Đề tài Tình hình hoạt động giao nhận hàng hoá xuất - Nhập khẩu tại Cảng Cần Thơ

Cảng Cần Thơ là Cảng trung tâm của khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long nên điều kiện phát triển thuận lợi với quá trình lịch sử phát triển lâu dài Cảng Cần Thơ đạt được những thành tích xuât sắc trong lao động sản xuất, hoàn thành vai trò và nhiêm vụ của Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam. Để xứng đáng với thành tích xuất sắc trên Cảng Cần Thơ không ngừng phát triển thành nơi tin cậy của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Hiện nay, Cảng đã có kế hoạch đặc biệt chú trọng vào việc phát triển dịch vụ giao nhận hàng hóa bằng container phù hợp với xu hướng container hóa toàn cầu. Thực hiện chính sách cơ giới hóa dần các trang thiết bị, cơ sở hạ tầng, thực hiện chính sách tiết kiệm tối đa nhằm phục vụ tốt mọi nhu cầu của khách hàng, giảm chi phí cho khách hàng, nâng cao chất lượng phục vụ và uy tín của Cảng. Tuy nhiên, Cảng chưa phát triển mạnh thị trường thế giới như: EU, Mỹ, Trung Cận Đông Chỉ phát triển chủ yếu thị trường Châu Á, chưa có chiến lược phát triển đa dạng các dịch vụ, chưa chú trọng nhiều về đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin về quản lý dịch vụ giao nhận, tiến trình đầu tư mở rộng hoạt động kinh doanh còn chậm theo báo báo của Cảng Cần Thơ kế hoạch đầu tư năm 2009 được duyệt 81,50 tỷ đồng nhưng thực hiện đầu tư 6 tháng đầu năm 2009 chỉ đạt 1,004 tỷ đồng. Đây là vấn đề cần giải quyết để nâng cao hiệu quả kinh doanh, mở rộng thị trường, đáp ứng nhu cầu khách hàng ngày càng tốt hơn.

doc45 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2651 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình hoạt động giao nhận hàng hoá xuất - Nhập khẩu tại Cảng Cần Thơ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y Hàng Hải Việt Nam (Vinalines) trong những năm qua Cảng Cần Thơ đã được nâng cấp và hổ trợ đầu tư trang thiết bị phát triển và mở rộng các dự án để Cảng Cần Thơ là một trong hai cảng lớn nhất ở Đồng Bằng Sông Cửu Long nên năng lực của Cảng Cần Thơ đã đáp ứng nhu cầu giao thương. Cảng Cần Thơ nằm ngay trong khu vực kinh tế trọng điểm và khu Trà Nóc 1, 2 cùng những khu công nghiệp của các tỉnh lân cận, đảm bảo sự cung ứng đều đặn và liên tục cho Cảng hoạt động. Cảng Cần Thơ là một trong những đầu mối giao thương quan trọng ở khu vực ĐBSCL với diện tích 60.000m2, tiếp nhận tàu biển 10.000 tấn, độ dài 117km, độ sâu 3,2m, mớn nước 4mét, có chiều dài lưu hành ra cửa biển ngắn thứ 3, đứng sau cảng Mỹ Tho và Vĩnh Long. Đây là một trong những lợi thế khiến tàu cập Cảng đông nhất trong khu vực và có chiều hướng tăng rất đáng kể. Điều kiện cơ sở hạ tầng được đảm bảo, khả năng tiếp nhận tất cả các loại tàu ghe lớn và salan. Trang thiết bị và máy móc hiện đại với công suất lớn và đa dạng. Hệ thống trang thiết bị chuyên dùng sử dụng trong hoạt động giao nhận container, rút ngắn thời gian xếp dỡ, giảm chi phí cho khách hàng. Năng lực hoạt động là 24/24 giờ, tận tâm phục vụ khách hàng, đáp ứng mọi nhu cầu đặc biệt phát sinh trong quá trình vận tải hàng hoá. Với tinh thần trách nhiệm của cán bộ nhân viên tại Cảng luôn phấn đấu thực hiện hoàn thành chỉ tiêu của đơn vị và Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam đề ra. Vì thế uy tín ngày càng được nâng cao trong khu vực và cả nước. Chính phủ cũng luôn tạo điều kiện tốt cho cảng phát triển và trở thành Cảng trung tâm của ĐBSCL. Cảng Cần Thơ có quá trình phát triển lâu dài, vì vậy cán bộ công nhân viên tại cảng tích luỹ nhiều kinh nghiệm về lĩnh vực giao nhận và có mối quan hệ rộng với các cơ quan đương cục, lĩnh vực tư nhân. Vì vậy việc tư vấn hổ trợ khách hàng giúp khách hàng tiết kiệm chi phí, tiến hành công việc nhanh chống và đạt hiệu quả. Chính yếu tố này đã thu hút khách đến với Cảng Cần Thơ. Trong những năm gần dây Cảng Cần Thơ đã có những phát huy tốt, bộ phận tiếp thị và sự tham mưu của Ban lãnh đạo. Qua đó, Cảng Cần Thơ đã thu hút được một số khách hàng lớn như: Bảng 1.2: Một số khách hàng lớn của Cảng Cần Thơ. Chủ hàng Loại hàng Gentraco Gạo xuất khẩu Công ty CUXD đường biển Gạo xuất khẩu Vilexim Gạo xuất khẩu Công ty CNTP HCM Đường Nhựa đường ADCO Nhựa đường Tina Co.LTD Clinker Constre Xim SG Clinker Vinacimex HN Thạch cao Công ty Thanh Nghĩa Hải Than đá Công ty TNHH công nghiệp gỗ Trung Hà Gỗ dăm Công ty TNHH Thuý Sơn Gỗ dăm Công ty TNHH Hưng Phú Gỗ dăm Công ty CPHH Sài Gòn Container Công ty GEMADEPT Container Công ty VINALINES Container Công ty MARINA Hà Nội Container Công ty TNHH Hiệp Hưng Gỗ lóng Công ty TNHH Vĩnh Thái Gỗ lóng Công ty Sông Hồng Gỗ lóng Đại lý Thép Miền Nam Thép Trên đây là những đơn vị khách hàng lớn và thường xuyên gắn bó lâu dài với Cảng Cần Thơ và đang tiếp tục hợp tác tốt trong thời gian tới. Ngoài ra còn rất nhiều khách hàng nhỏ, có lượng hàng thông qua cảng chưa nhiều và chưa thường xuyên, nhưng cảng vẫn thường xuyên giữ mối liên lạc và quan hệ tốt các khác hàng trên. Cảng Cần Thơ quản lý sản xuất kinh doanh khoa học và năng động kịp thời phát hiện những vấn đề phát sinh, kiểm soát hiệu quả rủi ro và có những biện pháp thích ứng với tín hiệu kinh doanh đang thay đổi nhanh cùng quá trình đổi mới hội nhập hiện nay. CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG GIAO NHẬN HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI CẢNG CẦN THƠ I. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG GIAO NHẬN: 1. Tình hình chung về hoạt động giao nhận: Công tác giao nhận chủ yếu chịu sự điều hành của Phó giám đốc khai thác và có sự mắc xích giữa các khâu sau: Phòng khai thác thương vụ sẽ thực hiện công tác maketing tìm kiếm khách hàng và ký hợp đồng với khách hàng. Căn cứ vào hợp đồng với khách hàng phòng khai thác sẽ lên kế hoạch bốc xếp và chuyển trực tiếp xuống phòng giao nhận và phòng bốc xếp tổng hợp bố trí nhân công thực hiện công tác khi khách hàng đến. Cảng Cần Thơ là đơn vị trực tiếp cung cấp dịch vụ giao nhận trọn gói và là bên thứ ba tham gia giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu, nhiệm vụ giao nhận của Cảng: - Ký kết hợp đồng xếp dỡ, bảo quản, lưu kho hàng hoá với chủ hàng. - Giao hàng xuất khẩu cho tàu và nhận hàng nhập khẩu từ tàu nếu được uỷ thác. - Kết toán với tàu về việc giao nhận hàng hoá là lập các chứng từ cần thiết khác để bảo vệ quyền lợi của các chủ hàng. - Giao hàng nhập khẩu cho các chủ hàng trong nước theo sự uỷ thác của hàng hoá xuất nhập khẩu. - Tiến hành việc xếp dỡ,vận chuyển, bảo quản, lưu kho trong khu vực Cảng. - Chịu trách nhiệm những tổn thất của hàng hoá do mình gây nên trong quá