Đề tài Tổ chức công ty Bảo hiểm ở thị trường Bảo hiểm Việt Nam hiện nay

Mặc dù đã ra đời và hoạt động được 35 năm nhưng thị trường Bảo hiểm Việt Nam vẫn còn ở dạng tiềm năng, quy mô thị trường còn nhỏ bé, nhiều khu vực thị trường còn bỏ trống, sản phẩm Bảo hiểm chưa thực sự phong phú đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tham gia. Vì vậy khi thành lập công ty Bảo hiểm chúng ta cần phải lưu ý những yếu điểm trên để phát triển công ty một cách đúng hướng. Ngoài ra còn phải tạo uy tín tốt đối với thị trường do có công ty Bảo hiểm nước ngoài tham gia. Sự cạnh tranh rất gay go nhưng như thế mới đòi hỏi chúng ta thực sự vươn lên để đạt những kết qủa tốt. Như vậy cùng với công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá của đất nước, chúng ta có quyền hy vọng vào sự phát triển của công ty Bảo hiểm Việt Nam cũng như thị trường Bảo hiểm.

doc30 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1393 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổ chức công ty Bảo hiểm ở thị trường Bảo hiểm Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ông ty Bảo hiểm. Có công ty kinh doanh chuyên ngành, có công ty kinh doanh tổng hợp làm nhiều loại hình một lúc. Nhìn chung, cung của Bảo hiểm trong thời gian đầu thường nhỏ hơn cầu, nhưng sau đó vì tính sinh lợi cao, số công ty Bảo hiểm tăng lên nhanh chóng và dẫn đến cung sẽ lớn hơn cầu. Sự tăng nhanh về số lượng công ty Bảo hiểm càng làm cho cung tăng nhanh. Còn cầu Bảo hiểm chính là nhu cầu về các dịch vụ Bảo hiểm của dân cư. Song hoạt động của Bảo hiểm lại là hoạt động có đặc thù khác một số loại hoạt động dịch vụ khác, người tham gia Bảo hiểm có nhu cầu rất đa dạng và thay đổi tuỳ theo các đIều kiện cụ thể. Chẳng hạn, nhu cầu Bảo hiểm cho các công ty kinh doanh phụ thuộc chặt chẽ vào sự tăng trưởng kinh tế, còn nhu cầu Bảo hiểm của cá nhân chịu ảnh hưởng rõ rệt của mức thu nhập và trình độ dân trí. Khi cung và cầu gặp nhau tại một điểm nào đó hình thành nên phí Bảo hiểm. Khi thị trường chưa có sự cạnh tranh, phí Bảo hiểm phụ thuộc vào mức độ độc quyền, hoặc do Nhà nước quy định. Điều này ít có tác dụng kích thích cầu. Khi chuyển sang cơ chế thị trường cạnh tranh trở nên tự do, do đó xuất hiện nhiều công ty Bảo hiểm nên phí Bảo hiểm dần dần trở lại trạng thái ban đầu của giá chấp nhận trên thị trường cạnh tranh. 2. Cạnh tranh và liên kết Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là điều không thể tránh khỏi và là động lực của sự phát triển bởi nó buộc các công ty Bảo hiểm phải không ngừng đổi mới chất lượng phục vụ, giá cả. Như vậy, cạnh tranh vô hình chung đã giúp các công ty Bảo hiểm tự hoàn thiện mình hơn. Tuy nhiên vì mục tiêu cao nhất là lợi nhuận nên các công ty có thể tìm mọi cách, mọi thủ đoạn để lợi mình, hại người. Làm như vậy không phải là sự cạnh tranh lành mạnh và nó không thể tồn tại lâu dài. Song song với cạnh tranh là sự liên kết. Có thể nói khi cạnh tranh càng khốc liệt bao nhiêu thì liên kết càng chặt chẽ bấy nhiêu bởi các doanh nghiệp nhỏ muốn tồn tại được thì tất yếu phải liên kết lại với nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp cũng như các doanh nghiệp nhỏ phải liên kết với các doanh nghiệp lớn nhằm đảm bảo an toàn trong cạnh tranh. Không thể loại trừ trường hợp các doanh nghiệp mạnh, cạnh tranh bất phân thắng bại, gây tổn hại cho cả hai bên mà cuối cùng lại không được gì thì biện pháp hữu hiệu nhất là liên kết với nhau làm tăng khả năng sức mạnh. 3. Thị phần của các công ty Bảo hiểm Thị phần của công ty Bảo hiểm