Đề tài Tình hình quản lý thu - Chi quỹ bảo hiểm xã hội tại bảo hiểm xã hội huyện Văn Giang

BHXH Việt Nam mới đi vào hoạt động theo cơ chế mới, hạch toán độc lập, cân đối thu chi nên việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền về BHXH là hết sức cần thiết. Công tác thông tin, tuyên truyền về BHXH trong những năm qua đã có nhiều cố gắng và đạt đợc những kết quả đáng ghi nhận: Đó là nâng cao nhận thức xã hộ đối với BHXH, đa ra những hình thức tuyên truyền hiệu quả hơn và đã xây dựng đợc đội ngũ đông đảo cộng tác viên. Nhng so với yêu cầu và nhiệm vụ chung của ngành, công tác thông tin tuyên truyền về BHXH còn nhiều hạn chế, tồn tại cần khắc phục. Nhìn chung số đông ngời lao động, chủ sử dụng lao động cha có hiểu biết rõ ràng về BHXH, thêm vào đó công tác tuyên truyền cha đợc quan tâm một cách đúng mức, kinh phí tuyên truyền còn quá ít ỏi, hiệu quả tuyên truyền thấp. Để nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền cần phải thực hiện theo các hớng sau: ã Về nội dung: Ngoài tuyên truyền chính sách, pháp luật và các chế độ BHXH, giải đáp hớng dẫn việc thực hiện các chế độ, kết quả các mặt hoạt động của ngành. Cần đặc biệt quan tâm đến nội dung mà lâu nay ít đợc đề cập đến đó là tuyên truyền về mục đích, bản chất nhân đạo nhân văn của BHXH. Nếu chúng ta làm đợc điều đó thì sẽ từng bớc thay đổi đợc tâm lý nặng nề của họ hiện nay là bắt buộc phải đóng BHXH. Từ đó hình thành ở họ thái độ tự giác, tự nguyện tham gia BHXH và có trách nhiệm nộp BHXH. Trớc đây chúng ta thờng tuyên truyền nhiều về nội dung thu chi, quản lý quỹ BHXH và giải quyết về BHXH là cha đủ. Đó mới chỉ là biện pháp để thực hiện mục đích nhân đạo. Nội dung tuyên truyền mới chỉ dành riêng cho nội bộ ngành, cha thu hút đợc đông đảo ngời lao động, chủ sử dụng lao động và các thành viên khác trong xã hội.

doc77 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1107 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình quản lý thu - Chi quỹ bảo hiểm xã hội tại bảo hiểm xã hội huyện Văn Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ông an nhân dân thuộc diện hởng sinh hoạt phí đóng bằng 2% mức lơng tối thiểu theo tổng số quân nhân, công an nhân dân do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an đóng. - Đối với ngời lao dộng đi làm việc có thời hạn ở nớc ngoài, nếu ngời lao động đã có quá trình tham gia BHXH ở trong nớc thì đóng bằng 15% mức lơng tháng đã đóng BHXH trớc khi ra nớc ngoài làm việc; ngời lao động cha tham gia BHXH ở trong nớc thì mức đóng BHXH hàng tháng bằng 15% của hai lần mức lơng tối thiểu của công nhân viên chức trong nớc. - Mức thu đối với cán bộ xã, phờng, thị trấn đóng 5% mức sinh hoạt phí hàng tháng; Uỷ ban nhân dân xã, phờng, thị trấn đóng bằng 10% mức sinh hoạt phí hàng tháng tính trên tổng mức sinh hoạt phí của những ngời tham gia BHXH. 4.3. Quản lý tiền thu BHXH Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập với Ngân sách Nhà nớc, đợc quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nớc, quỹ BHXH có thể nói là hạt nhân của hoạt động BHXH. Do đó, cần phải quản lý chặt chẽ những nguồn thu của BHXH, bên cạnh đó cũng phải tăng cờng quản lý đối với số tiền BHXH thu đợc để hình thành quỹ. Quỹ BHXH cần đợc quản lý thống nhất ở BHXH Việt Nam, vì vậy tất cả sự dóng góp của ngời tham gia BHXH đều phải tiến hành chuyển về BHXH Việt Nam để hình thành quỹ BHXH tập trung. Để thực hiện nguyên tắc trên các đơn vị BHXH các tỉnh (thành phố), huyện đợc mở các tài khoản chuyên thu BHXH ở hệ thống Ngân hàng và Kho bạc Nhà nớc, các đơn vị sử dụng tài khoản này chỉ để thu tiền nộp BHXH ở khu vực quản lý của mình và định kỳ chuyển số tiền thu đợc lên cấp trên, từ đó tiền thu BHXH đợc tập trung thống nhất tại một cơ quan cao nhất là BHXH Việt Nam. Trong quá trình thu BHXH và lu chuyển số tiền thu BHXH từ đơn vị cơ sở lên BHXH Việt Nam, các đơn vị không đợc phép sử dụng tiền thu BHXH cho bất cứ một nội dung nào khác, việc quy định nh vậy nhằm tránh những thất thoát tiền thu BHXH của các đơn vị, thống nhất nguyên tắc quan trong quá trình hình thành, quản lý quỹ BHXH. 4.4. Mô hình tổ chức quản lý thu BHXH tại cơ quan BHXH huyện Văn Giang BHXH huyện Văn Giang thực hiện công tác thu BHXH dựa theo nguyên tắc chung của BHXH Việt Nam và thông qua một số biểu mẫu sau: - Danh sách lao động và quỹ lơng trích nộp BHXH – mẫu C45DH - Các đơn vị nộp danh sách lên BHXH huyện sau đó chuyển tiền thu lên Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn của huyện và Kho bạc. - Danh sách lao động tăng giảm (khi có sự biến động về lơng, ngời) -mẫu C48BH-dùng điều chỉnh quỹ trớc, mẫu C47BH-dùng điều chỉnh trong quỹ. - Sau khi hết 3 tháng, BHXH quyết toán theo quỹ-mẫu C46 đối chiếu Sơ đồ 3: Quy trình quản lý thu BHXH đối với từng đơn vị sử dụng lao động. - Báo cáo công tác thu hàng tháng. BHXH huyện Văn Giang tổ chức công tác thu chi theo đại lý chi trả của huyện đến từng cở sở, từng địa phơng. Mỗi cơ quan, đơn vị có một đại lý riêng thực hiện việc thu BHXH của ngời lao động, sau đó số thu sẽ chuyển vào tài khoản riêng của BHXH huyện Văn Giang qua hệ thống ngân hàng. II. Chi BHXH Những vấn đề chung về chi BHXH Chi BHXH là nột mặt hoạt động thờng xuyên và liên tục của các cơ quan BHXH, chi BHXH là một hoạt động đa dạng phức tạp. Có thể hiểu hoạt động chi quỹ BHXH nh sau: chi BHXH là các khoản chi phí cần thiết để thực hiện các hoạt động của BHXH và các hoạt động khác có liên quan tới công tác BHXH. Chi BHXH là hoạt động quan trọng trong công tác BHXH, là một hoạt dộng không thể thiếu của công tác thực hiện chế độ BHXH bởi vì: - Chi BHXH là một trong những khâu quan trọng để đánh giá sự thành công của công tác BHXH, là nhằm đảm bảo đời sống của ngời lao động khi không may ngời lao động gặp phải những rủi ro, những tổn thất cả về vật chất và tinh thần. Nó là khâu chủ yếu quyết định tới sự thành công của công tác BHXH, nó liên quan trực tiếp tới quyền lợi của những đối tợng đợc hởng trợ cấp BHXH. - Chi BHXH là một phần tất yếu quan trọng của công tác BHXH, nó là một mặt không thể tách rời của hoạt động BHXH nói chung. Cùng với hoạt động thu, đầu t quỹ và những hoạt động khác, chi BHXH là một khâu trong công tác BHXH; nó hoạt động không thể tách rời với các hoạt động khác, đợc các hoạt động khác của BHXH hỗ trợ bổ sung, hoàn thiện, nhng đồng thời nó cũng hỗ trợ không ít cho những hoạt động khác của BHXH. Chi BHXH là công tác cơ bản, thờng xuyên, liên tục và chủ yếu của các cơ quan BHXH. Chi BHXH liên quan trực tiếp tới quyền lợi của ngời lao động. Ngời lao động sau khi đã đạt đợc những điều