Đề tài Tìm hiểu và các biện pháp phòng chống về tham nhũng và vấn đề tụt hậu xa hơn về kinh tế

Tỷ lệ thất thoát vốn đầu tư hiện chiếm 30%. Thất thoát, lãng phí, tham nhũng đang làm nghèo đất nước, gia tăng xung đột xã hội giảm lòng tin của dân đối với Đảng và các cơ quan công quyền, làm nản lòng các nhà đầu tư. Nghiêm trọng hơn, gần đây xuất hiện sự cấu kết giữa các bọn gian thương, trục lợi, tội phạm với các cán bộ bảo vệ pháp luật, các vị lãnh đạo gây thiệt hại lớn cho tài sản nhà nước. Do đó vấn đề này cần được giải quyết một cách đúng đắn và triệt để. Thứ 6: Hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương còn thấp. Để khắc phục tình trạng này cần phải chọn những cán bộ có năng lực thật sự thông qua kinh nghiệm và cống hiến của họ cho sự phát triển chứ không chỉ dựa vào bằng cấp và các chứng chỉ.

doc42 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 889 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu và các biện pháp phòng chống về tham nhũng và vấn đề tụt hậu xa hơn về kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t là giải phóng miền Nam. Và khi đó miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội với các khẩu hiệu: "Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc", "tất cả vì miền Nam thân yêu". Nhưng không chỉ đơn thuần phát triển kinh tế, miền Bắc cũng phải chịu những cuộc rải thảm bằng bom rất ác liệt, nó được ví như "Điện Biên Phủ trên không", đế quốc Mỹ đã ném xuống miền Bắc hàng triệu tấn bom để ngăn cản miền Bắc đi lên và sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam. Khi đó hàng trăm ngàn tấn bom đạn của Mỹ đã tàn phá rất nhiều những thành tựu của miền Bắc, nhưng không vì thế mà miền Bắc không phát triển, không viện trợ cho miền Nam ruột thịt. Miền Bắc vẫn phát triển và ngày càng viện trợ nhiều về người và tài sản cho miền Nam. Và đến năm 1975 đã chứng kiến cuộc một nước thuộc địa nhỏ đã đánh bại một tên trùm đế quốc xâm lược lớn. Kể từ đó nước ta hoàn toàn thống nhất, và nhân dân ta bây giờ chỉ còn việc bắt tay vào phát triển kinh tế. Nhưng nhìn vào toàn cảnh đất nước ta năm đó, thì Việt Nam bị tàn phá hết sức nặng nề mà để xây dựng lên các cơ sở hạ tầng như vậy để phục vụ cho phát triển thì ta cần rất nhiều thời gian, tiền của và công sức. Thứ hai, ngay sau khi cách mạng tháng 8 thành công, đặc biệt là ngay sau khi miền Bắc đi vào xây dựng xã hội mới. Khi đang tìm tòi con đường nối tiếp hợp lý với lịch sử và bứt ra khỏi quá khứ thì do hoàn cảnh của lịch sử lúc đó, chúng ta đã thu nhập mô hình kế hoạch hoá tập trung của Liên Xô và Trung Quốc cùng với việc nhận thức và vận dụng chưa sáng tạo tư tưởng Mác - Lênin trong mô hình xây dựng kinh tế phù hợp với điều kiện ở nước ta. Khi đang còn mò mẫm với mô hình kinh tế du nhập nói trên và đang bắt đầu trăn trở với các vấn đề nảy sinh trong cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước làm gián đoạn con đường tìm tòi, sáng tạo mô hình kinh tế mới, mô hình tổ chức xã hội mới. Như vậy, ở Việt Nam có một sự kết hợp giữa tư tưởng Nho giáo, tư tưởng Mác - Lênin đã có phần bị giáo điều hoá và được nhận thức, được nuôi dưỡng trong môi trường chiến tranh lâu dài. Vì vậy mô hình kinh tế Việt Nam là một mô hình rất đặc trưng, pha trộn nhiều màu sắc, phản ánh nhiều xu thế và rất phức tạp. Lý luận Mác - Lênin là học thuyết khoa học có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự phát triển xã hội, trong đời sống chính trị thế giới và phong trào công nhân quốc tế. Nó là nền tảng cho sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, thể hiện sự khát vọng cao cả của nhân loại, hướng tới một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, tiến bộ hơn theo nghĩa đầy đủ nhất của từ này. Việc sụp đổ của hệ thống XHCN vừa qua không có nghĩa đơn giản là sự sụp đổ của tư tưởng Mác - Lênin. Với tư cách là một học thuyết khoa học. Tuy nhiên cần ý thứuc rằng một học thuyết khoa học thì không thể coi nó như kinh thánh và cũng không thể giáo điều; nó có sự sáng tạo và có những hạn chế tất yếu mang tính lịch sử. Do vậy, một nhà yêu nước chân chính phải là người có trách nhiệm, và sứ mệnh làu giàu học thuyết đó về khoa học và thực tiễn để nó tiếp tục có sức sống như một tinh hoa của nhân loại. Nhưng đáng tiếc trong quá trình vận dụng tư tưởng Mác - Lênin đã có sự nhầm lãn giữa mục tiêu và phương tiện, có một sự trái ngược giữa lời nói và việc làm, có sự xa rời giữa triết lý nền tảng và phương pháp luận khoa học của nó. Đảng và Nhà nước ta sở dĩ lãnh đạo được cách mạng dân tộc dân chủ và giải phóng đất nước thành công và được nhân dân tin yêu, ủng hộ chính là nhờ trước hết vào việc Đảng ta đã đề ra được các mục tiêu phù hợp với lợi ích thiết tha của dân tộc, của nhân dân. Nhưng sau khi cách mạng thành công và trong công cuộc xây dựng kinh tế đã có sự nhầm lẫn trong cách xử lý mối quan hẹ giữa mục tiêu và phương tiện, coi trọng xử lý các vấn đề cơ chế, vì quan hệ sản xuất, coi đó mục tiêu, trong khi đó lại sao nhãng, coi nhẹ các vấn đề giải phóng lực lượng sản xuất để tạo ra của cải và dịch vụ cho xã hội. Bên cạnh đó còn rất nhiều thói quen, nhiều tập quán, nhiều di sản tác động không có lợi rất nhiều cho sự phát triển. Nếu không ý thức được đầy đủ về ảnh hưởng về di sản quá khứ, ta sẽ không xác định được điểm xuất phát; không biết cái gì là thuận lợi, tích cực cần được tạo điều kiện để tận dụng và phát huy; không biết những cái gì là bất thuận lợi, tiêu cực cần phải hạn chế và vượt qua do đó ta sẽ khó hình dung được một cách rõ ràng mục tiêu và con đường sẽ đi, cũng như không thể ý thức được một cách rõ ràng và có chủ đích cái cần thiết, cái mới cần phải đưa vào thực tế. Tình hình đó có nguy cơ dẫn đến một quá trình tiến triển tự phát, xen lẫn cũ, mới, làm ta quyền mất không ý thức được cái cũ vãn đang tồn tại, vẫn nhạp vào tư duy hành động, vào thực tại, cái cũ này hoặc là tồn tại dưới dạng phân giải hoà nhập vào thực tại, hoặc dưới dạng chờ thời cơ trỗi dậy, hoặc được tân trang biến dạng, thay đổi màu da để thích nghi với thực tại. Đồng thời, ta cũng quên, hoặc không có khả năng nhận thức thực tế và nhận thức cái mới, thậm chí nhận thức của ta về lý tởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, của dân tộc có thể bị sai lệch và bị thành kiến. Và Đảng và Nhà nước ta đã có những nhận thức nhất định để định hướng sự phát triển kinh tế đất nước. Năm 1986 là năm chính thức nước ta mở cửa kinh tế vào một nền kinh tế mới là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đã có sự tăng trưởng quan trọng bên