Đề tài Tình hình xã hội Việt Nam cuối XIV

Đảng đã biết kế thừa và vận dụng những bài học kinh nghiệm của các cuộc cải cách trong lịch sử. Đảng đã kiên định chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm kim chỉ nam cho hoạt động .Đảng đã kiên định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đảng đã vạch ra các chủ trương, đường lối phù hợp với quy luật, với thực tế Việt Nam; phát huy sức mạnh của toàn dân, mở rộng mối quan hệ quốc tế để không ngừng học hỏi, trao đổi với các nước bạn về mọi lĩnh vực, đặc biệt là các thành tựu của khoa học công nghệ Đồng thời chúng ta cũng tham gia vào nhiều tổ chức mang tính chất đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng phát triển, giữ vững hoà bình thế giới như tổ chức khu vực ASEAN, tổ chức thương mại Thế giới WTO để từ đó tăng cường phát triển kinh tế đất nước và giải quyết các vấn đề khác một cách đúng đắn, bằng con đuờng hoà bình, hữu nghị.

doc26 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 940 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình xã hội Việt Nam cuối XIV, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hải biết kế thừa và phát huy tinh thần truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta cho sinh viên. Nghiên cứu về đề tài nhằm rèn luyện cho sinh viên tính học tập độc lập, sáng tạo, tự tìm tòi,tự nghiên cứu. Đồng thời rèn luyện tính bền bỉ, kiên trì của sinh viên, rèn luyện kỉ năng tra cứu, phân tích và lựa chọn tài liệu.Từ đó viết thành một bài hoàn chỉnh, có đánh giá và ý kiến của cá nhân. IV.Phương pháp nghiên cứu đề tài: - Phương pháp luận sử học - Phương pháp phân tích tổng hợp, quy nạp và diễn dịch.. V.Bố cục tiểu luận: Gồm ba phần lớn:Mở đầu, nội dung, kết luận. Trong phần nội dung gồm có: I. Nhận thức luận II. Một vài nét về Hồ Quý Ly và triều Hồ. III. Tình hình XHVN vào cuối thế kỉ XIV. IV. Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly. V. Đánh giá về Hồ Quý Ly và nêu nguyên nhân thất bại, kết quả, bài học kinh nghiệm của cuộc cải cách. B. Nội dung: I.Nhận thức lí luận: Nói đến cách mạng, cải cách, đổi mới là chúng ta nghĩ ngay đến sự chuyển biến, thay đổi từ một cái cũ sang cái mới, hoặc là thay đổi hoàn toàn. Quả vậy, xã hội loài người để từ thời kì lịch sử còn mông muội dã man, đến thời kì lịch sử văn minh đã trải qua những bước phát triển từ tiệm tiến đến phát triển “ nhảy vọt “. Những bước phát triển đó cụ thể mang ý nghĩa cải cách, đổi mới, cũng có thể mang nội dung của một cuộc cách mạng. Vậy, nguyên nhân nào đã dẫn đến điều đó? Chúng ta thử đặt giả thiết rằng: Nếu trong một xã hội nhất định của lịch sử, tình hình về kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá, đều ổn định, đời sống nhân dân được cải thiện, được nâng cao, xã hội đó không có ách áp bức, bóc lột, không có giai cấp thống trị và bị trị, không hề có mâu thuẩn và xung đột thì liệu có xảy ra một chuyển biến nào không, sự thay đổi nào không? Còn ngược lại, trong xã hội đã khủng hoảng trầm trọng và sâu sắc trên tất cả các mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội thì sẽ thế nào đây? Trong thực tiễn đã chứng minh được đây chính là nguyên nhân để hình thành nên những nhà tư tưởng lớn, các ông đã thực hiện cuộc cách mạng, cuộc cải cách và đổi mới tuỳ vào từng giai đoạn lịch sử và hoàn cảnh riêng biệt, cụ thể. Mục đích của các nhà tư tưởng là nhằm cứu vãn tình thế, khôi phục lại tình hình đất nước và phát triển sang một bước cao hơn, thay đổi hoàn toàn hoặc một bộ phận nào đó về đời sống, văn hoá đất nước. Nếu xảy ra những cuộc khủng hoảng sâu sắc, toàn diện thì yêu cầu phải giải quyết bằng cách mạng, tức phải dùng đến bạo lực vũ trang và kết hợp với đấu tranh trên mặt trận chính trị, mặt trận ngoại giao. Còn nếu cuộc khủng hoảng bộ phận thì chỉ cần khắc phục bằng cải cách hoặc đổi mới. Dù ở hình thức nào, cách mạng, cải cách hay đổi mới thì đều do hành động của quần chúng nhân dân lao động tiến hành nhằm làm thay đổi xã hội từ thấp đến cao, từ lạc hậu đến tiến bộCả ba hình thức đó có mối liên hệ biện chứng với nhau, tuỳ vào điều kiện lịch sử thì có các cuộc cách mạng nhất định phải bùng nổ nhưng cũng có những điều kiện lịch sử mà cải cách đổi mới trở thành những hình thức để tiến hành canh tân đất nước. Cải cách và đổi mới là những bước chuẩn bị cần thiết để dẫn đến một cuộc cách mạng xã hội. Ví dụ cuộc cách mạng Duy tân ( Trung Quốc) vào thế kỉ 19 do khang Hữu Vi, Lê Khải Siêu tiến hành đã dẫn đến cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911( Trung Quốc ). Cải cách, đổi mới là những bước phát triển tiếp theo để thực hiện các thành quả của một cuộc cách mạng.Ví dụ: cuộc cải cách ruộng đất ở Việt Nam đã góp phần làm hoàn thành nhiệm vụ dân chủ của cuộc cách mạng tháng 8 - 1945. Tóm lại, cách mạng sẽ nổ ra khi phương thức sản xuất cũ đã lỗi thời mâu thuẫn với phương thức sản xuất mới tiến bộ đã đến độ chín muồi, khủng hoảng xã hội đã diễn ra toàn diện trên mọi lĩnh vực yêu cầu cần phải giải quyết thì hành động quyết tâm và triệt để của quần chúng nhân dân sẽ dẫn đến bước phát triển nhảy vọt của xã hội. Đây được gọi là cuộc cách mạng.Thời gian ngắn hay dài còn tuỳ thuộc vào tình hình chiến trận.Gồm có nhiều cuộc cách mạng: cách mạng tư sản, cách mạng giải phóng đân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa Còn cải cách khác với cách mạng là không đòi hỏi phải tiến hành một cách khẩn trương, toàn diện và triệt để như cách mạng và đặc biệt là loại trừ khả năng bạo lực vũ trang. Cách mạng và cải cách thuộc phạm trù lịch sử vì nó diễn ra trong cùng một không gian ( một khu vực, một đất nước), và có mối liên kết giữa quá khứ ,hiện tại và tương lai.