKSSVTN: vị trí và mục đích. + Sự phát triển tính dục của cơ thể ở tuổi dậy thì. + Các mối quan hệ ở tuổi vị thành niên (tình yêu, quan hệ tình dục) và hậu quả của nó. + Công tác phòng chống HIV/AIDS. Tất cả được thể hiện trong các câu hỏi 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9. 1. Nhận thức của học sinh phổ thông về “giáo dục SKSSVTN”. Chúng ta thường có những cảm nhận và ấn tượng khác nhau với cùng một vấn đề mà chúng ta tiếp xúc. Được coi như một môn học áp dụng trong nhà trường phổ thông, giáo dục SKSS cũng có thể gây nhiều cách hiểu khác nhau về tính chất và ý nghĩa của nó. Đặc biệt, nhận thức về vị trí và mục đích của môn học trong công tác giáo dục toàn diện nói chung là rất cần thiết - điều này tạo tiền đề cho sự hình thành thái độ đúng đắn và sâu sắc. Xuất phát từ quan điểm trên, chúng tôi đưa ra câu hỏi 1 điều tra ý kiến của các em khi đánh giá mối quan hệ của giáo dục giới tính và giáo dục SKSS là như thế nào, chúng tôi thu được kết quả sau: Bảng 1: Nhận thức của học sinh phổ thông về mqh giữa giáo dục SKSS và giáo dục giới tính. Nội dung Mức độ lựa chon Số người Tỉ lệ % Giáo dục giới tính = giáo dục SKSS 47 31,3 Giáo dục giới tính thuộc giáo dục SKSS 25 16,7 Sd SKSS thuộc giáo dục giới tính 63 42,0 Giáo dục giới tính khác giáo dục SKSS 15 10,0 Tổng 150 100,0 Đúng với những lí thuyết đã nêu, các em học sinh có nhiều ý kiến khác nhau khi trình bày hiểu biết của mình về mối quan hệ giữa hai vấn đề rất gần nhau này. Với câu hỏi đó, có 63/150 em - chiếm 42% là trả lời đúng; còn 58% trả lời sai. Điều này chứng tỏ nhận thức, sự hiểu biết của các em về vị trí môn học, về bản chất của giáo dục SKSS là chưa sâu. Khá nhiều ý kiến đánh đồng giáo dục SKSS và giáo dục giới tính là như nhau (47 em - chiếm 31, 3%); một số ít khoảng 16,7% các em cho rằng giáo dục SKSS bao hàm giáo dục giới tính và 10% ý kiến coi đây là hai nội dung hoàn toàn khác nhau. Như vậy cho thấy các em có nhận thức chưa đúng đắn về vị trí của môn học này, chưa có ý thức quan tâm và tìm hiểu nó một cách sâu sắc. Liệu có thể các em quan tâm tới nội dung của môn học, những cơ sở lí luận của môn học thì nắm chưa vững hay không? Cũng như vậy, khi ra câu hỏi về mục đích của giáo dục SKSS thì chúng tôi nhận được kết quả như sau: Bảng 2: Nhận thức của học sinh về mục đích giáo dục SKSSVTN trong nhà trường. Nội dung Mức độ lựa chon Số người Tỉ lệ % Tự hiểu biết về bản thân để tự bảo vệ 148 98,7 Có mối quan hệ nam - nữ bình đẳng và có trách nhiệm 112 74,7 Biết ứng xử trước các vấn đề tình dục - sinh sản 137 91,3 Xây dựng nhân cách tốt đẹp phù hợp với yêu cầu xã hội 65 70,0 Có thể nói, mục đích của giáo dục SKSSVTN bao gồm tất cả những nội dung trên. Điều tra cũng cho thấy sự hiểu biết của các em về mục đích của giáo dục SKSS là tương đối đầy đủ - như việc tự bảo vệ bản thân (98,7%), các mối quan hệ bình đẳng nam - nữ (74,7%), biết ứng xử trước các vấn đề tình dục (91,3%). Tuy nhiên, mục đích xây dựng nhân cách tốt đẹp hơn phù hợp với yêu cầu của xã hội là nội dung sâu xa nhất, quan trọng nhất thì các em lại ít đề cập tới hơn: chỉ có 65 em (70%) là có chú ý tới mục đích này của giáo dục SKSS. Phải chăng, điều này nói lên chân thực hơn nữa hiểu biết của các em là chưa thật sâu sắc. Qua hai bảng số liệu tổng kết từ hai câu hỏi đó, chúng tôi thấy các em nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục SKSS, tuy nhiên sự hiểu biết về thuật ngữ giáo dục SKSSVTN của các em học sinh mới chỉ ở mức trung bình. Các em mới hiểu vấn đề mình học một cách rất chung chung, chưa đi sâu tìm hiểu kĩ cơ sở để xây dựng nền móng vững chắc cho những nội dung tiếp theo. Có nhiều lí do giải thích vấn đề này, tuy nhiên một thực tế đáng buồn cho thấy các em học sinh phổ thông không quan tâm đúng mức đến vị trí và mục đích môn học của mình. Có thể nào những điều này chưa thực sự hấp dẫn họ, hay họ chỉ quan tâm tới nội dung chương trình học mà thôi? Sau khi điều tra nội dung chương trình học của các em về SKSS trong nhà trường phổ thông qua câu hỏi 3, chúng tôi nắm được nội dụng học tập của các em chủ yếu xoay quanh các vấn đề như: Hiểu biết về sự phát triển cơ thể tuổi dậy thì, các mối quan hệ ở tuổi vị thành niên như: tình bạn - tình yêu - quan hệ tình dục, hậu quả của các mối quan trên, con đường lây truyền và phòng tránh HIV - AIDS. Qua nghiên cứu nhận thức của các em khi được cung cấp kiến thức về những nội dung trên, chúng tôi thu được kết quả ở từng nội dung điều tra cụ thể. 2. Nhận thức của học sinh sự phát triển tính dục của cơ thể ở tuổi dậy thì. Để nắm vấn đề, chúng tôi yêu cầu các em bổ sung những biểu hiện sự thay đổi sinh lí của cơ thể nam - nữ khi đến tuổi dậy thì qua câu hỏi 4. Các em đều có bổ sung thêm nhưng không đầy đủ. Một số em (37%) còn bổ sung những vấn đề như: bạn nam thì ga lăng hơn, đàn ông hơn, hay để ý bạn gái... Bạn nữ thì dịu dàng hơn, nữ tính hơn và hay để ý bạn trai... đó là những vấn đề thuộc về sự thay đổi tâm sinh lí, chứ không phải là sinh lí. Đáng tiếc là có một số em chưa nắm rõ vấn đề mà cố tinh lái sang hướng khác, hay sự nhầm lẫn đó chỉ là vô tình? Hay các em còn ngại ngùng khi nêu lên những vấn đề thuộc chính bản thân mình? Qua phỏng vấn sâu một số em, chúng tôi càng thấy rõ điều đó. Các em rất ngại trả lời với chúng tôi, nhất là khi có mặt bạn bè khác giới mình. Bên cạnh đó, bằng điều tra bảng hỏi, chúng tôi thấy: các bạn nữ thì hiểu biết rất ít về sự biến đổi cơ thể của bạn nam và ngược lại bạn nam cũng hiểu biết rất ít về sự biến đổi cơ thể bạn nữ. Điều này không phải không có lí do giải thích, tuy nhiên nó cho thấy các em hiểu biết vấn đề còn sơ lược, hoặc còn lảng tránh việc trao đổi trực tiếp. Câu hỏi đặt