ngoài. Tuy nhiên các mặt trái của nó cũng là một trong các nguy cơ lớn gây sự kém phát triển của nước ta đó là sự cạnh tranh không lành mạnh, vi phạm quyền tự do của người khác. Hai là, do những động cơ lợi nhuận và khuôn khổ của pháp lý chưa hình thành đầy đủ nên có sự xói mòn về các giá trị đạo đức và các giá trị văn hoá truyền thống. Đây là thách thức lớn nhất không chỉ với Việt Nam mà còn đối với tất cả các nước đang phát triển. Ba là, việc mở cửa nền kinh tế, hội nhập với khu vực và thế giới. Điều này cũng có nghĩa là Việt Nam phải đối mặt với nền văn minh mới của nền công nghiệp, nền văn minh phương Tây, nước ngoài, những sự lai về văn hoá cũng như những tệ nạn, sự tha hoá bên ngoài nhập vào Việt Nam. Những quá trình và những hiện tượng này không được kiểm soát tốt sẽ dẫn đến sự suy đồi về văn hoá, xã hội, cản trở sự phát triển ổn định và bền vững của đất nước. 2.3. Sự tụt hậu xa hơn của Việt Nam so với các nước trên thế giới Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu số 1 của nhiều quốc gia và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Mặc dù, trong những năm đổi mới kinh tế, Việt Nam đã đạt được tỷ lệ tăng trưởng tương đối cao so với các nước trong khu vực, song chất lượng tăng trưởng vẫn là một khâu yếu, cần phải đánh giá trên các bình diện khác nhau và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng, tránh tụt hậu xa hơn nữa về kinh tế. Đánh giá vềkt năm 1999 của Việt Nam, có ý kiến cho rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã vượt qua đây; ngược lại cũng có ý kiến cho rằng nền kinh tế chưa chặn được đà sút giảm của tốc độ tăng trưởng. Năm 1989: 4,69%; 1990: 5,10%; 1991: 5,96%; 1992: 8,56%; 1993: 8,07%; 1994: 8,83%; 1995: 9,54%; 1996: 9,34%; 1997: 8,15%; 1998: 5,8%; 1999: 4,7%. Trong khi đó, cũng vào những năm cuối cùng của thể kỷ XX Tây Âu đang nhanh chóng trở thành một cực đặc biệt thu hút nền kinh tế thế giới và có sức mạnh kinh tế. Vớ hơn 340 triệu dân, tổng sản phẩm xã hội hơn 5,5 nghìn tỷ USD, các nước Tây Âu chiếm 1/3 sản phẩm công nghiệp của thế giới TBCN. Đặc biệt trong những năm đầu của thập kỷ 90, quá trình liên kết chính trị đang diễn ra ở Tây Âu đã giúp cho việc ổn định tình hình kinh tế khu vực, tạo điều kiện cho Tây âu phát triển về chất. Với khu vực kinh tế châu á - Thái Bình Dương thập kỷ 90 thì được dự báo là tiếp tục tăng nhanh. Đại đa số cho rằng, kinh tế các nước đang phát triển ở Đông á tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong những năm 90. Trong đó, đặc biệt chú ý là cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, Thái Lan, Mailaixia, Trung Quốc. Chương III: Tham nhũng và tụt hậu xa hơn về kinh tế trên thế giới 3.1. Tình trạng một số nước trên thế giới 3.1.1. Tandania: Thực trạng tham nhũng không bắt đầu với việc giành độc lập từ sự thống trị của thực dân, mà nó cũng không phản ánh một khuynh hướng của châu Phi về hành vi sai như đôi khi người ta vẫn cho là thế. Trên thực tế, tham nhũng và sự thiếu vắng tinh minh bạch trong chính phủ được ghi nhận là những đặc điểm của sự thống trị thực dân ở Tandania, cũng như tình trạng chung trên toàn châu Phi. Trách nhiệm đối với người dân địa phương, gần như chắc chắn là thiếu vắng trong suốt thời kỳ thuộc địa. Chính phủ có tính chất đàn áp và nó nhận được quyền lực từ sự ưng thuận của những người bị cai trị. Nền độc lập của Tandinia năm 1964 không thông báo sự gia tăng rõ rệt của các thông lệ tham nhũng. Trong những năm qua ngay sau độc lập, tham nhũng có chiều hướng bị hạn chế trong những quan chức cấp thấp. Tham nhũng chưa tràn lan tới những cấp cao hơn trong khu vực công chức và tác động của nó vẫn còn đủ nhẹ để không làm xói mòn hiệu quả tổng thể của khu vực công chức Nhà nước. Sự tồn tại về bộ luật về ban lãnh đạo xã hội chủ nghĩa và cam kết mạnh mẽ của tổng thống đấu tranh chống tham nhũng, kết hợp với mức lương trả cao cho công chức nhà nước và tốc độ tăng trưởng kinh tế vững chắc, đã giúp cho việc hạn chế tình trạng tham nhũng quá quắt và kiểm soát ở mức độ lớn hơn những hành vi tồi tệ. Tuy nhiên, cuối những năm 1960 và những năm 1970 là thời kỳ bắt đầu suy giảm mạnh và phải trả giá đắt về các phương diện hiệu quả tính chuyên nghiệp và sự toàn vẹn của dịch vụ công cộng của Tandania. Nhiều nhân tố kết hợp lại đã tạo ra một môi trường thích hợp cho sự phát triển và tràn lan của tham nhũng trên quy mô lớn. Người ta cho rằng một trong các nguyên nhân quan trọng nhất của tình trạng lan tràn tệ nạn tham nhũng trong những năm 1970 là chương trình xây dựng chủ nghĩa xã hội được đề xướng trong tuyên bố chính thức Arusha tháng 2 năm 1967 và theo đó là sự bành trướng của nhà nước trong hầu như mọi khu vực đời sống ở Tandania. Khu vực công cộng ở Tandania phát triển với tốc độ nhanh, buộc vai trò của khu vực tư nhân trong nền kinh tế tương ứng phải thu hẹp. Từ năm 1966-1979 con số các cơ quan, tổ chức công cộng ở Tandania tăng từ 43 lên 380. Trên thực tế, công cuộc quốc hữu hoá các tập đoàn tư nhân vào năm 1967 đã khiến chính phủ trở thành người thuê nhân công lớn nhất và duy nhất trong đất nước, liên quan tới tất cả các lĩnh vực từ bán lẻ cho tới xuất nhập khẩu, thậm chí là cả việc nướng bánh. Vì phạm vi quyền lực của chính phủ tăng lên, nên các bậc thang trong bộ máy công chức nhà nước và những cơ hội để cho các cá nhân quan chức đó khai thác quyền lực mới được thiết lập của họ để mưu lợi cá nhân cũng tăng theo. Và việc làm tăng gấp bội các thủ tục quan liêu phiền hà trong hầu hết mọi giao dịch với chính phủ đã gây ra những chậm trễ không cần thiết và những bảo bối về phía những người tiếp nhận những loại dịch vụ công cộng. Ngoài ra sự lan tràn của tham nhũng, được trợ lực mạnh mẽ bởi tình trạng suy giảm liên tục trong tăng trưởng trong những năm 1970, sự quản lý lệch lạc trong nội bộ nền kinh tế cũng phải chịu trách nhiệm một phần. Các chính sách của chính phủ thường bóp nghẹt tăng trưởng kinh tế. Trước tình trạng khủng hoảng ngày càng nặng nề thì sự giám sát và tính chịu trách nhiệm, đạo đức công chức nhà nước bắt đầu suy yếu, khiến cho nhiều nhân viên có ấn tượng rất sai lầm rằng họ không phải chịu trách nhiệm trước bất kỳ ai, và có quyền chỉ thực thi những nhiệm vụ của mình khi họ thấy là phù hợp. Điều đó làm tăng đáng kể những cơ hội cho sự lạm dụng quyền lực. Và vấn đề này ngày càng nghiêm trọng trong những năm 1980 và bắtđầu những năm 1990. Những nỗ lực của chính phủ để hạn chế tham nhũng ở một mức độ lớn là không có hiệu lực. Chúng bao gồm chủ yếu việc ử lý những vụ việc riêng lẻ, giữa vô số tiếng kèn lệnh mà không nhằm tới bối cảnh tổng thể đã tạo điều kiện và kích thích tham nhũng lan tràn. Dù Chính phủ đã ban hành một số thông tư đưa ra các nguyên tắc chung cho các chiến lược phát hiện tham nhũng và những biện pháp để đảm bảo rằng các chính sách và thủ tục của khu vực công chức nhà nước sẽ phản ánh cao nguyên tắc và minh bạch và có trách nhiệm. Song vẫn bế tắc. Khi Tandania chuyển từ chế độ một đảng sang chế độ đa đảng vào giữa những năm 1990. Cả chính phủ lẫn công chúng đều giành sự quan tâm sâu sắc hơn cho vấn đề tham nhũng đặc biệt là ngay trong quá trình bầu cử cũng bị đặt vào tình thế nguy hiểm bởi các thông lệ tham nhũng. Do đó cuộc chiến ở Tandania có thành công hay không vẫn là một dấu hỏi. Tuy nhiên, đối với Tandania thì rõ ràng đều kỳ vọng ở đó là rất lớn và không liên quan tới cái gì khác là những triển vọng phát triển của đất nước và nhân dân Tandania. 