Đó là mốc mở đầu của lịch sử. Đổi mới thuộc phạm trù nhận thức vì được tiến hành bằng hành động của con người dựa trên sự kế thừa và tiếp thu những nét tiến bộ của quá khứ để lại. Trên thực tế cho biết, đã có nhiều cuộc cách mạng nổ ra: Bắt đầu(1566-1609) từ cách mạng Hà Lan báo hiệu cho một thời đại mới - thời đại của cách mạng tư sản, tiếp sau đó là cuộc cách mạng tư sản Anh (1640 -1688) ; cách mạng tư sản Mĩ (1773 - 1783) , cách mạng tư sản Pháp (1789 -1794). Từ cuộc cách mạng tháng mười Nga trở đi, trên thế giới đã có nhiều cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa. Còn về cải cách: Từ thời Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh có thể cải cách theo hướng thoả hiệp hoặc cải lương.. ở Việt Nam từ năm 1986 đã diễn ra cuộc đổi mới đất nước. Lịch sử của những thời kì đáng ghi nhớ đó dù đã cách đây lâu lắm rồi, những cuộc cách mạng, cải cách, đổi mới đó có thể thành công hay thất bại , nhưng đã để lại trong kho tàng lịch sử thế giới những ý nghĩa sâu sắc, những bài học kinh nghiệm quý giá mà thế hệ sau cần phải khắc ghi, tiếp thu và phát huy để xây dựng đất nước ngày càng tiến bộ , giàu mạnh,xã hội ngày càng công bằng, dân chủ, văn minh. II.Một vài nét về Hồ Quý Ly và Triều Hồ: 1.Hồ Quý Ly: Căn cứ vào sử sách, bằng cách gián tiếp chúng ta biết được Hồ Quý Ly sinh năm 1336 "Toàn thư" - năm 1405: "Quý Ly thấy mỡnh tuổi đó 70....." Sđd - trang 212 - Tớnh ra 1405 - 70 + 1 = 1336. , còn năm mất không rõ. Ông có nguồn gốc từ Chiết Giang (Trung Quốc). Vào thời Ngũ Quý ( hay gọi là thời Ngũ Đại Thập Quốc, 907 – 960 ), tiên tổ của Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật được cử sang làm thái thú ở Diễn Châu ( Nghệ An ). Cũng từ đây, con cháu họ Hồ làm chủ miền đất này. Đến đời thứ 12 của họ Hồ là Hồ Liêm đã di cư ra vùng Đại Lại ( Thanh Hoá ) làm con nuôi của quan Tuyên Uý Lê Huấn nên ông đã mang họ Lê. Vì thế sử củ còn gọi Hồ Quý Ly là Lê Quý Ly, ông là cháu 4 đời của Hồ Liêm . Thuở nhỏ, Hồ Quý Ly theo học võ nghệ với Sư Tề .Sư tề là một người họ Nguyễn, có con trai là Nguyễn Đa Phương rất giỏi võ nghệ. Sau cả quá trình học võ và sống cùng nhau, Hồ Quý Ly và Nguyễn Đa Phương đã kết nghĩa anh em . Hồ Quý Ly có hai người cô đều là vợ của vua Trần Minh Tông và là mẹ của ba vua Trần Hiến Tông, Trần Nghệ Tông và Trần Duệ Tông. Nhờ đó ông được vua Trần Nghệ Tông rất tin yêu. Vào năm 1371, Hồ Quý Ly được vua Trần Nghệ Tông phong tước Trung tuyên quốc thượng hầu, chức khu mật viện đại sứ. Năm 1375, ông được Thượng Hoàng Trần Nghệ Tông và vua Trần Duệ Tông thăng chức tham mưu quân sự . Năm 1379, được Thượng Hoàng Trần Nghệ Tông và vua Trần Phế Đế thăng chức Tiểu tư không kiêm khu mật viện đại sứ . Năm 1380, được thăng chức Nguyên Nhung , quản việc Hải Tây Đô thống chế. Năm 1387, ông giữ chức Đồng bình chương sự ( là thành viên cơ quan tối cao của nhà nước ). Năm 1395, được thăng Tước Tuyên Trung vệ quốc Đại Vương . Năm 1397, ông đã ép vua Trần Thuận Tông phải nhường ngôi cho Trần Thiếu Đế lúc đó mới 3 tuổi . Năm 1399, Hồ Quý Ly cho người giết vua Trần Thuận Tông, sau đó giết thêm 370 người mà Hồ Quý Ly cho là thuộc phe đối nghịch với mình, bao gồm các tướng như : Trần Khát Chân ,Trần Nguyên Hãn ,Trụ quốc Trần Nhật Đôn vv, rồi tự xưng là Quốc tổ Chương Hoàng . Năm 1400, ông đã truất ngôi vua Trần Thiếu Đế ( là cháu ngoại của Hồ Quý Ly ), tự lập làm vua và đặt Quốc hiệu mới là Đại Ngu, lấy niên hiệu là Thánh Nguyên. Từ đây nhà Hồ được thành lập . Như vậy, chúng ta đã biết được gốc tích, thân thế của Hồ Quý Ly, cũng như quá trình thăng chức tước của ông theo tiến trình của thời gian. 2.Triều Hồ (1400 - 1407): Hồ Quý Ly là một nhân vật lịch sử mà hiếm có ai sánh được với ông từ cổ chí kim. Về đường danh vọng , từng bước ông tiến lên nắm giữ những chức vụ quan trọng trên lĩnh vực chính trị và quân sự .Tuy con đường đi đó của ông được xây đắp phần lớn bằng các thủ đoạn độc ác, tàn nhẫn, dựa vào quyền lực, đồng thời đổi lấy cả tính mạng xương máu của bao nhiêu con người, kể cả những người thân thích máu mủ ruột rà như đứa cháu ngoại là Trần Thiếu Đế. Sách “Đaị Việt Sử kí toàn thư” đã viết :”Đời Trần Nghệ Tông (1370 - 1372 - ND), từ chức Chi hậu tứ cục chánh trưởng , thăng lên Khu mật Viện đại sứ, lên Tiểu tư không, tiến phong Đồng bình chương sự, sau liên tiếp gia phong tới Phụ chính Thái sư nhiếp chính, Khâm Đức Hưng Liệt Đại Vương, Quốc tổ chương hoàng , rồi thay nhà Trần đặt quốc hiệu mới là Đại Ngu, trở lại họ Hồ chưa đầy một năm thì truyền ngôi cho con là Hán Thương ”. Như vậy, triều Hồ trải qua 2 đời vua là Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương .Vào năm 1399, sau khi được cha truyền ngôi Hồ Hán Thương đã tự xưng là Nhiếp thái Phó .Còn Hồ Quý Ly từ năm 1401 trở thành Thái Thượng Hoàng ). Năm 1407, nhà Minh tiến quân vào xâm lược nước ta. Đây có thể nói là một trong những thời kì bi thương , đen tối nhất của lịch sử dân tộc Việt Nam. Quân Minh đã tìm đủ mọi cách tàn nhẫn để đàn áp và bóc lột nhân dân ta dến tận cùng của sự tàn bạo và thậm tệ . Nhiều nhà văn , nhà sử học thời kì này đã dùng cây bút của mình để lên án sâu sắc, vạch trần tội ác của quân xâm lược. Đồng thời, các ông cũng đã vẽ nên một khung cảnh hiện thực đau thương của dân tộc ta, ca ngợi tinh thần đấu tranh bất khuất của những người con đất Việt đã ngả xuống để cứu dân cứu nước. Nguyễn Trãi là một tiêu biểu với tác phẩm “Bình ngô đại cáo” bất tử. Trong đó có đoạn : ”Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ, Dối trời lừa người, mưu gian đủ muôn ngàn kế, Cậy binh gây hấn, tội ác chưa ngot 20 năm”. Cuộc kháng chiến do nhà hồ lãnh đạo đã bị thất bại , thượng hoàng Hồ Quý Ly , vua Hồ Hán Thương và một loạt các đại thần của nhà Hồ đã bị nhà Minh bắt về Trung Quốc làm tù binh . Đến đây, nước ta đã bị nhà Minh đô hộ trong vòng 20 năm (1407 - 1427). Tuy nhà Hồ chỉ tồn tại được vẻn vẹn chưa đầy 7 năm (1400 - 1407) nhưng lại là triều đại có lắm chuyện đáng lưu tâm. Chúng ta phải thấy được những thành tựu mà nhà Hồ đã đạt được qua cuộc cải cách của Hồ Quý Ly về tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội .Qua đó để rút ra những hậu quả , nguyên nhân thất bại và bài học kinh nghiệm quý giá . III. Tình hình xã hội Việt Nam vào cuối thế kỷ XIV : Xã hội Đại Việt sau một thời kỳ phát triển phồn vinh từ thế kỷ XI thì đến nửa sau thế kỷ XIV tức cuối đời Trần đã lâm vào một cuộc khủng hoảng khá sâu sắc, trì trệ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội .Cụ thể : Sự sa đoạ của tầng lớp quý tộc cầm quyền : Tầng lớp quý tộc cầm quyền , họ là những người đứng đầu của một nước , đáng ra họ phải hoàn thành nhiệm vụ chăm lo cho đời sống nhân dân, củng cố và xây dựng đất nước ngày càng phát triển .Vậy mà ngược lại , trong vương triều Trần , từ Trần Dụ Tông (1341 - 1369) trở đi ngày càng đi vào con đường suy thoái .Vua quan đua nhau ăn chơi hưởng lạc, không còn chăm lo đến đời sống nhân dân như trước . Vua Trần Dụ Tông sai người “đào hồ lớn ở vườn ngự nơi hậu cung , trong hồ chất đá làm núi , bên bờ hồ trồng thông , trúc và nhiều thứ cây khác, thêm vào đấy nào là cỏ lạ , hoa thơm , muông kỳ , chim quý . Bốn mặt khai thông cho nước sông vào . Lại đào hồ khác, bắt dân chở nước mặn chứa vào hồ để nuôi cá , các hải sản . Bắt người Hoả Châu chở cá sấu thả vào đấy .Lại làm dãy hành lang ở Tây Điện thẳng đến cửa Hoàng Phúc Nay xây cất, mai tu đạo , không lúc nào ngớt việc” . Nhà vua còn “ buông tuồng vô độ , tính nghiện rượu , thường sai các