trình giao nhận vận chuyển xếp dỡ. - Hàng hoá lưu kho bãi của Cảng bị hư hỏng, tổn thất thì cảng sẽ bồi thường nếu có biên bản hợp lệ. - Cảng không chịu trách nhiệm về hàng hoá trong các trường hợp sau: + Không chịu trách nhiệm về hàng hoá khi đã ra khỏi kho bãi của Cảng. + Không chịu trách nhiệm về hàng hoá ở bên trong nếu bao kiện, dấu seal còn nguyên vẹn. + Không chịu trách nhiệm về hư hỏng do ký mã hiệu sai hoặc không ghi rỏ mà dẫn đến nhầm lẫn mất mát. Với tính chất công việc trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ và nhu cầu thị trường Cảng luôn luôn phục vụ khách hàng 24/24 và 7/7 đây cũng chính là nguyên tắc hoạt động của Cảng. Năng suất bốc xếp trung bình mỗi ngày là 8.190 tấn/ngày. Khách hàng có thể hoàn thành thủ tục hải quan tại Cảng đơn giản, nhanh chóng. Trong giao nhận vận tải, trang thiết bị giữ vai trò quan trọng trong năm 2008, cảng Cần Thơ có tổng 63 phương tiện cơ giới gồm: cần cẩu, xe chuyên dùng, đầu kéo, rờ móc, tàu kéo, sà lan, trang thiết bị khác như hệ thống kho bãi, phương tiện xếp dỡ, hệ thống thông tin liên lạc,…. Đội cẩu bờ, cẩu tàu và vận tải bộ đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, tổ vận tải thuỷ năm 2008 làm ăn hiệu quả hơn so với nhiều năm trước. Trong thời gian qua, phòng giao nhận kho hàng thực hiện việc kiểm điểm giao nhận hàng hoá đầy đủ, chính xác thông tin, không có xảy ra hiện tượng nhầm lẫn thiếu hụt và mất mát hàng hoá, luôn luôn cải tiến sắp xếp điều động để cán bộ kiểm điểm làm việc có chất lượng và hiệu quả. Kho bãi được quản lý điều hành tốt toàn bộ diện tích, hàng hoá được bảo quản tốt, việc giao nhận kiểm điểm hàng hoá trong kho và trong bãi luôn đầy đủ và chính xác, kịp thời sắp xếp hàng hoá thứ tự ngăn nắp và khoa học đảm bảo tốt công tác giao nhận và an toàn PCCC đảm bảo hàng hoá an toàn. Ban lãnh đạo cùng cán bộ công nhân viên đã khai thác Cảng hiệu quả làm tốt nhiệm vụ đối ngoại, mở rộng thị trường tăng khả năng cạnh tranh, tạo độ tin cậy và giữ uy tín với khách hàng, có sáng kiến đề xuất phương án thay đổi. Phương tiện bốc xếp hàng hoá, tăng năng suất xếp dỡ, đáp ứng nhu cầu của khách hàng, giảm chi phí, tăng thêm dịch vụ hàng hải khác, đem lại hiệu quả cao cho sản xuất kinh doanh vì thế của cảng Cần Thơ ngày càng được nâng cao, được khách hàng tin tưởng gắn bó lâu dài, là nơi đến của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hàng hoá trong và ngoài nước. 2. Cơ cấu giao nhận theo thị trường thế giới: Thị trường giao nhận thế giới chưa được Cảng Cần Thơ khai thác mạnh, Cảng giao nhận chủ yếu thị trường Châu Á như: Capuchia, Singapo, Malayxia, Indonexia,…. Do giới hạn về luồng dẫn vào Cảng, tàu ngoại có trọng tải 10.000DWT không thể vào đến cảng Cần Thơ. Mặt hàng giao nhận mạnh là các mặt hàng rời như gạo, cát nền, cát xây dựng xuất khẩu,….. sử dụng cho các công trình bồi lắp bờ biển nhu cầu ngày càng tăng lên và một số mặt hàng khác như mặt hàng than đá hàng năm quá cảnh tại cảng với số lượng lớn. Lượng tàu ngoại ngày càng tăng lên nhưng chủ yếu là các tàu con có trong tải nhỏ. Căn cứ vào số lượt tàu và sà lan ngoại vào cảng 6 tháng đầu năm 2009 là 779 lượt đạt 62% so với cùng kỳ năm 2008 cho thấy là cảng ngày càng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng và lượng cầu của thị trường cũng tăng lên. 3. Cơ cấu mặt hàng giao nhận: 3.1. Hàng Container Dịch vụ giao nhận hàng hoá bằng container được xem là hoạt động chính, thúc đẩy các hoạt động khác phát triển, mục tiêu của Cảng đẩy mạnh sản lượng giao nhận hàng Container, định hướng phát triển của Cảng Cần Thơ phù hợp với xu hướng phát triển của đất nước và thế giới. Cải thiện hoạt động giao nhận theo phương thức quốc tế, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn để chuyển đổi hoá hoạt động giao nhận truyền thống thành hoạt động lôgistics. 3.1.1. Sản lượng Container thực hiện theo Teus và tấn Giai đoạn 2006 – 2008 và 6 tháng năm 2009 Bảng 2.1: Sản lượng Container thực hiện tại cảng Cần Thơ giai đoạn 2006 – 2008 và 6 tháng đầu năm 2009 Nội dung 2006 2007 2008 6 tháng đầu năm 2009 2007/2006 2008/2007 Chênh lệch % Chênh lệch % Số lượng teus 17.097 21.132 20.906 5.057 4.033 123 (-226) 98 Số tấn 158.422 198.204 206.517 52.926 39.782 125 8.313 104 (Nguồn: Phòng giao nhận tại cảng Cần Thơ) Bảng 3.1 cho thấy số lượng teus tăng mạnh năm 2007 hơn 21 nghìn teus đạt 123% so với cùng kỳ năm 2006 và giảm nhẹ vào năm 2008 hơn 20 nghìn teus. Nhưng thực tế số tấn giao nhận tại cảng vẫn tăng liên tục qua các năm. Năm 2007, cùng với số lượng teus tăng lên thì số tấn giao nhận tại cảng Cần Thơ cũng tăng lên hơn 206 nghìn tấn đạt 125% so với cùng kỳ năm trước và tăng nhẹ vào năm 2008 chỉ đạt 104% so với năm 2007.Đến 6 tháng đầu năm 2009 Cảng Cần Thơ đã tiếp nhận 5.057 teus, 52.926 tấn container đạt 22% kế hoạch năm, giảm 50% so với cùng kỳ năm 2008. 3.1.2. Sản lượng container nhập và xuất tại Cảng Cần Thơ. Bảng 2.2 Sản lượng Container xuất nhập khẩu giai đoạn 2006 – 2008 và 6 tháng đầu năm 2009 ĐVT: Tấn Container 2006 2007 2008 6 tháng đầu năm 2009 2007/2006 2008/2007 Chênh lệch % Chênh lệch % Xuất 77.304 87.632 98.391 22.638 10.319 113 10.768 112 Nhập 81.118 110.581 108.126 30.288 29.463 136 -2.455 97 Tổng 158.422 198.204 206.517 52.926 39.782 125 8.313 104 (Nguồn: Phòng giao nhận tại cảng Cần Thơ) Tổng sản lượng xuất nhập khẩu hàng hoá bằng container tại cảng Cần Thơ thông qua ba năm thực hiện thì không có sự thay đổi mạnh. Container nhập chiếm tỷ trọng cao về số tấn cao hơn. Năm 2007 thì sản lượng hàng hoá nhập khẩu bằng container tăng lên gần 110 nghìn tấn đạt 136% so với cùng kỳ năm trước, vượt 36% với gần 30 tấn tăng lên, nhưng lại có sự giảm nhẹ vào năm 2008 do nhu cầu thị trường nền kinh tế có nhiều biến động kéo theo theo sự tồn động hàng hoá của các doanh nghiệp, cảng không khai thác được dùng hàng hoá của các doanh nghiệp, Công ty TNHH một thành viên Ngọc Thái và Công ty Phương Nam lấp ráp hệ thống trang thiết bị, hệ thống lạnh cho các công ty thuỷ sản, nhưng con số không đáng kế so với tổng sản lượng đạt 97% so với nằm 2007. Riêng 6 tháng đầu năm 2009 số lượng hàng nhập khẩu vẫn cao hơn hàng xuất, container xuất thực hiện 22.638 tấn, container nhập 30.288 tấn. Hình: 2.1 Biểu đồ sảm lượng container thực hiện tại Cảng Cần Thơ Căn cứ vào biểu đồ ở hình 21 cho thấy được sự tăng trưởng ổn định ở mặt hàng container, lượng container xuất và nhập tại Cảng không có sự biến đông lớn, Tuy năm 2008, có sự giảm nhẹ sản lượng vẫn tăng lên và có xu hướng ổn định. Nếu so sánh giữa lượng hàng container và tổng lượng hàng hóa thông qua cảng Cần Thơ thì tỷ trọng