ra với chúng tôi là: liệu tình trạng đó có ảnh hưởng tới việc giáo dục? Cùng với việc tìm hiểu nhận thức của các em về vấn đề cơ bản trên, chúng tôi cũng quan tâm tới những vấn đề khác thuộc nội dung học tập. 3. Nhận thức của học sinh phổ thông về các mối quan hệ ở tuổi vị thành niên (tình yêu, quan hệ tình dục) và hậu quả của nó. Chúng tôi điều tra vấn đề này qua câu hỏi số 5, 6, 7. Mối quan hệ ở tuổi vị thành niên chưa phải là nhiều, chỉ xoay quanh các vấn đề như: tình bạn, tình yêu... Nhưng nó lại thể hiện quan điểm của các em về cuộc sống, tạo cơ sở để các em bước vào đời với những mqh khác nhau. Khi chúng tôi đưa ra câu hỏi điều tra suy nghĩ của các em về tình yêu tuổi học trò thì thu được số liệu sau: Bảng 3: Nhận thức của các em về tình yêu tuổi học trò. Nội dung Mức độ lựa chon Số người Tỉ lệ % Trong sáng, vô tư 42 28,0 Xuất phát từ cảm xúc, phải giữ gìn 37 24,6 Nồng nhiệt, nhưng phải tỉnh táo 34 22,7 Có thể quan hệ tình dục nếu cả hai chấp nhận 17 11,3 Ý kiến khác 20 13,4 Tổng 150 100,0 Số liệu tổng kết cho thấy các em có những suy nghĩ rất khác nhau về tình yêu tuổi học trò, điều này thể hiện qua các số liệu có sự chênh lệch không đáng kể. Có 2 em, chiếm 28% cho rằng tình yêu tuổi học trò nên trong sáng, vô tư; có 37 em - chiếm 24,6% cho rằng tình yêu tuổi học trò hoàn toàn xuất phát từ tình cảm thuần khiết nên phải hết sức trân trọng; ó 22,7% (34 em) có quan điểm mạnh dạn hơn cho rằng tình yêu tuổi học trò nên nồng nhiệt, nhưng phải tỉnh táo. Và có 17 em chiếm 11,3% cho rằng tình yêu tuổi học trò có thể có quan hệ tình dục nếu cả hai cùng đồng ý và chấp nhận nhau. Bên cạnh đó, có 20 ý kiến khác cho rằng: không nên có tình yêu tuổi học trò vì nó rất mong manh, hoặc tình yêu tuổi học trò chỉ là sự rung động đầu đời và rất khó duy trì, hoặc cho răng tình yêu tuổi học trò nên e ấp và bí mật... Cảm nhận được sự nhiệt tình của các em với câu hỏi này, chúng tôi tiến hành phỏng vấn sâu ở 12 em và tổng kết được ý kiến của các em với mối quan hệ tình cảm này. Hầu hết các em không phủ nhận tuổi vị thành niên ai cũng có một tình bạn với một người bạn khác giới. Chính mối quan hệ đó góp phần không nhỏ cho sự phát triển toàn diện của các em, bởi nó giúp các em rất nhiều như: tăng cường lòng tự tin đẻ khẳng định bản thân mình hơn; nâng cao kĩ năng giao tiếp xã hội thông qua những buổi gặp gỡ hẹn hò để biết cách ứng xử; khẳng định bản sắc và vai trò giới bởi nó tạo cơ hội để nam nữ thể hiện chính mình; giúp phát triển những kĩ năng để hoà hợp trong mọi mqh, làm tâm lí tích cực hơn; giúp hiểu biết những đặc tính tâm lí và những nhu cầu riêng bằng cách khám phá và đáp ứng nhu cầu của nhau. Tuy nhiên, các em cũng không phủ nhận những mqh khác giới đầu tiên có thể bị ảnh hưởng bởi những tác động tiêu cực: thất bại đầu đời có thể làm lòng tự tin suy giảm, bị ảnh hưởng xấu và biến đổi vai trò giới. Dù vậy, tình yêu tuổi học trò trong quan điểm của các em nói riêng và xã hội nói chung vẫn có nhiều tác dụng tích cực. Quay trở lại kết quả ở bảng số liệu - nó nói lên nhận thức của các em về quan hệ tình cảm trong cuộc sống. Đa số ý kiến cho rằng tình yêu tuổi học trò nên trong sáng vô tư, phải giữ gìn, hoặc nồng nhiệt một chút nhưng vẫn phải tỉnh tảo (chiếm hơn 70% ý kiến). Bên cạnh đó, một số ý kiến táo bạo của các em chấp nhận quan hệ tình dục trong tình yêu tuổi học trò. Quan điểm này có ở 17 em chiếm 11,3% - không nhiều nhưng cũng không phải là ít. Sự khác nhau giữa những quan điểm đó xuất phát từ môi trường hoàn cảnh sống và điều kiện giáo dục của từng cá nhân. Chúng tôi không thể đánh giá thế nào là đúng - là sai, nhưng có thể thấy được suy nghĩ nào là phù hợp với chuẩn mực xã hội và truyền thống văn hoá dân tộc - để từ đó có phương thức giáo dục thích hợp. Cùng với câu hỏi trên, chúng tôi điều tra thêm suy nghĩ của các em về vấn đề quan hệ tình dục trước hôn nhân và thu số liệu qua bảng: Bảng 4: Nhận thức của các em về vấn đề quan hệ tình dục trước hôn nhân. Nội dung Mức độ lựa chon Số người Tỉ lệ % Đồng ý 28 25,3% Không đồng ý 95 56,7% Ý kiến khác 27 18,0 Tổng 150 100,0 Theo như bảng số liệu thì tỉ lệ số em học sinh phổ thông không đồng ý với quan hệ tình dục trước hôn nhân là 95% chiếm 56,7%, 28 em thể hiện sự đồng ý với với vấn đề này chiếm 25,3% tổng số - đây là một tỉ lệ không nhỏ rất đáng lưu tâm. Ngoài ra có 27 em ó ý kiến khác nhau về vấn đề, các em bày tỏ sự đồng ý với quan hệ tình dục trước hôn nhân nếu đó là tình yêu thực sự và chắc chắn; hay nếu có quan hệ tình dục thì phải là quan hệ tình dục an toàn. Phần lớn các em có quan điểm không đồng ý với quan hệ tình dục trước hôn nhân, nhưng những ý kiến lo ngại cũng chiếm 1/3 tổng số. Điều này cho thấy các em có cái nhìn khá rộng rãi với vấn đề. Bên cạnh đó, giữa học sinh nam và học sinh nữ cũng có sự chênh lệch về số lượng khi nêu suy nghĩ trước cùng một vấn đề đó. Các em nam có tư tưởng thoải mái hơn về vấn đề quan hệ tình dục trong tình yêu và trước hôn nhân (73% câu trả lời thuộc về khách thể nghiên cứu là nam giới, còn 27% thuộc về nữ giới). Khi thực hiện phỏng vấn sâu, chúng tôi thấy vấn đề này rõ hơn. Và với điều tra đó chúng tôi tổng kết bằng sơ đồ. Sơ đồ thể hiện quan điểm đồng tình của nam và nữ học sinh phổ thông về vấn đề quan hệ tình dục trong tình yêu tuổi học trò trước hôn nhân. Số liệu (%) Trong tình yêu tuổi học trò Trước hôn nhân Quan điểm về vấn đề nào Thực ra đó là một điều không khó hiểu, nhưng lại là dấu hiệu để ta quan tâm. Phải chăng, môi trường thủ đô văn minh, sầm uất, hiện đại với sự du nhập của nhiều lối sống và văn hoá khác nhau có ảnh hưởng không nhỏ tới các em về suy nghĩ và tư tưởng. Tình yêu tuổi học trò và vấn đề quan hệ tình