kiện cần thiết để đợc hởng trợ cấp của các chế độ theo quy định của pháp luật, đó là những quyền lợi mà ngời lao động mong muốn nhận đợc khi tham gia vào BHXH. Do đó, chi BHXH đòi hỏi phải tiến hành đầy đủ, kịp thời để có thể đáp ứng đợc yêu cầu của ngời tham gia BHXH. Chi BHXH là công tác quan trọng không chỉ cho đối tợng đợc hởng BHXH mà còn đảm bảo sự thờng xuyên, liên tục của công tác BHXH, sự nghiệp BHXH. Chi BHXH không bó hẹp trong phạm vi chi trả cho các chế độ BHXH đó mà còn là công tác BHXH. Đối tợng đợc hởng trợ cấp BHXH thờng rất phức tạp và tơng đối đa dạng, do đó công tác chi trả BHXH không đợc phép xảy ra sự sai xót đáng tiếc nào, nếu để xảy ra sai xót không những ảnh hởng tới quyền lợi của ngời đợc hởng trợ cấp BHXH mà còn ảnh hởng tới uy tín của ngành BHXH. 2. Hoạt động chi BHXH Chi BHXH bao gồm những hoạt động chi sau đây: - Chi trả trợ cấp cho ngời lao động khi đã hội đủ những yếu tố đợc hởng trợ cấp BHXH theo đúng các quy định của pháp luật thì đợc chi trả trợ cấp BHXH, đây là quyền lợi của ngời lao động khi tham gia BHXH. Tuỳ theo điều kiện kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia mà mức chi trả cho các chế độ có khác nhau; ở Việt Nam hiện nay tiến hành chi trả trợ cấp BHXH cho những đối tợng tham gia BHXH theo 5 chế độ: trợ cấp ốm đau, thai sản, hu trí, tử tuất, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Đây là nguồn chi thờng xuyên và cơ bản nhất của hoạt động BHXH, nguồn chi này thờng khá lớn, nó quyết định không nhỏ tới sự thành công của hoạt động BHXH vì có liên quan trực tiếp tới quyền lợi ngời lao động đợc hởng sau những gì mà họ đã đóng góp vào quỹ BHXH. - Chi cho hoạt động quản lý để duy trì hoạt động của các tổ chức cơ quan BHXH nh: chi lơng cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức trong ngành, chi cho văn phòng phẩm. - Chi cho các hoạt động nghiên cứu khoa học trong hệ thống ngành BHXH từ những nghiên cứu khoa học đó có thể đợc áp dụng vào trong thực tế công tác BHXH. - Những khoản chi khác nh: chi tiếp khách của BHXH, chi thẩm tra điều tra chính hồ sơ, chi cho những hoạt động văn hoá thể thao của ngành. Trên cơ sở những khoản chi trên BHXH huyện Văn Giang đã thực hiện tốt công tác chi trả BHXH đến ngời lao động do huyện quản lý có tham gia đóng góp BHXH. BHXH huyện Văn Giang thực hiện chi trả các chế độ BHXH qua hệ thống các đại lý BHXH của huyện đóng trên địa bàn từng cơ sở tham gia BHXH. Qua tổng kết năm 2002 số chi BHXH của huyện Văn Giang đợc thể hiện qua bảng sau: Bảng 2: Chi các chế độ Do Ngân sách Nhà nớc cấp Do quỹ BHXH cấp Lơng hu 6.959.881.800 757.617.325 Trợ cấp cán bộ xã, phờng - 6.132.200 ốm đau - 22.080.500 Thai sản - 134.093.900 Mất sức lao động 1.200.272.200 Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp 13.608.000 5.040.000 Mai táng phí 36.960.000 1.680.000 Tử tuất 266.010.000 29.904.000 Lệ phí chi trả 29.389.000 2.439.200 Dỡng sức - 47.123.200 Tổng 8.506.127.000 1.006.110.325 (Nguồn BHXH huyện Văn Giang) Qua bảng số liệu trên ta thấy, số chi do Ngân sách Nhà nớc đảm bảo là 8.506.127.000 cao hơn số chi do quỹ BHXH huyện chi trả là 1.006.110.325 gấp gần 8 lần, so với năm 2001 thì số chi do Ngân sách đảm bảo là 8.764.656.000 với số chi do quỹ bảo đảm là 717.711.000, gấp trên 12 lần, điều đó chứng tỏ rằng số chi BHXH do quỹ BHXH bảo dảm có xu hớng tăng dần còn số chi do Ngân sách cấp giảm dần là hoàn toàn phù hợp với cơ chế quản lý mới của BHXH Việt Nam. 3.Những nguyên tắc trong chi BHXH Những nguyên tắc chính của chi BHXH là: - Chi đúng đối tợng, đúng mục đích; - Chi trực tiếp; - Việc chi tiêu phải đảm bảo đúng pháp luật, theo đúng các quy định, chế độ hạch toán thống kê hiện hành của Nhà nớc. - Từ những nguyên tắc chính đợc nêu ở trên, chi BHXH phải tuân thủ một số quy định sau đây: + Chi cho các chế độ BHXH dài hạn, loại chi này bắt nguồn từ việc bảo hiểm nguồn thu nhập cho ngời lao động khi về già, mất sức hay bị chết. Đặc điểm của những chế độ BHXH này là thực hiện sau quá trình lao động, quan hệ phân phối là quan hệ mang tính chất hoàn trả, lợi ích thu đợc tơng ứng với phần đóng góp. Vì vậy, việc chi cho chế độ này phải cân đối với thu, trừ những trờng hợp đồng tiền bị mất giá hay nền kinh tế có sự biến động lớn mà Ngân sách Nhà nóc phải tài trợ. + Chi cho từng chế độ ngắn hạn phải đợc cân đối trong phạm vi từng năm, nguồn tài chính này thì BHXH thờng để lại cho các cơ quan, doanh nghiệp tự chi. + Chi quản lý BHXH mang tính chất hành chính sự nghiệp, vì vậy ngời ta thờng căn cứ vào thang bảng lơng của công nhân viên chức Nhà nớc, căn cứ vào thủ tục chi hành chính nh các đơn vị hành chính sự nghiệp khác. + Chi cho hoạt động đầu t, phần chi này thờng căn cứ vào dự án điển hình trong các hoạt động đầu t để thanh quyết toán chi đầu t. + Các khoản chi khác: chi tiếp khách, chi cho việc chia lãi. Cuối năm, cơ quan BHXH tiến hành cân đối thu-chi, nếu chi không hết thì phải lập báo cáo gửi lên cơ quan cấp trên, nếu thiếu chi thì cơ quan BHXH có thể vay ngân hàng để chi cho đủ các chế độ, sau đó thanh quyết toán vào tháng tới, quý tới. Quản lý chi BHXH 4.1. Quản lý đối tợng đợc hởng các chế độ BHXH Đối tợng hởng các chế độ BHXH có thể chính là bản thân ngời lao động và gia đình họ, đối tợng đợc hởng trợ cấp BHXH có thể đợc hởng một lần hay hàng tháng, hàng kỳ; hởng trợ cấp nhiều hay ít tuỳ thuộc vào mức độ đóng góp (thời gian đóng góp và mức độ đóng góp), các điều kiện lao động và biến cố rủi ro mà ngời lao động gặp phải. Theo Điều lệ BHXH Việt Nam quy định, chế độ BHXH hiện hành bao gồm những chế độ sau: - Chế độ trợ cấp ốm đau; - Chế độ trợ cấp thai sản; - Chế độ trợ cấp hu trí; - Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; - Chế độ trợ cấp tử tuất; Ngoài ra, theo Quyết định số 37/2001/QĐ - TTg của Thủ tớng Chính phủ ngày 21/03/2001, BHXH còn thực hiện chi cho nghỉ dỡng sức, phục hồi sức khoẻ cho lao động tham gia BHXH. Đối tợng đợc hởng các chế độ BHXH có thể rất phức tạp về địa điểm chi trả (vùng sâu, vùng xa), cũng nh thời gian chi trả, do đó điều quan tọng nhất trong công tác chi trả BHXH là phải quản lý đợc cụ thể, chính xác từng đối tợng theo từng loại chế độ đợc hởng và mức độ hởng, thời gian đợc hởng của họ. Quản lý đối tợng chi trả là công tác thờng xuyên liên tục của các cơ quan BHXH, tránh tình trạng đối tợng chi trả không còn tồn tại mà nguồn kinh phí chi trả vẫn đợc cấp gây ra sự tổn thất cho quỹ BHXH, dẫn đến tình trạng trục lợi BHXH của các đơn vị và cá nhân. 4.2. Quản lý mô hình chi trả và phơng thức chi trả cho các chế độ BHXH Đối tợng chi trả của BHXH rất phức