3.1.2. Uganda Uganda ngày nay là một xã hội đang chuyển đổi, sau 2 thập kỷ nội chiến dữ dội, tham nhũng nghiêm trọng, mất ổn định và suy thoái kinh tế, giờ đây Uganda có vẻ như đang chuyển động hướng đến khôi phục lại sự tăng trưởng kinh tế và một nền dân chủ cao hơn. Giới báo chí giừo được tự do và ồn ào. Các cuộc bầu cử được tổ chức từ năm 1996, một bản Hiến pháp mới được ban hành vào T10/1995 sau vài năm tranh luận kịch liệt, một chương trình cải cách khu vực công cộng có ảnh hưởng sâu rộng đang được tiến hành. Những thách thức to lớn vẫn còn nằm ở phía trước. Một chính phủ minh bạch có trách nhiệm, là cơ sở cho việc xây dựng một nhà nước dân chủ chưa từng có trong lịch sử của đất nước Uganda độc lập. Từ thời kỳ thực dân sự áp bức và tham nhũng đã là đặc trưng rõ ràng của sự cai trị. Chính quyền thực dân Anh, không có trách nhiệm giải trình trước nhân dân Uganda và không điều hành công việc theo nguyên tắc công khai, minh bạch và trách nhiệm. Các chính sách thực dân cũng làm tăng thêm những căng thẳng xã hội và sắc tộc trong nước, từ đó góp phần khuấch động xung đột và sẽ xác định tính chất nền chính trị ở Uganda trong ba thập kỷ sau đó. Kể từ khi giành độc lập, tháng 10 năm 1962, Uganda trở thành một đất nước độc lập, nhưng không hoàn toàn, với một nền văn hoá chính trị không thích hợp cho sự tồn tại của một hệ thống chính quyền công khai và dân chủ. Vào năm 1996 khi tổng thông mới Obate lên nắm quyền kéo theo đó là sự tăng lên nhanh chóng các đơn vị quốc doanh đã báo trước sự gia tăng của tệ nạn tham nhũng lan tràn khắp Uganda. Các hợp tác xã quốc doanh thâu tóm các tổ chức độc quyền chế biến và tiếp thị nông sản phẩm vốn đã nằm trong các công ty Châu Âu, cũng như hàng loạt các hoạt động chủ yếu trong cung cấp điện năng, sản xuất xi măng, và du lịch. Thậmchí trong một số trường hợp còn bị xếp vào loại "khu vực tư nhân" nhưng, các hợp tác xã này vẫn được nhà nước bao cấp và những người quản lý hợp tác xã do chính phủ bổ nhiệm. Với sự kiểm soát trực tiếp đối với giá cả của nhà sản xuất, thuế đánh vào các loại hàng hoá và dịch vụ, giấy phép xuất nhập khẩu, mua bán ngoại tệ và vô số các loại giấy phép khác được đòi hỏi với ngay cả những khía cạnh trần tục nhất của cuộc sống hàng ngày, các đơn vị quốc doanh và các cơ quan và các cơ quan nhà nước khác đều ngả về phía tham nhũng. Và những năm sau đó sự tham ô và những hành động cướp đoạt trắng trợn không hề bị kiểm soát. Với chính sách trục xuất những người châu á không phải là công dân Uganda, tịch thu tài sản cá nhân và doanh nghiệp của họ rồi phân phát chúng cho giới quân nhân, những kẻ có thế lực và các đơn vị quốc doanh. Từ đó dẫn đến trong vòng chưa đến một thập kỷ, giá trị thực của tiền công, tiền lương bị mất đi đến 90% (do lạm phát). Cuộc khủng hoảng thu nhập được phản ánh qua sự xuất hiện của nền kinh tế song song, hay là kinh tế ngầm. Công chức Uganda chiếm một tỷ lệ lớn trong những người làm công ăn lương và tỷ lệ lạm phát tăng vọt buộc nhiều người phải tìm kiếm những nguồn thu nhập phụ thêm. Một số hoạt động thậm chí còn rõ ràng là bất hợp pháp hơn. Các kho dự trữ do chính phủ sở hữu bị bán đi một cách kín đáo. Tài sản công được cung cấp cho việc sử dụng tư để đổi lấy một khoản kinh phí, và những khoản lại quả 10-15% trở thành thông lệ trên các bản hợp đồng ký với doanh nghiệp nước ngoài và trong các dự án viện trợ. Không mấy lo sợ về chuyện bị truy tố, các quan chức trao hợp đồng xây dựng các công trình công cộng cho những công ty tư nhân do chính bản thân họ đứng ra làm chủ hoặc thuộc sở hữu của gia đình, bạn bè họ. 3.1.3. Xiera Leôn Ngày nay, đối với người dân Xiera Leôn thì tham nhũng là một cách để sống, bất chấp vô số sự thay đổi trong chính phủ, cả công dân lẫn quân sự, nạn tham nhũng và những hoạt động phi đạo đức đang hoành hành và lan tới tất cả các cấp chính quyền thì hầu như không có sự thay đổi. Trong cả khu vực công cộng lẫn khu vực tư nhân, những hoạt động phi đạo đức đã khiến cho các cuộc khủng hoảng kinh tế vốn đã nghiêm trọng và kéo dài của đất nước lại càng nghiêm trọng thêm. Kể từ những năm 1980, Xiera Leôn đã trải qua tình trạng suy thoái kinh tế và khắc nghiệt nhất trong lịch sử quốc gia này. Nhiều người ở những vị trí có trọng trách đã đặt quyền lợi cá nhân của họ lên trên hết và đặt quyền lợi chung của đất nước xuống hàng cuối cùng. Thất bại liên tiếp của các chiến lược cải cách trước đây, ở một mức độ lớn là do sự thiếu hiểu biết về những căn nguyên và động lực của tham nhũng. Những biện pháp được sử dụng trước đây đều thiếu sự phối hợp, ý chí chính trị, sự lãnh đạo và sự tham gia của công chúng. Năm 1992 Xiera Leôn đã thành lập các uỷ ban điều tra để nhận diện những quan chức nhà nước và doanh nhân, nhừng người đáng lên án do cực kỳ thiếu trung thực, tắc trách và lạm dụng chức quyền để mưu lợi ích riêng. Các uỷ ban đã phanh phui vô số vụ tham nhũng móc nối chằng chịt, trong đó có cái gọi là cướp ngày của các chính khách và công chức nhà nước, trộm cắp và lừa đảo các bên ký hợp đồng của chính phủ và âm mưu của các doanh nghiệp nước ngoài, trong nước, của các nhà chính trị, công ty xuyên quốc gia. Những kẻ phạm tội này với phương thức cá nhân tập thể đã đục khoét tiền của, hàng hoá và dịch vụ của nhà nước. Cho dù chính quyền đã bàn nhiều về tính minh bạch và trách nhiệm, nhưng cũng chẳng được bao nhiêu để biến những lời hứa cam kết thực sự nhằm phát hiện và trừng phạt những hành vi vô đạo đức. Chính phủ bị ngập trong những lời tố giác từ khắp nơi. Và từ năm 1996, dân chúng Xiera Leôn đã bầu ra một cách dân chủ một chính phủ mà cũng giống như những người tiền nhiệm của nó, tuyên