dục trước hôn nhân là hai vấn đề thuộc về mqh xã hội mà lứa tuổi học sinh phổ thông hết sức quan tâm. Qua việc điều tra suy nghĩ của các em về 2 mqh đó, kết quả thu được làm ta cần chú ý hơn tới nó. Thực ra, có rất nhiều ý kiến khác nhau của các em trước cùng vấn đề này. Tuy nhiên, điều đó làm chúng tôi hết sức băn khoăn và thắc mắc tại sao trong cùng môi trường xã hội, môi trường giáo dục giống nhau mà các em lại có nhiều cách nghĩ khác nhau như vậy. Có lẽ, quan điểm của các em mang tinh cá nhân nhiều hơn, xuất phát hoàn toàn từ cảm nhận và suy nghĩ của các em trong cuộc sống vống đã có sự chi phối của môi trường xã hội hoá từ nhỏ, bắt đầu từ gia đinh.... Vì thế, việc xây dựng quan điểm cho các em từ nhỏ cùng với vai trò của gia đình là cực kì quan trọng. Một vấn đề nữa chỳng tụi muốn đề cập đến trong phần này, đú là hậu quả của quan hệ tỡnh dục. Với kết quả đó điều tra được về suy nghĩ của cỏc em với quan hệ tình dục trong tình yêu và trước hôn nhân, chúng tôi điều tra thêm hiểu biểu biết của các em về những căn bệnh có thể lây truyền qua quan hệ tình dục và kết quả thu được thể hiểu biết của các em còn non nớt và chưa toàn diện. Đa số các em biết những căn bệnh chủ yếu lây truyền qua quan hệ tình dục như: lậu, giang mai, AIDS. Còn một số bệnh khác thì rất ít em có câu trả lời. Điều này nói lên rằng các em chưa có sự tìm hiểu kĩ về vấn đề này, hay những gì các em được cung cấp là chưa đầy đủ? Các em chỉ nắm được những vấn đề chủ yếu - nhất là lây truyền vi rút HIV/AIDS thì em nào cũng đề cập tới. Có phải hiện nay căn bệnh đó đang là vấn đề nhức nhối của toàn cầu? Như vậy thì nhận thức của học sinh phổ thông về công tác phòng chống HIV/AIDS ra sao? Chúng tôi điều tra vấn đề này và nhận được kết quả cụ thể. 4. Nhận thức của các em về công tác phòng chống HIV/AIDS. HIV và 3 chữ viết tắt của loại vi rút gây ra AIDS - là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải Khi vi rút HIV xâm nhập vào cơ thể, nó sẽ phá huỷ hệ thống miễn dịch của cơ thể làm cơ thể mất khả năng kháng khuẩn. Có khá nhiều con đường lây nhiễm vi rút HIV và nhận thức của các em học sinh phổ thông về vấn đề này được thể hiện qua bảng. Bảng 5: Nhận thức của học sinh phổ thông về con đường lây nhiễm vi rút HIV/AIDS. Hành vi Nguy cơ cao ít nguy cơ Không vấn đề Số % Số % Số % Quan hệ tình dục 150 100,0 Tiêm chích ma tuý 150 100,0 Mẹ sang thai 150 100,0 Được truyền máu 139 92,7 11 7,3 Cho máu 89 51,4 61 40,6 Xăm 56 37,3 68 45,4 26 17,3 Hôn 35 25,3 82 54,7 33 22,0 Dùng chung đồ 9 6,0 46 30,7 35 63,3 Nói chuyện 11 7,3 57 38,0 82 54,7 Số liệu của bảng cho thấy các em có nhận thức khá đúng đắn về các hành vi có thể gây nhiễm vi rút HIV/AIDS. Mặc dù nhận thức không phải chính xác hoàn toàn so với thực tế nhưng cho thấy sự hiểu biết của các em về vấn đề đó khá đầy đủ. Cũng với câu hỏi đó, chúng tôi tiến hành phỏng vấn sâu ở một số em và nhận được kết quả khả quan. Ngoài ra, chúng tôi tiến hành điều tra nhận thức của các em về cách thức giảm nguy cơ nhiễm HIV và các bệnh truyền qua quan hệ tình dục: Bảng 6: Nhận thức của các em về cách giảm nguy cơ lây nhiễm qua quan hệ tình dục: Nội dung Mức độ lựa chon Số người Tỉ lệ % Không có cách nào 9 6,0 Dùng bao cao su 139 92,7 Quan hệ tình yêu trong sáng 132 88,0 ý kiến khác 7 4,7 Nói chung các em có nhận thức tương đối chính xác: Có tới 139 ý kiến - chiếm 92,7% cho rằng dùng bao cao su sẽ hiệu quả. 132 ý kiến - chiếm 88,0% cho rằng quan hệ tình yêu trong sáng sẽ không gây nhiễm HIV và bệnh. Có 7 ý kiến (47%) cho rằng không nên quan hệ tình dục và sử dụng thuốc phòng ngừa trước. Tuy nhiên, đáng lưu tâm là có 9 ý kiến (6%) cho rằng không có cách nào để giảm....? Liệu có phải điều này xuất phát thực sự từ vấn đề nhận thức của các em nghĩ không có cách nào giảm nguy cơ đó, hay bởi các em không tin tưởng vào tác dụng của các biện pháp khác...? Dù là lí do gì thì nó cũng thể hiện tư tưởng có phần tiêu cực của các em trước vấn đề này. Rất may là số lượng đó không nhiều (6%) mà chỉ chiếm phần rất nhỏ. Còn hầu hết các em có nhận thức đúng đắn về công tác phòng chống HIV/AIDS bằng một số biện pháp cốt yếu hữu hiệu. Khi phỏng vấn sâu một số em, chúng tôi được biết trường học cũng giáo dục công tác phòng chống này, nhưng chưa có sự hướng dẫn cụ thể hơn như cách thức sử dụng dụng cụ như thế nào? Hay sử dụng loại thuốc gì để phòng chống? Thực ra, nếu biết rõ những cách thức đó thì sẽ bổ sung tri thức cho các em toàn diện hơn, để các em có những biện pháp đối phó với những tình huống bất ngờ khó tránh và biết cách phòng vệ bản thân. Như vậy, nhìn chung học sinh phổ thông được giáo dục SKSSVTN đều có những hiểu biết nhất định về vấn đề này. Nội dung nhận thức khá phong phú và mức độ nhận thức tương đối khác nhau. Tuy nhiên, nhận thức của các em còn chưa toàn diện, chưa thực sự chính xác, đầy đủ và sâu sắc. Sự nhận thứ của các em về vấn đề hoặc mới chỉ là bề ngoài sơ lược kiểu “cưỡi ngựa xem hoa”, hoặc còn chung chung, hoặc còn ảnh hưởng nhiều từ tư tưởng cá nhân và chịu sự chi phối của môi trường xã hội. Không thể bỏ qua sự ảnh hưởng của yếu tố xã hội tới sự nhận thức của các em. Nhưng nếu coi đó là lí do để giải thích sự thiếu sót trong nhận thức này thì không thể. Đây cũng là một thực tế không mấy khả quan khi chúng tôi nghiên cứu về mặt nhận thức của học sinh một số trường phổ thông khi được giáo dục SKSS. Nhà trường và các tổ chức xã hội nên có sự kiểm tra thường xuyên hơn bằng nhiều hình thức khác nhau để các em củng cố lại kiến thức của mình. Trong quan hệ với thế giới khách quan, con người không chỉ nhận thức thế giới mà còn tỏ thái độ cụ thể của mình. Những hiện tượng tâm lí biểu thị thái độ chủ quan của con người là xúc cảm - tình cảm. Tình cảm tích cực cũng phải dựa trên nhận thức đúng đắn. Và tình cảm của học sinh với giáo dục SKSSVTN như thế nào có ý nghĩa rất quan trọng góp phần vào đánh giá hiệu quả áp dụng của nó trong đời sống xã hội. II. XÚC CẢM - TÌNH CẢM CỦA HỌC SINH PHỔ THÔNG KHI ĐƯỢC GIÁO DỤC SKSSVTN. Có thể nói, đời sống tình cảm của con người rất phong phú và phức tạp, được thể hiện dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Trong cấu trúc thái độ, tình cảm có vai trò quan trọng và cần thiết hình thành thái độ cũng như ảnh hưởng trực tiếp tới hành vi của con người. 