quan vào uống rượu cùng .Người nào uống được nhiều thì được ban thưởng . Bùi Khoan đã dùng kế giả vờ uống hết trăm thùng rượu , được thưởng tước hai tư “. Cũng trong ” Khâm Định Việt Sử thông giám Cương mục “, tập 1 , trang 638 .639, Nhà xuất bản Giáo Dục Hà Nội ,1998 , nhận xét của Quốc sử quán triều Nguyễn về Dụ Tông :”Nghiện rượu, mê đàn hát , xa xỉ , làm cung điện nguy nga , tường vách chạm trổ , lãng phí tiền của, hoang dâm chơi bời , món gì Dụ Tông cũng mắc .Cơ nghiệp nhà Trần sao khỏi suy được “. Từ thực tế trì trệ như vậy của một ông vua cũng quá đủ để cảnh báo rằng một triều đình thối nát sắp suy sụp . Bọn quý tộc , quan lại cũng bắt quân dân xây dựng dinh thự , chùa chiền , hát xướng , chơi bời phóng túng . Những kẻ bất tài nhưng khéo theo chiều gió , nịnh bợ đều được thăng quan tiến chức , làm cho kỉ cương triều chính rối loạn .Việc Chu Văn An – quan Tư Nghiệp Quốc tử giám dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần không được đã trả ấn từ quan là một bằng chứng. Trong nội bộ tầng lớp quý tộc cầm quyền chia bè phái , mâu thuẫn ,giết hại lẫn nhau để tranh dành địa vị , quyền lực ngày càng khốc liệt . Điển hình là vụ một số quý tộc đại thần nhà Trần như Thái Bảo Trần Nguyên Hàng , Thượng tướng quân Trần Khát Chân mưu giết Hồ Quý Ly nhưng không thành công , cuối cùng bị Hồ Quý Ly giết chết cùng với hơn 370 quan lại quý tộc khác . Cuộc thanh trừng lẫn nhau diễn ra “hết năm này qua năm khác”( “Cương mục” – sđd , tập 1, tr 705 . Cuộc thanh Trừng này diễn ra vào năm 1399 ). Trên đây là hiện thực của cuộc ăn chơi sa đoạ, đời sống hưởng lạc, thoái hoá của giới quý tộc cầm quyền trong vương triều Trần, từ vua cho đến quan lại Hậu quả đó đã đè nặng lên đầu những người dân vô tội . Vì không cứu vãn được tình thế , kết cục cuối cùng triều Trần đã sụp đổ và nhường vị trí đó cho một vương triều mới lên thay thế . 2. Đời sống cực khổ và phong trào khởi nghĩa của nhân dân: Hậu quả của những cuộc ăn chơi sa đoạ, hưởng lạc, không chăm lo đến việc phát triển đất nước của giới vua quan, quý tộc đã làm cho cuộc sống của nhân dân trăm họ lầm than , khổ cực. Để tiến hành các cuộc “chinh phạt” các nước Ai Lao , Champa , triều Trần đã ra sức huy động sức người , sức của của nhân dân , buộc nông dân nghèo phải bỏ ruộng đồng . Đồng thời, từ đầu thế kỷ XIV, do mất mùa đói kém, nông dân đã phải bán vợ đợ con, bán mình làm nô tỳ cho các quý tộc, địa chủ giàu có. Lợi dụng tình trạng khốn cùng đó của nông dân, bọn chúng đã xâm chiếm hoặc mua rẻ ruộng đất, mở rộng điền trang, tăng thêm số người làm. Nhiều nhà chùa cũng trở thành chủ đất lớn với rất nhiều điền nô. Đời sống của nhân dân càng trở nên đói kém không chỉ vì bị bóc lột, bị chiến tranh mà còn phải hứng chịu những trận thiên tai hoành hành. Do nhà nước không còn sức quan tâm đến sản xuất nông nghiệp, sửa đắp và bảo vệ các công trình thuỷ lợi, đê điều. Cho nên , trong nửa sau thế kỷ XIV đã có 9 lần đê vỡ, lụt lớn, 11 lần hạn hán. Cụ thể, có những năm vừa lũ lụt vừa hạn hán như : 1348, 1355, 1393, vv.Hậu quả của tình trạng này, chỉ tính từ đầu thế kỷ XIV cho đến năm 1379 đã có hơn 10 nạn đói lớn, ngân quỹ trống rỗng, nhà nước nhiều lần cho nhà giàu nộp tiền, thóc để nhận quan tước nhưng không giải quyết nổi nạn đói và thiếu thốn. Đời sống điêu đứng của người dân được phản ánh rất rõ qua mấy câu thơ của tướng quốc triều Trần Trần Nguyên Đán: Dịch nghĩa: “Năm nay hè hạn, thu nước to, Mạ thối lúa khô hại biết bao Đọc sách triệu trang mà bất lực Bạc đầu xin phụ nổi thương dân .” Còn trong bức thư của Thái học sinh Nguyễn Phi Khanh gửi cha,viết: ”Ruộng lúa ngàn dặm đỏ như cháy Đồng quê than vãn trông vào đâu Lưới chài quan lại còn vơ vét Máu thịt nhân dân cạn nửa rồi.” Có “áp bức thì có đấu tranh”, “tức nước thì vỡ bờ”, khi cụôc sống của người dân đã đến mức bần cùng, không còn con đường nào khác là họ phải vùng dậy đấu tranh. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn xã hội sâu sắc và phong trào khởi nghĩa nông dân cuối thế kỷ XIV. Năm 1343, do đại hạn, mất mùa, dân nghèo đã nổi dậy khắp nơi. Năm 1344, khởi nghĩa của Ngô Bệ nổ ra ở Yên Phụ ( Hải Dương ) đánh phá nhà của bọn địa chủ, quan lại. Cuộc khởi nghĩa đã bị đàn áp nhưng 14 năm sau, năm 1357 – 1358 nghĩa quân của Ngô Bệ lại bùng lên ở Yên Phụ, Yết Bảng với khẩu hiệu “chấn cưú dân nghèo”, chống lại quân triều đình. Nghĩa quân làm chủ cả một vùng rông lớn thuộc huyện Chí Linh ( Hải Dương ), chiến đấu cho đến năm 1360 mới bị dập tắt. Năm 1354, khởi nghĩa của một người tên Tề tự xưng là cháu ngoại của Trần Hưng Đạo đánh vào vùng Lạng Giang ( Bắc Giang ). Năm 1379, cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thanh ở Thanh Hoá. Đầu năm 1390, nhà sư Phạm Sư Ôn phất cờ khởi nghĩa ở Quốc Oai ( Hà Tây) . Năm 1399, cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Nhữ Cái nổ ra ở vùng Sơn Tây, Vĩnh PhúcQua tất cả các cuộc khởi nghĩa này, chúng ta thấy lực lượng tham gia đấu tranh rất đông đảo, chủ yếu là nông dân nghèo, nông nô, nô tỳ trong các điền trang của vương hầu, quý tộc Trần. Các cuộc khởi nghĩa mặc dù bị đàn áp đẫm máu nhưng phần nào nói lên được tinh thần chiến đấu, sức kháng cự của nhân dân là rất mãnh liệt. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc chứng tỏ từ cuối thế kỷ XIV, xã hội Việt Nam đã bước vào cuộc khủng hoảng, suy thoái của vương triều thống trị, những mâu thuẫn sâu sắc trong chế đọ ruộng đất và nông nghiệp đương thời. 3.Sự bất lực của triều Trần trước các cuộc xâm lược,yêu sách của nước ngoài: Từ đầu những năm 60 của thế kỷ XIV, nước Champa hùng mạnh thường xuyên đem quân lên đánh phá các vùng biên giới phía Nam Đại Việt và cũng đã có vài ba lần tiến quân đánh phá kinh thành Thăng Long , vua Trần phải đi lánh nạn . Quân Champa đã cuớp phá nhà cửa , kho tàng , đốt cung điện rôì rút về . Cũng đã có nhiều lần nhà Trần đem quân chống lại quân Champa nhưng không ít lần bị thất bại. Cụ thể: vào năm 1376, nhân dân Champa đánh ra Hoá Châu, Trần Nghệ Tông cùng con là Trần Thuận Tông kéo đại quân đánh vào Champa. Quân dân Nghệ An, Tân Bình, Thuận Châu, Hoá Châu được lệnh chuyên chở lương thực đi theo. Vua Chế Bồng Nga của Champa đã trá hàng và dụ cho quân Trần vào đến kinh đô thành Trà Bàn rồi phục kích tiêu diệt nhanh chóng. Kết cục vua Trần Duệ Tông tử trận, Ngự câu Vương Húc đầu hàng. Năm 1378, quân của Hồ Quý Ly đã đánh bại quân Champa khi chúng đánh ra Nghệ An . Năm 1383, trong quá trình chiến đấu đã bị thua trận, tướng Lê Mật Ôn bị chết, vua Trần Nghệ Tông phải rời kinh thành lên Đông Ngàn (Bắc Ninh), chỉ còn tướng Nguyễn