tạp và đa dạng, vì vậy cần phải có một phơng thức chi trả hợp lý, cũng do đó đòi hỏi phải có những mô hình chi trả phù hợp sao cho đảm bảo đợc nguyên tắc chi trả: đúng đối tợng, đúng chế độ, đầy đủ kịp thời, chính xác và an toàn. Chính vì vậy, đòi hỏi ngành BHXH phải quản lý tốt phơng thức chi trả và mô hình chi trả BHXH. Hiện nay, BHXH Việt Nam thực hiện những mô hình chi trả BHXH nh sau: - Mô hình chi trả trực tiếp: cán bộ BHXH trực tiếp quản lý đối tợng đợc hởng BHXH. Mô hình này đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ chi trả BHXH đủ mạnh để có thể đảm bảo nguyên tắc chi trả đã đề ra; bên cạnh những u điểm của mô hình (nh cán bộ chi trả BHXH có thể đi sâu, đi sát nắm vững tình hình của đối tợng hởng BHXH, quản lý tốt đối tợng hởng BHXH, tránh đợc tình trạng vi phạm các quy định trong công chi trả BHXH), mô hình này vẫn có những nhợc điểm của nó (đòi hỏi công tác lập kế hoạch chi trả phải thật khoa học, chính xác; cán bộ chi trả có đủ số lợng cần thiết và có nghiệp vụ đáp ứng đợc yêu cầu của công việc để có thể đảm bảo tính kịp thời trong chi trả; đối với vùng sâu, vùng xa thì mô hình này phải gặp nhiều khó khăn) . - Mô hình chi trả gián tiếp: chi trả tiền trợ cấp cho các đối tợng hởng BHXH dài hạn thông qua hệ thống các đại lý chi trả ở các xã, phờng, thị trấn và đối tợng hởng các chế độ ngắn hạn thông qua đơn vị sử dụng lao động. Mô hình chi trả BHXH này có một số u điểm nh: trong một thời gian ngắn có thể chi trả cho một số đối tợng tơng đối lớn và rộng khắp; cán bộ chi trả là những ngời của địa phơng, do đó có thể đi sâu, đi sát nắm vững tình hình của đối tợng đợc chi trả; tạo mối quan hệ tốt giữa cơ quan BHXH và chính quyền địa phơng; tiết kiệm đợc chi phí, biên chế trong công tác chi trả BHXH. Tuy vậy, mô hình chi trả gián tiếp này cũng có một số nhợc điểm cần khắc phục nh: cơ quan BHXH không tiếp xúc trực tiếp đợc đối tợng đợc chi trả, do đó cũng có những khó khăn nhất định trong việc nắm vững đợc tâm t, nguyện vọng của đối tợng đợc hởng BHXH; lệ phí chi trả thấp do đó mà các đại lý chi trả nhiều khi không nhiệt tình trong công tác chi trả BHXH; nhiều đại lý chi trả còn cha đáp ứng đợc những yêu cầu về công tác quản lý tài chính của ngành BHXH; thời gian chi trả từ các đại lý chi trả cho đối tợng đợc hởng BHXH khó có đảm bảo đợc về mặt thời gian. - Một số hình thức chi trả BHXH khác: ngoài hai mô hình chi trả BHXH đã đợc nêu ở trên, hiện nay vẫn thực hiện theo một số mô hình BHXH khác nh: + Mô hình kết hợp chi trả trực tiếp và chi trả gián tiếp. + Mô hình chi trả BHXH trực tiếp tại cơ quan BHXH ở một số địa phơng có điều kiện giao thông, đi lại khó khăn, đối tợng hởng BHXH ít, phân tán, không thể lập đợc các đại lý chi trả do đó xuất hiện mô hình này để chi trả cho từng đối tợng hay một đại diện cho những đối tợng đợc hởng BHXH ở địa phơng, chi trả ở đây không phải hàng tháng, hàng quý mà tuỳ theo nhu cầu của đối tợng đợc hởng chế độ BHXH (ví dụ nh phù hợp với thời gian đi chợ ở các vùng cao). + Mô hình chi trả BHXH một lần cho những đối tợng hởng trợ cấp BHXH một lần. Đặc điểm chính cần quan tâm trong công tác chi trả hiện nay là hầu hết việc chi trả các chế độ BHXH cho ngời đợc hởng các chế độ BHXH đều là bằng tiền mặt, khối lợng tiền mặt chi trả hàng tháng là tơng đối lớn (theo thống kê toàn quốc năm 2000, khối lợng tiền mặt phải chi trả cho các đối tợng là khoảng 7.500 tỷ đồng), địa bàn chi trả BHXH lại tơng đối rộng lớn, thời gian chi trả lại tơng đối ngắn (thờng từ 1 đến 5 ngày trong tháng). Vấn đề quản lý mô hình chi trả và phơng thức chi trả đặt ra ở đây là phải lựa chọn mô hình, phơng thức chi trả nào cho thật phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế của địa phơng nhng lại phải đảm bảo những nguyên tắc chi trả BHXH đã đặt ra, mô hình chi trả và phơng thức chi trả có tác động rất lớn tới hiệu quả của công tác chi trả BHXH. BHXH huyện Văn Giang thực hiện việc chi trả các chế độ theo mô hình chi trả gián tiếp thông qua hệ thống đại lý tại các cơ sở. 4.3. Quản lý kinh phí chi trả BHXH Trong hoàn cảnh chi trả BHXH đều đợc thực hiện bằng tiền mặt, khối lợng tiền mặt chi trả BHXH là tơng đối lớn, đối tợng chi trả và địa bàn chi trả khá phức tạp và thờng là rất phân tán; do đó vấn đề quan trọng không kém trong công tác chi trả BHXH là phải quản lý nguồn kinh phí chi trả BHXH sao cho thật chặt chẽ, thực hiện tốt công tác chi trả để tránh sự thất thoát gây tổn thất cho quỹ BHXH và uy tín của ngành BHXH. Để đạt đợc mục tiêu chi trả kịp thời, đầy đủ cho các đối tợng hởng chế độ BHXH; một yêu cầu đề ra là phải đảm bảo đủ nguồn kinh phí này phải đợc phân bổ và điều hành một cách khoa học, do đó công tác lập kế hoạch chi trả phải đợc đặt lên hàng đầu, kế hoạch chi trả phải phù hợp với nhu cầu chi tiêu của từng đối tợng hởng trợ cấp ở các địa phơng, vừa đảm bảo nhu cầu của ngời đợc hởng BHXH và tránh những thất thoát không đáng có của nguồn kinh phí chi trả BHXH. Để thực hiện công tác quản lý kinh phí chi trả BHXH thì các đơn vị tiến hành công tác chi trả đợc mở một tài khoản chuyên chi BHXH ở hệ thống ngân hàng và Kho bạc Nhà nớc, các đơn vị này chỉ đợc rút tiền từ các tài khoản trên để chi trả cho các chế độ BHXH, ngoài ra thì không đợc phép rút tiền để chi trả cho bất cứ một mục đích nào khác, nhờ đó mà các đơn vị cấp trên có thể quản lý và kiểm tra đợc số kinh phí đã sử dụng và số kinh phí còn d trên tài khoản của các đơn vị cấp dới đợc dễ dàng và thuận lợi. 4.4. Quản lý chi cho hoạt động bộ máy và những hoạt động khác Quản lý chi cho hoạt động bộ máy của hệ thống BHXH là những khoản kinh phí phải chi để đảm bảo cho hoạt động của toàn bộ hệ thống quản lý của hệ thống BHXH. Chi phí hoạt động quản lý bộ máy của hệ thống BHXH Việt Nam bao gồm rất nhiều những nội dung khác nhau; tuy nhiên nếu xét theo tính chất chi thì có thể chia ra làm hai nhóm chi sau đây: - Chi phí cho hoạt động thờng xuyên: đó là những khoản kinh phí cần thiết nhằm duy trì hoạt động quản lý thờng xuyên của bộ máy quản lý hệ thống BHXH. Những nội dung chi chủ yếu trong chi phí hoạt động thờng xuyên thờng là những nội dung chi sau: + Quản lý nhân sự: đó là những khoản chi để quản lý cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống BHXH. + Quản lý chi cho những hoạt động nghiệp vụ: là những khoản chi cho công tác thu BHXH, chi cho công tác chi BHXH, hội nghị, tiếp khách, chi văn phòng phẩm, tiền điện nớc, chi sửa chữa nhỏ, mua sắm tài sản, tiền điện thoại, chi công tác phí cho cán bộ đi công tác… + Quản lý chi cho công tác đào tạo, đào tạo lại cán bộ, công chức, viên