chuyên chở container còn rất khiêm tốn. Trong khi đó ở các cảng trên thế giới thì lượng hàng container thông qua cảng phải đạt từ 50% - 70%. Các Cảng trong nước không đạt được chỉ tiêu như vậy là do nước ta là một nước nông nghiệp đang phát triển mà các mặt hàng chủ yếu là nông sản ít qua chế biến. Trong khi đó cước phí container thì cao cho nên khách hang ít chuyên chở hang container chủ yếu là tàu lớn chở các mặt hàng rời như: gạo, phân bón, bột mì, than đá… Nếu so sành năng suất hàng hóa chuyên chở hàng container qua các năm thì chúng ta nhận thấy lượng hàng hóa có tăng và tốc độ phát triển của ngành container là đáng khích lệ. Như vậy, xu hướng phát triển container có hiệu quả và đem lại lợi ích rất lớn cho nền kinh tế ngoại thương. Đồng thời, cũng là tầm chiến lược của nghành hàng hải Việt Nam. 3.1.3. Sản lương container thực hiện phân theo chủng loại Hàng container thực hiện thông qua cảng chỉ hai loại phổ biến đó là container 20 feet và container 40 feet phân theo kích cỡ, nếu phân theo tính chất chuyên dùng thì container lạnh và container bách hóa được sử dụng phổ biến nhất vì nó rất tiện ích cho việc vận chuyển hàng hóa phù hợp với nhu cầu xuất khẩu hàng hóa ở ĐBSCL và đặc biệt là loại hàng thực phẩn thủy sản đông lạnh. Bảng 2.3 Sản lượng container nhập thực hiện giai đoạn 2006 – 2008 và 6 tháng đầu năm 2009 ĐVT: Teus Chỉ tiêu 2006 2007 2008 6 tháng đầu năm 2009 2007/2006 2008/2007 Chênh lệch % Chênh lệch % Container có hàng 3.781 5.386 5.751 1.097 1.065 142 365 106 20’ 2.381 3.140 3.395 902 759 131 255 108 40’ 700 1.123 1.178 195 423 160 55 104 Empty 4.422 5.023 3.964 913 601 113 (1.059) 78 20’ 1.608 1.863 2.162 714 255 115 299 116 40’ 1.407 1.580 901 199 173 112 (679) 57 Container đông lạnh 175 277 977 32 102 158 700 352 20’ 29 77 79 12 48 265 2 102 40’ 73 100 449 20 27 136 349 449 (Nguồn: Phòng giao nhận tại cảng Cần Thơ) Nhìn chung thì lượng container nhập thực hiện tại cảng chiếm tỷ trọng lớn hơn container xuất đi. Sản lượng container nhập loại 20 feet chiếm tỷ trọng cao hơn so với loại 40 feet do tiện ích là nhỏ gọn và vận chuyển thuận lợi Container có hàng: Sản lượng liên tục tăng lên qua 3 năm và tăng nhanh nhất vào năm 2007 là 5.386 teus đạt 142% so với cùng kì năm trước, với tốc độ là 42% tăng lên 1.605 teus, đến năm 2008 thì tốc độ này giảm lại chỉ còn 6% so với cung kỳ năm 2007, sản lượng đạt 5.751 teus đạt 106% so với năm 2007. Container rỗng: năm 2007 sản lượng đạt 5.023 teus đạt 113% so với cùng kỳ năm trước, vượt 13% sản lượng tăng 601 teus. Sản lượng tăng do nhu cầu xuất nhập khẩu ngày càng tăng trong năm. Nhưng đến năm 2008 sản lượng container có sự sụt giảm là do sự khủng hoảng kinh tế tài chính Mỹ, ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới, mọi người đều có xu hướng tiết kiệm, sản lượng giảm 28% so với cùng kỳ năm trước với sản lượng là 1.059 teus. Container đông lạnh: tốc độ sản lượng tăng nhanh nhất so với các loại khác; năm 2007 sản lượng 277 đạt được 138% so với năm 2006, sản lượng 997 teus năm 2008 với tốc độ là 252%. Bên cạnh đó thì container 20 feet, tăng đáng kể vào năm 2008. Do sản lượng mặt hàng gia cầm nhập vào các siêu thị tăng nhanh do giá cạnh tranh, chất lượng đảm bảo phù hợp với khả năng chi trả của người dân tại vùng ĐBSCL. Bảng 2.2 Sản lượng container xuất thực hiện giai đoạn 2006 – 2008 và 6 tháng đầu năm 2009. Chỉ tiêu 2006 2007 2008 6 tháng đầu năm 2009 2007/2006 2008/2007 Chênh lệch % Chênh lệch % Container có hàng 1.426 1.500 3.446 622 74 105 1,946 229 20’ 992 1.172 2.782 660 180 118 1.610 237 40’ 217 164 331 2 (53) 75,5 168 202 Empty 4.131 5.475 4.953 1.350 1.344 132 (522) 90,4 20’ 2.277 2.929 2.487 974 662 129 (452) 84,6 40’ 927 1.268 1.233 376 341 136 (35) 97,2 Container đông lạnh 3.162 3.471 1.815 126 309 109 (1.656) 52,2 20’ 762 795 415 41 33 104 (380) 52,2 40’ 1.200 1.338 700 85 138 111 (638) 52,3 (Nguồn: Phòng giao nhận tại cảng Cần Thơ) Sản lượng container xuất thực hiện thông qua Cảng Cần Thơ không có sự gia tăng đáng kể. Riêng sản lượng container rỗng và đông lạnh có sự sụt giảm vào năm 2008. Container có hàng: sản lượng tăng liên tục qua các năm, mặt hàng chủ yếu là hàng hoá thực phẩm thông thường. Năm 2007 với tốc độ tăng 129% cho thấy container có hàng thông qua Cảng ngày một tăng. Container rỗng: Sản lượng container rỗng có sự gia tăng và giảm xuống với tốc độ thấp vì thế cũng không ảnh hưởng nhiều đến tổng sản lượng. Năm 2008, sản lượng 4.953 teus đạt hơn 90% so với năm 2007. Đến 6 tháng đầu năm 2009 thực hiện 1.350 teus số lượng container có hàng và đông lạnh. Container đông lạnh: Năm 2008, sản lượng xuất đi lại có sự sụt giảm đáng kể. Chỉ đạt hơn 52% so với năm 2007. Hiện tượng này diễn ra là do các nước nhập khẩu hàng thuỷ sản đông lạnh yêu cầu về chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm ngày càng cao. Khu vực ĐBSCL chưa có khả năng đáp ứng ngay cho sự chuyển biến nhanh của hệ thống công nghệ, vì thế một số công ty thủy sản tải bộ hàng lên Tp.HCM để thực hiện khâu an toàn vệ sinh thực phẩm thông qua hệ thống chiếu xạ theo yêu cầu của nhà xuất khẩu, sau đó xuất đi các nước từ các cảng ở TPHCM. Tóm lại: Theo xu hường hiện nay container là phương tiện chứa hàng thông dụng nhất, cảng cũng đầu tư thiết bị xếp dỡ cho container, mặt hàng này tăng đều hàng năm chứng tỏ nó chiếm ưu thế trong thị trường trong nước. 3.2 Hàng rời: 3.2.1. Xuất ngoại: Sản lượng hàng xuất ngoại thực hiện tại cảng Cần Thơ tăng liên tục trong thòi gian qua, chủ yếu là các mặt hàng như: gạo, gỗ tràm, cát và một số mặt hàng khác. Sản lượng xuất ngoại năm 2007 đạt 413 nghìn tấn đạt 785% so với cùng kỳ năm 2006. Tiếp tục tăng nhanh vào năm 2008 với tổng sản lượng hơn 3 triệu tấn đạt 502% so với năm 2007. Hàng xuất ngoại vẫn chiếm tỷ trọng cao hơn so với hàng nhập ngoại và có xu hướng chuyển dịch mạnh sản lượng hàng xuất ngoại. Riêng 6 tháng đầu năm 2009 sản lượng hàng xuất ngoại tăng vọt hơn 4 triệu tấn, đạt 208% kế hoạch năm vượt 726% so cùng kỳ năm 2008 với số lượng: 4.207.321 tấn Gạo: Gạo là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Thành phố Cần Thơ, nên mặt hàng gạo là mặt hàng xuất khẩu truyền thống của cảng Cần Thơ. Sản lượng gạo thông qua cảng 2007 có sự sụt giảm 14.112 về tỷ trọng chiếm 70% so với năm 2006 do cảng lương thực bắt đầu hoạt động mạnh vào năm 2007, thế mạnh của họ là Tổng Công Ty Lương Thực Miền Nam. Nên hầu hết mặt hàng về cảng lương thực Sông Hậu làm hàng. Đến năm 2008 tăng trở lại với sản lượng chênh lệch tuyệt đối là 13.319 tấn đạt 138% so với cùng kỳ năm 2007 và tăng vọt vào 6 tháng đầu năm 2009 với sản