Đa Phương ở lại trấn giữ. Riêng trận đánh tháng 10/1389 do Hồ Quý Ly chỉ huy khi quân Champa đánh ra Thanh Hoá đã bị thua , hơn 70 tướng bị chết. Như vậy, cuộc chiến tranh với Champa vừa nói lên sự suy yếu của nhà Trần vừa gây thêm nhiều khó khăn cho triều đình và nhân dân đương thời. Cuộc khủng hoảng xã hội càng thêm trầm trọng. Lợi dụng sự suy yếu của nhà Trần, vào năm 1384, quân Minh đã kéo quân vào đánh Vân Nam, bắt nhà Trần phải cung cấp lương thực cho chúng. Vua Trần buộc phải cho người vận chuyển 5000 thạch lương lên nộp. Năm 1388, nhà Minh sai sứ sang đòi ta nộp các thứ quả ngon vật lạ và mượn đường đi đánh Champa bằng cách bắt nhà Trần nộp 50 thớt voi. Năm 1395, nhà Minh bắt ta nộp 50 con voi, 50 vạn hộc lương . Tất cả những đòi hỏi nhằm thực hiện âm mưu xâm lược của nhà Minh diễn ra liên tục cho đến đầu thế kỷ XV.Trước tình hình như vậy, triều Trần đành bất lực, không còn đủ khả năng để tổ chức, lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống lại giặc ngoại xâm. Vì thế, nước ta đã rơi vào tay nhà Minh, chịu sự đàn áp dã man của bọn cướp nước. Tóm lại, xã hội Đại Việt cuối thế kỷ XIV đang lâm vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc, chính quyền thì suy yếu, bọn nịnh thần chuyên quyền, dòng họ thống trị phân tán, sa đoạ, kinh tế nhà nước sa sút nghiêm trọng .Tất cả những điều đó đã dẫn đến lục đục trong nội bộ như chia thành phe phái, còn nông dân thì nổi dậy khởi nghĩa khắp nơi. Trong lúc đó lại bị sự chống phá của Champa và âm mưu xâm lược của giặc ngoại xâm nhà Minh (Trung Quốc). Hậu quả là đời sống của nhân dân ngày càng khổ cực, còn triêù chính thì rối ren, tài chinh kiệt quệ. Đây chính là những tiền đề dẫn đến cuộc cải cách cuả Hồ Quý Ly nhằm cứu vớt tình hình đang bị khủng hoảng. 4.Thiết chế chính trị thời Trần : Theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam cổ, trung đại thì chế độ phong kiến Việt Nam bước vào quá trình phong kiến hoá từ thế kỷ X. Quá trình đó đã diễn ra liên tục từ thế kỷ X, được đẩy mạnh từ thế kỷ XI – XIV dưới thời Lý – Trần và được xác lập vào nửa cuối thế kỷ XV, sau cải cách của Lê Thánh Tông . Đặc điểm của chế độ quân chủ thời Lý – Trần là chế độ quân chủ qúy tộc và đưa đến sự phát triển mạnh mẽ quan hệ bóc lột nông nô, nô tỳ trong xã hội. Vào nửa cuối thế kỷ XIV, sau một thời gian phát huy được mặt tích cực đối với sự phát triển kinh tế, ổn định xã hội thì vào cuối thời Trần, quan hệ bóc lột đó đă bộc lộ mặt tiêu cực, làm cho đời sống của nhân dân hết sức khổ cực, từ đó dẫn đến mâu thuẩn xã hội sâu sắc và nổ ra phong trào nông dân khởi nghĩa rầm rộ khắp đất nước. Điều đó chứng tỏ thiết chế chính trị quân chủ quý tộc và và quan hệ bóc lột nông nô, nô tỳ vào cuối thế kỷ XIV đã lâm vào tình trạng khủng hoảng, kìm hãm sự tiến hoá của xã hội Đại Việt, làm cho quá trình phong kiến hoá trong xã hội tiến tới xác lập một thể chế quân chủ quan liêu chuyên chế, một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền thống nhất và mạnh, một quan hệ sản xuất địa chủ, nông dân lệ thuộc thống trị trong nền kinh tế bị cản trở. Vì vậy, đất nước muốn vượt qua cuộc khủng hoảng cuối thế kỷ XIV, đòi hỏi phải cải cách. Muốn vậy phải có một nhà nước trung ương tập quyền vững mạnh, có đủ khả năng thực hiện cuộc cải cách, lãnh đạo dân tộc đánh thắng giặc ngoại xâm.Yêu cầu trước tiên là phải gạt bỏ những quý tộc thời Trần bảo thủ ra khỏi bộ máy điều hành đất nước, xoá bỏ kinh tế điền trang, giải phóng sức lao động của nông nô, nô tỳ. Một bộ phận trong quan hệ sản xuất phong kiến lúc bấy giờ đã trở nên lạc hậu, xoá bỏ nền quân chủ quý tộc không còn phù hợp với xu thế phát triển của đất nước, xây dựng một nhà nước quân chủ quan liêu với quan hệ sản xuất địa chủ tá điền chiếm địa vị và ưu thế trong xã hội. Từ giữa thế kỷ XIV đã xuất hiện tư tưởng cải cách trong một số quan liêu – nho sĩ mà đại diện là Lê Quát, Phạm Sư Mạnh đòi hỏi thay đổi thiết chế chính trị theo mô hình chế độ quân chủ quan liêu của Nho giáo nhưng đã bị các vua Trần Dụ Tông (1341 – 1369) và Trần Nghệ Tông (1370 – 1372) bác bỏ. Cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng tư tưởng và giữa hai thế lực đã diễn ra lúc âm thầm, lúc quyết liệt liên tục suốt 30 năm (1371 – 1400). Đó là khuynh hướng bảo thủ quân chủ quý tộc của tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần và khuynh hướng dân chủ tập trung quan liêu nho sĩ mà đại diện là Hồ Quý Ly.Cuối cùng, khuynh hướng dân chủ tập trung quan liêu của lực lượng quan liêu nho sĩ do Hồ Quý Ly tiến hành đã thực hiện một cuộc cải cách trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế – xã hội. Mặc dù cuộc cải cách đã thành công một cách hạn chế song nó đã góp phần vào việc giải quyết tình trạng đất nước cuối triều Trần, thấy được vai trò của Hồ Quý Ly và rút ra nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc cho những cuộc cải cách sau này. IV.Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly: Sau khi lên làm vua, Hồ Quý Ly đã tiến hành một cuộc cải cách đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: 1.Cải cách về chính trị, quân sự, và luật pháp: a) Về chính trị: Từ năm 1375, Hồ Quý Ly đã đề nghị xoá bỏ chế độ lấy người tôn thất làm các chức chỉ huy quân sự cao cấp, định lại số quân, đưa lực lượng trẻ vào:”chọn các quan viên, người nào có tài năng, luyện tập võ nghệ, thông hiểu thao lược thì không cứ là tôn thất, đều cho làm tướng coi quân”.Năm 1378, trong số 16 chỉ huy các đạo quân ở trung ương, thì 12 người không phải là tôn thất nhà Trần. Hồ Quý Ly đã loại bỏ dần tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần khỏi bộ máy chính quyền trung ương, thay thế dần bằng tầng lớp nho sĩ trí thức có tư tưởng cải cách. Đưa Nguyễn Đa Phương làm tướng quân, Phạm Cự Luận làm Đô sự rồi thăng đến chức Thiêm Thư Khu mật viện sứ, tâu với Thượng Hoàng Nghệ Tông giết Trần Phế Đế (1388), giết Trang Định vương Ngạc giữ chức Thái uý (1391) và lần lượt, chỉ trừ các quan lại, tướng lĩnh cao cấp khác là quý tộc tôn thất nhà Trần: Trần Ngọc Cơ, Trần Ngọc Kiểm, Thượng tướng Trần Khát Chân . Năm 1397, Hồ Quý Ly cho đổi trấn Thanh Hoá làm trấn Thanh Đô, trấn Quốc Oai làm trấn Quảng Oai, trấn Đà Giang làm trấn Thiên Hưng.Và quy định cơ chế làm việc :”lộ coi phủ, phủ coi châu, châu coi huyện. Phàm những việc hộ tịch, tiền thóc, kiện tụng đều làm gộp một sổ của hộ, đến cuối năm báo lên sảnh để làm bằng mà kiểm xét”.Khu vực quanh kinh thành Thăng Long được đổi gọi là Đông Đô lộ do phủ cai quản.Sau đó Hồ Quý Ly dời đô vào An Tôn ( Tây Đô ). Chế độ Thái Thượng hoàng tạm bãi bỏ nhưng đến khi nhà Hồ thành lập, năm 1401, Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương và tự xưng la Thái Thượng Hoàng. Như vậy, từ tháng 02/1400 nhà Trần hoàn toàn bị sụp đổ, chính quyền chuyển sang tay họ Hồ . Hồ Quý Ly đã đặt lệ cử quan ở Tam Quán và Nội nhân đi vê các lộ thăm hỏi cuộc sống của nhân dân và tình hình quan lại để thăng, giáng. Năm 1402, nhà Hồ xuất quân đánh Champa, vua Champa sợ hãi dâng nộp hai vùng đất Chiêm Động và Cổ Luỹ. Năm 1404, một lần nữa nhà Hồ đánh vào Champa nhưng không có hiệu quả gi, đành phải rút quân về. b) Về quân sự : Hồ Quý Ly định lại bình chế, chỉnh đốn quân đội, tổ chức lại Quân Túc vệ, đặt thêm các hiệu quân, tăng cường kỉ luật quân đội, thải các tướng sĩ bất tài, yếu sức thay vào những tướng sĩ có sức khoẻ và am tường võ nghệ. Quân đội được biên chế thành các quân, đô, vệ đứng đầu có các Đại tướng, Đô tướng và phó Đô tướng quân. Các đơn vị đặt các chức Đại đội trưởng, Đại đội phó, Đô đốc, Đô thống, Tồng quản, Thái thú. Cấm quân có 20 vệ. Quân thường trực biên chế thành nhiều quân, mỗi quân thành nhiều vệ, mỗi vệ có 18 đội, mỗi đội có 18 người. Hồ Quý Ly tiến hành làm sổ hộ tịch để kiểm kê dân số toàn quốc, ghi tên tất cả những người con trai từ 2 tuổi trở lên, cấm ẩn lậu nhân binh nhằm tăng cường quân số với ý đồ xây dựng đạo quân một triệu người. Hồ Quý Ly chủ trương cải tiến vũ khí và trang bị, thực hiện nhiều biện pháp như mở xưởng rèn đúc vũ khí, tuyển lựa các thợ giỏi vào các quân xưởng. Nhờ vậy dưới thời Hồ Quý Ly đã chế tạo ra được những vũ khí lợi hại như súng thần cơ là một loại đại bác đầu tiên ở nước ta. Đạn đúc bằng gang, bằng đồng hoặc bằng đá, có sức xuyên phá và khả năng công phá lớn, có hiệu quả sát thương cao. Ngoài ra còn có các loại pháo nhỏ, súng bắn bằng đạn ghém hoặc đạn lửa. Trong quân đội có các đội cung tên, giáo mác, máy bắn đá, một bộ phận là pháo binh. Quân đội chia làm 12 vệ, mỗi vệ 18 đội mỗi đội 18 người do Đại tướng quân thống lĩnh. So với các triều đại trước, trang bị của quân đội nhà Hồ có một bước phát triển. Nhà Hồ còn mở xưởng đóng thuyền đinh sắt để chuẩn bị đối phó với nhà Minh đang lăm le xâm lược nước ta. Có hai thuyền chiến lớn gồm hai tầng mang tên hiệu là “ Lâu Thuyền Cổ Tải Lương” và “ Trung Tàu Tải Lương”. Tầng trên của thuyền có sàn cho quân đội cơ động chiến đấu, tầng dưới có một hệ thống mái chèo. Súng thần cơ và cổ lâu thuyền là những vũ khí và chiến thuyền mới, lợi hại của nhà Hồ. Cả nước có 4 kho quân khí. Hồ Quý Ly chủ trương xây dựng một hệ thống cứ điểm phòng thủ để chống xâm lược. Những nơi xung yếu tại các cửa biển và các sông đều có đóng cọc gỗ. Hệ thống phòng thủ kéo dài từ núi Tản Viên men theo sông Đà, sông Hồng, sông Luộc đến cửa sông Thái Bình dài gần 400km. Nhiều đồn quân chốt giữ các nơi xung yếu. c) Về luật pháp : Chỉ trong vòng bảy năm (1400 – 1407), nhà Hồ đã ban hành nhiều luật lệ và thực thi nó làm công cụ tích cực cho việc thực hiện cải cách trên tất cả các kĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá. Nhà Hồ đã có tới 30 lần ban hành các luật lệ được ghi trong thư tịch cổ. Hoạt động lập pháp được chú ý tăng cường. Nhà Hồ chủ trương tăng cường pháp trị nhằm khôi phục lại kỉ cương xã hội bị rối loạn vào cuối thời nhà Trần. Các luật lệ của nhà Hồ còn tập trung vào mục đích xây dựng và củng cố chế độ quân chủ quan liêu chuyên chế vừa mới được thiết lập còn thiếu cơ sở kinh tế – xã hội vững chắc, trấn áp tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần chống đối, chống lại các cuộc khởi nghĩa của nhân dân. Luật lệ của nhà nước Hồ vừa có sự kế thừa các quy định pháp luật thời Lý – Trần, vừa có sự phát triển cao hơn về trình độ kĩ thuật, pháp lí thể hiện ở tính cụ thể, tính chặt chẽ trong các quy định các điều luật. 2.Cải cách về kinh tế – tài chính : Năm 1396, Hồ Quý Ly ban hành chính sách phát hành tiền giấy gọi là tiền “Thông bảo hội sao”. Tiền giấy có các loại 10 đồng, 30 đồng, 1 tiền, 2 tiền, 5 tiền, 1 quan. Loại 10 đồng có hình vẽ rau rong, loại 30 đồng vẽ thuỷ ba, loại 1 tiền vẽ đám mây, loại 2 tiền vẽ con rùa, loại 3 tiền vẽ con lân, loại 5 tiền vẽ con phượng, loại 1 quan vẽ con rồng. Tất cả mọi người đều phải đem tiền đồng để đổi lấy tiền giấy. Cứ mỗi quan tiền đồng đổi đựoc 1 quan 2 tiền giấy. Cấm nhân dân không được tiêu tiền đồng. Nếu tàng trữ, tiêu dùng tiền đồng và làm giả tiền giấy thì bị tội tử hình, tài sản thành công quỹ nhà nước. Năm 1397, ban hành chính sách hạn điền. Nội dung cụ thể của chính sách này như sau : các đại vương và trưởng công chúa thì ruộng đất không bị hạn chế về số lượng, còn thứ dân không dược có quá 10 mẫu ruộng.Người nào có nhiều ruộng đất nếu có tội được phép lấy ruộng để chuộc tội, còn thừa thì phải đem nộp cho nhà nước. Năm 1401, ban hành chính sách hạn nô chiếu theo phẩm tước, cấp bậc mà được sử dụng một số lượng gia nô theo quy định của nhà nước.Số gia nô quá quy định phải đem nộp cho nhà nước. Mỗi gia nô thừa ra được nhà nước trả cho 5 quan tiền.Người nào sử dụng gia nô phải xuất trình chức thứ ba đời. Gia nô ngoại quốc thì không có hạn lệ.Các gia nô phải thích vào trán để đánh dấu.Gia nô của Nhà nước thì thích theo kiểu hoả châu(ngọc sáng có tia sáng toả ra như tia lửa) hoặc sáng vào quan Điện tiền,gia nô của công chúa thì thích kiểu dương đường ,của đại vương thích vòng đỏ,của quan nhất, nhị phẩm thích vòng đen,của quan phẩm trở xuống thích hai khuyên đen. Năm 1402, ban hành chính sách thuế mới, định lại biểu thuế đinh và ruộng đất.Về thuế ruộng thời Trần, mỗi mẫu ruộng tư thu ba thăng thóc, nay thu năm thăng. Bãi dâu thời Trần thu từ bảy đến chín quan tiền nay thu hạng nhất mỗi mẫu năm quan tiền giấy, hạng nhì thu bốn quan, hạng ba thu ba quan. Thuế nhà Trần mỗi năm mỗi đinh đóng ba quan tiền nhất loạt thì nay chiếu theo số ruộng. Người nào ruộng chỉ có năm sào thì phải đóng năm tiền giấy, từ sáu sào đến một mẫu thì nộp một quan, từ một mẫu một sào đến một mẫu năm sào thì nộp một quan năm tiền, từ một mãu sáu sào đến hai mẫu thì nộp hai quan tiền , từ hai mẫu một sào đến hai mẫu năm sào thì nộp hai quan sáu tiền, từ hai mẫu sáu trở lên thì thu ba quan tiền giấy.