chức: đó là những khoản chi cho công tác tổ chức thuộc hệ thống BHXH, cử ngời đi đào tạo, xây dựng chơng trình đào tạo. + Quản lý chi phí cho hợp tác quốc tế, chi cho những hoạt động đối ngoại mang tính chất quốc tế. - Chi đầu t xây dựng cơ sở vật chất: đây là những chi phí nhằm đảm bảo các điều kiện, phơng tiện làm việc cho cán bộ, công chức, viên chức thuộc hệ thống BHXH. Nguồn chi này có thể gồm những nguồn chi sau: chi đầu t xây dựng các trụ sở làm việc của hệ thống các cơ quan BHXH, trang bị phơng tiện làm việc (hệ thống máy vi tính, ô tô, xe máy, bàn ghế, tủ hồ sơ). Đối với công tác quản lý chi cho công tác đầu t xây dựng các trụ sở làm việc của cơ quan BHXH thuộc hệ thống BHXH Việt Nam, công tác quản lý chú trọng vào quản lý chất lợng và giá trị quyết toán của công trình, đảm bảo tính đúng các quy trình, quy phạm do Nhà nớc quy định trong công tác xây dựng cơ bản. Về phơng tiện làm việc, việc mua sắm trang thiết bị phải tuân thủ những nguyên tắc, những tiêu chuẩn kỹ thuật do Nhà nớc quy định; mặt khác phải phù hợp với nhu cầu công tác. - Quản lý chi cho hoạt động nghiên cứu khoa học: là những khoản chi cho việc nghiên cứu các đề tài khoa học liên quan tới việc hoàn thiện công tác BHXH, những cuộc thăm dò d luận cần thiết liên quan tới công tác BHXH. V. Đánh giá công tác quản lý thu-chi quỹ BHXH tại BHXH huyện Văn Giang 1. Thực trạng công tác quản lý thu chi quỹ BHXH đợc phản ánh ở 3 nội dung lớn sau: ã Một số doanh nghiệp đăng ký đóng BHXH cha đầy đủ: Căn cứ để xác định mức nộp BHXH của doanh nghiệp là số lao động và mức tiền lơng cấp bậc của lao động trong doanh nghiệp. Vì vậy, để đánh giá một doanh nghiệp đã đóng BHXH đúng, đủ hay cha ta phải xem xét từng yếu tố: - Về lao động: khi doanh nghiệp kê khai với cơ quan BHXH cha đúng, cha đủ sẽ làm giảm mức nộp BHXH hàng tháng. Đồng thời gây thiệt thòi cho ngời lao động về thời gian tham gia BHXH mà đáng lẽ họ phải đợc xác nhận trên sổ BHXH . Cụ thể: + Một số lao động đợc tuyển dụng vào doanh nghịêp và bố trí làm những công việc có tính chất ổn định, liên tục trong thời gian dài. Qua kiểm tra nhiều tháng liên tục cho thấy họ đều có tên trong bảng thanh toán tiền lơng của bộ phận kế toán. Nhng doanh nghiệp không ký hợp đồng lao động với ngời lao động hoặc chỉ ký một hợp đồng thời vụ ba tháng đầu tiên, không báo cáo với cơ quan quản lý Nhà nớc về lao động là Sở Lao Động- Thơng binh và Xã hội. Việc làm này đã vi phạm khoản 2 Điều 27 Chơng IV của Bộ Luật lao động và cũng không đa những lao động này vào danh sách đóng BHXH. + Doanh nghiệp kéo dài thời gian thử việc khi tuyển dụng lao động một cách tuỳ tiện trái với quy định của Điều 32 Chơng IV Bộ Luật lao động. Trong thời gian kéo dài đó doanh nghiệp không đăng ký đóng BHXH cho ngời lao động. + Doanh nghiệp cha hoàn tất các thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động nh quy định của điều 35 Chơng IV Bộ Luật lao động và đa ngời lao động ra khỏi danh sách đóng BHXH. Cụ thể là trong các trờng hợp ngời lao động vi phạm nội quy lao động, khi doanh nghiệp không bố trí đợc công ăn việc làm cho ngời lao động. - Về tiền lơng đóng BHXH: Là một trong hai yếu tố cấu thành mức nộp BHXH của doanh nghiệp và thờng thất thu BHXH trong các trờng hợp: + Doanh nghiệp không đa khoản phụ cấp khu vực ngời lao động vào danh sách đăng ký đóng BHXH nh điều 37 Điều lệ BHXH đã quy định. + Doanh nghiệp không báo cáo tăng mức nộp BHXH với cơ quan BHXH ngay khi ngời lao động đợc nâng bậc lơng. + Doanh nghiệp không tổ chức thi tay nghề nâng bậc lơng cho ngời lao động một cách thờng xuyên nh quy định. Có nhiều lao động hàng chục năm liền không đợc nâng bậc lơng, không thay đổi mức đóng BHXH. Trong các trờng hợp trên, không những ngành BHXH bị thất thu mà còn ảnh hởng trực tiếp đến quyền lợi của ngời lao động về mức hởng BHXH khi họ bị ốm đau, thai sản, tử tuất và đặc biệt là hu trí. ã Các doanh nghiệp thực hiện việc thu nộp BHXH cha kịp thời nh Điều 37 Nghị định 12/CP của Chính phủ quy định: Nh đã nói ở trên, BHXH là khoản thu mang tính hoàn trả trực tiếp cho ngời lao động khi họ gặp rủi ro, ốm đau tai nạn lao động, bệngh nghề nghiệp hoặc lúc thai sản, hết tuổi lao động. Vì vậy, hơn ai hết, chủ sử dụng lao động phải nhận thức đợc rằng nợ cơ quan BHXH chính là nợ ngời lao động của họ. Nhng trong thực tế quản lý thu BHXH ở cơ sở cho thấy thời gian qua có rất nhiều doanh nghiệp để nợ đọng với thời gian dài, điển hình có những doanh nghiệp từ khi thành lập hệ thống BHXH đến nay hầu nh không nộp BHXH cho ngời lao động. Việc các doanh nghiệp để nợ đọng BHXH đang là vấn đề bức xúc ở nhiều địa phơng, nhiều lĩnh vực kinh tế và gây hậu quả hết sức nặng nề. - Đối với doanh nghiệp: Khi ngời lao động cha nhìn thấy những cống hiến về sức lao động, trí tuệ, kinh tế của mình đợc xác nhận trên sổ BHXH thì sẽ ảnh hởng đến năng suất, chất lợng lao động, ảnh hởng đến điều hành cũng nh hiệu quả kinh tế trong sản suất kinh doanh. - Đối với ngời lao động: Theo các văn bản pháp quy về chế độ BHXH hiện hành thì cơ quan BHXH có quyền từ chối chi trả trợ cấp BHXH khi doanh nghiệp cha hoàn thành nghĩa vụ đóng BHXH, vì vậy ngời lao động cha đợc hởng trợ cấp BHXH trong lúc cần thiết. Đó là những khi: + Ngời lao động bị ốm đau. + Ngời lao động nghỉ việc do thai sản. Thực tế ở các doanh nghiệp nợ đọng BHXH kéo dài ngời lao động sinh con đến khi con lớn vẫn cha đợc hởng trợ cấp thai sản. + Ngời lao động bị tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp. + Ngời lao động đến tuổi nghỉ hu nhng cha đợc nghỉ hu. + Ngời lao động không may bị chết. + Ngoài ra, ngời lao động khi di chuyển từ nơi làm việc cũng không đợc xác nhận đã nộp BHXH ở cơ quan cũ. - Đối với xã hội: Không đạt đợc mục đích an sinh xã hội nh chủ trơng của Đảng, của Chính phủ đề ra, gây ra những khiếu kiện của ngời lao động tới nhiều Ban, Ngành phải giải quyết. Nh vậy, để thực hiện tốt chính sách BHXH không chỉ cần đến sự nỗ lực của ngành BHXH, mà các cấp, các ngành và các doanh nghiệp cũng phải nhận thức đúng đắn về chính sách này. ã Một số doanh nghiệp thực hiện hạch toán thu chi sai so với quy định của điều lệ BHXH và các văn bản pháp quy về chế độ kế toán thống kê. Doanh nghiệp thu 5% tiền lơng của ngời lao động, nhng không đa những ngời đó vào danh sách đóng BHXH mà sử dụng số tiền này vào mục đích khác, trong khi đó ngời lao động vẫn tởng rằng mình đang tham gia BHXH. Đối với những lao động mang tính thời vụ, không đa vào danh sách đóng BHXH, doanh nghiệp cũng không thanh toán trả 15% tiền lơng cho ngời lao động cùng với tiền lơng của họ theo quy định của Bộ Luật lao động. Doanh nghiệp không bố trí đợc việc làm, cho ngời lao động nghỉ tự túc. Doanh nghiệp thu cả 20% BHXH của những ngời lao động này. Doanh nghiệp không hạch toán 15% BHXH vào giá thành mà trừ cả 20% trên bảng thanh toán tiền lơng của ngời lao động hàng tháng. Do nợ đọng BHXH kéo dài, ngời lao động không đợc thanh toán chế độ ốm đau, thai sản. Để tránh những phản ứng của ngời lao động, doanh nghiệp dùng nguồn tiền thu 5% của ngời lao động có việc làm và 20% của ngời lao động nghỉ tự túc để chi ốm đau thai sản. Một số doanh nghiệp trích thừa phải nộp BHXH khi hạch toán kế toán và sử dụng phần chênh lệch vào mục đích khác. Phần chênh lệch này do doanh nghiệp trích 15% BHXH vào giá thành theo số lợng lao động trong danh sách đóng BHXH đầu năm, nhng diễn biến trong năm có nhiều lao động nghỉ tự túc nộp cả 20%, tức là 15% BHXH của những ngời công nhân nghỉ việc tự túc đã đợc hạch toán hai lần. Điều này làm tăng chi phí sản xuất trong giá thành sản phẩm, giảm lợi nhuận, giảm lợi tức chịu thuế doanh nghiệp. Việc hạch toán chi trả 5 chế độ BHXH khi doanh nghiệp nhận đợc tiền của cơ quan BHXH nhiều khi còn cha đúng ngời, đủ số, kịp thời. Hoặc có những công nhân viên trên bảng thanh toán tiền lơng trong tháng thể hiện đủ 26 công lao động, đồng thời trên bảng tổng hợp ngày nghỉ hởng trợ cấp BHXH của tháng đó cũng có công nghỉ ốm, thai sản. Thực trạng trên của BHXH Việt Nam cũng chính là những tồn tại hiện nay tại cơ quan BHXH huyện Văn Giang mà cơ sở đang cố gắng khắc phục. Những kết quả đạt đợc của BHXH huyện Văn Giang BHXH huyện Văn Giang thực hiện công tác quản lý thu-chi quỹ BHXH theo cơ chế quản lý mới đã đạt đợc kết quả nh sau: Về công tác thu: số thu BHXH qua 2 năm tăng lên rất nhiều, năm 2001 số thu chỉ đạt gần 1,8 tỷ đồng với số lao động là 1.400 mà đến năm 2002 số thu BHXH đã tăng lên trên 1,84 tỷ đồng với số lao động là 1.435 lao động. Kết quả đó dã cho thấy việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH theo sự đổi mới là hoàn toàn đúng và thực sự phát huy đợc tác dụng. Theo thống kê năm 2002, số đơn vị tham gia BHXH và số lao động tham gia BHXH trên địa bàn huyện đợc thể hiện qua bảng sau: Bảng 3: Tên đơn vị Tổng số đơn vị (đơn vị) Tổng số lao động tham gia (ngời) Số thu BHXH (đồng/quý) Doanh nghiệp Trung ơng 2 147 130.151.359 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 2 17 7.415.000 Khối hành chính Trung ơng 6 111 42.074.420 Khối hành chính địa phơng 26 1017 341.984.447 Khối xã, phờng 11 199 47.445.355 Tổng 45 1.491 569.069.581 (Nguồn: BHXH huyện Văn Giang) Từ kết quả bảng trên cho ta thấy, số đơn vị tham gia BHXH trên địa bàn huyện thuộc khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng thêm 2 doanh nghiệp, khối hành chính sự nghiệp tăng thêm 2 đơn vị, đó chính là những cố gắng của cán bộ cơ quan. Bên cạnh những dấu hiệu khả quan trên, công tác thu BHXH huyện Văn Giang còn một số vấn đề tồn tại nh: một số doanh nghiệp Nhà nớc cha nghiêm túc trong công tác thu BHXH. Số doanh nghiệp ngoài quốc doanh và số lao động tham gia BHXH còn quá ít so với tổng số lao động trong doanh nghiệp, số doanh nghiệp tham gia BHXH cho ngời lao động thì khai giảm quỹ lơng, khai giảm số lao động, tình trạng nợ đọng BHXH vẫn còn tồn tại ở một số doanh nghiệp cha giải quyết đợc. Cùng với công tác thu, công tác chi trả BHXH cũng đợc thực hiện thờng xuyên, đảm bảo chi đúng, chi đủ, chi kịp thời và an toàn. Tình hình chi trả BHXH tại huyện Văn Giang đợc thể hiện nh sau: Bảng 4: Năm Tổng số tiền chi trả Nguồn do Ngân sách cấp Nguồn do quỹ BHXH cấp 2001 9.482.367.139 8.764.656.000 717.711.139 2002 9.512237.325 8.506.127.000 1.006.110.325 (Nguồn BHXH huyện Văn Giang ) Nh vậy qua 2 năm số chi từ nguồn do Ngân sách cấp giảm xuống, trong khi số chi từ nguồn quỹ BHXH tăng lên nhng số chi từ nguồn quỹ vẫn cao so với nguồn quỹ BHXH cấp. Điều đó cho thấy rằng, việc tăng lên về số tiền chi trả này là do sự tăng lên về đối tợng tham gia và hởng trợ cấp BHXH. Có thể nói rằng thu-chi là hai nhiệm vụ quan trọng nhất của chính sách BHXH. Thu BHXH để tạo nên nguồn quỹ BHXH độc lập với Ngân sách Nhà nớc. Làm tốt công tác thu BHXH sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác chi trả các chế độ BHXH. Chơng III: Một số ý kiến-giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện công tác thu-chi quỹ bảo hiểm xã hội ở phòng bảo hiểm xã hội huyện Văn Giang I. Giải pháp đối với cơ quan BHXH Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về BHXH, xây dựng luật BHXH BHXH ở nớc ta ra đời muộn, lại hoạt động trong hoàn cảnh đất nớc vừa trải qua hai cuộc chiến tranh, đang khôi phục nền kinh tế để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề tổ chức BHXH ở nớc ta còn nhiều tồn tại cần giải quyết trong đó có việc ban hành các văn bản pháp luật về BHXH. Với một hệ thống văn bản khá cồng kềnh do nhiều cơ quan chức năng ban hành đã làm cho việc hớng dẫn thực hiện, kiểm tra, kiểm soát các văn bản trên gặp khó khăn, tạo ra nhiều kẽ hở dẫn đến hoạt động BHXH kém hiệu quả, quỹ BHXH trở thành gánh nặng cho ngân sách Nhà nớc. Việc thay đổi thờng xuyên các văn bản hớng dẫn với nội dung không rõ ràng, thống nhất với nhau đã gây khó khăn cho các cán bộ BHXH và phản ứng từ phía chủ sử dụng lao động và ngời lao động. Vì vậy, xây dựng hệ thống pháp luật về BHXH là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách và rất cần thiết. Cụ thể: Để hình thành hệ thống pháp luật về BHXH đồng bộ và có hiệu lực, trớc hết cần phải sắp xếp và rà soát lại toàn bộ các văn bản BHXH từ trớc tới nay, xem xét hiệu quả việc thực hiện các văn bản đó để loại bỏ hoặc điều chỉnh, đổi mới cho phù hợp với nhu cầu quản lý mới của nền kinh tế thị trờng. Các văn bản không mang tính mệnh lệnh đơn thuần mà phải phù hợp với nguyện vọng của phía ngời tham gia để việc thực hiện đạt kết quả cao. Nâng cao chất lợng cũng nh khả năng thực thi của các văn bản mang tính pháp lý về hoạt động BHXH, hình thành hệ thống các văn bản pháp luật về BHXH phù hợp với mọi thành phần kinh tế và mọi hoạt động kinh tế trong cả nớc để đảm bảo tính chất xã hội hoá của BHXH. Luật BHXH phải đáp ứng đợc tiến trình đổi mới kinh tế xã hội của đất nớc, đáp ứng đợc mục tiêu chiến lợc về con ngời trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cần xác định rõ trách nhiệm của chủ sử dụng lao động, vai trò của công đoàn, để đảm bảo đầy đủ quyền lợi hợp pháp và quyền bình đẳng cho mọi đối tợng tham gia BHXH. Luật xác định rõ hệ thống tổ chức của BHXH, hệ thống hoạt động có cơ chế kiểm tra, kiểm soát đảm bảo quyền lợi cho ngời lao động