lượng lên đến 48.251 tấn. Sản lượng gạo 6 tháng đầu năm 2009 tăng mạnh qua Cảng Cần Thơ là do lượng gạo xuất khẩu của Tp.Cần Thơ tăng mạnh, sản lượng xuất khẩu lên đến 337 tấn. Vào tháng 05/2009. Tuy nhiên theo nhận định của Sở Công Thương TP.Cần Thơ kim ngạch xuất khẩu gạo sẽ giảm vào thời gian tới vì từ tháng 05 năm 2009 giá gạo trên thị trường thế giới sụt giảm khá mạnh do Thái Lan, Ấn Độ đẩy mạnh bán gạo dự trữ. Bên cạnh đó, giá sàn gạo xuất khẩu được Hiệp hội lương thực Việt Nam quy định cao hơn giá gạo đang giao dịch trên thị trường thế giới dẫn đến các doanh nghiệp không ký được hợp đồng mới và mất nhiều khách hàng. Vậy việc xuất khẩu gạo tại Cảng Cần Thơ vào 6 tháng cuối năm 2009 sẽ ảnh hưởng phần nào đến sản lượng. Nhưng thực tại sản lượng gạo thực hiện qua cảng đã tăng liên tục từ năm 2008 đến 6 tháng đầu năm 2009. Mặt hàng gạo là mặt hàng truyền thống của cảng, hàng năm luôn chiếm lĩnh vị trí đứng đầu trong các mặt hàng xuất khẩu tại Cảng nhưng đến năm 2007 cảng đã khai thác được hai mặt hàng mới là Gỗ tràm và cát xuất khẩu. Trong đó mặt hàng cát xuất khẩu chiếm sản lượng rất cao đã đẩy mặt hàng gạo xuống vị trí thứ hai. Cát xuất khẩu: Sản lượng cát thông qua cảng năm 2008: 1.791.088 tấn, so với năm 2007 có tỷ lệ đạt 720% tăng 620% và đạt mức tuyệt đối 1.542.350 tấn. Đến tháng 6 đầu năm 2009 sản lượng cát xuất khẩu thông qua cảng tăng vọt 4.716.290 tấn nguyên nhân là trước năm 2007 Việt Nam cho phép nguồn cát khai thác xuất khẩu từ Campuchia được quá cảnh theo tuyến Sông Hậu, để từ đây sang mạn qua các tàu nước ngoài neo đậu tại Cảng Cần Thơ. Nhưng từ tháng 05/2008 chính phủ Campuchia ra lệnh cấm khai thác cát trên sông Mêkong để xuất khẩu, thì mặt hàng cát trở thành mặt hàng xuất khẩu tăng mạnh ở Việt Nam và đây là nguyên nhân chính làm mặt hàng cát tại Cảng Cần Thơ tăng liên tiếp từ năm 2008 và 6 tháng đầu năm 2009. Gỗ tràm: Sản lượng gỗ tràm năm 2008 đạt 235.879 tấn có tỷ lệ đạt 181% và đạt mức tuyệt đối 105.789 tấn đến tháng 6 đầu năm 2009 đạt 21.652 tấn, đây là mặt hàng chỉ lưu hành nội địa thì năm 2007 gỗ tràm lại xuất hiện trong ngành xuất khẩu với sản lượng tăng qua các năm. Đó là sự cố gắng của các CBCNV trong cảng để tìm ra hàng mới thay thế những nguồn hàng đã giảm, do cạnh tranh của các Cảng, các bến trong khu vực cùng sự biến động của thị trường trong nước và thế giới. 3.2.2. Nhập ngoại: Thế mạnh của Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) là lĩnh vực nông nghiệp cả nước. Đây cũng là nơi nhập khẩu phân bón, nguyên vật liệu sản xuất như xăng dầu, clinker, nhựa đường phục vụ cho sản xuất nhiều nhất cả nước. Tuy nhiên thời gian qua, khối lượng hàng hoá trên nhập khẩu qua cảng Cần Thơ gặp nhiều khó khăn, chủ yếu là luồn cạn và không đồng bộ của hạ tầng giao thông của ĐBSCL. Những mặt hàng giảm trong năm 2007 như Clinker là mặt hàng do một chủ hàng lớn công ty Holcim nhưng hiện công ty đã có cảng chuyên dụng. Do đó, cảng mất một chủ hàng lớn. Và một số mặt hàng không khai thác được như: phân bón hoá chất, sắt thép, máy móc thiết bị,…. dẫn dến sản lượng nhập ngoại năm 2007 chỉ đạt 73% giảm 27% và giảm số tuyệt đối là 74.713 tấn so với năm 2006. Năm 2008, cảng nổ lực khai thác các mặt hàng có triển vọng nên cũng cải thiện được tình hình, sản lượng 262 nghìn tấn đạt 124% so với cùng kỳ năm 2007. đến tháng 6 đầu năm 2009 sản lượng đạt 118.397 tấn. Do khai thác được mặt hàng Thạch cao, gỗ lóng, nhựa đường, than đá, đạt 62% kế hoạch giảm 9% so cùng kỳ năm 2008, với số lượng: 11.455 tấn. Thạch cao: Sản lượng thạch cao 2007 thực hiện đạt 62.111tấn so với năm 2006 tỷ lệ đạt 104% và mức tăng tuyệt đối là 2.849 tấn. Mặt hàng chủ yếu nhập từ nước ngoài vào để cung ứng chủ yếu cho các nhà máy sản xuất xi măng. Năm 2008 giảm con số tuyệt đối là 11.873 tấn chỉ đạt 80% so với năm 2007. Nếu 6 tháng đầu năm 2009 đạt 16.813 tấn. Sản lượng thạch cao biến động tăng giảm qua các năm do nhu cầu của các nhà xi măng không ổn định. Gỗ lóng: Đây là mặt hàng chiếm tỷ trọng cao nhất trong các mặt hàng nhập khẩu tại cảng. Sản lượng thông qua cảng năm 2007 giảm số tuyệt đối 29.932 tấn với tỷ lệ đạt 82% giảm 18% so với năm 2006. Năm 2008 mặt hàng này tăng trở lại với số tuyệt đối 29.253 tấn đạt 121 tăng 21% so với năm 2007 đến tháng 6 đầu năm 2009 sản lượng nhập tại cảng đạt 67.741 tấn. Nhờ vào sự thông thoáng về cơ chế quản lý một số cơ quan ban hành có liên quan hổ trợ tất cả các mặt pháp lý, giấy tờ có liên quan, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khách hàng, nhờ vậy mà sản lượng gỗ lóng thông qua cảng tăng đáng kể, mặt hàng gỗ lóng được nhập từ Malayxia, Indonexia,…. Riêng mặt hàng nhựa đường và than đá chiếm tỷ trọng rất thấp trong các mặt hàng nhập khẩu tại cảng. Nhìn chung các mặt hàng xuất nhập khẩu qua cảng Cần Thơ chưa đa dạng về chủng loại và sản lượng còn rất thấp so các cảng ở phía trên như: Sài Gòn, Tân Cảng, Bến Nghé, VICT và Phước Long,…. Nguyên nhân chính là luồng tàu từ cửa Định An đến các Cảng trên Sông Hậu nói chung và cảng Cần Thơ nói riêng còn bị giới hạn mơn nước (<7,6m) đối với tàu biển, hạn chế việc tiếp thị nhằm thu hút tàu có trọng tải lớn đến cảng. Vì thế cảng Cần Thơ phải tận dụng lợi thế riêng của cảng cùng những đặc thù của ĐBSCL để duy trì sự tăng trưởng qua các năm và đem lại lợi nhuận. Bảng 2.5: Sản lượng hàng rời xuất nhập khẩu thực hiện tại Cảng Cần Thơ giai đoạn 2006 – 2008 và tháng 6 đầu năm 2009 ĐVT: tấn STT 2006 2007 2008 6 tháng đầu năm 2009 2007/2006 2008/2009 Lượng % Lượng % Lượng % Lượng % Chênh lệch % Chênh lệch % A XUẤT NGOẠI 52.606 100 413.017 100 2.074.475 100 4.786.493 100 360.411 785 1.661.458 502 1 Gạo 48.301 91 34.189 8 47.508 2 48.251 1 -14.112 70 13.319 138 2 Cát xuất khẩu 248.738 61 1.791.088 86 4.716.290 98,5 248.738 1.542.350 720 3 Gỗ tràm 130.090 31 235.879 12 21.952 0,5 130.090 105.789 181 B NHẬP NGOẠI 285.836 100 211.123 100 262.924 100 118.397 100 -74.713 73 51.801 124 1 Thạch cao 59.262 21 61.111 29 50.238 19 16.813 2.849 104 -11.873 80 2 Gỗ lóng 167.428 58 137.496 65 166.749 63 67.741 -29.932 82 29.253 121 3 Nhựa đường 11.362 4 11.516 6 5.923 2,6 2.070 154 101 -5.593 51 4 Than đá 28.298 8.177 28.298 5 Clinker 32.136 11 6 Phân bón hoá chất 3.300 1 7 Thiết bị máy móc 9.155 3 769 0,4 -9.155 769 8 Hàng khác 3.193 1 10.298 15 -3.193 10.298 Nguồn: Phòng khai thác – thương vụ Cảng Cần Thơ Hình 2. Sản lượng hàng hoá xuất ngoại tại Cảng Cần Thơ năm 2008 Xem hình 2.2 ta thấy cát xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao nhất 86% so với tổng lượng xuất vào năm 2008. Nhìn chung thì các mặt hàng xuất ngoại tại cảng còn hạn chê chủ yếu là gạo, gỗ tràm, cát xuất khẩu do không khai thác được sản lượng từ các mặt hàng trên. Hình 2.3. Sản lượng hàng hoá nhập ngoại tại Cảng Cần Thơ năm 2008 Các mặt hàng nhập khẩu thực hiện tại cảng tương đối đa dạng hơn các mặt hàng xuất khẩu nhưng đến năm 2008 thì một số mặt hàng Cảng không khai thác được như clinker, sắt thép, phân bón hoá chất,… nhìn vào biểu đồ hình 2.2 cho thấy sản lượng gỗ cây nhập khẩu chiếm tỷ trọng 63% cao nhất trong tổng sản lượng. 