Đinh nam không có ruộng, trẻ con mồ côi, đàn bà hoá chồng dù có ruộng đều không phải đóng. 3.Cải cách về văn hoá - giáo dục: Nhà Hồ đã tiến hành sửa đổi nội dung, cách thức trong các kì thi. Năm 1396, xuống chiếu định cách thức thi cử nhân (thi hương ở các lộ ). Bãi bỏ phép thi viết ám tả cổ văn, dùng thể văn bốn kì. Kì thứ nhất thi một bài kinh nghĩa từ 500 chữ trở lên, có các phần phá đề, tiếp ngữ, tiểu giảng, nguyên đề, đại giảng, kết luận.Kì thứ hai thi một bài thơ Đường luật, một bài phú cổ thể hoặc thể ly tao, thể văn tuyển từ 500 chữ trở lên. Kỳ ba thì một bài chiếu dùng thể Hán, một bài chế, một bài biểu dùng thể tử lục đời Đường.Kỳ thứ tư thi một bài văn sách lấy kinh sử hay thời vụ ra đề từ 1000 chữ trở lên. Cứ năm trước thi Hương thì năm sau thi Hội (thi Tiến sĩ ), ai đỗ Tiến sĩ thì được vào dự kỳ thi Đình, làm một bài văn sách để định cao thấp. Năm 1397, Hồ Quý Ly chủ trương mở trường học ở các châu, phủ và cử các quan Giáo thụ trông coi, đôn dốc việc học tập. Nhà nước quy định số lượng ruộng đất cấp để sử dụng việc học ở các địa phương, gọi là học điền.Tuỳ theo quy mô từng địa phương mà số ruộng được cấp từ 12 đến 15 mẫu. Năm 1404, trong các kỳ thi hương có thêm kỳ thi môn toán nên gồm tổng số là 5 kỳ thi. Nhà nước giao trách nhiệm cho các quan, các lộ, phủ, châu phải tuyển chọn người giỏi đưa vào triều sát hạch để bổ sung. Hồ Quý Ly rất đề cao chữ Nôm. Năm 1395, Hồ Quý Ly đã dịch thiên võ dật ra chữ Nôm để dạy nhà vua. Năm 1396, dịch kinh thi để dạy cho các cung phi và cung nhân, làm sách thi nghĩa bằng chữ Nôm để dạy cho các hậu phi, cung nhân. Hồ Quý Ly đã làm sách “Minh đạo”( con đường sáng) để bày tỏ quan điểm của ông về Nho giáo, hạ thấp vai trò của Khổng tử, phê phán Nho gia là những người “ học rộng nhưng tài kém, không quan thiết đến sự tình (tức phục vụ thực tiễn cuộc sống), chỉ chuyên việc lấy cắp văn chương của người xưa”. Qua những cải cách của Hồ Quý Ly về giáo dục, thi cử , nhà sử học Phan Huy Chú ở thế kỷ XIX có nhận xét :” Phép khoa cử đời Trần đến đây mới đủ văn tự bốn trường, đến nay còn theo không thay đổi được. Chọn nhân tài bằng văn học không gì hơn phép ấy “ Trớch từ "Lịch triều hiến chương loại chớ" khoa mục chớ, tập 2. NXB KH & XH, trang 154. . Đối với Phật giáo, năm 1396 , Hồ Quý Ly bắt tất cả các nhà sư chưa đến 50 tuổi phải hoàn tục để lao động . Còn lại phải sát hạch, ai thông hiểu đạo phật mới được làm sư. Như vậy, bằng tài năng của mình, ngay từ khi lên ngôi, để cứu vãn tình hình đất nước cuối đời Trần, Hồ Quý Ly đã mạnh dạn tiến hành cải cách đất nước một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội . V.Đánh giá về Hồ Quý Ly và cuộc cải cách: 1.Đánh giá về Hồ Quý Ly: Dõi theo tiến trình lịch sử chúng ta đã phần nào biết được cuộc đời, thân thế và các hoạt động của Hồ Quý Ly kể từ khi còn là một chức quan nhỏ đến lúc ông lên làm vua, thành lập nên nhà Hồ. Hoạt động đáng quan tâm nhất của Hồ Quý Ly đó là ông đã thực hiện một cuộc cải cách táo bạo. Nghiên cứu về Hồ Quý Ly cũ8ng đã có rất nhiều nhà sử học đánh giá về ông với nhiều quan điểm, khía cạnh khác nhau. Nhưng tất cả đều phải công nhận rằng Hồ Quý Ly là một con người hiếm thấy trong lịch sử . Tham khảo cuốn sách viết về Hồ Quý Ly của Phó giáo sư - Tiến sĩ sử học Nguyễn Danh Phiệt đã viết rằng Hồ Quý Ly là một nhân vật lịch sử tầm cỡ, một nhân cách đặc biệt, một nhà cải cách lớn, tuy ông còn phạm một số sai lầm, thiếu sót. Hồ Quý Ly bước vào vương triêù Trần bắt đầu từ chức Võ quan nhỏ, ra khỏi vương triêù Trần với cương vị Hoàng đế và tiếp đến là Thượng Hoàng của vương triều Hồ. Thế nhưng cái tầm cỡ của ông không phải ở chức tước phẩm hàm, ở ngôi cao tuyệt đỉnh trong bộ máy nhà nước quân chủ trung ương tập quyền cuối Trần và Hồ mà cái tầm cỡ đó được phản ánh sâu sắc qua các tác động của ông đến thời thế lúc bấy giờ. Sau khi Trần Nghệ Tông qua đời mình ông chinh chiến trên chính trường của một thời đầy sóng gió. Nhưng nhờ tài năng của cá nhân ở vốn tri thức vô tận mà ông đã hoà nhập được vào thế giới quan lại nơi cung đình đầy rẫy những vương hầu quyền uy. Vua Trẩn Nghệ Tông đã ban cho ông lá cờ đề bốn chữ “ Văn võ toàn tài” cũng thể hiện rằng Hồ Quý Ly có năng lực vựơt trội so với người đương thời. Thành công của Hồ Quý Ly trong quá trình hoạt động là đã thắng quý tộc Trần, đẩy lùi quân Chiêm và chỉ chịu thất bại trước quân xâm lược nhà Minh. Qua đó, chúng ta có thể khẳng định rằng Hồ Quý Ly là nhân vật lịch sử tầm cỡ. Trong tình thế nước nhà lâm vào khủng hoảng loạn lạc, bế tắc như vậy. Hồ Quý Ly đã không lùi bước mà ngược lại ông giám nhìn thẳng vào sự thật, dấn thân vào can thiệp và quyết tâm cải cách tình trạng hiện tại. Điều này thể hiện ông vốn có một hoài bão lớn, chí khí hơn người, ông không phải là loại người chỉ nghĩ đến vinh hoa phú quý, bổng lộc, tiền tài danh vọng. Mà những việc làm của ông đều xuất phát từ mục tiêu cứu nước. Ông đă dũng cảm đương đầu với bao khó khăn, trở ngại và bao mạo hiểm. Để thực hiện các chủ trương, chính sách đã đặt ra, Hồ Quý Ly đã áp dụng những biện pháp cứng rắn, cương quyết đến tàn bạo. Qua việc ra tay đối với những ông vua hèn yếu cuối triều Trần mở đường cho lịch sử tiến lên, chúng ta thấy được chữ “ Trung “ của đạo Nho mà ông là đệ tử trung thành. Trong cuộc chống giặc ngoại xâm, Hồ Quý Ly đă thể hiện là một người có lòng trung với nước hết mình. Ông tiêu diệt bất cứ ai chống lại hoặc mưu toan chống lại mình. Ông không chịu đầu hàng, Hồ Quý Ly là một người kiên định, nhất quán trong tư duy và hành động, sử dụng những biện pháp kiên quyết có lúc đến tàn bạo vì hoài bão cứu nước. Ông xứng đáng là một nhân vật lịch sử tầm cỡ, một nhân cách đặc biệt. Tuy nhiên, chính ông đă tụ nhận :” Kim âu kiến khuyết” có nghĩa là chiếc âu vàng bị sứt mẻ. Tức bên cạnh những điểm tích cực thì ông vẫn còn những điểm hạn chế. Mặc dù ông là một nhà quân sự nhưng không có tài quân sự, kết cục cuối cùng đă để nước ta rơi vào ách đô hộ của nhà Minh. Hồ Quý Ly đã phải ân hận suốt đời và chịu trách nhiệm trước lịch sử dân tộc. 2. Nguyên nhân thất bại, kết quả và bài học kinh nghiệm của cuộc cải cách: a.Nguyên nhân thất bại: Chúng ta phải khẳng định Hồ Quý Ly là một nhà cải cách táo bạo và cương quyết. Ông đã ban hành nhiều chính sách và biện pháp cải cách trên nhiều phương diện. Cuộc cải cách đã thành công trong hạn chế, tuy được thực hiện một cách toàn diện, sâu sắc song do nhiều hoàn cảnh nên cuộc cải cách đã bị thất bại. Cac Mac đã viết:” Con người làm ra lịch sử của chính mình nhưng không phải làm theo ý muốn tuỳ tiện của mình, trong những điều kiện tự mình chọn lấy, mà là trong những điều kiện trực tiếp có trước mắt, đã cho sẵn và do quá khứ để lại”. Liên hệ đến Hồ Quý Ly, dù ông đã tiến hành cải cách tiến bộ đến đâu cũng không thể vượt ra khỏi khuôn khổ của thời đại và phải chịu sự chi phối của di sản do quá khứ để lại. Đó lá do một xã hội không ổn định, do những mâu thuẫn phát sinh từ quá trình vận động phát triển của cơ sở kinh tế, chủ yếu là các loại hình sở