và nguồn quỹ lớn mạnh. Chính phủ cần tăng cờng sự điều hành với BHXH, xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm cho ai, cho cơ quan nào. Tăng cờng thanh tra, kiểm tra và kiểm soát việc thực hiện các chính sách BHXH để phát hiện kịp thời những trờng hợp vi phạm hoặc điểm không phù hợp với thực tế. Có chơng trình quy hoạch đào tạo và sử dụng cán bộ Đội ngũ cán bộ của ngành BHXH hiện nay đợc quyền từ Liên đoàn Lao động và Phòng lao động thơng binh và xã hội sang. Đại đa số các cán bộ cha qua đào tạo đại học, thiếu kinh nghiệm quản lý. Một số cán bộ ở cấp tỉnh, huyện trong quá trình làm việc còn chủ yếu dựa vào kinh nghiệm là chính, tiếp cận với các văn bản của nhà nớc một cách thụ động thiếu tính sáng tạo, phong cách làm việc còn mang tính chất hành chính quan liêu. Vì vậy, việc đổi mới xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ ngành BHXH là một vấn đề cấp thiết mang tính khách quan. Gần đây ở một số địa phơng đã giải quyết cho cán bộ vừa làm vừa đi học tại chức để họ nâng cao đợc trình độ nghiệp vụ cũng nh quản lý. Song đó mới chỉ là giải pháp mang tính chất tình thế nên khó tránh khỏi tình trạng chắp vá cả về số lợng và chất lợng. Do vậy, chúng ta phải xây dựng một định hớng đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ của ngành BHXH: Hình thành trung tâm đào tạo về đại học tại chức, nghiệp vụ tài chính kế toán, quản lý kinh tế, tin học riêng cho ngành BHXH ở cấp tỉnh. Cần phải có chơng trình đào tạo phù hợp, đáp ứng đợc cả nhu cầu hiện tại và trong tơng lai. Ngoài ra thờng xuyên tổ chức các buổi tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ BHXH các quận, huyện. Đối với việc tuyển dụng cán bộ ngành BHXH không chỉ chú ý đến số lợng mà phải quan tâm đến chất lợng cán bộ, đặc biệt là đối với chức danh giám đốc và kế toán trởng. Cần lựa chọn các cá nhân tiêu biểu, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có quan điểm lập trờng đúng đắn, có tình thơng yêu đồng chí, đồng nghiệp, gắn bó với ngời lao động. Coi trọng đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ Một phơng án hữu hiệu đang đợc nhiều ngành mũi nhọn áp dụng đó là lực lợng sinh viên. Để thu hút nhân tài nên đi thẳng vào các sinh viên xuất sắc theo hợp đồng thoả thuận khi họ tốt nghiệp sẽ về công tác cho cơ quan BHXH. Tóm lại, muốn xây dựng hệ thống BHXH của Việt Nam vững mạnh thì Đảng và Nhà nớc phải tăng cờng đầu t cho ngành này để có một chơng trình đào tạo và sử dụng hợp lý và khoa học. Bên cạnh đó bản thân ngành BHXH cũng phải nỗ lực triển khai các chơng trình đào tạo đó. Mở rộng nguồn thu BHXH Xuất phát từ nguyện vọng của ngời lao động và xu hớng xây dựng Nhà nớc xã hội chủ nghĩa, trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nớc ta đã có chủ trơng thực hiện BHXH cho ngời lao động đến tất cả các thành phần kinh tế. Khi mọi ngời lao động đều đợc tham gia BHXH chính là đã tạo ra mạng lới bảo về rộng khắp, che chắn cho mọi ngời lao động không bị rơi vào cảnh túng quẫn, một xã hội có sự liên kết cộng đồng tơng trợ giúp đỡ lẫn nhau. Để mở rộng đối tợng tham gia BHXH, Nhà nớc ta cần ban hành các chính sách BHXH tự nguyện. Hình thức BHXH này đợc Bộ luật lao động và Nghị định 12/CP khẳng định song vẫn cha đợc thực hiện. Đây là hoạt động vừa mang tính chất thơng mại vừa mang tính chất xã hội nên phải có đối tợng tham gia và phải hình thành nguồn quỹ có khả năng đáp ứng nhu cầu chi trả đồng thời phải có sự giúp đỡ của Nhà nớc. ở nớc ta đang thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, thực hiện cơ cấu nhiều thành phần nên số lợng lao động ngày càng tăng kéo theo sự gia tăng của các đối tợng tham gia và hởng BHXH. Đối tợng của BHXH hiện nay mới chỉ dừng lại ở các cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, Đoàn thể và các đơn vị có sử dụng từ 10 lao động trở lên. Mà nớc ta là một nớc nông nghiệp, 80% dân số sống bằng nghề nông, ngoài ra còn có thợ thủ công, ngời buôn bán nhỏ. Các đối tợng này chiếm đại bộ phận trong tổng số lao động nớc ta vẫn cha đợc tham gia BHXH. Do vậy, Nhà nớc cần có biện pháp hữu hiệu để cho mọi ngời lao động đều đợc tham gia BHXH. Có thể có các hớng giải quyết sau: Mức góp hiện nay dựa trên tiền lơng cơ bản (gồm lơng cấp bậc, chức vụ, hợp đồng, hệ số chênh lệch bảo lu và các khoản phụ cấp thâm niên, chức vụ bầu cử, phụ cấp khu vực, phụ cấp cấp đắt đỏ). Trong khi đó thu nhập thực tế của ngời lao động lại không ngừng tăng lên. Hiện tại nhiều doanh nghiệp có thu nhập bình quân trên 1 triệu đồng/tháng/ngời. Do vậy, nên có hình thức BHXH bổ sung, khuyến khích ngời lao động tự nguyện đóng góp cao hơn, ứng với thu nhập thực tế, xem xét mức thởng của họ sao cho phù hợp để đảm bảo có sự đảm bảo an toàn cho quỹ BHXH và quyền lợi của họ. Trong hình thức này chủ sử dụng lao động không liên quan. ở nớc ta hiện nay số lợng doanh nghiệp có quy mô nhỏ dới 10 lao động tơng đối lớn. Vì thế, nên mở rộng đối tợng BHXH đến các doanh nghiệp này. Để đẩy mạnh công tác thu cần ban hành ngay các văn bản pháp luật buộc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải đóng BHXH. Nên có quy định buộc các doanh nghiệp này khi đăng ký kinh doanh phải đăng ký tham gia BHXH thì mới cấp giấy phép kinh doanh. Đây là một vấn đề bức xúc cần làm ngay. Đồng thời có các văn bản hớng dẫn công tác chi trả để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác chi. Đối với các đối tợng cha tham gia BHXH bắt buộc thì cần áp dụng hình thức BHXH tự nguyện đặc biệt là đối với nông dân. Hiện nay, nớc ta có khoảng 28 triệu lao động nông thôn chiếm khoảng 71% tổng số lao động cả nớc, hầu hết cha tham gia BHXH. Tốc độ tăng trởng kinh tế nông nghiệp bình quân 4,3% năm, đóng góp khoảng 40% GDP, 40% kim ngạch xuất khẩu, đời sống của ngời nông dân tăng lên rõ rệt. Theo tính toán của ESCAP, số ngời cao tuổi ở Việt Nam năm 1998 khoảng gần 5 triệu ngời, đến năm 2000 lên tới 5,4 triệu ngời và năm 2025 là 12,3 triệu ngời. Trong số ngời cao tuổi ở nông thôn chỉ có một tỷ lệ không đáng kể là cán bộ công nhân viên, bộ đội về hu hoặc nghỉ mất sức lao động có chế độ BHXH. Một số khác thuộc đối tợng chính sách của Nhà nớc, còn lại đại bộ phận là không có chế độ BHXH. Qua điều tra khảo sát 50% ngời về hu, mất sức lao động ở nông thôn có thu nhập từ BHXH dới mức lơng tối thiểu, 90% số ngời cao tuổi ở nông thôn vẫn đang phải làm việc để tăng thu nhập (72% phải dựa vào con cháu, 28% phải có sự trợ giúp khẩn cấp của Nhà nớc và cộng đồng). Vì vậy, mở rộng đối tợng BHXH cho lao động nông thân hiện nay là tất yếu khách quan, là nguyện vọng của hàng triệu lao động nông thôn hiện nay. Tuy nhiên đây là vấn đề hết sức phức tạp cần phải nghiên cứu kỹ cả về lý luận lẫn thực tiễn. Sau đây là một vài kiến nghị về mô hình BHXH cho lao động nông thôn: + Nên thực hiện ở vùng đồng bằng trớc vì đây là nơi tập trung nhiều lao động nông thôn. + Các chế độ ốm, đau, thai sản, hu trí, tử tuất cần đợc thực hiện trớc. + Khuyến khích các hộ giàu tham gia trớc sau đó giúp đỡ các hộ nghèo, gia đình chính sách tham gia. + Quỹ BHXH chủ yếu do ngời lao động tham gia đóng góp, Nhà nớc hỗ trợ kinh phí cần thiết. Nhà nớc cần phải thiết kế chính sách và hệ thống BHXH cho lao động nông thôn nằm trong hệ thống quản lý thống nhất của BHXH Việt Nam. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về BHXH BHXH Việt Nam mới đi vào hoạt động theo cơ chế mới, hạch toán độc lập, cân đối thu chi nên việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền về BHXH là hết sức cần thiết. Công tác thông tin, tuyên truyền về BHXH trong những năm qua đã có nhiều cố gắng và đạt đợc những kết quả đáng ghi nhận: Đó là nâng cao nhận thức xã hộ đối với BHXH, đa ra những hình thức tuyên truyền hiệu quả hơn và đã xây dựng đợc đội ngũ đông đảo cộng tác viên. Nhng so với yêu cầu và nhiệm vụ chung của ngành, công tác thông tin tuyên truyền về BHXH còn nhiều hạn chế, tồn tại cần khắc phục. Nhìn chung số đông ngời lao động, chủ sử dụng lao động cha có hiểu biết rõ ràng về BHXH, thêm vào đó công tác tuyên truyền cha đợc quan tâm một cách đúng mức, kinh phí tuyên truyền còn quá ít ỏi, hiệu quả tuyên truyền thấp. Để nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền cần phải thực hiện theo các hớng sau: Về nội dung: Ngoài tuyên truyền chính sách, pháp luật và các chế độ BHXH, giải đáp hớng dẫn việc thực hiện các chế độ, kết quả các mặt hoạt động của ngành. Cần đặc biệt quan tâm đến nội dung mà lâu nay ít đợc đề cập đến đó là tuyên truyền về mục đích, bản chất nhân đạo nhân văn của BHXH. Nếu chúng ta làm đợc điều đó thì sẽ từng bớc thay đổi đợc tâm lý nặng nề của họ hiện nay là bắt buộc phải đóng BHXH. Từ đó hình thành ở họ thái độ tự giác, tự nguyện tham gia BHXH và có trách nhiệm nộp BHXH. Trớc đây chúng ta thờng tuyên truyền nhiều về nội dung thu chi, quản lý quỹ BHXH và giải quyết về BHXH là cha đủ. Đó mới chỉ là biện pháp để thực hiện mục đích nhân đạo. Nội dung tuyên truyền mới chỉ dành riêng cho nội bộ ngành, cha thu hút đợc đông đảo ngời lao động, chủ sử dụng lao động và các thành viên khác trong xã hội. Về hình thức tuyên truyền: Tạp chí BHXH Việt Nam ra đời đánh dấu một mốc lịch sử trong công tác tuyên truyền về BHXH. Thời gian qua, các bài báo viết chủ yếu là của các nhà quản lý BHXH, đội ngũ cộng tác viên cha đáp ứng đợc số lợng, chất lợng bài viết. Để phục vụ độc giả tốt hơn, tạp chí BHXH phải đa dạng hoá nội dung và hình thức thực hiện. Trớc hết là đội ngũ phóng viên, biên tập viên, cộng tác viên phải có những bài viết với chất lợng cao. Bài viết không dừng lại ở thông tin một cách đơn thuần những kết quả đạt đợc mà phải dựa trên sự phân tích một cách khoa học, mang tính lập luận nghiệp vụ về BHXH. Bài viết đăng trên tạp chí phải đầy đủ thông tin cần thiết và chính xác cập nhật. Đòi hỏi đội ngũ biên tập viên, cộng tác viên trong và ngoài ngành phải có trình độ chuyên môn, trách nhiệm cao. Tăng cờng phối hơp với các cơ quan thông tin đại chúng (Đài truyền hình, truyền thanh, báo chí) để tuyên truyền sâu rộng hơn về bảo hiểm xã hội. Nội dung tuyên truyền cần ngắn gọn, dễ hiểu, gây đợc sự chú ý của mọi ngời. Tổ chức thực hiện một số hình thức tuyên truyền trực quan sinh động: in tờ gấp, tranh cổ động, áp phích, sách hỏi đáp giới thiệu về pháp luật và các chế độ BHXH, phát hành rộng rãi đến từng đơn vị sử dụng lao động. Có biện pháp để thu hút các nhà chuyên môn, chuyên gia nổi tiếng trên các lĩnh vực: văn hoá, hội hoạ, nhạc kịch. Sáng tác các tác phẩm có tinh hoa văn hoá nghệ thuật cao, có nội dung tuyên truyền đợc quần chúng a thích. Các bài hát, bài thơ, các vở kịch, phim tranh cổ động phải đợc dàn dựng, thể hiện và trình bày công phu để giới thiệu rộng rãi đến toàn xã hội với cách tốt nhất là thông qua đài truyền hình, qua các cuộc thi. Tổ chức các hội nghị, các cuộc họp trong đó có các đại diện của ngời lao động để nhằm mục đích tuyên truyền về BHXH gióp các bên tham gia hiểu rõ tính pháp luật của BHXH, nắm đợc quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Đồng thời qua đó thu thập tổng hợp các ý kiến thắc mắc, đóng góp của ngời lao động, chủ sử dụng lao động để đa ra các biện pháp phù hợp với nguyện vọng của họ. Phấn đấu mỗi cán bộ BHXH là một tuyên truyền viên vì hơn ai hết họ hiểu rõ mục đích, bản chất, tác dụng và cách thức thực hiện các chính sách BHXH. Hiệu quả của tuyên truyền phải đợc đánh gía bởi mức độ ảnh hởng thay đổi nhận thức, thái độ của đối tợng tham gia theo mục đích đã định, số lợng đối tợng đợc tuyên truyền, chi phí cho tuyên truyền. Hoàn thiện nghiệp vụ quản lý thu chi, đa hệ thống hoá vi tính vào công tác quản lý thu chi quỹ BHXH. Công tác thu quỹ BHXH có yêu cầu rất cao đối với những cán bộ làm công tác này, đòi hỏi ngời cán bộ phải năng động, sáng tạo, nhiệt tình trong công việc. Do vậy cần có những chế độ u đãi đối với họ nh: phơng tiện đi lại, thanh toán công tác phí theo chế độ riêng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Bên cạnh đó chúng ta cũng nên quan tâm đến các tổ chức, đơn vị mà chúng ta quản lý. Chúng ta có thể tiến hành các hình thức khen thởng, cám ơn đến các đơn vị luôn thực hiện đúng tiến độ thu BHXH. Còn đối với các đơn vị nộp chậm, nộp thiếu tiền BHXH thì chúng ta nên xem xét tình hình cụ thể của đơn vị. Nếu đơn vị thực sự gặp khó khăn thì đề nghị các cơ quan chức năng tạo điều kiện thuận lợi, giúp họ nhanh chóng thoát khỏi tình trạng khó khăn. Nếu đơn vị cố tình chiếm dụng quỹ trong khi có đủ khả năng nộp tiền BHXH thì phải có các biện pháp xử phạt hành chính vì nhiều đơn vị sẵn sàng chấp nhận nộp phạt nếu nh họ thấy tiền lãi thu đợc do chiếm dụng quỹ BHXH vào hoạt động sản xuất kinh doanh lớn hơn số tiền họ phải nộp mà trong một số trờng hợp chúng ta phải mạnh dạn đề nghị các cơ quan thực thi pháp luật tiến hành truy tố họ vì không đảm bảo quyền lợi cho ngời lao động. Đối với các đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính chất thời vụ thì cần xác định thời điểm thu hợp lý để tạo điều kiện cho họ nộp đúng, nộp đủ. Công tác chi trả cũng cần phải đợc đổi mới cho phù hợp với nhu cầu của cuộc sống. Đối với các cán bộ chi trả lơng hu và trợ cấp tại các tổ, phờng trên địa bàn quận thì phải không ngừng nâng cao mức