1. Xúc cảm - tình cảm của học sinh với những vấn đề liên quan tới SKSSVTN nói chung. Những vấn đề liên quan tới SKSSVTN nói chung chúng tôi đề cập ở đây bao gồm những nộ dung như đã nêu khi chúng tôi đánh giá nhận thức của các em. Để biết được xúc cảm - tình cảm của các em với vấn đề này ra sao, chúng tôi thông qua kết quả trả lời của các em với những câu hỏi đã thống kê số liệu trên và đưa thêm một số câu hỏi 10, 11, 12, 19. Qua những câu hỏi như 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 - chúng tôi không chỉ điều tra được nhận thức của các em về vấn đề này, mà còn đánh giá được thái độ của các em với những vấn đề liên quan. Các em đều trả lời đầy đủ những nội dung mà câu hỏi yêu cầu, tuy mức độ chính xác chưa cao - mức độ kiến thức chưa sâu, nhưng điều đó cho thấy các em có sự quan tâm khá lớn tới những vấn đề thuộc SKSSVTN. Nếu không có sự quan tâm như thế làm sao các em có thể kiên trì đọc và trả lời hết những câu hỏi yêu cầu, thậm chí còn trả lời khá nhiệt tình những vấn đề được hỏi, chứ không phải chỉ là qua quýt. Tiến hành phỏng vấn sâu ở một số em, chúng tôi càng thấy rõ điều này. Các em hơn 90% đặc biệt rất hứng thú khi được hỏi về tình yêu tuổi học trò. Các em trả lời với chúng tôi khá sâu sắc về các mặt tích cực và tiêu cực của tình yêu tuổi học trò. Điều đó nói lên rằng phần lớn các em rất quan tâm tới vấn đề này, còn phần nhỏ các em chưa thực sự lưu tâm tới nó. Điều chúng tôi băn khoăn là sự phân hoá về mặt xúc cảm - tình cảm của các em với cùng vấn đề trong cùng môi trường giáo dục này. Có lẽ điều này bắt nguồn từ lí do nhận thức của các em, hoặc do những vấn đề này ít liên quan tới bản thân rất ít cá nhân ấy.... Bên cạnh đó, qua câu hỏi 10 chúng tôi còn thu được kết quả mức độ tìm tòi vè SKSSVTN của các em như sau: Bảng 7: Các nguồn tri thức chủ yếu của học sinh phổ thông về SKSS Nội dung Mức độ lựa chon Số người Tỉ lệ % Sách báo, phim 95 63,4 Bạn bè, người thân 56 37,3 Nhà trường cấp 91 47,3 Phương tiện thông tin 36 24,0 Đây là một kết quả khá khả quan, ngoài 47,3% em có kiến thức về SKSS qua nhà trường cấp, thì có khá nhiều em tìm hiểu thêm về nó qua sách báo, phim ảnh (63,4%), qua bạn bè người thân (37,3%), qua phương tiện thông tin (24%). Những con số đó nói lên rằng các em rất nhạy cảm với những vấn đề này ngoài xã hội, và khá chịu khó tìm hiểu thêm về nó. Hơn 50% các em không chỉ chờ đợi kiến thức từ nhà trường, còn tìm hiểu thêm bên ngoài nhờ sách báo, phim, phương tiện thông tin và trao đổi với bạn bè, người thân. Điều này đặt ra cho chúng tôi câu hỏi: liệu do kiến thức nhà trường cung cấp không phù hợp hay do các em rất quan tâm tới nó và muốn tìm hiểu thêm. Kết quả của câu hỏi 11 đã trả lời cho thắc mắc đó. Bảng 8: Mục đích tìm hiểu vấn đề liên quan tới SKSSVTN. Nội dung Mức độ lựa chon Số người Tỉ lệ % Thoả mãn tò mò 43 28,6 Giết thời gian 28 18,7 Cảm thấy cần 87 58,0 Có thắc mắc 92 61,3 Bảng số liệu không chỉ nói lên mục đích của các em khi tìm hiểu SKSSVTN mà còn cho thấy sự quan tâm của các em tới vấn đề này. Có tới 58% các em tìm hiểu vì thấy cần thiết và 61,3% có thắc mắc. Bên cạnh đó, có 28,6% tìm hiểu chỉ để thoả mãn tò mò và 18,7% để giết thời gian. Tuy tỉ lệ này không cao nhưng cũng là điểm đáng chú ý. Sở dĩ vẫn có thái độ này ở các em, bởi có một phần nhỏ các em chưa nhận thức được tầm quan trọng của nó, chưa thấy hết ý nghĩa của nó nên còn thờ ơ và không coi trọng nó. Thái độ đó cũng xuất phát từ vấn đề nhận thức mà ra. Vì thế cũng là điều dễ hiểu khi ta thấy hiện tượng này, bởi theo số liệu thống kê cũng thấy không phải ít em còn nhận thức thiếu chính xác về giáo dục SKSS. Để khẳng định lại điều đã trình bày ở trên, chúng tôi đưa thêm câu hỏi và thu được số liệu: Bảng 9: Cảm nhận của bạn khi được biết về SKSSVTN. Nội dung Mức độ lựa chon Số người Tỉ lệ % Rất bổ ích 69 46,0 Khá bổ ích 50 33,3 Vô ích 6 4,0 Bị kích thích 25 16,7 Tương ứng với những số liệu và đánh giá nêu trên, kết quả của bảng số liệu này cho thấy có 119 em (76,3%) cho rằng kiến thức về SKSS là hữu ích (trong đó có 46,3% thấy nó rất bổ ích và 33,3% thấy khá bổ ích). Còn 6 em chiếm 4% cho rằng vô ích, và 25 em chiếm 16,7% thấy bị kích thích. Những số liệu này góp phần chứng minh rõ hơn cho lời lẽ của chúng tôi. Chúng tôi cũng đưa ra khá nhiều cầu hỏi trong phỏng vấn sâu và cũng nhận được sự phản hồi tương tự. Những kết quả chứng tỏ phần lớn các em có thái độ quan tâm tới vấn đề này, còn phần rất nhỏ các em chưa thực sự lưu tâm tới nó. Điều đó làm chúng tôi trăn trở vì các em có nhiều cảm xúc khác nhau trong cùng môi trường.... có thể giải thích rằng điều này bắt nguồn từ lí do nhận thức của các em về vị trí, vai trò của nó hay không? Hay do xúc cảm hình thành bị ảnh hưởng bởi quan điểm nào đó trong cuộc sống riêng của từng cá nhân - không thể bỏ qua môi trường cá nhân của từng em bởi đó là nơi nuôi dưỡng và xây dựng nền móng quan điểm cho các em từ nhỏ. Từ những số liệu và nhân xét trên đòi hỏi rất lớn môi trường giáo dục trong nhà trường và gia đình, xã hội cần lưu tâm hơn tới việc tuyên truyền - giáo dục cho học