hữu ruộng đất gây nên, do bộ máy nhà nước quân chủ quý tộc già cỗi, tha hoá , bất lực trong điều chỉnh, quản lí, xây dựng đất nước và tổ chức chiến đấu giữ nước. Do hiểm hoạ ngoại xâm đã hiện ra trước mắt đang ngày một đến gần. Chính vì những lí do đó mà đã gây cản trở cho nuộc cải cách của Hồ Quý Ly. b.Kết quả: Cải cách của Hồ Quý Ly xét về nội dung nhằm thực hiện hai mục tiêu là củng cố và tăng cường chế độ quân chủ tập quyền, giải quyết các mâu thuẫn kinh tế - xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu lịch sử do cuộc khủng hoảng đặt ra. Qua cuộc cải cách chứng tỏ Hồ Quý Ly đã nhận thức được những nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng cuối Trần và mạnh dạn tiến hành các chính sách và biện pháp cải cách. Ông đã đảm nhận vai trò người khởi xướng, tổ chức và lãnh đạo công cuộc cải cách để thực hiện mục tiêu, định hướng đã đề ra. Có thể khẳng định Hồ Quý Ly đã đóng vai trò là người mở đầu một thời điểm cải cách quan trọng trong lịch sử Trung đại Việt Nam. Cuộc cải cách đã loại bỏ được tầng lớp quý tộc Trần ra khỏi bộ máy nhà nước, ngày càng bổ sung được một đội ngũ quan liêu - nho sĩ mới vào chính quyền, bộ máy hành chính và quan lại từ trung ương đến dịa phương được chấn chỉnh lại làm cho chế độ cai trị mang tính pháp trị cao hơn. Do đó đã có tác dụng làm chuyển dần thiết chế chính trị từ chế độ quân chủ quý tộc sang chế độ quân chủ quan liêu. Tuy chưa xây dựng được một thiết chế quân chủ quan liêu hoàn chỉnh dưới Triều Hồ, do hoàn cảnh khách quan cuộc xâm lược của nhà Minh (cuối 1406 - đầu 1407) đã làm cho công cuộc cải cách bị bỏ dở, song nó sẽ dược hoàn chỉnh dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460 -1497). Như vậy, trong điều kiện lịch sử Việt Nam bấy giờ, mục tiêu, định hướng và kết quả của công cuộc cải cách là đúng đắn nhằm đáp ứng những yêu cầu khách quan trong xu hướng phát triển nội tại của nước ta đang trên bước đường đi đến xác lập chế độ phong kiến trung ương tập quyền chuyên chế. Đây cũng là xu thế chung của thời đại. Những cải cách của Hồ Quý Ly không chỉ nhằm làm thay đổi thiết chế chính trị quân chủ quý tộc đã lâm vào con đường khủng hoảng, đã tạo được sự chuyển mình đó bước sang thiết chế quân chủ quan liêu, phong kiến tập quyền mà còn xoá bỏ loại hình kiến trúc điền trang đã trở nên lạc hậu, cản trở sự phát triển sức sản suất và yêu cầu củng cố quốc gia thống nhất. Xét về mặt cụ thể: chính sách hạn điền đã ngăn chặn khuynh hướng phát triển của hình thức sở hữu phong kiến lớn, xác lập và khẳng định trên thực tế quyền sở hữu tối cao của Nhà nước về ruộng đất, cơ sở kinh tế - xã hội mới vững chắc hơn..Thuế đinh của Hồ Quý Ly công bằng hơn thời Trần, thể hiện tư tưởng khoan dung của nhà nước đối với dân nghèo: “ Đó là chính sách khoan hồng với dân “ nhà sử học Ngô Thời Sĩ đã nhận xét. Thuế ruộng bãi dâu cũng giảm từ 50 - 60% so với thời Trần, tạo điều kiện cho thủ công nghiệp dân gian phát triển. Chính sách hạn nô cùng với chính sách hạn điền không những đánh mạnh vào cơ cấu kinh tế của quý tộc, cơ cấu kinh tế xã hội của nhà nước quân chủ quý tộc Trần đã khủng hoảng nghiêm trọng, mà còn là biện pháp tích cực ngăn chặn quá trình nông nô hoá đang ngày càng gia tăng trong xã hội, bảo đảm quyền kiểm soát dân đinh của vương triều mới, củng cố quyền lực của Nhà Hồ. Nhà nước cải cách trên lĩnh vực văn hoá - giáo dục của Hồ Quý Ly và Nhà Hồ đã thể hiện tư tưởng tiến bộ trong việc xây dựng một nền văn hoá- giáo dục mang bản sắc dân tộc Việt Nam, gắn liền với nhu cầu thực tiễn của xã hội lúc bấy giờ . Qua những cải cách của Hồ Quý Ly về nhiều mặt cho thấy ông là một nhà cải cách lớn, có lòng yêu nước, ý thức tự cường, tinh thần dân tộc sâu sắc, kiên quyết chống giặc ngoại xâm để bảo vệ Tổ quốc . Tuy nhiên, cuộc cải cách của Hồ Quý Ly còn bộc lộ một số hạn chế quan trọng, nhất là trong quá trình thực hiện thiếu triệt để ở một số chính sách như : hạn điền trang, trong mối quan hệ giữa hạn nô với giải phóng sản xuất, trong chính sách phát hành tiền giấy ít có hiệu quả, trong chủ trương chấp nhận nhưng có hạn chế số lượng ruộng đất (không quá 10 mẫu) của “ thứ dân” và quan lại ( trừ Đại vương, trưởng công chúa). Vì thế đã hạn chế sự phát triển của chế độ tư hữu ruộng đất là chưa phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử đương thời. Mặc dù do những hạn chế của điều kiện và hoàn cảnh khi xây dựng một Nhà nước, một chế độ trung ương tập quyền mà chưa tạo nên được một cơ sở kinh tế - xã hội mới. Công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly được thể hiện trong hoàn cảnh lịch sử đầy khó khăn, phức tạp, vừa phải giải quyết cuộc khủng hoảng của xã hội trên nhiều mặt, vừa phải đối phó với nạn ngoại xâm đang đến gần và sự chống đối quyết liệt của quý tộc, tôn thất nhà Trần, kể cả hành động tiêu diệt Hồ Quý Ly. Nhà nước hạn chế trong công cuộc cải cách đã tác động xấu đến khả năng thu phục nhân tâm và đoàn kết toàn dân để chống giặc ngoại xâm của nhà Hồ, cùng với những sai lầm trong tổ chức và chỉ đạo chiến tranh, trong cả chiến lược và chiến thuật, không tổ chức và thực hiện được một cuộc chiến tranh nhân dân. Bởi vậy, chỉ sau hơn nửa năm ( cuối 1406 - đầu 1407) quân Minh đã tiến hành xâm lược, cuộc kháng chiến do nhà Hồ lãnh đạo đã thất bại thảm hại , kéo theo sự sụp đổ của vương triều Hồ và kết thúc cuộc cải cách dang dở của Hồ Quý Ly. Chính vì cuộc xâm lược của nhà Minh là một nhân tố bên ngoài góp phần làm cho công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly nhanh chóng bị thất bại. c.Bài học kinh nghiệm: Sự thất bại trong cuộc cải cách của Hồ Quý Ly cũng là một bài học lớn, quý giá mà các nhà cải cách sau này cần phải thấm nhuần và rút kinh nghiệm. Tuy rằng các cuộc cải cách đựơc thực hiện đều xuất phát từ những mục tiêu có lợi cho dân tộc, nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng bế tắc lúc bấy giờ. Thế nhưng cũng phải có các chính sách, biện pháp cho phù hợp với hoàn cảnh tiêng của từng thời kì lịch sử. Để thực hiện được điều đó thì đòi hỏi người đứng ra lãnh đạo cũng phải là một người xuất chúng, có tài năng, ý chí và đặc biệt là có tinh thần dân tộc, tự chủ, tự cường. Đồng thời, cũng cần tận dụng được tinh thần ủng hộ của nhân dân để đoàn kết tạo nên sức mạnh cả về tinh thần cũng như vật lực phục vụ cho cuộc cải cách được thành công. Có lẽ, lấy lòng dân là bài học kinh nghiệm sâu sắc nhất rút ra từ cuộc cải cách của Hồ Quý Ly. Vì Hồ Quý Ly đã không làm được điều đó nên phần nào đã dẫn đến thất bại. Đặc biệt là khi giặc ngoại xâm đến trong tình cảnh cuộc cải cách còn