thù lao cho họ để họ có thể yên tâm làm công tác này, đem lại hiệu quả chi trả cao hơn. Đối với các bộ làm công tác chi trả 2 chế độ ốm đau, thai sản ở các đơn vị thì cũng phải có mức thù lao thoả đáng đặc biệt là đối với những đơn vị có đông lao động, có nhiều lao động nữ, điều kiện làm việc cho ngời lao động cha đảm bảo. Hiện nay nền kinh tế nớc ta đang dần bắt kịp tốc độ phát triển của nền kinh tế thế giới. Chúng ta đang mạnh mẽ áp dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý, vào hoạt động sản xuất kinh doanh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Ngành BHXH cũng đã đa hệ thống tin học vào hoạt động của mình nhng mới chỉ dừng lại ở mức độ “có máy vi tính”. Hiện nay ở hầu hết các cơ quan BHXH đều có hơn 2 chiếc máy vi tính nhng số lợng cán bộ BHXH biết sử dụng thành thạo nó thì có rất là ít, thậm chí có nơi không có. Các cán bộ của ngành BHXH mới chỉ dừng lại việc bắt đầu biết sử dụng máy vi tính mà cha khai thác đợc hết hiệu quả mà máy vi tính đem lại trong công tác thu chi quỹ BHXH. Mặt khác do cha đợc quan tâm đúng mức nên hệ thống các chơng trình phần mềm chuyên ngành của ngành BHXH cha dợc đồng bộ, cha tạo ra sự thuận tiện cho các cán bộ khi làm việc trực tiếp với máy tính. Bên cạnh đó hệ thống phần mềm này còn thiếu tính năng bảo mật nên rất dễ bị đánh cắp số liệu. Chính vì vậy mà trong những năm tiếp theo Nhà nớc nên cung cấp kinh phí cho ngành BHXH để họ có đủ điều kiện đa hoạt động tin học trong quản lý cóp hiệu quả cao thông qua việc mua máy vi tính, mua phần mềm quản lý cũng nh việc mở các lớp đào tạo tin học cho tất cả các cán bộ trong toàn ngành BHXH cả về kỹ năng sử dụng máy tính và kỹ năng khai thác hiệu quả phần mềm chuyên ngành. 6. Bảo toàn và tăng trởng quỹ BHXH Muốn công tác chi trả đợc thực hiện tốt hơn và để đảm bảo khă năng chi trả thì phải có các biện pháp bảo tồn và tăng trởng quỹ BHXH. Để bảo tồn đợc giá trị của quỹ cần sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm quỹ, cần tăng nguồn thu, chi đúng mục đích, đối tợng và tăng cờng công tác kiểm tra sử dụng quỹ. Do vậy, cần phải đầu t quỹ sao cho có hiệu quả cao nhất trên nguyên tắc đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro. Trong những năm tới chúng ta vẫn phải tiến hành đầu t trên các lĩnh vực quen thuộc nh: mua tín phiếu, trái phiếu của Chính phủ, cho các tổ chức tín dụng của Nhà nớc vay, đầu t vốn vào các doanh nghiệp lớn đợc sự bảo hộ của Nhà nớc. Tóm lại, cơ quan BHXH huyện Văn Giang hoạt động dới sự chỉ đạo chung của BHXH Việt Nam nên giải pháp chung đối với BHXH Việt Nam cũng chính là giải pháp cho BHXH huyện Văn Giang hoạt động đợc tốt hơn theo cơ chế quản lý mới. I. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác thu-chi quỹ BHXH Kiến nghị đối với công tác thu Quản lý thu BHXH phải đảm bảo, quán triệt công tác quản lý đầy đủ, chính xác kịp thời đối tợng tham gia BHXH và quỹ tiền lơng làm cơ sở để nộp. Tổ chức cấp sổ BHXH cho ngời lao động kịp thời để ghi chép các quá trình tham gia BHXH và mức đóng của họ vào quỹ, cần sử dụng công nghệ quản lý mới để thay thế cho phơng pháp làm việc thủ công hiện nay. Từng bớc áp dụng công nghệ thông tin trên cơ sở xây dựng hoàn chỉnh mạng máy tính toàn ngành để có thể quản lý hoạt động thu BHXH một cách dễ dàng và nhanh chóng hơn. Cần phải có hệ thống quản lý các tài khoản chuyên thu chặt chẽ. Để làm đợc việc đó cơ quan BHXH cần phải có những chế độ khen thởng kịp thời cho những công nhân viên chức, các đơn vị sử dụng lao động làm tốt. Bên cạnh đó cũng cần phải có hình thức kỷ luật nghiêm khắc đối với những đơn vị, công nhân viên chức vi phạm quy định của Nhà nớc và của ngành. Đào tạo đội ngũ cán bộ có những kiến thức cơ bản về nghiệp vụ BHXH một cách đồng bộ, đúng quy định của ngành và pháp luật, đáp ứng đợc những yêu cầu thực tế đặt ra. Trao đổi, hợp tác, học hỏi kinh nghiệm thực tiễn về BHXH của các nớc trên thế giới và khu vực thông qua hoạt động hợp tác và trao đổi kinh nghiệm giữa BHXH Việt Nam với cơ quan, tổ chức BHXH các nớc. Kiến nghị đối với công tác chi BHXH Quản lý chi BHXH nhằm giải quyết các chế độ BHXH và chi trả kịp thời, đúng lúc, chính xác, đúng đối tợng cho những ngời đợc hởng trợ cấp của các chế độ BHXH. Do đó, công tác chi BHXH phải bảo đảm các mặt sau: - Tăng cờng biện pháp quản lý tiền mặt trong tất cả các công đoạn vận chuyển từ nơi giao nhận tiền tới khi chi trả cho các chế độ đợc hởng. - Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa BHXH các cấp với BHXH Việt Nam trong việc quản lý sự biến động do di chuyển, chết hoặc hết thời gian hởng quyền lợi BHXH. - Cần tìm ra phơng thức và mô hình chi trả hợp lý để bảo đảm quyền lợi cho các đối tợng và bảo đảm sự phù hợp với khả năng, yêu cầu chi trả của cơ quan BHXH cơ sở. Ngoài ra BHXH còn cần phải hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy về BHXH. Hệ thống luật BHXH cần sớm đợc ra đời để quán triệt một số nguyên tắc nhất định nh gắn liền giữa quyền lợi và trách nhiêm, mức hởng của các chế độ phải căn cứ vào thời gian đóng, mức đóng BHXH của ngời lao động. Kết luận BHXH là một chính sách xã hội lớn, quan trọng mà Đảng và Nhà nớc ta đã xác định. Thực hiện tốt công tác BHXH là tạo nên một mạng lới an toàn có tính nhân văn góp phẩn để ổn định cuộc sống về vật chất và tinh thần cho ngời lao động, đảm bảo sự an toàn cho xã hội, đẩy nhanh sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nớc. Tromg hoạt động BHXH, hoạt động thu-chi BHXH là một bộ phận quan trọng trong quản lý quỹ BHXH, cùng với hoạt động đầu t tăng trởng quỹ, đó chính là những nhân tố quan trọng quyết sự tồn tại và phát triển của hệ thống các chế độ BHXH. Để BHXH thực sự trở thành một chính sách xã hội quan trọng góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế-xã hội của đất nớc, bên cạnh những đổi mới về cơ chế quản lý, về nhận thức, về mô hình tổ chức và các công tác khác của BHXH thì hoạt động thu-chi cũng cần phải không ngừng tiếp tục hoàn thiện và đổi mới hoạt động. Trên đây là toàn bộ những kết quả nghiên cứu của đề tài trong quá trình thực tập tại cơ quan BHXH huyện Văn Giang và nhờ có sự giúp đỡ của cán bộ cơ sở cùng sự hớng dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn Thị Chính và sự cố gắng tìm hiểu của bản thân, em đã hoàn thành đợc chuyên đề này. Do khả năng còn hạn chế cho nên chuyên đề đợc hoàn thành không tránh khỏi những sai sót nên em rất mong sự chỉ bảo của các thầy, các cô cùng những ngời quan tâm đến đề tại này. Em xin chân thành cảm ơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0206.doc
Tài liệu liên quan