chính là phần chiếm lĩnh thị trường công ty, là kết quả của hoạt động cạnh tranhvới công ty khác trong hoạt động của mình. Các công ty luôn mong muốn chiếm lĩnh thị trường của các công ty khác, làm tăng thị phần của công ty mình. Muốn vậy, các công ty phải làm tốt công tác như: phải cung cấp chất lượng dịch vụ cao hơn, phí Bảo hiểm phù hợp hơn, mua Bảo hiểm thuận lợi hơn, quảng cáo mạnh hơn.. Lãnh đạo của công ty cần phân tích các chỉ tiêu giữa các công ty khác với công ty mình đẻe có biện pháp khắc phục các nhược điểm. Phần 2: Thị trường Bảo hiểm Việt Nam I. lịch sử ra đời và phát triển của thị trường Bảo hiểm Việt Nam Bảo hiểm Việt Nam ra đời muộn hơn so với các nước khác trên thế giới, tuy nhiên nó đã có mầm mống từ thời kỳ Pháp thuộc. Mãi đến năm 1965 Thủ tướng chính phủ mới ra quyết định số 179 CP thành lập Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam, nó mở ra một thời kỳ mới của thị trường Bảo hiểm. Nhưng trong một thời gian dài, Nhà nước ta duy trì chế độ độc quyền đối với hoạt động kinh doanh Bảo hiểm. Do nhu cầu đổi mới trong đời sống và kinh tế nói chung và ngành Bảo hiểm nói riêng nên ngày 18/12/1993 Chính phủ đã ban hành nghị định 100 CP quy định về hoạt động kinh doanh Bảo hiểm. Từ chỗ có một công ty kinh doanh trên thị trường Bảo hiểm( Bảo Việt) thì sau nghị định 100 CP đã xuất hiện hàng loạt các công ty kinh doanh khiến cho thị trường Bảo hiểm Việt Nam trở nên sôi động và nhịp nhàng hơn bao giờ hết. Do đó, nghị định 100 CP là một bước ngoặt trong lịch sử phát triển của thị trường Bảo hiểm Việt Nam. 1. Thị trường Bảo hiểm Việt Nam trước nghị định 100 CP Hoạt động Bảo hiểm ở Việt Nam xuất hiện từ khi Pháp có mặt ở Việt Nam nhưng đến khi đất nước bị chia cắt làm hai miền thì hai khu vực này có sự phát triển khác nhau. Ơ miền Bắc chỉ có duy nhất một công ty Bảo hiểm là Bảo Việt hoạt động trong lĩnh vực hàng hải. Ơ miền Nam sôi động hơn với sự hoạt động của 51 công ty Bảo hiểm hoạt động trên mọi lĩnh vực. Sau năm 1975, miền Nam được giải phóng, tất cả các công ty Bảo hiểm của chế độ cũ bị giải thể, cơ sở vật chất và nhân viên giao hết cho Bộ tài chính. Vượt qua những khó khăn và thử thách, Bảo Việt đã trở thành một tập đoàn Bảo hiểm mạnh nhất ở Việt Nam. Với một mạng lưới dày đặc ở 61 tỉnh thành, đội ngũ cán bộ có trình độ, có năng lực, có mối quan hệ quốc tế. Do duy trì cơ chế kế hoạch hoá tập trung và cùng với cơ chế này là sự độc quyền của Bảo Việt trong hoạt động kinh doanh Bảo hiểm. Do vậy trên thị trường Bảo hiểm Việt Nam trong giai đoạn này chỉ tồn tại duy nhất một công ty Bảo hiểm- đó là Bảo Việt. Vì vậy, trong một thời gian dài người dân Việt Nam chỉ biết đến Bảo hiểm thông qua Bảo Việt. 2. Thị trường Bảo hiểm Việt Nam sau nghị định 100 CP Với đường lối mở cửa thì việc Nhà nước độc quyền trong lĩnh vực kinh doanh Bảo hiểm là khó có thể được. Do đó, ngày 18/12/1993 nghị định 100 CP của Chính phủ ra đời cho phép các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài được thành lập công ty Bảo hiểm, tái Bảo hiểm, môi giới Bảo hiểm; mở chi nhánh, văn phòng đại diện của công ty Bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam. Nó mở ra một thời kỳ mới cho thị trường Bảo hiểm Việt Nam. Đích thực đây mới là thị trường Bảo hiểm vì ở đây bắt đầu có sự cạnh tranh giữa các công ty với nhau. Tuy nhiên nghị định này cho phép các công ty Bảo hiểm trong nước được phép mở trước, công ty Bảo hiểm nước ngoài mở chi nhánh và mở công ty muộn hơn. Chính vì vậy cho đến năm 1997 mới chỉ có gần 30 công ty Bảo hiểm nước ngoàI đặt văn phòng đại diện nhưng chưa có công ty Bảo hiểm nước ngoài nào mở được chi nhánh, thành lập công ty Bảo hiểm tại Việt Nam. Vào thời điểm đó mới chỉ có 4 công ty Bảo hiểm gốc của Việt Nam , đó là: Bảo Việt, Bảo Minh, PJICO, Bảo Long và công ty tái Bảo hiểm quốc gia ViNaRe cùng với sự góp mặt của gần 30 văn phòng đại diện của các công ty Bảo hiểm nước ngoài đã tạo nên một thị trường sôi động hơn. Thị trường Bảo hiểm Việt Nam chỉ thực sự sôi động kể từ năm 1998 bởi trên thị trường xuất hiện hàng loạt các công ty mà đặc biệt là sự góp mặt của các tập đoàn Bảo hiểm nước ngoàI có uy tín. Đó là công ty liên doanh Bảo hiểm quốc tế Việt Nam( VIA), công ty liên doanh Bảo hiểm liên hiệp( UIC), công ty liên doanh môI giới Bảo hiểm Bảo Việt- INHCAPE, công ty liên doanh Bảo hiểm Việt- UC, công ty TNHH Bảo hiểm ALLIANZ/AFG, công ty TNHH Bảo hiểm Chinfon- Manufile. Theo số liệu thống kê hiện có hơn 40 công ty Bảo hiểm có tiếng của Anh, Mỹ, Nhật, Uc,… đã mở văn phòng đạI diện tạI Việt Nam và đều có nhu cầu mở chi nhánh, thành lập công ty 100% vốn nước ngoài. Điều này cho thấy trong tương lai không xa thị trường Bảo hiểm Việt Nam sẽ ngày càng sôi động hơn, tạo ra một thị trường khá mới mẻ nhưng vô cùng khắc nghiệt buộc các doanh nghiệp trong nước phải tự hoàn thiện mình, phát huy sức mạnh để đủ sức tồn tại, phát triển trong môi trường cạnh tranh. Tóm lại, ta thấy trong vòng có khoảng 5 năm từ năm 1993- 1998 mà thị trường Bảo hiểm Việt Nam sôi động hơn rất nhiều. II. các loạI hình công ty Bảo hiểm trên thị trường Bảo hiểm Việt Nam Có nhiều tiêu thức để phân chia, căn cứ vào nguồn vố chủ sở hữu thì có các loại hình công ty Bảo hiểm sau hoạt động trên thị trường Việt Nam: 1. Công ty Bảo hiểm Nhà nước a. Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam ( Bảo Việt) Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam_ Bảo Việt là một doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh trong lĩnh vực Bảo hiểm, hoạt động từ ngày 15/1/1965 theo quyết định số 179 CP ngày 17/12/1964 của Thủ tướng chính phủ nước Việt Nam. Từ năm 1981, Bảo Việt đã có các tổ chức Bảo hiểm trực thuộc đặt tại các tỉnh thành trong cả nước để thực hiện các dịch vụ Bảo hiểm. Ngày 17/2/1989, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ra quyết định số 27/ TCQĐ/ TCCB chuyển công ty Bảo hiểm Việt Nam thành Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam, ngày 01/03/1996, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ra quyết định số 145/ TC/ QĐ- TCCB về việc thành lập lại tổng công ty. Ngày 08/10/1996, Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 745 xếp hạng đặc biệt cho Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam. Hơn 30 năm hoạt động, Bảo Việt đã từng bước phát triển toàn diện và mạnh mẽ với hơn 62 công ty thành viên khu vực, mạng lưới đại lý, Boả Việt trở thành một doanh nghiệp uy tín trên thị trường Bảo hiểm Việt Nam, chiếm vị trí chủ đạo với 64% thị phần Bảo hiểm Việt Nam. Với khả năng tài chính lớn mạnh, với những kinh nghiệm lâu năm, năm 1997, Bảo Việt là doanh nghiệp duy nhất được phép kinh doanh cả Bảo hiểm nhân thọ và Bảo hiểm phi nhân thọ. Với trên 40 nghiệp vụ Bảo hiểm, Bảo Việt đã đáp ứng không chỉ nhu cầu Bảo hiểm của đông đảo tầng lớp dân cư mà còn của các nhà đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực: Bảo hiểm con người, Bảo hiểm Tài sản, Bảo hiểm Trách nhiệm dân sự. Kết quả kinh doanh của Bảo Việt đã khẳng định Bảo Việt tiếp tục giữ vị trí hàng đầu trên thị trường Bảo hiểm Việt