dang dở nên không tập hợp được lực lượng, thu phục được lòng dân, tinh thần cách mạng dũng cảm của dân. Đây cũng là một bài học chính. Hơn nữa, trong quá trình cải cách, phát triển đất nước, phải kết hợp chặt chẽ giữa các lĩnh vực với nhau như kinh tế với chính trị, đặc biệt là với an ninh quốc phòng, về mẵt chuẩn bị lực lượng, vũ khí trong quân đội để sẵn sàng chống giặc ngoại xâm và các thế lực thù địch khi cần thiết. Có như thế thì công tác tổ chức và chỉ đạo chiến lựơc chiến tranh mới có kết quả tốt đẹp. Tuy cải cách của Hồ Quý Ly đã thất bại nhưng chúng ta phải khẳng định lại rằng Hồ Quý Ly là một nhà cải cách lớn, ông đã đóng góp không ít công sức cho sự nghiệp xây dựng đất nước vào thời kì lịch sử quan trọng đó. Điều này đã được nhiều nhà sử học ghi nhận và các thế hệ sau biết đến, khâm phục và cảm kích. C. Kết luận Cải cách - đó là một biện pháp cần thiết và đáp ứng được tình thế lịch sử nhất mỗi khi đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng, duy tân của thời đại. Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly là một điển hình trong số những cuộc cải cách khác trong lịch sử Trung đại Việt Nam. Cuộc cải cách đó tuy thất bại nhưng nó đã dành được nhiều thành tựu đáng kể và để lại nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc. Qua đây, chúng ta cũng khẳng định được Hồ Quý Ly quả là một nhân vật lịch sử tầm cỡ hiếm thấy trong sử sách, một nhà cải cách lớn. Ông đã tiến hành nhiều biện pháp để cải cách về chính trị, quân sự, luật pháp, kinh tế, về tài chính và văn hoá - giáo dục, thi cử. Tuy vậy, cuộc cải cách đã dở dang do nhiều lí do về khách quan và chủ quan vào cuối thời Trần, khi quân Minh tiến vào xâm lược nước ta. Trong lịch sử Trung đại Việt Nam đã có rất nhiều cuộc cải cách lớn được tiến hành. Nhiều cuộc cải cách đã thành công và có tác dụng tích cực đến sự phát triển của đất nước, sự chuyển mình của dân tộc, nổi bật là cuộc cải cách của Khúc Hạo, của Lê Thánh Tông và Quang Trung. Còn riêng cuộc cải cách của Hồ Quý Ly thì bị thất bại, mặc dù có mục tiêu, định hướng đúng đắn nhưng lại do có nhiều hạn chế trong nội dung, biện pháp thực hiện và khó khăn khách quan. Cũng có cuộc cải cách không có tác dụng với tiến trình đi lên của đất nước, dân tộc. Ngược lại còn làm cho tình hình trở nên xấu đi, trì trệ, lạc hậu thêm như cuộc cải cách của Minh Mạng do mục tiêu, định hướng cải cách không xuất phát từ việc đáp ứng yêu cầu của lịch sử mà vì mục tiêu bảo vệ, cũng cố chế độ quân chủ - chuyên chế đã lỗi thời Qua tất cả các cuộc cải cách đó dù thành công hay thất bại cũng đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý giá. Đó là để tiến hành cải cách đạt kết quả thành công thì phải có mục tiêu, định hướng đúng, nội dung của cuộc cải cách phải toàn diện trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, phải phù hợp với xu thế thời đại, yêu cầu của đất nước, nguyện vọng của nhân dân; phải xuất phát và phù hợp với điều kiện thực tiễn, biết kế thừa và phát huy truyền thống của dân tộc,đặc điểm của đất nước, và lấy kinh nghiệm của quá khứ để tránh khỏi sai lầm, thiếu sót. Từ đó phải có bước đi, hình thức và phương thức thực hiện đúng, thích hợp. Sau cả một quá trình chống giặc ngoại xâm triền miên, liên tục thì trên đất nước Việt Nam đã đến lúc không còn tiếng súng của chiến tranh. Dân tộc ta bắt tay vào công cuộc khôi phục và xây dựng đất nước. Đặc biệt, từ 1986 Đảng và Nhà nước ta đề ra công cuộc đổi mới đất nước. Cho đến nay, chúng ta đã và đang gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng, đưa dân tộc thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, trì trệ, bước vào thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, từng bước làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Để đạt được kết quả đó là nhờ Đảng cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời cũng đã thể hiện sứ mệnh lịch sử to lớn của mình, khẳng định vị trí của mình là đội ngũ tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam. Đảng đã biết kế thừa và vận dụng những bài học kinh nghiệm của các cuộc cải cách trong lịch sử. Đảng đã kiên định chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm kim chỉ nam cho hoạt động .Đảng đã kiên định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đảng đã vạch ra các chủ trương, đường lối phù hợp với quy luật, với thực tế Việt Nam; phát huy sức mạnh của toàn dân, mở rộng mối quan hệ quốc tế để không ngừng học hỏi, trao đổi với các nước bạn về mọi lĩnh vực, đặc biệt là các thành tựu của khoa học công nghệ Đồng thời chúng ta cũng tham gia vào nhiều tổ chức mang tính chất đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng phát triển, giữ vững hoà bình thế giới như tổ chức khu vực ASEAN, tổ chức thương mại Thế giới WTO để từ đó tăng cường phát triển kinh tế đất nước và giải quyết các vấn đề khác một cách đúng đắn, bằng con đuờng hoà bình, hữu nghị. Giờ đây Việt Nam đã trở thành một nước độc lập hoàn toàn, có quyền tự quyết mọi việc của dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ. Việt Nam là một nước Xã Hội Chủ Nghĩa kiên định con đường Chủ Nghĩa Xã Hội, xây dựng một nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần, một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, hoà nhập mà không hoà tan, kết hợp với việc xây dựng an ninh - quốc phòng, y tế, giáo dục thường xuyên đổi mới, và coi đó là những quốc sách hàng đầu để phát triển đất nước. Đây cũng chính là nội dung quan trọng mà trong đại hội X vừa qua đã khẳng định. Lời dạy của Bác Hồ còn mãi hôm nay và cho cả mai sau.”Các vua hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Đó là một lời khích lệ có gia trị vĩnh cữu để các thế hệ nối tiếp nhau luôn phấn đấu học tập, rèn luyện xây dựng và đổi mới sao cho đất nước ngày càng giàu mạnh, cùng sánh vai với các cường quốc năm châu ./. Tài liệu tham khảo 1.Đại cương lịch sử Việt Nam - Tập 1, NXB Giáo Dục 2.Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Giáo Dục 3.Nguyễn Danh Phiệt “Hồ Quý Ly”, NXB Văn hoá - Thông tin 4. “Một số chuyên đề lịch sử Việt Nam” , NXB - ĐHQG Hà Nội 5. “Đại Việt sử kí toàn thư” - Ngô Sĩ Liên, NXB KHXH, Hà Nội, 1972 6.Phác thảo lịch sử Việt Nam - TS Cao Văn Liên Mục lục A. Mở đầu 1 B.Nội dung ...4 I.Nhận thức lí luận.4 II.Một vài nét về Hồ Quý Ly và triều Hồ..6 III.Tình hình xã hội Việt Nam cuối XIV8 IV.Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly....13 V.Đánh giá về Hồ Quý Ly và cuộc cải cách...17 C.Kết luận .........23

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0328.doc
Tài liệu liên quan