sinh để họ có cái nhìn toàn diện hơn, đúng đắn hơn để có tình cảm sâu sắc hơn với vấn đề mang tính chất cộng đồng này. 2. Xúc cảm - tình cảm của học sinh phổ thông với chương trình giáo dục SKSS đang được học. Khi thấy xúc cảm - tình cảm của các em với vấn đề liên quan tới SKSS không cao, chúng tôi đi vào điều tra xem chương trình giáo dục SKSS hiện nay trong nhà trường có phù hợp với các em không. Qua câu hỏi số 13, chúng tôi thu được kết quả: Bảng 10: Cảm nhận về sự phù hợp của chương trình giáo dục SKSSVTN trong nhà trường đối với ban. Nội dung Mức độ lựa chon Số người Tỉ lệ % Có 71 47,3 Không 26 17,3 í kiến khác 54 35,4 Có 71 em (chiếm 47,3%) trả lời là phù hợp 26 em (chiếm 17,3%) trả lời là không phù hợp 54 em (chiếm 35,4%) có ý kiến khác về vấn đề. Các em không thừa nhận hoặc phủ nhận điểm gì và đưa ra ý kiến riêng của mình. Chúng tôi có kết hợp phỏng vấn sâu các em với câu hỏi này và nhận được các ý kiến sau: một số em cho rằng nói chung chương trình phù hợp về mặt lí thuyết, cung cấp đầy đủ nội dung cần thiết cho các em và phù hợp với lứa tuổi, tuy nhiên đôi khi nội dung chưa được cụ thể hoá để các em dễ hiểu hơn. Một số em cho rằng nên có sự minh hoạ cụ thể bằng công cụ hoặc vật dụng thì khả năng tiếp thu tốt hơn. Một số em cho rằng chưa thực sự thích hợp với hình thức và chương trình như thế. Chúng tôi cảm thấy không ngạc nhiên với kết quả trả lời đó của các em. Bởi đây có thể là một lí do giải thích cho kết quả điều tra về nhận thức và thái độ các em với vấn đề này của chúng tôi ở trên. Và những kết quả đó hoàn toàn có sự lôgíc với nhau chặt chẽ. Chỉ có gần 1/2 các em (47,3%) là thấy chương trình phù hợp, còn gần 1/5 (17,3%) cho rằng chương trình không thích hợp; ngoài ra có hơn 1/3 các em có ý kiến khác muốn điều chỉnh một chút về nội dung chương trình - con số không phải ít. Cộng với việc phỏng vấn sâu từng em, chúng tôi hiểu rõ hơn phần nào nguyện vọng của các em về vấn đề. Để nắm được cụ thể hơn, chúng tôi đưa ra câu hỏi 14 điều tra hình thức học tập của các em về SKSSVTN trong nhà trường. Bảng 11: Hình thức học tập của các em trong nhà trường: Nội dung Mức độ lựa chon Số người Tỉ lệ % Thầy truyền đạt bằng lời giảng 100 67 Trò thắc mắc thầy giải đáp 5 3 Trao đổi bình đẳng 7 4,7 Hình thức khác 38 25,3 Thật là kết quả khá ngạc nhiên với chúng tôi. Số liệu cụ thể như sau: có 120 em (80%) ý kiến trả lời hình thức học tập là thầy truyền đạt bằng lời; 5 em (3%) trả lời hình thức học là trò thắc mắc gì thầy giải đáp đó; 7 3 (4,7%) trả lời hình thức học tập là trao đổi bình đẳng thầy trò; 18 em (12%) có ý kiến khác rằng các em học bằng hình thức thầy giảng, có lúc thầy hỏi - trò trả lời, trò thắc mắc thì thầy giải thích, có lúc thì trao đổi bình đẳng với nhau - tức là kết hợp nhiều hình thức trên. Điều gây ngạc nhiên ở đây là chúng tôi điều tra tại 3 địa điểm thì số liệu thu được không thể có sự chênh lệch đáng kể như vậy. Bởi cứ khoảng 50 em thì cùng được giáo dục trong cùng một môi trường, không thể cùng môi trường học lại có phương pháp dạy khác nhau như thế. Điều này là không hợp lí so với thực tế. Vì thế, với câu hỏi này, chúng tôi chỉ có thể rút ra tình hình cụ thể quả việc lấy số liệu đa số. Có thể kết luận về phương pháp học của các em như sau: chủ yếu các em học bằng phương pháp thầy truyền đạt bằng lời giảng, có đôi lúc thầy ra các câu hỏi yêu cầu trò trả lời, đôi lúc thầy có thắc mắc thì trò giải đáp và có sự trao đổi lẫn nhau giữa thầy và trò. Nắm được thực tế đó, chúng tôi thăm dò tình cảm của các em bằng câu hỏi 15 vừa đóng, vừa mở và có kết quả: Bảng 12: Mức độ cảm xúc tích cực của em với nội dung - hình thức chương trình học hiện tại. Nội dung Mức độ lựa chon Số người Tỉ lệ % Có 33 22 Không 20 13,3 í kiến khác 97 64,7 Số liệu thu được khá sát với dự đoán của chúng tôi và hợp lí so với những kết quả đã có ở câu hỏi 13, 14. Tỉ lệ các em cảm thầy hình thức học không phù hợp chiếm 17,3% tương ứng với 22% số em muốn thay đổi hình thức học. Tỉ lệ các em thấy hình thức học phù hợp là 47,3% lại không tương ứng với tỉ lệ các em không muốn thay đổi hình thức học là 13,3%. Tại sao lại có sự chênh lệch đó? Nếu nhiều em thấy hình thức học phù hợp thì tại sao ít em không muốn thay đổi nó - lẽ ra hai con số phải có sự tương quan! Có lẽ đa số các em mong muốn có sự điều chỉnh chút ít về nội dung - hình thức học để có hiệu quả cao, hơn là việc thay đổi nó. Số liệu sau minh chứng cho điều này. Phần lớn các em (97 em - chiếm 64,7%) có ý kiến là: muốn nội dung học căn bản là như vậy, nhưng sâu sắc hơn ở những phần là mối quan tâm lớn của các em như vấn đề mqh ở tuổi vị thành niên (tình bạn, tình yêu, cách ứng xử mỗi giới). Hình thức học nên bổ sung thêm phần thực tế và muốn có sự trao đổi gần gũi hơn giữa thầy trò, bạn bè... Đây là những đóng góp rất chân thực mà chúng tôi hoan nghênh. Tình hình thực tế đó cũng ảnh hưởng khá lớn tới cảm xúc của các em khi học. Bảng 13: Hứng thú của các em khi được giáo dục SKSSVTN: Nội dung Mức độ lựa chon Số người Tỉ lệ % Say mê 12 8,0 Có hứng thú 43 28,7 Buồn tẻ 77 51,3 Không vào đầu 18 12,0 Có 77 em - chiếm 51,3% thầy buồn tẻ với chương trình giáo dục SKSS được học. Chỉ có 12 em (8%) cảm thấy say mê với chương trình học đó Có 43 em (38,7%) có hứng thú với 18 em (12%) không vào đầu. Cảm xúc của các em rất phong phú với cùng một chương trình học. Tuy nhiên, số cảm thấy buồn tẻ chiếm phần lớn, khoảng 1/3 thấy có hứng thú, say mê và hơn 1/5 thấy không vào đầu. Điều này ngoài những lí do thuộc về từng cá nhân, có lẽ cũng có phần liên quan tới nội dung, chương trình học tập hiện tại của các em. Chúng tôi chưa thể khẳng định điều gì, tuy nhiên nó đụng chạm tới nhiều vấn đề