bố rằng, họ muốn chống tham nhũng và phục hồi tính toàn vẹn. Nhưng các cải cách đã gây thất vọng, một chính phủ phình to (45 bộ, thứ trưởng) trong 1 đất nước chưa đầy 5 triệu dân, một nền kinh tế teo dần làm cạn kiện các nguồn lực công cộng. Ngày 27 tháng 5 -1997, cuộc đảo chính ở Freeoun là lần cưỡng chế thay đổi chế độ thứ 3 thành công trong vòng 5 năm là cuộc đảo chính đẫm máu và tàn phá nặng nề nhất trong lịch sử Xiera Leôn. Những người chiến đấu đã tuyên hứa sẽ hành động vì lợi ích của quốc gia. Họ đưa ra những lý do mang màu sắc dân tuý cho sự can thiệp: tham nhũng, chủ nghĩa thiên vị khu vực Những động lực và hành vi nổi loạn gần như hoàn toàn mang tính tự thân và người ta đã gây ra sự tàn phá nặng nề trong những ngày sau tiếp quản. Quyền lực quân sự được áp đặt đối với người dân, làm cho nền kinh tế bị tê liệt. Và đầu năm 1998 trở về đây các lực lượng kinh tế đã can thiệp thành công để lật đổ quyền lực của chính phủ quân sự và dần dần đưa nền kinh tế Xiera Leôn về đúng quỹ đạo của nó là phát triển. 3.2. Khoảng cách về kinh tế giữa các nước trên thế giới Theo "World Economic Outlook" của IMF trong thời gian 1900-2000. GDP toàn thế giới (theo giá hiện hành) tăng 19 lần so với những năm đầu thế kỷ XX, bình quân tăng 3,7%. Còn dân số thế giới tăng 4 lần. Sự gia tăng GDP và dân số thế giới ở thế kỷ XX gây ra nhiều nghi ngờ về khả năng ổn định ở khuynh hướng này. Đó là nhìn vào tổng thể còn nhìn vào các khía cạnh của nền kinh tế từng nước thì ta thấy sự chênh lệch rất lớn giữa các nước về kinh tế cùng với sự tăng trưởng của kinh tế thế giới. Thực vật, các tài liệu tổng hợp tình hình phát triển kinh tế xã hội thế giới thế kỷ XX của IMF cho biết rằng trong 100 năm qua. GDP/người của 1/4 dân số giàu nhất thế giới tăng 6 lần và của 1/4 dân số nghèo nhất thế giới tăng 3 lần. Những nước nghèo nhất thế giới (đầu thế kỷ XX) - 19000: gồm Gana, Ai Cập, Băng La Đet, ấn Độ và Trung Quốc, ngoài ra còn một số nước nữa ở Châu Phi, Châu á, Châu Mỹ. Còn những nước giàu nhất thé giới đầu thế kỷ 20 bao gồm những nước trong câu lạc bộ nhà giàu OEDC, Hungari, Tiệp Khắc (cũ). Như Bồ Đào Nha - GDP/người là: 1410 USD, cao nhất ở Anh: 4600 USD/người. Bình quân GDP/người của nhóm này đầu thế kỷ XX là 3200 USD. Những nước giàu nhất cuối thế kỷ XX gồm các nước đầu thế kỷ và thêm nhiều nước khác Achentina, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan. Trong đó thu nhập thấp nhất là ở Hungari - GDP/người là 2050 USD và cao nhất ở Mỹ - GDP/người là: 27270 USD và bình quân GDP/người của nhóm này năm 2000 là: 18.000 USD. Trong số các nền kinh tế lớn của thế giới ở đầu thế kỷ XX thì ấn Độ (diện tích 3,270 triệu Km2), dân số 1.005,3 triệu người) vẫn ì ạch trong cảnh đói nghèo: Brêdin (diện tích 8.312 triệu Km2, dân số 169,6 triệu người) vẫn nằm trong khu vực các nước có thu nhập/người dưới trung bình của thế giới đầu và cuối thế kỷ XX. Thu nhập/người bình quân ở nhóm dưới trung bình của đầu thế kỷ 20 là 675 USD và cuối thế kỷ là 2400 USD. Nga (diện tích 17 triệu km2, dân số 147,2 triệu người) lại ở vào tình trạng bi đát hơn, từ nước có GDP/người (1220 USD) được xếp trên mức trung bình thế giới, cho đến năm 2000 bị tụt xuống nhóm nước có thu nhập dưới mức trung bình của thế giới - GDP/người của Nga năm 2000 là 3685. Đến cuối thế kỷ 20 (năm 2000) GDP/người ở nhiều nước nghèo vẫn còn thấp hơn GDP/người ở các nước phát triển đầu thế kỷ 20 (năm 1900). Vid dụ, nếu GDP/người toàn châu Phi năm 2000 là 1290 USD (theo giá cả và sức mua của đồng nội tệ của mỗi nước năm 1995 - tính chuyển ra USD) thì GDP/người năm của các nước Tây Âu là 3090 USD, của các nước dân Châu Âu nhập cư (Mỹ, Canada, Oxtraylia, Niu Dilân) là 4020 USD. GDP/người ở Châu Phi vào năm 1990 là500 USD, nghĩa là thấp hơn 9,2 lần GDP/người của Anh. Còn đến năm 2000, chỉ tiêu này của châu Phi thấp hơn của Mỹ - nước giàu nhất thế giới từ năm 1900 đến nay - là 20 lần (GDP/người của Mỹ năm 2000 là 27.270 USD). Nếu dùng GDP/người để so sánh mức độ bình đẳng về thu nhập giữa các nước và khu vực trong khi kinh tế ngày càng phát triển, của cải xã hội ngày càng gia tăng, thì có thể nói rằng, nét nổi bật nhất của nền kinh tế thế giới thế kỷ 20 là khoảng cách thu nhập giữa giàu và nghèo giữa các nước và các khu vực ngày càng doãng ra và tỷ lệ theo thời gian. Khu vực và nước So với Anh (%) So với Mỹ (%) 1870 1900 1913 1950 1973 2000 Tây Âu 64,7 67,3 69,8 53,5 74,0 74,1 Các nước có dân Châu Âu nhập cư 74,8 87,6 98,7 96,7 96,7 96,5 Nam Âu 34,0 24,2 33,0 21,1 36,2 36,1 Đông Âu, trong đó: 33,3 29,9 31,9 27,5 34,6 15,5 - Đông Âu (trừ Liên Xô cũ) 35,9 25,1 38,2 23,9 30,9 13,3 - Liên Xô cũ 31,4 26,5 28,0 29,6 36,5 16,6 Mỹ La Tinh 23,3 23,4 27,1 26,0 26,4 20,1 Châu á : 17,8 14,8 14,0 8,0 10,8 15,9 - Châu á (trừ Nhật và Trung Quốc) 19,0 14,4 13,7 7,8 8,6 8,3 - Nhật Bản 22,7 24,7 25,1 19,6 66,3 75,6 - Trung Quốc 16,0 14,2 13,0 6,4 7,1 23,0 Châu Phi 14,7 10,9 10,8 8,7 7,9 4,8 Toàn thế giới 27,4 27,5 20,9 22,3 24,8 21,9 Bảng trên cho thấy rằng, trong thời gian 1870 - 1900 (thời kỳ vàng son cổ điển) GDP/người ở những nước độc lập của Mỹ latinh, đặc biệt là ở những nước có dân châu Âu nhập cư (Mỹ, Canada và Niu Dilân) dần dẫn đuổi kịp Anh Châu Phi và Châu á (trừ Nhật) mãi sau thế chiến thứ 2 mới dần dần thoát khỏi ách đô hộ của thực dân, cho nên bị mất bình đẳng trong quan hệ kinh tế và thương mại với các nước đế quốc, do vậy GDP/ người của các nước ở khu vực này thua xa Anh và Mỹ suốt 30 năm cuối thế kỷ XIX cho đến năm 2000. Tuy nhiên , thời gian 1870 - 1900 là thời kỳ thương mại va vốn được di chuyển tương đối dễ dàng qua các biên giới góp phần thúc đẩy giao lưu hàng hoá, phát triển sản xuất, làm cho GDP bình quân năm trong thời gian này của thế giới tăng 1,5%. Tiếp theo là thời kỳ đại khủng hoảng kinh tế thế giới và 2 lần chiến tranh thế giới. ở thời kỳ này, thương mại thế giới và các dòng vốn đầu tư cho phát triển kinh tế bị suy giảm, làm GDP/ người toàn thế giới bị suy giảm dần và thua xa Mỹ: Thời kỳ khôi phục kinh tế sau thế chiến thứ 2. Cho đến năm 1973 GDP các nước Tây Âu, Nhật tăng nhanh gần đuổi kịp Mỹ về GDP/ người: Đông Âu và Liên Xô, mặc dù thua các nước OECD về phát triển kinh tế, nhưng GDP/ người cùng đang có chiều hướng đi lên. Mỹ Latinh và Châu á (trừ Nhật, Trung Quốc) GDP/ người về cơ bản vẫn tăng chậm, Châu Phi lại càng thấp hơn, GDP/ người ngày càng thua xa Mỹ. Sau năm 1973 đến năm 2000 một số nước Châu á , trong đó phải kể đến Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapo và Malaixia bước vào thời kỳ hưng thịnh, kinh tế phát triển liên tục, ổn định cho tới trước cuộc khủng hoảng thị trường tài chính Châu á (trước tháng 7 năm 1997). Còn Mỹ Latinh và Châu Phi trong thời kỳ kinh tế vẫn tăng trưởng chậm. 8 năm cuối cùng của thế kỷ XX là thời kỳ kinh tế Mỹ tăng trưởng liên tục và ổn định cho tới tháng 3 năm 2001, thời kỳ kinh tế Mỹ có dấu hiệu bị trì trệ. Đây cũng là thời kỳ Đông Âu và nước Nga đang trong thời kỳ chuyển đổi từ chế độ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, cho nên GDP/ người ở khu vực này thua xa các nước OEDC và lại càng thua xa Mỹ. Và vào thời điểm chuyển giao giữa hai thiên niên kỷ, Mỹ nổi lên như là siêu cường số 1 thế giới cả kinh tế lẫn quân sự. Câu hỏi đặt ra là trong các thập kỷ đầu của thiên niên kỷ mới liệu Mỹ có duy trì được vai trò đầu tầu trong nền kinh tế thế giới. Liệu các nước EU có vượt Mỹ không? Đông á có trở thành trung tâm kinh tế năng động của nền kinh tế thế giới không? Đó là những mục tiêu và là thách thức đối với tất cả các nước, nhất là các nước đang phát triển trong các thập kỷ tới. Các trung tâm khoa học kinh tế lớn đã đưa ra nhiều dự báo mang tính định lượng và định tính về nền kinh tế thế giới trong các thập kỷ đầu cảu thế kỷ XXI. Nhìn chung các dự báo dều đánh giá triển vọng, khả quan của nền kinh tế thế giới với mức tăng trưởng bình quân 3% /năm trong giai đoạn 1990 - 2010 và 3,3% cho giai đoạng 1996 - 2010. Còn các dự báo của các nhà kinh tế Nga là trong thời kỳ 2001 - 2005: 4,4%/năm, còn giai đoạn 2006 - 2010 là 4,6%/năm. Và sự tăng trưởng này phù hợp với chu kỳ dài hạn của nền kinh tế thế giới. Khu vực 1981-1990 1991- 1996 1997 1998 1999 2000 2000- 2010 Thế giới 3,1 2,5 3,4 1,9 2,6 2,9 3,2 Các nước có thu nhập cao 3,0 2,3 2,9 2,0 2,6 2,5 2,7 Các nước đang phát triển 3,3 3,2 4,9 1,6 2,7 4,2 4,9 * Đông á 8,1 8,5 6,6 0,1 5,5 6,2 6,3 * Đông á bị khủng hoảng 6,9 6,0 4,5 -7,9 4,4 5,3 5,3 * Các nước đang phát triển trừ nước chuyển đổi và các nước ASEAN-5 3,1 5,5 5,6 4,1 2,7 4,4 5,0 Tăng trưởng của thế giới 1987 - 2010 (%) 3.3. Những vấn đề tồn tại, khó khăn trong việc rút ngắn tụt hậu xa hơn về kinh tế - Tăng trưởng cao nhưng chất lượng thấp. Nói đến tăng trưởng là nói đến hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế ở 3 cấp: sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia. - Tăng trưởng kinh tế góp phần giảm số người nghèo đói, nhưng khoảng cách giàu nghèo tăng. Có 2 yếu tố giúp cho Việt Nam thành công trong việc giảm nghèo đói trong thời kỳ 1993 - 1998 là tỷ lệ tăng trưởng cao, nhiều nguồn lực cho tăng trưởng được huy động tích cực trong việc giảm nghèo đói. Hơn 10 năm qua, mức sống của đại đa số tầng lớp dân cư được nâng lên. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 58% xuống 37% thời kỳ 1993 - 1998. Tuy nhiên chênh lệch giàu nghèo tăng ở các vùng, các tầng lớp dân cư. Quá trình phân tầng xã hội hiện nay đang hình thành có nhiều đặc điểm khác trước. Theo số liệu điều tra, mức sống dân cư năm 1998 của tổng cục thống kê thì chênh lệch mức sống thể hiện qua mức chi tiêu giữa nhóm 20% số dân giàu nhất và 20% số dân nghèo nhất tăng từ 4,58 lần trên 5,52 lần trong thời kỳ 1993 - 1998. Chênh lệch về thu nhập giữa 2 nhóm này cũng tăng từ 7 lần đến 11,3 lần trong cùng thời kỳ. Đặc biệt nếu chỉ xét 10% dân số giàu nhất và10% dân số nghèo nhất thì mức chênh lệch lên tới 20 lần vào năm 1998. Do đó 20% số người giàu nhất hiện tại chiếm 45,2% tổng thu nhập xã hội và 20% số dân nghèo nhất chỉ chiếm chưa tới 8,6%. Phần lớn số người giàu có việc làm trong các cơ quan Nhà nước, tham gia các hoạt động kinh tế chính trị và làm việc trong các doanh nghiệp nước ngoài. Còn số người nghèo đói chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn. Số chiếm tới 90% số người nghèo của các nước. Do vậy với đà của tăng trưởng kinh tế thì hậu quả là chênh lệch về mức sống giữa khu vực nông thôn và thành thị vẫn tiếp tục tăng. Nó lại là khó khăn trong việc phát triển kinh tế. Chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế còn thấp, nguy cơ tụt hậu xa hơn còn lớn. Tiêu hao vật chất và xuất vốn trong đơn vị sản phẩm còn quá lớn. Xuất đầu tư cho xây lắp công trình tăng nhanh hơn tỷ lệ lạm phát : 10 - 15%. Năng suất lao động còn thấp đặc biệt là trong khu vực nông nghiệp, ngành chiếm hơn 70% lao động ở nước ta. Kinh tế quốc doanh đã sắp xếp một bước nhưng hậu quả của việc phát triển lan tràn trong thời kỳ bao cấp vẫn chưa khắc phục hết. Tình trạng nợ nần dây dưa, chiếm dụng vốn lẫn nhau khá phổ biến, nhiều doanh nghiệp không có khả năng thanh toán. Trong khi đó nhà nước không kiểm soát được chặt chẽ các hoạt động của doanh nghiệp gây thất vọng lớn về vốn, về tài sản quốc gia, tạo ra sự chênh lệch quá lớn về thu nhập không chính đáng giữa các xí nghiệp, giữa các vùng, các ngành. Ngoài ra còn vấn đề bảo hộ sản xuất trong nước. Chủ trương bảo hộ một cách có chọn lọc, trong thời hạn nhất định, đối với một số ngành sản xuất trong nước là đúng đắn. Song việc thực hiện trong thực tế lại chưa có hiệu quả và có nhiều ý kiến khác nhau về chủ trương này. Với việc ngày càng mở rộng thị trường và việc chuẩn bị tích cực để thích ứng với đòi hỏi của tự do hoá mậu dịch, thì việc bảo hộ nhiều sản phẩm sẽ là một cản trở lớn. Ngoài ra tình trạng độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước về mua, bán trên một lĩnh vực sản xuất kinh doanh còn rất nặng nề, như trong ngành điện, bưu chính viễn thông, xi măng, xăng dầu và một loạt những sản phẩm dịch vụ khác. Thêm vào đó hệ thống thuế ở nước ta dù được cải tiến thường xuyên bổ sung sửa đổi song vẫn còn nhiều yếu kém, chưa phù hợp với nề kinh tế thị trường, vẫn còn tồn tại nhiều thuế suất khác nhau với khoảng cách quá lớn làm cho hệ thống thuế trở lên quá phức tạp và tạo điều kiện thuận lợi cho sự lạm dụng kẽ hở trong áp dụng thực tế. Chương IV: Một số biện pháp kiềm chế tham nhũng và tránh tụt hậu xa hơn về kinh tế 4.1. Một số bài học của các nước trên thế giới 4.1.1. Kinh nghiệm của Hồng Kông Hồng Kông đã gặt hái được rất nhiều thành công bằng một cuộc cách mạng thầm lặng đó là cuộc cách mạng đã làm thay đổi các suy nghĩ và tình cảnh, và tạo nên những kết quả rực rỡ. Đó là năm 1974 đã thành lập uỷ ban độc lập chống tham nhũng (ICAC). Cơ quan này đã kiểm soát rất tốt tình trạng tham nhũng. Ngoài ra thái độ của dân chúng đối với tham nhũng cũng thay đổi rõ rệt với quan điểm thịnh hành coi tham nhũng là xấu xa và có tính phá hoại. Trong cuộc điều tra năm 1994 có tới 63% số người sẵn sàng tố cáo tham nhũng nếu họ gặp phải và 