4. Số lượt tàu và sà lan ngoại: Bảng 2.6: Số lượt tàu và sà lan ngoại vào cảng Cần Thơ giai đoạn 2006 – 2008 và 6 tháng đầu năm 2009 ĐVT: Lượt Nội dung 2006 2007 2008 6 tháng đầu năm 2009 2007/2006 2008/2009 Chênh lệch % Chênh lệch % Tàu và sà lan ngoại 1.051 1.260 1.243 779 209 120 -17 99 Nguồn: Phòng khai thác – thương vụ Cảng Cần Thơ Tàu và các hãng tàu là các khách hàng có tầm quan trọng và là các đơn vị giao dịch hàng ngày và hàng giờ với Cảng Cần Thơ. Các loại tàu và sà lan ngoại cập bến tại cảng với trọng tải 5.000 tấn , về phương thức vận chuyển chỉ có tàu chợ và tàu chuyến, còn tàu định hạn thì cảng chưa khai thác được vì chủ hàng ĐBSCL chưa có nhu cầu vận chuyển với lô hàng có số lượng lớn và luồng tàu vào cảng Cần Thơ không khả năng cho các tàu trên 5.000 tấn vào cảng mặc dù cầu tàu của cảng đáp ứng cho các tàu 5.000 – 10.000 tấn. Trong năm 2007 cảng Cần Thơ tiếp nhận 1.260 lượt tàu và sà lan ngoại, chênh lệch tuyệt đối 209 lượt đạt 120% vượt 20% lượt tàu và sà lan ngoại so với năm 2006. Vì nhu cầu đa dạng hàng hoá nên số lượt tàu và sà lan ngày một tăng, cùng tính chất phức tạp của hàng hoá và các mặt chàng truyền thống của ĐBSCL nên tàu chợ và tàu chuyến đều khai thác các mặt hàng rời và hàng container như: sắt thép, xi măng, gỗ lóng, gỗ tràm, than đá, cát, gạo, nhựa đường, hàng đông lạnh,… Đặc biệt Cảng Cần Thơ là cảng duy nhất ĐBSCL tiếp nhận tàu container do vậy tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong khu vực xuất nhập khẩu hàng hoá. Năm 2008 cảng tiếp nhận 1.243 lượt tàu và sà lan ngoại chênh lệch tuyệt đối giảm 17 lượt đạt 99% so với cùng kỳ năm 2007. Đến sáu tháng đầu năm 2009 Cảng Cần Thơ tiếp nhận 779 lượt tàu và sà lan ngoại. Từ năm 2008 đến tháng 6 năm đầu năm 2009 số lượt sà lan ngoại chiếm tỷ trọng cao hơn tàu ngoại là do tính chất thuận tiện là đáy sa lan phẳng và mơn nước thấp vì rất phù hợp vận chuyển hàng container và được phép ra vào luồng Định An. Mặc khác trong giai đoạn này Cảng Cần Thơ xuât khẩu cát tăng đột biến, nên số lượng sà lan LAZ quốc tịch nước ngoài tăng lên. Tàu và salan ngoại đến cảng không chỉ đạo neo đậu làm hàng hoá mà còn có các nhu cầu khác như ký hợp đồng giao nhận, xếp dỡ, cung cấp điện, nước, xăng dầu, lương thực, nước ngọt,…. đặc biệt dịch vụ lai dắt tàu ngoại, đây là loại hình mang lại lợi nhuận khá cao. Thông thường chỉ cần bỏ ra một chi phí nhỏ đầu tư là có thể thu được lợi nhuận cao, mang lại nguồn thu ngoại tệ cho cảng. Căn cứ vào nhu cầu và đặc điểm của khách hàng cộng với kinh nghiệm lâu năm của Cảng Cần Thơ ngày càng phục vụ tốt nhu cầu của Chủ Tàu và salan ngoại đã tạo nguồn thu khá lớn cho Cảng. Hình 2.3 Biểu đồ số lượt tàu và sà lan ngoại giai đoạn 2006 – 2008 và 6 tháng đầu năm 2009 Nhìn vào biểu đồ 2.3 cho thấy sự tăng giảm số lượt tàu và sà lan ngoại vào cảng không có sự biến động mạnh. Số lượt có giảm nhẹ vào nam 2008 nhưng vẫn duy trì mức lợi nhuận từ hoạt động này. Tuy hạn chế về luồng tàu cảng cần thơ đã kịp thời khai thác lợi thế riêng của khu vực để bù đắp lại các khoản mất đi từ sự suy giảm lượt tàu mà thay vào đó là số lượt salan ngoại tăng lên, 5. Khai thác kho bãi: Bảng 2.7 Tình hình khai thác kho bãi tại Cảng Cần Thơ 2008 ĐVT: m2 STT CHỦ HÀNG KHO LOẠI HÀNG DIỆN TÍCH % 1 Cty TNHH giấy Lee & Man A Thiết bị 1.600 97 2 Công ty TNHH Chăn nuôi CP A1 Cám 3.000 3 Cty TNHH giấy Lee & Man B Thiết bị 2.160 4 Cty TNHH CBBM Mêkong NQ Bột mì 300 5 Quách Thuận Hưng A2 Gạch 100 6 Cty ADCo ADCo Nhựa đường 2.500 7 Cty TNHH Thiên Nam Phương Bãi gỗ Gỗ tràm 6.060 60 8 Cty TNHH Hưng Kiều Bãi gỗ Gỗ lóng 600 9 Cty TNHH Than Nghĩa Hải Bãi Than Than đá 3.000 10 LEE & MAN Cái Lân Bãi thiết bị Thiết bị 250 11 Cty TNHH VT & VT Minh Hà Bãi Tol Tol Fibro 300 12 SHC, VINALINES, GMD, MRN Bãi cont Container 11.000 57 Tổng cộng 30.870 Nguồn: Phòng khai thác tại Cảng Cần Thơ Cảng Cần Thơ có diện tích kho bãi lớn nhất so với các cảng khác trong khu vực với hệ thống cơ sở vật chất và kỹ thuật hiện đại đáp ứng tốt nhu cầu lưu kho bãi của các doanh nghiệp có nhu cầu ổn định và thời gian tồn trữ kéo dài. Trong tình trạng nền kinh tế có nhiều biến động như năm 2008 vừa qua thì các doanh nghiệp có nhu cầu lưu kho cao. Các đại lý container chiếm diện tích lưu bãi nhiều nhất như: SHC, VINALINES, GMD, MRN…..là 1.000m2 chiếm 58% tổng diện tích kho bãi chứa gỗ bầm, than đá, thép, tol, thiết bị. Diện tích kho chứa khai thác tốt đạt 97% diện tích kho bãi chủ yếu các Công ty TNHH giấy LEE & MAN thuê chứa thiết bị , Công ty TNHH Chăn Nuôi CP thuê chứa thức ăn cho gia súc, doanh nghiệp tư nhân Quách Thuận Hưng thuê chứa gạch, công ty ADCo cho thuê chứa nhựa đường. Riêng kho ngoại quan chỉ khai thác đạt 60% tổng diện tích kho, doanh nghiệp thuê để chứa bộ mì. Hiện nay cảng Cần Thơ có một hệ thống kho bãi khá hoàn chỉnh. Chính vì vậy khách hàng đã thuê các kho của cảng để tập kết, gom hàng về xếp tại kho cảng, khi có đủ lượng hàng xuất cho một hay nhiều tàu thì chủ hàng sẽ chuyển số hàng tại kho cảng xếp xuống tàu. Nhìn chung diện tích kho cảng được khai thác tốt, khách hàng chủ yếu là các khách hàng có mối quan hệ lâu dài và là khách hàng nằm trong danh sách khách hàng thân thiết của Cảng Cần Thơ. Lượng khách hàng ít biến động và mặt hàng lưu kho bãi ít thay đổi chủ yếu là các mặt hàng trên. II. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG GIAO NHẬN 1. Kết quả đạt được: Nhìn chung trong giai đoạn 2006 – 2008 vào 6 tháng đầu năm 2009 Cảng Cần Thơ luôn đạt được kết quả đáng kể trong hoạt động giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu tại Cảng. Về sản lượng giao nhận xuất nhập khẩu qua Cảng Cần Thơ tăng trưởng qua các năm. Duy trì được tình trạng xuất siêu, đó là nhờ vào Cảng đã áp dụng quy trình công nghệ hợp lý vào hoạt động giao nhận hàng hóa, giảm thiểu thời gian hao phí lao động, thay thế dần những thiết bị cơ giới cũ, lạc hậu cho phù hợp với kế hoạch phát triển Cảng của Ban Giám Đốc Cảng Cần Thơ nói riêng và chính sách phát triển hệ thống Cảng biển của Nhà nước nói chung. Nhưng năng lực thông qua cầu bến của Cảng vẫn còn thừa 30% so với lượng hàng xuất nhập khẩu hiện nay. Năng lực thực tế của Cảng còn có thể cao hơn thế nữa, khi các dự án phát triển và trang thiết bị mới của Cảng hoàn tất, phát huy và nếu Cảng có thêm trang bị làm hàng hiện đại, đủ mặt hàng sản xuất và giao thông hậu phương thông suốt hơn. - Về doanh thu: Cảng luôn phấn đấu đạt mục tiêu doanh thu năm sau cao hơn năm trước bằng cách không ngừng nâng cao năng suất xếp dỡ, thực hiện cải tạo công tác tổ chức dây chuyền công nghệ xếp dỡ hợp lý, hiện đại hóa cơ giới xếp dỡ về mọi mặt, đặc biệt là Container, khai thác thế mạnh của Cảng là hàng Container và hàng rời, lai dắt tàu. Các năm qua Cảng đã đạt được những thành quả đáng khích lệ về đầu tư mở rộng và khai thác sản lượng hàng thông qua. - Về lợi nhuận từ đầu hoạt động giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu qua Cảng Cần Thơ nói chung có tăng nhưng rât chậm. Lợi nhuận hoạt động giao nhận hàng Container có những biến động tăng trưởng không ổn định trong thời gian qua. Lợi nhuận từ hàng rời không cao, riêng hoạt động lại dắt tàu biển mang lại khoản thu đáng kể cho Cảng, cùng hoạt động lưu kho bãi tại Cảng, do giá vốn hàng bán của hoạt động này bao gồm ít chi phí hơn các hoạt động khác. Hoạt động bốc dỡ là hoạt động góp phần làm tăng doanh thu nhiều nhất của đơn vị nhưng lợi nhuận mang lại không cao. Năm 2007, lỗ 50 triệu đồng và hoạt động có lãi từ năm 2008 với số tiền là hơn 1,7 tỉ đồng. Do giá vốn hàng bán của hoạt động này cao nhưng khấu hao trong thiết bị, chi phí quả lý doanh nghiệp, chi phí thuê tài chính… - Các chỉ tiêu kế hoạt đặt ra luôn được Cảng thực hiện và hoàn thành tốt. - Dịch vụ của Cảng cung cấp cho khách hàng là rất tốt Trong những năm qua, Cảng Cần Thơ đã nổ lực khai thác tiềm năng ưu thế của mình, xây dựng nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập vào tổ chức thương mại quốc tế (WTO) theo chủ trương và lộ trình cam kết chung của đất nước, thúc đẩy sự phát triển kinh tế. 2. Những hạn chế: Cảng cần thơ đã đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội trong khu vưc DBSCL. Tuy nhiên cơ sở hạ tầng Cảng vẫn thuộc loại yếu kém về chất lượng, lạc hậu về trình độ kỹ thuật công nghệ so với yêu cầu của các nước tiên tiến trong khu vực. Hiện tại Cảng chỉ tiếp nhận tàu có mớn nước rất thấp, dưới 7m, tàu có tải 5.000 tấn phải chờ con nước mới ra vào được. Do Cảng Cần Thơ nằm quá sâu trong nội địa, cách cửa khẩu Định An khoảng 80 km về phía hạ lưu sông Hậu nên việc vận tải phụ thuộc khá nhiều vào độ sâu luồng lạch. Điều kiện luồng lạch gặp khá nhiều khó khăn trong quá trình duy trì độ sâu vì cửa khẩu Định An có sự bồi đắp quá nhanh, sau khi nạo vét chỉ duy trì được từ 7 – 10 tháng. Vì vậy, việc vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu bằng tàu lớn đi các tuyến xa phải trung chuyển qua các Cảng lớn phía trên Sài Gòn và các Cảng nước ngoài như phía Bắc qua Hong Kong, phía Nam qua Singapore…làm chi phí vận tải tăng cao dẫn đến làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa gây tổn thất rất lớn cho nền kinh tế khu vực và cả nước. Cảng Cần Thơ làm hàng trung chuyển Container quốc tế trong thời gian qua, nhưng do Cảng không nằm gần tuyến đường hàng hải quốc tế khiến chi phí tăng nên dịch vụ này không phát triển được như mong muốn. Hệ thống giao thông ngoài Cảng không đồng bộ, do Cảng có lịch sử hình thành từ khá lâu, nằm sâu trong nội địa. Do giới hạng của cầu Trà Nóc không cho phép các xe có tải trọng 20 tấn qua cầu. Vì thế Cảng Cần Thơ đang phải đánh mất khách hàng lớn từ khu công nghiệp Trà Nóc 1 và 2, với lượng hàng hóa sản xuất hàng năm, nhu cầu xuất khẩu hàng Container cao, Cảng Cần Thơ phải nhường thị phần lại cho Cảng Lương Thực Sông Hậu. Thực trạng ách tắc và tiêu cực phát sinh trong dây chuyền xử lý trên bộ làm tăng giá thành xuất nhập khẩu mà chung quy Cảng phải gánh chịu phần lớn hậu quả bằng cách phải giảm giá để cạnh tranh. Tuy Cảng Cần Thơ đạt tiêu chuẩn Cảng loại I nhưng sản lượng xuất nhập khẩu thông qua Cảng, số lượt tàu ngoại đến cảng còn thấp nên năng lực của Cảng dôi ra 30% năm. Cơ sở phương tiện và năng lực tổ chức quản lý, tiếp thị quốc tế cho cảng chưa chuẩn bị đầy đủ còn nhiều hạn chế, nên không thể thu hút khách hàng trung chuyển Container mà hiện nay vẫn do các hãng tàu đầu tư điều chỉnh thu xếp là chính. Cảng Cần Thơ chưa khai thác mạnh thị trường thế giới, chỉ quan hệ chủ yếu với các khách hàng thuộc khu vực Châu Á. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ I. NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC 1. Cơ hội: Cảng Cần Thơ nằm ở vị trí thuận lợi là đầu mối giao thông quan trọng nối liền giữa các tỉnh của cả nước, đặc biệt là các tỉnh thuộc vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, khu vực này được xem là vựa lúa lớn nhất cả nước, sản phẩm như cây ăn trái, thủ công mỹ nghệ, thủy sản … mỗi năm được xuất khẩu với số lượng hàng khá lớn thêm vào đó là lượng hàng nhập khẩu cũng không nhỏ phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng.Việc nhập khẩu tại đây mà Cảng Cần Thơ là nơi giao nhận phần lớn hàng hóa trong khu vực, đóng vai trò là Cảng chuyển tiếp với Cảng Singapore và JanJung hai Cảng được gọi là trung tâm thương mại cho đường biển. Với thiết kế chuyển tiếp tự nâng Container, Cảng Cần Thơ có thể tiếp nhận, bốc dỡ hàng hóa cho những tàu này một cách hiệu quả kể cả làm hàng ngoài phao. Cảng Cần Thơ nằm bên bờ sông Hậu nên tàu từ Campuchia và biển Đông có thể dễ dàng tiếp cận. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu. Việc khai thông và nạo vét Luồng Định An và kênh Quan Chính Bố đưa vào sử dụng vào năm 2010 có thể cho tàu 10.000 tấn ra vào ngày đêm. Cùng sự đầu tư xây dựng hệ thống kho lạnh để tồn trữ hàng nông thủy sản xuất khẩu ở khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long. Thì Cảng Cần Thơ sẽ lấy lại phần doanh thu đã thất thoát từ các mặt hàng xuất khẩu như: thủy sản, trái cây, thịt… Các mặt hàng nhập khẩu như: sắt thép, than đá, phân bón hóa chất, nhựa đường, thức ăn gia súc, bột mì, vật liệu xây dựng….