Nam. b. Công ty Bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh ( Bảo Minh) Với yêu cầu phải mở rộng thi trường Bảo hiểm Việt Nam, hơn nữa để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng, Bộ Tài chính đã có quyết định thành lập số 1164/ TC/ QĐ- TCCB, ngày 28/11/1994 thành lập công ty Bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh ( Bảo Minh). Kể từ năm 1994, Bảo Minh được tách khỏi Bảo Việt và trở thành một công ty độc lập trực thuộc Bộ Tài chính, nó cũng cõ chức năng, quyền han và lĩnh vực hoạt động như Bảo Việt, có quyền kinh doanh tất cả các loại hình Bảo hiểm trên mọi lĩnh vực, và co quyền thành lập các chi nhánh, văn phòng đại diện ở bất cứ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam cũng như ở nước ngoài. Mới chỉ mấy năm hoạt động, nhưng do là một công ty năng động, quan tâm đào tạo cán bộ, kết quả kinh doanh của Boả Minh khá cao và năm sau cao hơn năm trước. Năm 1995, doanh thu đạt 160 tỷ VNĐ, năm 1996, đạt 260 tỷ VNĐ. Cùng với kết quả đó, thị phần của Bảo Minh trên thị trường Bảo hiểm Việt Nam cũng tăng dần qua các năm: năm 1995 chiếm 15,4%; năm 11996, con số đó là 22,5% và năm 1997 là 20,88%. Năm 1996, Bảo Minh đạt mức tăng trưởng 60% về phí Bảo hiểm so với năm 1995, trong khi đó tốc đọ tăng trưởng bình quân của thị trường Bảo hiểm Việt Nam là 37%. Với kết quả đó, Bảo Minh đã, đang và sẽ trở thành một công ty Bảo hiểm đủ sức cạnh tranh với tất cả các công ty Bảo hiểm khác, ngay cả với Bảo Việt- một thời đã từng là “Mẹ đẻ” của nó. c. Công ty tái Bảo hiểm quốc gia Việt Nam ( VINARE) Được thành lập năm 1995 với mục đích chính là hỗ trợ các doanh ghiệp Bảo hiểm trong nước, đặc biệt là doanh nghiệp mới thành lập hoạt động và phát triển, VINARE đã và đang trở thành một trong những công ty Bảo hiểm Nhà nước không thể thiếu được trên thị trường Bảo hiểm Việt Nam. Với vốn điều lệ 40 tỷ đồng, trong 2 năm hoạt động, công ty đã thực hiện tốt chức năng kinh doanh tái Bảo hiểm, nâưng phần giữ lại, hạn chế tái Bảo hiểm ra nước ngoài. Tổng phí giữ lại trong nước đạt 85 tỷ đồng, tăng vố hơn 40 tỷ đồng. Để hoàn thiện hơn nữa trong môi trường cạnh tranh, VINARE cung cấp rất nhiều dịch vụ như cung cấp các thông tin Bảo hiểm, tái Bảo hiểm trong và ngoài nước, tư vấn và giúp đỡ về kỹ thuật nghiệp vụ cho các công ty Bảo hiểm trong việc thu xếp tái Bảo hiểm và khai thác Bảo hiểm, đào tạo cán bộ Bảo hiểm và tái Bảo hiểm, đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. 2. Công ty Bảo hiểm cổ phần Công ty cổ phần là loại doanh nghiệp do các cổ đông góp vốn ( ít nhất 7 cổ đông ) được quyền phát hành cổ phiếu, trái phiếu. ở Việt Nam hiện nay có 3 công ty Bảo hiểm cổ phần sau đây: a. Công ty Bảo hiểm cổ phần Petrolimex ( PJCO) Xuất phát từ thực tế phát triển của thị trường Bảo hiểm Việt Nam, ngay từ đầu năm 1994, tổng công ty xăng dầu Việt Nam đã cùng với một số công ty tham gia góp vốn thành lập công ty cổ phần hoạt động trong lĩnh vực Bảo hiểm. Và sau gần một năm chuẩn bị PETROLIMEX cùng với 6 cổ đông tiến hành thành lập công ty cổ phần Bảo hiểm PETROLIMEX. Ngày 15/6/1995, công ty chính thức đi vào hoạt động và trở thành công ty cổ phần Bảo hiểm đầu tiên ở Việt Nam. PJICO có số vốn đầu tư là 55 tỷ VNĐ và vốn điều lệ là 53 tỷ VNĐ, trong đó 80% vốn góp của các công ty Nhà nước, 19,5% cổ phần để phát hành cổ phiếu cá nhân và cho đến cuối năm 1995 đã phát hành hết. Tổng công ty xăng dầu Việt Nam là cổ đông lớn nhất chiếm 51% tổng số vốn. Ngoài ra, với các cổ đông là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Tổng