2,9% số người nói là dung thứ cho tham nhũng. Ngoài ra khu vực tư nhân (hay thương mại) không những ý thức được mối nguy hiểm của tham nhũng mà còn sẵn sàng làm một điều gì đó về vấn đề này. Con số các tổ chức thuộc khu vực tư nhân tìm kiếm sự hướng dẫn của ICAC trong việc cải thiện kệ thống của họ nhằm chống tham nhũng đã tăng lên. Vào tháng 5 năm 1994, ICAC bắt đầu chiến dịch đạo đức kinh doanh chỉ sau hơn 18 tháng, hơn 1200 công ty có niêm yết trên thị trường chứng khoán hoặc công ty tư nhân lớn và các hiệp hội thương mại đã thông qua một tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp công ty, trong lúc 670 công ty và hiệp hội đang tích cực soạn thảo. Từ những thành công đó thì nguyên nhân từ đâu. Đó là việc nhận rõ vấn đề và cam kết giải quyết, một cơ quan chống tham nhũng không thể chê trách, một chiến lược lâu dài và được tổ chức tốt, quan tâm tới tất cả các báo cáo về tham nhũng, thiết lập những điều kiện hợp lý và tính bảo mật cho những người báo cáo về những vi phạm. 4.1.2 Kinh nghiệm của Singapo Năm 1951. Cục điều tra hoạt động tham nhũng (GPIB) ra đời để ngăn chặn tình trạng này ở Singapo. Năm 1959, khi Singapo giành được chính quyền độc lập, tham nhũng đang hoành hành ở tất cả các khu vực công cộng. Tham nhũng liên kết đặc biệt phổ biến với các quan chức thi hành luật, trả tiền cho các dịch vụ là một sự "bắt buộc" và hối lộ họ là quy tăc. Có một số vấn đề dần đến tình trạng này. Thứ nhất, các luật ngăn chặn tham nhũng rất yếu. Những người vi phạm không bị tịch thu tài sản và các nhân viên của GPIB không đủ quyền lực cưỡng chế thi hành nhiệm vụ của mình. Thứ 2, thu thập bằng chứng rất khó khăn do sự yếu kém của luật pháp chống tham nhũng và do thực tế có nhiều công chức nhà nước thường xuyên dính líu đến các hoạt động tham nhũng. Thứ 3, dân chúng nói chung có trình độ học vấn thấp. Họ hầu hết là dân di cư, những người đã quen với sự đối xử không công bằng của quan chức nhà nước. Họ đã phục tùng những người có quyền lực và không dám tố cáo sợ bị trả đũa. Họ không biết về các quyền của mình và cách duy nhất họ biết để có được mọi thứ là bằng con đường hối lộ. Thứ tư, công chức nhà nước được trả lương thấp hơn công nhân ở khu vực tư nhân, và kết quả là sự chính trực của họ bị giảm sút. Và cuối cùng, các nhân viên của CPIB được lấy từ lực lượng cảnh sát Singapo để biệt phái trong thời gian ngắn. Vì vậy, họ không được chuẩn bị đầy đủ về tâm lý để cống hiến hoàn toàn cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Từ những thực tế trên, ta có thể nhận thấy hết được những khó khăn trong việc chống tham nhũng ở Singapo. Nhưng sau khi giành chính quyền các nhà lãnh đạo chính trị mới ngay lập tức đã thể hiện những tấm gương mẫu mực của công chức nhà nước. Họ đã tự thoát khỏi các ràng buộc về tài chính và thương mại, thể hiện một đạo đức nghiêm minh trong công việc. Vì vậy bằng tấm gương của chính bản thân họ đã tạo ra một tin tưởng về sự trung thực và chính trực. Các nhà lãnh đạo mới cũng đã bắt đầu thực hiện những biện pháp xử lý ban đầu. Năm 1960, luật đã được sửa đổi nhằm trao thêm quyền lực cho các nhân viên CPIB và gia tăng hình phạt đối với kẻ vi phạm. Năm 1973, theo sự tư vấn của thủ tướng chính phủ về việc làm thế nào để CPIB có thể gia tăng các nỗ lực của mình để loại bỏ tham nhũng trong các khu vực dịch vụ công cộng, uỷ ban tư vấn chống tham nhũng ACAC đã được thành lập. Chức năng chính của nó bao gồm việc đưa ra các hướng dẫn cho các bộ, ngành và các cơ quan khác của chính phủ để xử lý các việc tham nhũng đảm bảo tiến hành các biện pháp mạnh mẽ, nhất quán. Năm 1989, đạo luật về tham nhũng (tịch thu các lợi ích) ra đời. Đạo luật này cho toà án quyền tịch thu các nguồn tiền khi một người bị buộc tội là tham nhũng. Không thể giải thích một cách thoả đáng về những khoản tiền đó. Nó cũng cho phép tịch thu những lợi ích nhận được từ tham nhũng. Ngoài ra, những quy định bảo vệ của hiến pháp, những biện pháp đối với công chức tham nhũng. Các quan chức tham nhũng họ được xử lý theo 2 cách: bị buộc tội trước toà hoặc bị quy về trách nhiệm hành chính rất nặng. Việc liên kết với các tổ chức bên ngoài cũng rất thành công. Chức năng tham nhũng không chỉ thuộc về một mình CPIB mà thuốc cả các bộ, ngành tương ứng của chính phủ và nhiều cơ quan khác có thể đảm nhiệm được. 4.2. Biện pháp của Đảng và nhà nước ta về phòng chống tham nhũng Những năm qua, cuộc đấu tranh chống tham nhũng tuy chưa đạt kết quả như mong muốn, nhưng rõ ràng từ các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, văn bản pháp luật nhà nước, qua phát hiện thanh tra, kiểm tra và xử lýnhận thức của cán bộ và nhân dân về cuộc đấu tranh này ngày một nâng cao. Các cơ chế chính sách, quy định ngày được ban hành đồng bộ và phù hợp hơn, đã cảnh báo và từng bước khắc phục sơ hở mà kẻ tham nhũng lợi dụng. Việc tiến hành kê khai nhà đất và tài sản đối với cán bộ có chức vụ, tuy đang còn mang tính hành chính, nhưng cũng có ý nghĩa đề cao tinh thần tự giác và tinh thần kỷ luật Đảng, góp phần răn đe, giáo dục, phòng ngừa. Kết quả rõ nhất là qua các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giải quyết đơn, thư khiếu tố của công dân, các cơ quan chức năng đã thu hồi được tài sản bị thất thoát và xử lý những người tham nhũng. Tất nhiên so với mong muốn thì còn xa mới đạt so với yêu cầu còn nhiều bất cập. Nhưng một sự thật không thể phủ nhận là nếu không có thanh tra, kiểm tra và xử lý kiên quyết thì tham nhũng còn ngang nhiên đến mức nào. Hiện nay tham nhũng, tiêu cực vẫn còn diễn biến phức tạp, với những thủ đoạn cực kỳ tinh vi. Nó không chỉ diễn ra trong lĩnh vực kinh tế mà các loại hoạt động đấu thầu xây dựng, đầu tư, tín dụng, đất đai, ngân sách mà còn diễn ra ở lĩnh vực như chạy chức quyền, chạy việc làm, chạy bằng cấp, chạy tội trong các hoạt động giáo dục, y tế, bảo vệ pháp luật tình trạng vòi vĩnh tinh vi sách nhiễu, gây phiền hà trong một bộ phận công chức khi thi hành công vụ ở các cấp đang gây bất bình nhức nhối trong nhân dân. Nghị quyết trung ương 4 khoá IX đã nêu 6 nguyên nhân của tham nhũng rất đúng. Đấu tranh chống tham nhũng tiêu cực là một cuộc chiến thực sự trên mặt trận đầy khó khăn, phức tạp đòi hỏi phải kiên quyết, khẩn trương và bền bỉ, phối hợp nhiều biện pháp đồng bộ và sự tham gia của toàn xã hội. Các giải pháp mang tầm chiến lược của cuộc đấu tranh này là xây dựng trên phạm vi toàn xã hội lối sống lành mạnh, hoàn thiện cơ chế chính sách, cải cách bộ máy và thủ tục hành chính, đổi mới cơ bản chế độ tiền lương, kiện toàn các cơ quan