Đây là các mặt hàng xuất nhập khẩu rất mạnh nhưng do hạn chế vền luồng tàu nên đã trở thành hàng nội địa của cảng, nên khi luồng tàu được khai thông sẽ đem lai lợi ích kinh tế rất lớn cho cảng Cần Thơ nói riêng và nền kinh tế nói chung. Khi cầu Cần Thơ khánh thành chính thức đưa vào sử dụng thì giao thông thuận tiện, gắn kết giữa các tỉnh phía Tây vùng ĐBSCL với TP.HCM tạo điều kiện tốt cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, lượng hàng xuất khẩu sẽ tăng và đây là khách hàng tìêm năng. Các thay đổi gần đây trong vận tải có sự liên hệ với giá năng lượng tăng cao. Đặc biệt là trong lĩnh vực vận tải biển, khi mà xu hướng container hóa đang ngày càng phổ biến. Khối lượng xuất nhập khẩu trong năm 2008 tăng 20% tính bình quân so với cùng kì năm trước (trong đó hàng container tăng 25%). Hai thập kỷ qua, tàu container được đóng để đi nhanh hơn tàu hàng rời vì các tàu container cần mớn nước thấp hơn tàu chở hàng rời vì thế sẽ ít hạn chế bởi luồng dẫn vào Cảng. Nhà nước có chính sách khuyến khích, kêu gọi đầu tư vùng Đằng Sông Cửu Long tạo cơ hội cho hàng hóa xuất nhập khẩu qua Cảng Cần Thơ ngày một tăng. Vận tải biển và dịch vụ Cảng biển được Chính phủ coi là hạ tầng quan trọng, là đầu vào và đầu ra của một nền kinh tế. Nên năng lực của hệ thống Cảng Cần Thơ cũng được quy hoạch, cải thiện hoàn chỉnh sẽ đáp ứng nhu cầu giao thương ngày một nhộn nhịp của nền kinh tế Việt Nam. 2. Thách thức: Sự cạnh tranh không lành mạnh về giá giữa các Cảng: Chi hoa hồng cao, dịch vụ khuyến mãi hậu hỷ để lôi kéo khách hàng… Khả năng thích ứng với hoạt động kinh tế có tính chất toàn cầu khi hội nhập ASEAN, APEC, WTO, Cảng phải tiếp nhận nhiều chủng loại tàu, đặc biệt là các tàu có trọng tải lớn, để đáp ứng nhu cầu đó, Cảng phải phát triển kết cấu hạ tầng áp dụng mô hình quản lý tiên tiến và nâng cao năng lực khai thác. Một điều không kém phần quan trọng là việc cải cách thủ tục hành chính tại Cảng có thể nói thực trạng của hoat động quản lý nhà nước chuyên ngành tại Cảng hiện nay vẫn còn đang trong cơ chế tồn tại nhiều chồng chéo, mâu thuẫn và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy đã cải cách phần nào nhưng hiện tại, các thủ tục hành chính và phí Cảng biển vẫn xếp vào danh sách nhiêu khê và cao nhất trong khu vực. Tình trạng này đã và đang làm giảm sức cạnh tranh của Cảng Cần Thơ nói riêng và của hệ thống Cảng biển nói chung. Tuy khí hậu nhiệt đới là một ưu đãi lớn của thiên nhiên, nhưng Đồng Bằng Sông Cửu Long phải thường xuyên đối đầu với lụt bão, hạn hán, sâu bọ phá hoại, dịch bệnh do đó nông nghiệp luôn bị một sự đe dọa nặng nề không thể dự đoán trước nên ảnh hưởng đến chất lượng, số lượng nông sản làm cho việc xuất khẩu sản phẩm giảm. II. MỘT SỐ GiẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ. 1. Giải pháp: Cần tiến hành nhanh việc chuyển đổi công năng của cảng Cần Thơ vừa để giảm thiểu khó khăn trở ngại vào Cảng nằm sâu trong nội địa, ách tắc giao thông trên bộ … vừa tạo động lực phát triển. Theo quyết định số 791/QĐ – TTG ngày 12/8/2005 của Thủ Tướng Chính Phủ. Tại khu bến Bình Thủy, cảng Cần Thơ, chuyển đổi công năng là Trà Nóc – Ô Môn và Cái Cui hạ lưu cầu Cần Thơ nhưng hiện tại Cảng Trà Nóc vẫn đang hoạt động với công suất không lớn còn Cảng Cái Cui đã đầu tư hàng trăm tỉ đồng, khánh thành giai đoạn 1 vào thánh 2/2006, hoạt động được 2 tháng với 3.000 tấn hàng thông qua, doanh thu khoảng 1 tỉ đồng rồi ngưng hoạt động đến nay. Nguyên nhân cũng là do luồng Định An đi vào Cảng bị cạn, không đủ độ sâu cho tàu lớn vào, chỉ cho phép tàu 5.000 DWT hoạt động, nên Cảng phải chờ mở luồng mới qua kênh Quang Chánh Bố với tổng chi phí đầu tư dự kiến lên đến 3.200 tỉ đồng. Đây là dự án cực kì tốn kém chưa biết có đem lại hiệu quả mong muốn không. Vậy để giảm công năng Cảng Cần Thơ cần tiến hành đầu tư xây dựng Cảng Ô Môn bắt đầu từ thời gian này. Để giảm bớt sự trung chuyển hàng từ các Cảng tuyến trên Sái Gòn chuyển tải về Cần Thơ và ngược lại, tiến hành xây dựng cụm Cảng nổi trung chuyển ngay cửa Định An. Đây là giải pháp khả thi và có thể thực hiện được. Tổng vốn đầu tư cho cụm Cảng nổi Sea Spider khoảng 63 triệu USD, gấp khoảng 2 lần lượng phí tổn mà các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Đồng Bằng SôngCửu Long bỏ ra mỗi năm. Là Cảng nổi trung chuyển hàng hóa đa năng tiếp nhận tàu trên 200.000 tấn. Tốc độ giải phóng hàng là 2000 tấn/giờ. Đặc biệt như tên gọi, Cảng có thể di chuyển đến bất kì địa điểm nào mong muốn. Thêm vào đó trong hệ thống tổ hợp đa năng có đội tàu chuyển tải hàng rời và hàng container tải trọng 10.000 tấn. Như vậy sự ra đời của Sea Spider có tác dụng giảm chi phí vận chuyển cho doanh nghiệp và mang lại một khoảng doanh thu lớn cho Cảng. Bởi vì hàng hóa sẽ đi một quảng đường ngắn hơn, có thể xuất nhập khẩu trực tiếp tại Cần Thơ. Ngoài ra còn có tác dụng giảm lượng lớn xe tải chở hàng ra vào TP.HCM. Vấn đề vốn cho các dự án sẽ không phải đáng lo ngại thứ nhất huy động vốn trên thị trường tài chính bằng việc phát hành cổ phiếu hay trái phiếu công trình. Mà cổ đông là chính những doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Điều này có tác dụng giảm gánh nặng về vốn ngân sách, vừa có tác dụng gắn kết lợi ích tập thể lại với nhau từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của các dự án. Ngoài ra ta có thể kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài hoặc sử dụng vốn ngân sách, rồi sau đó thu hồi lại bằng những khoảng phí ra vào cửa sông hay cập Cảng. Để có sự cạnh tranh lành mạnh, công bằng về giá cước cần phải có sự chi phối và kiểm soát chặc chẽ của nhà nước. - Phải có các chiến dịch quảng cáo trên các phương tiện truyền thông, chú trọng website điện tử nhằm tạo ra nhiều tiện ích cho khách hàng trong việc tìm kiếm thông tin, liên kết web, marketing dịch vụ trực tiếp trên online…Tăng cường hổ trợ việc quản lý thông tin khách hàng tốt hơn, nhấn mạnh tính đa dạng về dịch vụ của Cảng và dần dần qua các kênh hổ trợ vươn ra thị trường nước ngoài với những đặc thù riêng của Cảng. Bên cạnh đó cần liên kết với các Cảng nhỏ khác trong khu vực thành cụm Cảng lớn của tỉnh làm nâng cao vai trò của các hiệp hội tạo ra thế mạnh lớn trong phục vụ đáp ứng được cho các thị trường lớn và các nhu cầu lớn của thế giới nhằm cải thiện quan hệ hiện tại của Cảng Cần Thơ là chỉ đáp ứng nhu cầu trong khu vực châu Á. - Hiện tại Cảng Cần Thơ chưa khai thác hết công suất xếp dỡ dẫn đến hiệu quả đầu tư không cao khiến chi phí gia tăng, lợi nhuận giảm, và thậm chí còn khiến các doanh nghiệp bỏ lỡ mất cơ hội kinh doanh. Để khắc phục nhược điểm này, cần tập trung giải quyết các vấn đề sau: + Rút ngắn thời gian chờ đợi bao gồm: Thời gian lưu lại Cảng, thời gian thông quan tàu và làm hàng kéo dài ….Muốn thực hiện được điều này đòi hỏi đại lý phối hợp với Cảng cung cấp thông tin kịp thời, đầy đủ, quy trình giải quyết thủ tục cho tàu cần đơn giản, nhanh chóng, bộ phận điều hành khai thác phải có giải pháp tốt để giải quyết các nhu cầu phát sinh, hạn chế việc điều chỉnh lai kế hoạch. + Rút ngắn thời gian xếp dỡ container từ tàu lên Cảng và ngược lại. Muốn thực hiện tốt công tác này đòi hỏi Cảng phải huấn luyện tuyển chọn công nhân vận hành có kỹ năng tốt, xây dựng quy trình công nghệ khoa học cho từng loại hàng. Kế hoạch khai thác bến, bãi, tàu đều được thiết lập và triển khai đến các bộ phận có liên quan trước khi tàu cập bến. + Khai thác an toàn góp phần bảo đảm hiệu quả kinh doanh, tạo niềm tin của chủ tàu đối với Cảng, vì vậy, Cảng cần đảm bảo độ sâu luồng và bến, hệ thống báo hiệu, đệm vạ, ánh sáng, công suất tàu hổ trợ và trình độ chuyên môn của hoa tiêu, hạn chế thấp nhất tai nạn hàng hải và hiện tượng mắc cạn trên sông. + Đa dạng hóa các phương thức hoạt động để khách hàng có nhiều sự lựa chọn, củng cố niềm tin nơi khách hàng bằng chất lượng dịch vụ và sản phẩm. + Quan tâm đến sự cân đối thị trường trong và ngoài nước, không nên quá chú trọng đến thị trường trong nước mà cần mở rộng ra phục vụ cho khách hàng nước ngoài. 