mà chúng tôi cần lưu ý. Như vậy, với kết quả điều tra về xúc cảm - tình cảm của các em qua câu hỏi 13, 14, 15, 16, 17 - chúng tôi đã thu được kết quả cụ thể. Nếu qua kết quả điều tra ở phần trước cho thấy các em có quan tâm tới vấn đề này, thì kết quả điều tra ở đây cho thấy khá nhiều em còn chưa thực sự hài lòng với chương trình đang học về nội dung kiến thức và hình thức truyền đạt, vì thế bên cạnh những hứng thú say mê thì rất nhiều em nảy sinh cảm xúc chán nản và không muốn tiếp thu. Bằng việc tiến hành phỏng vấn sâu, chúng tôi biết nguyện vọng của các em muốn có được sự dân chủ, bình đẳng và giao lưu trong học tập. Các em muốn đi sâu vào vấn đề mình quan tâm hơn, muốn trao đổi trực tiếp nhiều hơn và muốn được giải đáp thắc mắc cụ thể hơn. Rõ ràng, các em rất quan tâm tới vấn đề này và muốn tìm hiểu về nó - điều đó bộc lộ ở sự nhiệt tình trao đổi và trả lời câu hỏi cũng như phỏng vấn của chúng tôi. Nhưng chúng tôi có cảm nhận rằng hình thức giáo dục hiện tại chưa thoả mãn nguyện vọng của phần lớn các em, làm nảy sinh những cảm xúc tiêu cực - hiệu quả học tập chắc chắn bị ảnh hưởng. Vấn đề chúng tôi tự đặt ra rằng: liệu hiệu quả ọc tập có tăng không nếu có sự điều chỉnh ở khâu tổ chức giáo dục của nhà trường? Thái độ của con người không chỉ bộc lộ bằng xúc cảm - tình cảm nhất định mà còn biểu hiện qua hành vi cụ thể bên ngoài. Chúng tôi thấy để đánh giá thái độ của đối tượng nào đó có tích cực hay không phải xem xét nhận thức - tình cảm - hoạt động của họ có thống nhất không? (Tất nhiên không thể bỏ qua nhiều yếu tố ảnh hưởng tới hành vi như chuẩn mực xã hội, áp lực nhóm, hoàn cảnh sống...) chúng tôi sẽ tìm hiểu hành vi của học sinh phổ thông để làm rõ vấn đề hơn. III. HÀNH VI CỦA HỌC SINH PHỔ THÔNG KHI ĐƯỢC GIÁO DỤC SKSSVTN. Hành vi là mặt biểu hiện của thái độ, còn gọi là thái độ bên ngoài. Đánh giá hành vi là tiêu chí quan trọng đánh giá thái độ. Nghiên cứu hành vi của học sinh phổ thông khi được giáo dục SKSSVTN, chúng tôi xét ở các biểu hiện sau: 1. Mức độ tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan khi được giáo dục? Nếu như ở phần trên, chúng tôi tiến hành điều tra xúc cảm - tình cảm của các em khi được tìm hiểu các vấn đề liên quan tới SKSS; thì ở phần này, chúng tôi tiến hành đánh giá hành vi qua việc điều tra mức độ tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan của các em ra sao. Chúng tôi điều tra vấn đề đó, bởi muốn biết xem ngoài những kiến thức nhà trường cung cấp, các em có hành động tìm hiểu thêm vấn đề này hay không, và nhằm mục đích gì. Để có lời giải đáp cho thắc mắc trên, chúng tôi tổng kết số liệu ở các câu hỏi 10, 11, 12, 16. Kết quả đó đã được trình bày ở bảng 7, 8, 9. Các con số đều nói lên rằng: các em quan tâm tới vấn đề và có sự tìm hiểu thêm qua các nguồn tài liệu như: sách báo phim ảnh (95 em - 63,4%); phương tiện thông tin (36 em - 24%); bạn bè người thân (56 em - 37,3%); chỉ có 71em là trông cậy vào nguồn kiến thức của nhà trường mà không tìm hiểu thêm. Các em tìm hiểu các vấn đề với mục đích như: cần (87 em - 58%) và thắc mắc (92 em - 61,3%), bên cạnh đó vẫn có không ít em tìm hiểu chỉ để thoả mãn tò mò (43 em - 28,6%) hoặc giết thời gian (28 em - 18,7%). Ngoài một số em có sự tìm hiểu thêm vấn đề qua các tư liệu khác thì không ít em vẫn chỉ phụ thuộc kiến thức nhà trường cung cấp. Tuy nhiên, qua động cơ tìm hiểu của các em thì chúng tôi nhận thấy: không ít tìm hiểu chỉ để thoả mãn trí tò mò và giết thời gian. Hành động cụ thể, thiết thực mà xuất phát từ động cơ có phần tiêu cực liệu có được được đánh giá là hành động tích cực hay không? Bên cạnh đó, sau khi các em đã tìm hiểu các tài liệu liên quan, chúng tôi điều tra về cảm nhận của các em thì thấy ngoài 4/5 số em thích vấn đề mình tham khảo là bổ ích, thì cũng có gần 1/5 cảm thấy vô bổ và có tới 16,7% cảm thấy bị kích thích - liệu có phải là một vấn đề đáng lo ngại hay không, bởi chúng tôi nghĩ mầm mống của những hành vi sai lệch có thể xuất phát từ lí do này. Tuy nhiên, vẫn phải có những nhận xét chung là các em có hành vi tích cực trong việc tìm hiểu thêm về vấn đề đó, dù số lượng chưa nhiều và chưa phải toàn diện. Bên cạnh đó có một số em chưa có sự tìm tòi và chưa có hành động tích cực với vấn đề. Nhưng để có thể kết luận chính xác hơn, chúng tôi đi vào đánh giá mức độ sẵn sàng tham gia thể hiện những nội dung thuộc bảo vệ SKSSVTN của các em. 2. Mức độ sẵn sàng tham gia thực hiện nội dung bảo vệ SKSSVTN. Chúng tôi có tham khảo tài liệu học tập của các em và có nắm được một số nội dung về bảo vệ SKSSVTN. Những nội dung đó khá phong phú, toàn diện, tích cực và không quá khó khăn với việc thực hiện nó. Chúng tôi đặt câu hỏi với các em và thu được kết quả qua câu hỏi 21: Bảng 14: Nội dung bạn đã thực hiện để bảo vệ SKSSVTN. Nội dung Mức độ lựa chon Số người Tỉ lệ % Sống cởi mở và chia sẻ với người thân 78 52,0 Tập thể dục đều đặn 82 54,7 Không dùng chất kích thích 83 55,3 Vệ sinh thân thể và vệ sinh ăn uống 145 96,7 Quý trọng bản thân 98 65,3 Không quan hệ tình dục sớm 139 92,6 Không xem văn hoá phẩm đồi truỵ 106 70,7 Xây dựng quan điểm sống lành mạnh 109 72,7 Những nội dung khác 31 20,7 Bảng số liệu cho thấy rằng học sinh phổ thông đều thực hiện những nội dung của bảo vệ SKSS như trên, tuy nhiên mức độ không đồng đều giữa các nội dung đó. Phần lớn ác em thực hiện những nội dung như: vệ sinh thân thể và vệ sinh ăn uống (96,7%); không quan hệ tình dục sớm 9139 em - 92,6%); xây dựng quan điểm sống lành mạnh (109 - 72,7%); không xem văn hoá phẩm đồi truỵ (106 - 70,7%); quý trọng bản thân (không đua xe, không đánh nhau) có 98 em - chiếm 65,3%. Bên cạnh đó, những nội dung khác các em thể hiện ở mức trung