công ty thép Việt Nam, công ty điện tử Hà Nội ( Hanel), công ty xuất nhập khẩu và thiết bị toàn bộ ( Matexiom), công ty TNHH thiết bị an toàn ( AT). Ngoài 7 cổ đông sáng lập, vào đầu năm 1996, liên hiệp đường sắt Việt Nam đã được hội đồng quản trị của PJCO chấp nhận là một cổ đông tham gia có số vốn góp lớn. Là một công ty mới được thành lập, PJICO gặp không ít những thuận lợi và khó khăn. Nhưng thuận lợi nhất là các cổ đông đều là những công ty và tổng công ty lớn có uy tín trên thị trường Việt Nam và quốc tế nên đã tạo được niềm tin cho khách hàng. Bằng những cố gắng của Hội đồng quản trị và ban giám đốc, PJICO đã từng bước chiếm lĩnh thị trường Bảo hiểm Việt Nam, trong vòng 8 năm hoạt động, doanh thu Bảo hiểm gốc tăng lên nhanh một cách chóng mặt, năm 1995 là 14 tỷ VNĐ; năm 1996 là 52 tỷ VNĐ và năm 1997 con số đó là 79 tỷ VNĐ. Thị phần của công ty tăng dần lên, năm 1995 là 1,7%; năm 1996 là 4,7% và đến năm 1997 là 7%. b. Công ty Bảo hiểm cổ phần Nhà Rồng ( Bảo Long) Được thành lập 11/7/1995 với số vốn pháp định 22 tỷ đồng, Bảo Long trở thành công ty Bảo hiểm cổ phần của Việt Nam sau PJICO được phép hoạt động kinh doanh các nghiệp vụ Bảo hiểm thương mại trên địa bàn trong và ngoài nước. Mặc dù năm 95 lợi nhuận công ty đạt 8 tỷ VNĐ, nhưng thị phần của công ty chỉ đạt 1%- đó là con số khiêm tốn mà đòi hỏi công ty phải nỗ lực hơn nữa. c. Công ty Bảo hiểm cổ phần bưu điện ( PTI) Được thành lập năm 1998 với số vốn pháp định là 68 tỷ VNĐ, chiếm thị phần Bảo hiểm 2%, PTI đang trở thành công ty Bảo hiểm cổ phần lớn, có sức cạnh tranh trên thị trường Bảo hiểm Việt Nam. 3. Công ty liên doanh Bảo hiểm Là hình thức công ty Bảo hiểm Việt Nam, và công ty hay tập đoàn nước ngoài góp vốn để thành lập công ty Liên doanh.Ơ Việt Nam hiện nay có 3 công ty liên doanh sau: a. Công ty liên doanh Bảo hiểm Quốc tế Việt Nam (VIA) Ngoài 40 văn phòng đại diện của nước ngoài đặt tại Việt Nam, theo xu hướng của một nền kinh tế mở, công ty liên doanh quốc tế VIA giữa Bảo Việt- Tokio Marine And The Comercial Union, bắt đàu hoạt động từ 1/11/1996. Với số vốn điều lệ 6 triệu USD, VIA chỉ được phép hoạt động trong một số nghiệp vụ nhất định. Tuy nhiên, công ty có mối quan hệ với khách hàng Nhật Bản, do đó thị trường tiềm năng rất lớn. b. Công ty liên doanh Bảo hiểm liên hiệp ( UIC) Được cấp giấy chứng nhận ngày 30/5/1997, với số vốn điều lệ 4 triệu USD, chiếm 2% thị phần Bảo hiểm Việt Nam, UIC trở thành công ty liên doanh Bảo hiểm trên thị trường Bảo hiểm Việt Nam có rất nhiều tiềm năng. c. Công ty liên doanh môi giới Bảo hiểm Bảo Việt – Incape hữu hạn Được cấp giấy chứng nhận 20/12/1994, với số vốn điều lệ 250.000 USD, là công ty liên doanh nên công ty cũng chỉ được phép kinh doanh một số dịch vụ nhất định. Với dịch vụ chính là môi giới Bảo hiểm, công ty trở thành người bạn tin cậy trong việc môi giới, tư vấn Bảo hiểm cho khách hàng. 4. Công ty Trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm Là công ty TNHH nhưng cả hai công ty này đều là công ty 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Sự góp mặt của các công ty này đã khiến cho thị trường Bảo hiểm Việt Nam sôi động hơn nhiều, tuy nhiên cũng là những thách thức đối với công ty Bảo hiểm trong nước. a. Công ty 100% vốn nước ngoài Chinfon – Manulife Là công ty Bảo hiểm nhân thọ 100% vốn nước ngoài đầu tiên được cấp giấy phép tại Việy Nam với tổng số vốn đầu tư 10 triệu USD, Chinfon – Manulife, liên doanh giữa tập đoàn Chinfon ( Đài Loan) và Manulife Finacial ( Canada), đã nhanh