2. KIẾN NGHỊ: 2.1. Đào tạo nhân viên: Đào tạo là công việc liên tục không bao giờ ngừng, nhằm giúp cho nhân viên nắm được không chỉ là công việc cần làm gì và làm thế nào, mà biết cách giải quyết như thế nào, mục đích của công việc đào tạo là giúp cho nhân viên có đủ kiến thức để hoàn thành công việc tốt hơn, đáp ứng được các tiêu chẩn đề ra. Thái độ phục vụ nhiệt tình vui vẻ là công cụ hữu dụng của mọi nhân viên khi liên hệ với khách hàng, làm cho họ vừa lòng với chất lượng dịch vụ của Cảng. Tất nhiên, nhân viên sẽ được trang bị đầy đủ mọi phương tiện theo yêu cầu để giao dịch với khách hàng. Trang thiết bị hiện đại chưa đủ để bảo đảm cung ứng một dịch vụ tốt nhất, bởi vậy đòi hỏi nhân viên phải có đầy đủ kỹ năng và kiến thức sau: Kỹ năng về dịch vụ khách hàng. Kỹ năng giao dịch và đàm phán với khách hàng. Kỹ năng tiếp thị. Ngày nay tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin và giao thông vận tải diễn ra rất nhanh chóng, do vậy chương trình đào tạo có hệ thống và liên tục là rất cần thiết, nhằm giúp cho Cảng có một đội ngũ nhân sự có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, tạo lợi thế cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. 2.2. Công tác đối ngoại và tiếp thị: Cảng Cần Thơ cần phải xây dựng và củng cố quan hệ gắn bó giữa Cảng với khách hàng, nhất là đối với các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu. Khách hàng là bộ phận không thể tách rời trong việc thiết lập mục tiêu kinh doanh của công ty. Cảng cần phải lập bảng phân loại khách hàng hiện tại và tương lai, các thông tin thu được từ bảng phân loại này là cơ sở định hướng quan trọng cho việc hoạch định kế hoạch, nhất là các kế hoạch liên quan trực tiếp đến các chương trình tiếp thị. Căn cứ vào việc đánh giá, phân loại khách hàng hiện nay của Cảng như khách hàng chính, khách hàng mục tiêu, khách hàng tiềm năng, trên cơ sở so sánh chất lượng phục vụ của Cảng với đối thủ cạnh tranh, trưởng bộ phận tiếp thị sẽ lập kế hoạch tiếp thị nhằm duy trì, tiếp cận và mở rộng hơn nữa số lượng khách hàng đến với dịch vụ của Cảng bằng các biện pháp phù hợp. 2.3. Công tác điều động xếp dỡ: Cần trang bị thêm các thiết bị cần thiết phục vụ cho công việc khai thác Cảng. Đẩy mạnh công tác marketing bằng cách thường xuyên tổ chức các buổi hội nghị khách hàng, để từ đó lắng nghe các ý kiến đóng góp và yêu cầu của họ để đưa ra các định hướng phát triển trong tương lai. Cũng như khắc phục những thiếu sót đã qua. Tăng cường thu thập thông tin và xử lý thông tin có liên quan đến tình hình xuất nhập khẩu có sản lượng cao như: cát, gạo, container, than đá…Nhằm đề ra hoạch định cho sản xuất kinh doanh, điều động sản xuất cho hợp lý, phù hợp với thực tiễn. Xây dựng phương án điều hành sản xuất linh động. Tranh thủ làm hàng khi thời tiết tốt, chủ động lực lượng sản xuất đảm bảo công tác giải phóng tàu nhanh theo yêu cầu của khách hàng và chủ tàu. 2.4. Đối với nhà nước: Trong tình hình hiện nay có nhiều Cảng mới được hình thành trong khu vực, sự cạnh tranh là không thể tránh khỏi. Để đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh, công bằng thì cần có sự chi phối của nhà nước. Để cho nghành khai thác ở các Tỉnh Đông Bằng Sông Cữu Long phát triển mạnh như các Cảng trong cả nước. Thì nhà nước cần đầu tư nhiều hơn nữa để khơi sâu luồng tàu từ phao “O” vào cửa Định An để cho các tàu có trọng tải lớn hơn vào các Cảng ven bờ Sông Hậu. Hoặc có thể thực hiện nhanh dự án mở tuyến luồng kênh Quang Chánh Bố. KẾT LUẬN Cảng Cần Thơ là Cảng trung tâm của khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long nên điều kiện phát triển thuận lợi với quá trình lịch sử phát triển lâu dài Cảng Cần Thơ đạt được những thành tích xuât sắc trong lao động sản xuất, hoàn thành vai trò và nhiêm vụ của Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam. Để xứng đáng với thành tích xuất sắc trên Cảng Cần Thơ không ngừng phát triển thành nơi tin cậy của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Hiện nay, Cảng đã có kế hoạch đặc biệt chú trọng vào việc phát triển dịch vụ giao nhận hàng hóa bằng container phù hợp với xu hướng container hóa toàn cầu. Thực hiện chính sách cơ giới hóa dần các trang thiết bị, cơ sở hạ tầng, thực hiện chính sách tiết kiệm tối đa nhằm phục vụ tốt mọi nhu cầu của khách hàng, giảm chi phí cho khách hàng, nâng cao chất lượng phục vụ và uy tín của Cảng. Tuy nhiên, Cảng chưa phát triển mạnh thị trường thế giới như: EU, Mỹ, Trung Cận Đông… Chỉ phát triển chủ yếu thị trường Châu Á, chưa có chiến lược phát triển đa dạng các dịch vụ, chưa chú trọng nhiều về đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin về quản lý dịch vụ giao nhận, tiến trình đầu tư mở rộng hoạt động kinh doanh còn chậm theo báo báo của Cảng Cần Thơ kế hoạch đầu tư năm 2009 được duyệt 81,50 tỷ đồng nhưng thực hiện đầu tư 6 tháng đầu năm 2009 chỉ đạt 1,004 tỷ đồng. Đây là vấn đề cần giải quyết để nâng cao hiệu quả kinh doanh, mở rộng thị trường, đáp ứng nhu cầu khách hàng ngày càng tốt hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1/ PGS.TS Nguyễn Hồng Đàm (2003), Vận tải giao thông trong ngoại thương, Nhà Xuất Bản Giao Thông Vận Tải. 2/ PGS. Vũ Hữu Tửu (2002), Kỹ Thuật Nghiệp Vụ Ngoiaj Thương, Nhà Xuất Bản Giáo Dục. 3/ GS. TS Võ Thanh Thu (2008) Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế, Nhà Xuất Bản Thống Kê. 4/ Cangbien (18/06/2007) Cải cách thủ tục hành chính Cảng Biển do: 5/ 26/05/2009: Kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 320 triệu USD do: nghiệp. 6/ Báo Thanh Niên số 175 (4932), thứ tư, 24/06/2009. Khai thác cát băm nát sông Hậu. 7/ Những tài liệu tại Cảng Cần Thơ. MỤC LỤC ____________š&›____________

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBAI DANH MAY ht.doc
Tài liệu liên quan