bảo vệ pháp luật, tăng cường các cơ quan kiểm tra, kiểm soát đảm bảo nghiêm kỷ cương phép nước Nhưng trước mắt chính phủ cần thực hiện các biện pháp: xử lý dứt điểm các vụ việc nổi cộm, bức xúc. Những vụ án có liên quan đến cán bộ lãnh đạo, quản lý, dù ở cấp nào, đương chức hay nghỉ hưu hoặc chuyển công tác cũng phải được xem xét đầy đủ về trách nhiệm hình sự. Không một ai can thiệp trái pháp luật quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Việc kê khai nhà đất, tài sản của cán bộ, công chức cần được sửa đổi, bổ sung các quy định theo hướng đề cao tự giác, trung thực và minh bạch về tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Bản kê khai tài sản được coi là bản cam kết của cán bộ, công chức các đơn vị. Trường hợp nghi vấn có tài sản bất minh thì thủ trưởng các cơ quan, đơn vị yêu cầu người đó phải giải trình, từ đó xem xét kết luận xử lý. Khi cần thiết thì yêu cầu các cơ quan chức năng thẩm tra, xác minh để xử lý theo pháp luật. Tình trạng dùng tiền của nhà nước, của tập thể để làm quà biếu, nhằm tranh thủ cán bộ lãnh đạo, quản lý, tham mưu tìm kiếm cơ hội tiến thân tìm ưu ái cho đơn vị đầu tư, đấu thầu, ngân sách, lao động việc làm đang trở thành tệ nạn xã hội. Do vậy, chính phủ yêu cầu các cấp, các ngành các đơn vị phải thực hiện nghiêm chỉnh quy định. Đối với những người cơ quan đơn vị tham nhũng thì cấp trên cũng phải chịu trách nhiệm liên đới. Bằng các biện pháp đấu tranh cơ bản nêu trên trong đấu tranh chống tham nhũng tiêu cực, chính phủ đang thực hiện tư tưởng chủ đạo của hội nghị trung ương 4 theo tinh thần nghị quyết đại hội IX của Đảng là "Tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị ở các cấp từ các ngành từ trung ương đến cơ sở, gắn chống tham nhũng với chống lãng phí quan liêu, buôn lậu, đăc biệt là chống các hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính. Ngày nay khi Việt Nam tiếp vào nền kinh tế thị trường một cách thì tham nhũng lại diễn ra một cách rộng lớn và tinh vi hơn. Nó có thể xuất hiện ở bất kỳ ai có chức vụ và quyền hạn và ở bất kỳ nước nào. Tham nhũng làm cho đất nước chậm phát triển và nghèo đói. Tham nhũng là nguyên nhân chủ quan, cơ bản gây ra lãng phí tài sản của nhà nước và của toàn xã hội. Tham nhũng gắn liền với trốn thuế, giảm nguồn thu ngân sách nhà nước, nó làm lãng phí nguồn lực của toàn xã hội, tạo ra môi trường cạnh tranh không lành mạnh, làm cho các nguồn lực của xã hội bị phân bố kém hiệu quả, làm nản lòng các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tham nhũng làm băng hoại đạo đức, gây bất bình, mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng, nhà nước và pháp luật, làm thui chột tình thân ái, làm cho công lý bị đảo lộn, cái thiện sô cái ác "chân, mỹ, thiện" bị lãng quên, chạy theo đồng tiền và lợi ích vật chất, làm cho xã hội bất ổn, đe hoạ sự tồn vong của chế độ. Thấy rõ nguy cơ đe doạ của tham nhũng Đảng, nhà nước và toàn dân ta vẫn đang ra sức ngăn chặn và đẩy lùi quốc nạn này. Hội nghị trung ương 6 (lần 2) khoá VIII ra nghị quyết số 10 ngày 2/2/1999 về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong việc xây dựng Đảng. Trong đó nêu nhiệm vụ tập trung chỉ đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu có hiệu quả. Tháng 4 năm 2001, Đại hội lần thứ IX của Đảng quyết định về phải tiếp tục các nghị quýêt về xây dựng Đảng, nhất là nghị quyết trung ương 6 (lần 2) khoá VIII, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn đẩy lùi tệ nạn tham nhũng, lãng phí. Kết luận yêu cầu phải đi sâu thực hiện có nội dung cơ bản của nghị quyết, trong đó chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ trọng tâm trước mắt, nhận rõ đây là cuộc đấu tranh khó khăn, quyết liệt, gắn liền với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc và được tiến hành bằng nhiều biện pháp đồng bộ thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật phòng chống tham nhũng như: pháp lệnhchống tham nhũng ngày 9 tháng 3 năm 1998 và được sửa đổi bổ sung ngày 28 tháng 4 năm 2000: Bộ luật hình sự; pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính; pháp lệnh cán bộ công chức; pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí tham nhũng không chỉ còn ở phạm vi quốc gia, mà là hiện tượng phổ biến trên toàn thế giới. Vì vậy, Việt Nam đã ký công ước Liên hiệp quốc về chống tham nhũng tại hội nghị quốc tế ở Mêhicô ngày 11 tháng 12 năm 2003 và kế hoạch chống tham nhũng khu vực Châu á tại Philippin ngày 5 tháng 7 năm 2004. Về giải pháp phòng và chống tham nhũng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đưa ra chiến lược 2001 - 2010: "Nghiêm trị những kẻ tham nhũng, vô trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng; người lãnh đạo cơ quan để xảy ra tham nhũng cũng phải bị xử lý về trách nhiệm. Bảo vệ những người kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Thực hiện những biện pháp ngăn chặn tham nhũng, quan liêu; đổi mới và hoàn thiện thể chế, thủ tục hành chính, kiên quyết chống tệ cửa quyền, sách nhiễu, "xin- cho" và sự tắc trách, vô kỷ luật trong công việc. Cụ thể là các biện pháp sau: Một là, các biện pháp phòng ngừa được áp dụng một cách thường xuyên và có tác dụng rộng khắp đến nhiều đối tượng. Khi đó nó sẽ ngăn chặn được mầm mống của nạn tham nhũng. Hai là: Phòng ngưà tham nhũng sẽ làm giảm bớt tác hại rất nhiều nếu để tham nhũng xảy ra. Ba là: Việc nghiên cứu và áp dụng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng nhiều khi đồng nghĩa với biện pháp đổi mới và cải cách mà chúng ta thực hiện theo yêu cầu chung của quá trình hoàn thiện bản thân bộ máy quản lý và phương thức điều hành, cơ chế quản lý nền kinh tế nói riêng, xã hội nói chung. Trong hội nghị lần thứ tư ban chấp hành trung ương (khoá IX) đã đưa ra 10 biện pháp phòng chống tham nhũng bao gồm; 1: Tăng cường giáo dục chính trị với cán bộ Đảng viên; 2: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách; 3: Khẩn trương giải quyết những vụ nổi cộm trước mắt; 4: Kê khai nhà đất, cơ sở sản xuất kinh doanh của cán bộ công chức; 5: Nghiêm cấm việc lấy tiền của Nhà nước; 6: Thực hành tiết kiệm chống lãng phí; 7: Thực hiện đầy đủ nghiêm túc những điều Đảng viên không được làm; 8: Xử lý trách nhiệm với lãnh đạo để xảy ra các vụ tiêu cực, tham nhũng; 9: Hoàn thiện cơ chế dân chủ cơ sở; 10: Về tổ chức, chỉ đạo: ban bí thư đứng đầu là đồng chí Tổng bí thư trực tiếp chịu trách nhiệm chỉ đạo cuộc xây dựng chỉnh đốn Đảng và cuộc đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng. Nhưng để chống tham nhũng thành công ngoài các biện pháp trên, ta còn phải có những giải pháp đột phá trong việc: Đầu tư về lực lượng con người đề phòng và chống tham nhũng; đầu tư về vật chất để phòng và chống tham nhũng; và ba vấn đề cần bán và hóc búa nhất đó là: Chế độ tiền lương; chế độ thưởng và quy định pháp luật. 4.3. Biện pháp của Đảng ta trong việc tránh tụt hậu xa hơn về kinh tế Việc tránh tụt hậu xa hơn về kinh tế cũng đồng nghĩa với việc tăng trưởng kinh tế một cách toàn diện, để nâng cao đời sống của nhân dân và bắt kịp với đà phát triển của kinh tế toàn thế giới. Chất lượng tăng trưởng do nhiều yếu tố tạo nên, nhưng năng lực cạnh tranh lại là yếu tố quyết định. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế cần phải xoá bỏ cơ chế hỗ trợ kinh doanh độc quyền đã tồn tại trong nền kinh tế nước ta. Xoá bỏ hệ thống giá độc quyền của nhà nước. Hiện tại hầu hết các loại nguyên vật liệu, hàng hoá tiêu dùng được điều tiết bởi cơ chế thị trường. Nới lỏng việc kiểm soát giá cả là một bước phải làm trong nền kinh tế thị trường. Hình thành cơ cấu đa số hữu và tạo điều kiện cho cơ cấu này phát triển nhanh. Việc giảm tỷ trọng của sở hữu nhà nước đến mức cho phép sẽ tạo tác động tích cực cho sự phát triển. Loại bỏ các rào cản hành chính đối với cạnh tranh. Đó là những hành vi lạm dụng quyền lực hành chính để hạn chế cạnh tranh bình đẳng. Thứ hai: Khu vực tín dụng của Việt Nam hiện nay là do các ngân hàng quốc doanh thống trị, chiếm tới 3/4 thị phần tín dụng. Các ngân hàng quốc doanh đang gặp những vấn đề khó khăn, song không bị nhiều áp lực cạnh tranh, trừ sự cạnh tranh yếu ớt từ sự cạnh tranh của một vài ngân hàng tư nhân và ngân hàng cổ phần nước ngoài. Giải pháp của vấn đề là gia tăng cạnh tranh và chừng nào mà hệ thống ngân hàng Việt Nam còn chưa được cải cách thì Việt Nam còn gặp khó khăn trong việc thực hiện một hệ thống quản lý vĩ mô. Thứ ba: Như đã nói ở trên, tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam còn chậm. Muốn đẩy nhanh quá trình này cần ưu tiên phát triển hợp lý các vùng. Cần đầu tư ở mức cao hơn cho các dự án chế biến nông - lâm - ngư nghiệp, dự án sản xuất hàng suất khẩu, dự án sử dụng công nghệ cao, khó khăn trong chuyển dịch cơ cấu không phải xuất phát từ nguồn vốn đầu tư, bởi vì vốn có thể vay được nhiều hơn nếu sử dụng hiệu quả và Việt Nam phải nỗ lực cải cách, cơ cấu lại các ngành công nghiệp. Cái khó chính là chuyển dịch cơ cấu lao động. Chỉ có con đường chuyển lao động nông thôn sang khu vực kinh tế và dịch vụ mới có thể thu hẹp được khoảng cách về phát triển và thu hẹp khoảng cách nhanh chóng. Thứ tư: Theo báo cáo phát triển con người năm 2001, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chủ yếu do vốn đóng góp với tỷ trọng 78%, còn chỉ có 22% do năng suất kéo dài tình trạng này tăng trưởng của Việt Nam sẽ không bền vững. Do đó muốn có bước phát triển mới cần phải đầu tư nhiều hơn vào hoạt động nghiên cứu và phát triển. Thứ năm: Tỷ lệ thất thoát vốn đầu tư hiện chiếm 30%. Thất thoát, lãng phí, tham nhũng đang làm nghèo đất nước, gia tăng xung đột xã hội giảm lòng tin của dân đối với Đảng và các cơ quan công quyền, làm nản lòng các nhà đầu tư. Nghiêm trọng hơn, gần đây xuất hiện sự cấu kết giữa các bọn gian thương, trục lợi, tội phạm với các cán bộ bảo vệ pháp luật, các vị lãnh đạo gây thiệt hại lớn cho tài sản nhà nước. Do đó vấn đề này cần được giải quyết một cách đúng đắn và triệt để. Thứ 6: Hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương còn thấp. Để khắc phục tình trạng này cần phải chọn những cán bộ có năng lực thật sự thông qua kinh nghiệm và cống hiến của họ cho sự phát triển chứ không chỉ dựa vào bằng cấp và các chứng chỉ. Ngày nay trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, tiến tới năm 2020 là một nước công nghiệp. Thì Việt Nam phải nỗ lực phải tiến hành các chính sách công nghiệp hoá nhằm tạo sự chuyển đổi căn bản trong cơ cấu kinh tế xã hội. Điều đó nghĩa là Việt Nam đang phải thực hiện một sự chuyển đổi kép. Việc công nghiệp hoá để chuyển dịch sâu sắc và toàn diện cơ cấu nền kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp, chiến lược này tỏ ra rất hứa hẹn trong việc xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nông thôn, mở rộng thị trường tiêu thụ, khắc phục tình trạng mất cân đối giữa các vùng, đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ nhanh, trữ lượng cao và bền vững; khắc phục sự tụt hậu kinh tế đưa Việt Nam thành nước công nghiệp sánh vai với các cường quốc trong khu vực. C. Kết luận Mỗi nước hay mỗi khu vực đều là sự tổng hợp đặc thù của lịch sử và văn hoá riêng, có hệ thống chính trị và những niềm tin riêng và đều ở vào một giai đoạn phát triển kinh tế và xã hội riêng của nó. Những gì có tác dụng chống tham nhũng và tụt hậu xa hơn về kinh tế ở nơi này lại có thể không có giá trị ở nơi khác. Nhưng đôi khi kinh nghiệm gặt hái được trong cuộc chiến đấu lại là vấn đề hiện diện rộng khắp này có thể cung cấp sự hướng dẫn có một nơi khác. Trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước ta hiện nay dù Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đạt được rất nhiều thành tựu, nhưng những khó khăn ở tham nhũng và tụt hậu xa hơn về kinh tế luôn là những nguy cơ tiềm ẩn, cần Đảng và Nhà nước ta luôn phải chủ động phòng ngừa và giải quyết. Để đất nước ta phát triển một cách toàn vẹn. Để Việt Nam được sánh ngang với các cường quốc năm châu. Danh mục tài liệu tham khảo Rick Stapenhurst - Sahrf. Kpundeh: Kiềm chế tham nhũng hướng tới một mô hình xây dựng sự trong sạch quốc gia (NXB Chính trị Quốc gia) T5/2002. Viện Kinh tế thế giới: Kinh tế thế giới hiện nay - Tình hình và triển vọng (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội - 1994). Nguyễn Minh Tú: Việt Nam trên chặng đường đổi mới và phát triển kinh tế (NXB Chính trị Quốc gia, Tháng 2/2002). Khoa Khoa học Quản lý: Quản lý xã hội (NXB Khoa học và kỹ thuật) Tạp chí Phát triển kinh tế - Tháng 4/2004 Tạp chí Thanh tra Số 7 - Năm 2004 Tạp chí Thanh tra Số 8 - Năm 2004 Tạp chí Thanh tra Số 11 - Năm 2004 Tạp chí Thanh tra số 12 - Năm 2003 Trần Văn Tùng - Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới - Số 5 (85) - 2003 Bùi Quang Trường - Tạp chí Những vấn đề Kinh tế thế giới - Số 4 (86) - 2000 Trần Đào - Tạp chí Kinh tế và Dự báo - Số 1 - 2000 Lê Khoa - Tạp chí Phát triển kinh tế - Số 3 - 2003 Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 286 - T3/2002 Tạp chí Thanh tra tài chính số 28 - Tháng10 - 2004. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0721.doc
Tài liệu liên quan