chóng xác định và triển khai những kế hoạch kinh doanh khá quy mô: tổ chức nhân sự, đào tạo đội ngũ cán bộ Bảo hiểm chuyên nghiệp cũng như xác định phương thức, loại hình Bảo hiểm và đối tượng tiềm năng có thể khai thác. Được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy phép ngày 12/6/1999 và đã chính thức hoạt động vào tháng 9/1999, công ty đã có kinh nghiệm hơn 100 năm hoạt động của cả hai tập đoàn đã rất thành công trên thương trường quốc tế, với các nghiệp vụ Bảo hiểm hỗn hợp, Bảo hiểm giáo dục hỗn hợp, Bảo hiểm trợ cấp y tế, Bảo hiểm thương tật và tử vong do tai nạn, công ty trở thành công ty Bảo hiểm nhân thọ đầy sức hấp dẫn đối với khách hàng trong và ngoài nước. b. Công ty TNHH Bảo hiểm ALLIANZ/ AGF Được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy phép, ALLIANZ/ AGF trở thành công ty Bảo hiểm phi nhân thọ 100% vốn nước ngoài đầu tiên hoạt động trê thị trường Bảo hiểm Việt Nam. Đây là công ty liên doanh giữa ALLIANZ Akatiengaselsaft, một trong những tập đoàn Bảo hiểm lớn nhất ở Đức và AFG của Singapore. Với thời hạn hoạt động 30 năm, công ty sẽ đáp ứng nhu cầu Bảo hiểm cho các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động dưới luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, cho các cá nhân nước ngoài, cũng như các tồ chức bằng những dịch vụ Bảo hiểm phi nhân thọ. 5. Công ty chuyên ngành – Công ty Bảo hiểm dầu khí (PVIC) Cùng với sự phát triển kinh tế, là nhu cầu được đáp ứng dịch vụ nói chung, và dịch vụ Bảo hiểm nói riêng ngày càng tăng lên. Tuy nhiên khả năng hiện tại cuả các công ty Bảo hiểm còn chưa đáp ứng kịp, nhất là trong lĩnh vực xăng, dầu khí... Theo thống kê hàng năm có khoảng từ 90 – 95% các hợp đồng Bảo hiểm dầu khí bị ép chuyển ra nước ngoài do thế yếu của các doanh nghiệp trong nước ( không đủ khả năng tài chính, không có kinh nghiệm,... ) dẫn tới hàng năm có khoảng 15- 17 triệu USD bị chuyển ra nước ngoài dưới hình thức phí Bảo hiểm, trong khi chúng ta đang kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Điều đáng nói ở đây là dịch vụ Bảo hiểm bị chuyển ra nước ngoài trong khi rủi ro và đối tượng Bảo hiểm phát sinh tại lãnh thổ Việt Nam. Chính vì vậy trong điều lệ tổ chức và hoạt động cuả Tổng công ty dầu khí Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn có mô hình công ty Bảo hiểm dầu khí dưới hình thức doanh nghiệp Nhà nước hạch toán độc lập. Để thực hiện nghị định này, ngày 3/10/1995, hội đồng quản trị Tổng công ty dầu khí Việt Nam đã họp bàn về vấn đề này và đã ký quyết định số 1396/ HĐQT ngày 14/10/1995 thành lập công ty Bảo hiểm dầu khí ( PVIC). Từ đấy PVIV trở thành công ty chuyên ngành đầu tiên cảu nước ta, đồng thời cũng là doanh nghiệp Nhà nước hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty dầu khí Việt Nam. PVIC có một ưu thế mà không một công ty Bảo hiểm nào ở Việt Nam có được- đó là được phép thực hiện Bảo hiểm y tế bắt buộc đối với tất cả các cán bộ công nhân viên trong ngành dầu khí. Công ty đã, đang triển khai tất cả các nghiệp vụ Bảo hiểm thương mại trong phạm vi ngành dầu khí và góp phần làm thay đổi cơ cấu thị trường Bảo hiểm Việt Nam, góp phần to lớn vào việc tăng trưởng kinh tế đất nước và cải thiện đời sống nhân dân. III. Thị phần của các công ty Bảo hiểm trên thị trường Bảo hiểm Việt Nam Chỉ khi nào độc quyền không còn tồn tại trên thị trường thì khi đó mới xuất hiện khái niệm thị phần, đó chính là tỷ lệ chiếm giữ thị trường của các công ty. Trước năm 1995, thị trường Bảo hiểm Việt Nam chỉ có duy nhất Bảo Việt hoạt