bình: tập thể dục thể thao đều đặn (82 em - 54,7%); không dùng chất kích thích (83 em - 55,3%); sống cởi mở và chia sẻ với người thân (78 em - 52,0%). Ngoài ra, một số em còn thực hiện những nội dung khác như: học hỏi thêm qua sách báo tài liệu, tham gia các tổ chức xã hội để bảo vệ SKSS, tuyên truyền, vận động bạn bè và người thân thực hiện - con số này chiếm 20,7% (31 em). Đó là những số liệu cho thấy một thực tế đáng mừng. Những nội dung mà phần lớn các em thực hiện đều liên quan tới bản thân nên đây cũng là điều bình thường. Tuy nhiên, chúng tôi có một băn khoăn về nội dung: sống cởi mở với người thân để chia sẻ về SKSS của bản thân lại ít em thực hiện (78 em) đến vậy. Đây có phải là điều quá khó thực hiện hay không? Gia đình vốn là môi trường gần gũi nhất nhất với các em, tạo sao lại có kết quả đó? Liệu có phải vấn đề này chưa được thái độ cởi mở trong gia đình bởi cha mẹ quá ít đề cập tới nó - họ tránh né hay ngại ngùng? Phải chăng đây cũng là một thông điệp các em đã vô tình gửi tới chúng tôi? Chúng tôi thiết nghĩ: gia đình nên có sự sẻ chia bình đẳng và thân mật với các em về những vấn đề thầm kín này, để các em có một bến bờ cảm thấy an toàn và bình tâm. Chúng tôi tiếp tục điều tra về mức độ sẵn sàng của các em và có được kết quả sau: Bảng 15: mức độ sẵn sàng của bạn khi tham gia bảo vệ SKSSVTN. Nội dung Rất sẵn sàng Chưa sẵn sàng Tham gia cho vui Không quan tâm Số người % Số người % Số người % Số người % Áp dụng kiến thức cho bản thân 50 33,3 66 44,0 26 17,3 8 5,3 Tuyên truyền vận động bạn bè 20 13,3 86 57,3 34 22,7 10 6,7 Chống lại hành vi xấu 18 12,0 98 65,3 19 12,7 15 10,0 Tham gia tổ chức xã hội 30 20,0 73 48,7 31 20,7 16 10,6 Nói chung, các em đều thực hiện các nội dung đã nêu của chúng tôi và có phân hoá ở mức độ khác nhau. ở mỗi nội dung, đều chia các cường độ và tổng kết của chúng tôi đã cho thấy rõ. Đa số các em chưa sẵn sàng với tất cả các nội dung đó, đặc biệt là chưa sẵn sàng chống lại hành vi xấu (98 em - 65,3%) và tham gia tổ chức xã hội (73 em - 48,7%). Ngoài ra, một số em không quan tâm tới các nội dung thực hiện này (nhỏ hơn 10%). Tuy không phải số nhiều nhưng phần nào cho thấy ý thức hành động không có, thì sẽ không thể có những hành vi thực hiện tích cực. Qua số liệu cũng thấy phần lớn các em tích cực thực hiện với những nội dung liên quan tới bản thân mình nhiều hơn (50 em rất sẵn sàng áp dụng kiến thức cho bản thân - 33,3%), chỉ có 18 em sẵn sàng chống lại hành vi xấu (12,0%) và 20 em sẵn sàng tuyên truyền vận động bạn bè (13,3%), còn lại là chưa sẵn sàng và chỉ tham gia cho vui hoặc không quan tâm. Có lẽ xuất phát từ lí do các em chưa ý thức được hậu quả của hoạt động đó. Tuy nhiên có 30 em sẵn sàng tham gia tổ chức xã hổi để bảo vệ SKSS (20%) - tuy không phải là nhiều nhưng cũng là một con số đáng khích lệ. Điều này nói lên các em rất có hứng thú với những buổi giao lưu tập thể để trao đổi về vấn đề, hoặc làm công tác mang tính cộng đồng. Từ những số liệu chân thực trên, chúng tôi muốn để các em tự đánh giá mức độ bản thân khi áp dụng chương trình giáo dục SKSS và đã thu được kết quả trong bảng số liệu sau: Bảng 16: Mức độ áp dụng của bản thân. Nội dung Mức độ lựa chon Số người Tỉ lệ % Rất tích cực 12 6,7 Tích cực 31 20,6 Bình thường 97 64,7 Không làm gì 12 6,0 Có 12 em, chiếm 6,7% tự đánh giá là mình tham gia rất tích cực. Con số này chỉ chiếm gần 1/10 tổng số em. Có 31 em - 20,6% tự đánh giá là tích cực (chiếm 1/5 tổng số). Có 97 em - 64,7% tự đánh giá tham gia bình thường. Và có 12 em (khoảng 6%) thấy mình chưa làm gì. Số liệu cụ thể chỉ ra rằng: mức độ áp dụng chương trình bảo vệ SKSSVTN đã học của các em chủ yếu mới ở mức trung bình (2/3 các em đã trả lời như vậy). Có khoảng 40 em thấy mình tham gia có tích cực (chiếm hơn 1/4 tổng số) và một bộ phận nhỏ các em không làm gì (khoảng 1/10 tổng số). Ta có thể ghi nhận lòng nhiệt tình của các em trong những hoạt động này (dù chưa phải là toàn diện). Tuy nhiên, tại sao các em nhận thức được quan trọng của nó mà lại chưa thực sự tích cực khi tham gia. Quả thật để lí giải điều này không phải đơn giản. Phải chăng trách nhiệm thuộc về người tổ chức chưa có những nội dung - hình thức hoạt động hấp dẫn học sinh - hay lí do nằm ở bên trong động cơ hoạt động và ý chí của mỗi cá nhân. Nếu chúng ta biết quan tâm tới mọi người nhiều hơn và thể hiện bằng những hành vi tích cực hơn thì chúng tôi tin rằng chúng ta sẽ thành công trong việc bảo vệ SKSSVTN này và giải quyết được rất tốt đẹp những vấn đề của xã hội. PHẦN III - KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ. Chương I KẾT LUẬN Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng thái độ của học sinh một số trường phổ thông ở Hà Nội với việc giáo dục SKSSVTN trong nhà trường, chúng tôi rút ra được những kết luận sau: 1. Nhận thức. Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy hầu hết các em học sinh phổ thông không nắm chắc được những kiến thức về các vấn đề của SKSSVTN, sự hiểu biết đó là không đồng đều giữa các đối tượng và nội dung được giáo dục. Các em hầu như mới nắm được một cách sơ sơ vấn đề hoặc còn lơ mơ, chứ chưa chắc chắn, rõ ràng, toàn diện. Ngay cả thuật ngữ SKSSVTN các em cũng chưa hiểu hết ý nghĩa và tầm quan trọng của nó. Bên cạnh đó, một số vấn đề khác như: sự phát triển tính dục của cơ thể, mqh của tuổi vị thành niên, vấn đề HIV/AIDS... các em có sự quan tâm nhưng trang bị kiến thức còn hời hợt và không chắc chắn. 2. Xúc cảm - tình cảm. Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy học sinh phổ thông phần lớn đều có những tình cảm hết sức tích cực với những vấn đề thuộc SKSSVTN, và các em có ý thức tìm hiểu thêm về nó - mặc dù mức độ chưa cao. Tuy nhiên, với chương trình giáo dục SKSSVTN đang được giáo dục tại trường thì có một bộ phận không nhỏ các em cảm thấy không có hứng thú và tỏ ra thờ ơ mặc dù biết đây là vấn đề bức xúc. Rất nhiều em mong muốn có sự điều chỉnh một chút về nội dung và hình thức học để đạt hiệu quả giáo dục cao hơn. 3. Hành vi. Kết quả nghiên cứu cho thấy học sinh các trường phổ thông ở Hà Nội tham gia các hoạt động nhằm bảo vệ SKSSVTN chưa được tích cực và mức độ cũng không đồng đều. Phần lớn các em tham gia ở mức bình thường hoặc là có tích cực tuỳ theo nội dung thực hiện. Trong giới hạn nhất định những hoạt động của mình, các em hầu như chỉ dừng ở việc áp dụng cho bản thân hoặc trao đổi với bạn bè, còn việc tham gia chống những hành vi xấu hoặc tuyên truyền thi chưa nhiều, dù có tinh thần sẵn sàng cao.... Nhưng điều đáng nói là các bạn ý thức được sự chủ động tích cực trong việc tìm hiểu các vấn đề liên quan và có tinh thần sẵn sàng tham gia. Đó là một hành động rất có ý nghĩa và thể hiện quan điểm sống lành mạnh. Những kết luận trên đã phần nào khẳng định giả thuyết chúng tôi đưa ra là tương đối đúng đắn. Đa số các em học sinh ở các trường phổ thông ở Hà Nội khi được giáo dục SKSSVTN đều có sự lưu tâm chú ý tới vấn đề, nhưng hiệu quả của việc áp dụng lại chưa cao. Chính vì lí do đó mà chúng tôi muốn đề xuất một số khuyến nghị. Chương II KHUYẾN NGHỊ 1. Xã hội. Xã hội cần có sự đánh giá đúng đắn về thực trạng hành vi xã hội và hành vi tính dục của vị thành niên hiện nay, từ đó đi tới nhất trí về những yêu cầu bảo vệ sức khoẻ của lứa tuổi này. Nên mạnh dạn coi đây là vấn đề hết sức bình thường và không nên quá dè dặt trong hành động. Ngoài việc cung cấp thông tin qua phương tiện thông tin, sách báo - cần phát triển hệ thống dịch vụ riêng cho thanh thiếu niên khi họ gặp vấn đề về sinh sản, tình dục và mở rộng mô hình này (tổ chức sao cho thuận tiện và có phong cách phù hợp trong bầu không khí tiếp xúc thân ái và tôn trọng quyền được hưởng sự kín đáo của người được phục vụ). Song song với quá trình đó, xã hội cần xây dựng niềm tin cho vị thành niên ở tương lai, mở rộng cơ hội để vị thành niên khẳng định mình, thu hút họ vào các hoạt động hữu ích để hạn chế sự sa ngã vào cạm bẫy. Cần tham khảo thêm nội dung bảo vệ SKSS của các quốc gia khác và chọn lọc cho phù hợp với nền văn hoá và điều kiện kinh tế của nước ta. 1. Nhà trường. Bên cạnh việc tiến hành giáo dục, nhà trường nên kết hợp điều tra thái độ học tập của học sinh, tham khảo ý kiến các em với nội dung chương trình và hình thức học để có sự điều chỉnh sao cho phù hợp với nguyện vọng và nhận thức của các em. Luôn đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy, lấy người học làm trung tâm để tạo niềm say mê hứng thú cho các em. Bên cạnh đó, nên kiểm tra thường xuyên kiến thức của các em đã được học dưới nhiều hình thức khác nhau để giúp các em củng cố, và giới thiệu với các em những nguồn tư liệu liên quan để vị thành niên tự bổ sung thêm tri thức. Ngoài ra, nhà trường nên tổ chức những buổi ngoại khoá hoặc giao lưu giữa các em học sinh với nhau hoặc với tổ chức xã hội nào đó để nâng cao tầm nhận thức và ý thức hành động - từ đó sẽ cụ thể hoá hành vi. Nên giáo dục kĩ năng sống cho các em qua việc tổ chức các trò chơi và xây dựng các tình huống để các em tham gia và tự đánh giá. Thêm nữa, nhà trường nên thực hiện giáo dục hành vi tình dục an toàn để các em có khả năng ứng phó với những hoàn cảnh bất trắc. 3. Gia đình. Gia đình là môi trường tiếp xúc đầu tiên và quan trọng nhất trong quá trình xã hội hoá cá nhân. Vì thế, truyền thống và quan điểm giáo dục gia đình có ảnh hưởng cực lớn. Cha mẹ nên coi mình là tấm gương, luôn học hỏi để hiểu biết, có cách sống lành mạnh, tư cách xứng đáng sẽ ảnh hưởng tích cực tới sự hình thành nhân cách tốt đẹp cho con cái và tạo uy tín với con cái. Cha mẹ phải học kĩ năng nói chuyện cởi mở với con cái về những vấn đề tế nhị. Đặc biệt, nên giáo dục kĩ năng sống cho con từ nhỏ, tìm cách khơi dậy tính độc lập, tự giác của con chứ không phải áp đặt chúng. Nên giáo dục cho con có: lòng tự trọng, tự tin, vị tha, có niềm tin, hoài bão, xác định giá trị cuộc sống, có trách nhiệm với bản thân - gia đình - xã hội, vượt khó khăn, kiềm chế ham muốn, biết giao tiếp, biết quyết định một cách có trách nhiệm cũng như biết từ chối cám dỗ. 4. Bản thân mỗi học sinh phải ý thức được trách nhiệm của mình trong bảo vệ SKSSVTN, phải biết phát huy khả năng và năng lực trí tuệ để góp phần xây dựng xã hội lành mạnh, tích cực, phát triển, thể hiện bằng nhiều hành động: học tập tốt, biết quan tâm tới mọi người xung quanh và tham gia hoạt động tập thể tích cực và luôn biết nhận thức chân giá trị của cuộc sống. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lomov. B. Ph (2000): Những vấn đề lí luận và phương pháp luận tâm lí học. Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 2. Lê Văn Hồng (Chủ biên), Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thành (1998): Tâm học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm. Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 3. Nguyễn Thị Ngọc Phương: Luận văn tốt nghiệp: Thái độ của thanh niên Bát Tràng đối với nghề gốm truyền thống (2003). 4. Trần Thu Hương: Luận văn tốt nghiệp: Thái độ của học sinh phổ thông trung học đối với loại hình nghệ thuật sân khấu chèo (2000). 5. Đào Xuân Dũng: Giáo dục giới tính vì sự phát triển của vị thành niên. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 6. Nguyễn Thanh Bình (chủ biên): Giáo dục giới tính cho con. Nxb Giáo dục. 7. Một số báo và tài liệu liên quan. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTLH (54).doc
Tài liệu liên quan