động. Nhưng từ năm 1995 trở lại đây, kinh tế Việt Nam phát triển mạnh mẽ theo cơ chế thị trường. Và do đó các công ty Bảo hiểm ra đời và tham gia vào thị trường Bảo hiểm song thị phần chủ yếu vẫn do Bảo Việt nắm giữ. Thị phần bảo hiểm năm 1996 Thị phần bảo hiểm năm 1995 Thị phần bảo hiểm năm 1998 Thị phần bảo hiểm năm 1997 Thị phần bảo hiểm năm 1999 Thị phần bảo hiểm năm 2000 Phần 3: những vấn đề cơ bản để tổ chức một công ty Bảo hiểm trên thị trường Việt Nam hiện nay. I/ Cơ cấu tổ chức của công ty Bảo hiểm Các công ty Bảo hiểm hoạt động dựa trên sự góp sức của nhiều người cùng làm việc với nhau, vì vậy để hoạt động đạt được mục tiêu chung, cần phải phân bổ cho mỗi người một vai trò nhất định. Tổ chức chính là sự liên kết các cá nhân, những quá trình, những hoạt động trong hệ thống nhằm thực hiện mục tiêu đề ra dựa trên các nguyên tắc và quy tắc quản trị quy định. Cơ cấu tổ chức là hình thức tồn tại của tổ chức, biểu thị việc sắp xếp các bộ phận được chuyên môn hoá với những trách nhiệm, quyền hạn nhất định, có mối liên hệ mật thiết với nhau và được bố trí theo những cấp, những khâu khác nhau, nhằm thực hiện các chức năng quản lý. Cơ cấu tổ chức quản lý tốt sẽ đảm bảo cho hoạt động của công ty có hiệu quả và đối phó với biến động của môi trường. Nguyên tắc hình thành cơ cấu tổ chức: cơ cấu tổ chức phải đi theo và đáp ứng yêu cầu của chiến lược kinh doanh như tính tối ưu, tính linh hoạt, tính tin cậy và tính kinh tế. Các nhân tố tác động đến cơ cấu tổ chức là chiến lược của công ty Bảo hiểm, nhiệm vụ của công ty, công nghệ, môi trường kinh doanh và mối quan hệ phụ thuộc giữa số lượng người bị quản lý và khả năng kiểm tra của người lãnh đạo. Cơ cấu tổ chức của công ty Bảo hiểm không có tính cứng nhắc mà phải thay đổi tuỳ thuộc vào điều kiện ảnh hưởng. Đa số các công ty Bảo hiểm được tổ chức như sau: Văn phòng chính: có trách nhiệm xây dựng chính sách tổng thể và điều hành các hoạt động của công ty. Văn phòng chính thường đặt ở một trung tâm thủ đô hoặc một trong các thành phố chính. Các văn phòng chi nhánh: có trách nhiệm kinh doanh dịch vụ đối với khách hàng và thanh toán dàn xếp các khoản bồi thường. Văn phòng còn được gọi là công ty hoặc chi nhánh công ty. Tổ chức tại văn phòng chi nhánh thường khác với văn phòng chính. Đây là đơn vị trực tiếp với bên ngoài thông qua các nhân viên và các đại diện. Như đã nói ở trên, từng người ở từng cấp bậc sẽ có nhiệm vụ hoàn thành trách nhiệm của mình được giao từ đó liên kết với nhau sẽ đạt mục đích chung của công ty đề ra. Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức một công ty Bảo hiểm phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố và có thể thay đổi. Vì vậy, thông thường các công ty Bảo hiểm thương có cơ cấu tổ chức phân chia theo 3 nhóm: theo chức năng, theo sản phẩm và theo lãnh thổ. Công ty Bảo hiểm Có thể sử dụng một trong ba cách tổ chức này hoặc kết hợp các cách sao cho phù hợp với công ty của mình. 2/ Chức năng của các bộ phận chủ yếu Bộ phận Marketing Bộ phận này chịu trách nhiệm về việc đưa sản phẩm của công ty Bảo hiểm tới khách hàng. Bao gồm: nghiên cứu thị trường, tạo ra các sản phẩm mới theo nhu cầu, xem xét lại các sản phẩm hiện tại để phù hợp hơn với nhu cầu khách hàng, cho khách hàng thấy được lợi ích của sản phẩm, bán sản phẩm. b) Bộ phận định giá phí Bảo hiểm Bộ phận định giá phí Bảo hiểm có trách nhiệm xem xét các hoạt động của công ty trên cơ sở toán học. Nó phối hợp với các bộ phận khác của công ty để thiết lập và xem xét lại các sản phẩm của công ty. Nó định ra tỷ lệ phí Bảo hiểm, tỷ lệ lãi cổ phần, thưởng. Nó cũng xác định xem vốn dự trữ của công ty Bảo hiểm đồng thời xác địh cả giá trị vay, các khoản huỷ bỏ của đơn Bảo hiểm… Đây là một bộ phận quan trọng của công ty Bảo hiểm. c/ Thẩm định và đánh giá rủi ro Bộ phận này đảm bảo cho công ty biết rằng thiệt hại do rủi ro xảy ra là bao nhiêu, có trong phạm vi Bảo hiểm hay không? Ngoài ra bộ phận này còn tham gia vào quá trình đàm phán và quản lý các hợp đồng tái Bảo hiểm mà theo đó công ty Bảo hiểm có thể chuyển toàn bộ hoặc một phần các rủi ro Bảo hiểm cho các công ty Bảo hiểm khác. D/ Dịch vụ khách hàng Bộ phận này sẽ làm cho khách hàng tin tưởng công ty hơn vì có đầy đủ thông tin về Bảo hiểm đồng thời các chuyên gia sẽ trả lời cho khách hàng về thắc mắc của họ về Bảo hiểm. NgoàI ra bộ phận này còn gửi các thông báo về phí Bảo hiểm cho khách hàng, thu phí Bảo hiểm… e) Giải quyết khiếu nại Bộ phận này có nhiệm vụ xem xét các khiếu nại của người được Bảo hiểm, người được hưởng lợi và xác định hiệu lực của khiếu nại và quyết định trả tiền bảo hiểm cho ngươì thích hợp. f) Đầu tư Đầu tư là một bộ phận tương đối độc lập. Bộ phận này sẽ xem xét thị trường tài chính và đưa ra các chiến lược đầu tư theo chính sách mà ban giám đốc đã đề ra. Họ đồng thời như các cố vấn của Tổng giám đốc và hội đồng Giám đốc khi có sự sát nhập hoặc mua lại một công ty khác. g) Kế toán Bộ phận này rất quan trọng vì nó cho biết công ty hiện nay lãi hay lỗ. Ngoài ra nó còn chịu trách nhiệm duy trì sổ sách kế toán chung của toàn công ty, chuẩn bị các báo cáo tài chính, quản lý việc thu nhận tiền, đồng thời cũng phối hợp với các bộ phận pháp chế để đảm rằng công ty đang hoạt động phù hợp với quy định của chính phủ và luật thuế. h) Pháp chế Bộ phận này cho biết công ty hoạt động có phù hợp với luật pháp và các quy định cuả cơ quan quản lý Bảo hiểm. Đồng thời cũng nghiên cứu các quy định sắp ban hãnh xem có ảnh hưởng tới công ty hay không. Ngoài ra còn cố vấn cho bộ phận giải quyết khiếu nại. i) Tin học Bộ phận này chịu trách nhiệm phát triển và bảo dưỡng hệ thống máy tính của công ty. Hệ thống bao gồm: các hệ thống xử lý thông tin, xử lý văn bản và hệ thống tự động của công ty. Ngoài ra nó còn giúp công ty phát triển về phần mềm cần thiết để cung cấp thông tin, bảo quản tàI liệu và quản lý sản phẩm. k) Bộ phận nhân sự Bộ phận này chịu trách nhiệm với những vấn đề liên quan đến cán bộ của công ty. Bộ phận này lập chính sách của công ty về vấn đề thuế, đào tạo, sa thải cán bộ của công ty, xác định mức lương và đảm bảo rằng công ty hoạt động phù hợp với luật lao động. Nó cũng đồng thời quản lý những quyền lợi của nhân viên. l) Các uỷ ban Bộ phận này có nhiệm vụ giải quyết một số hoạt động mà không thuộc chức năng của bộ phận nào cả. Nhưng khác với bộ phận khác là nó bao gồm một số thành viên mà mỗi người đều có nhiệm vụ khác nhau trong công ty. Các bn này có ở mọi cấp và được sử dụng khi một vấn đề cụ thể nào đó xét thấy sẽ được các cá nhân xuất sắc giải quyết là tốt nhất. II/ mục tiêu quản trị kinh doanh công ty Bảo hiểm trên thị trường Việt Nam hiện nay Các doanh nghiệp nói chung và các công ty Bảo hiểm nói riêng đều phải tìm mọi cách để tồn tại trong những cuộc giao tranh, cạnh tranh khốc liệt và làm cho công ty của mình ngày càng lớn mạnh. Để làm được như vậy các doanh nghiệp cần phải đặt mục tiêu ra cho mình. 1/ Mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài a/ Mục tiêu trước mắt Để đáp ứng yêu cầu tồn tại và đứng vững trong thị trường, công ty phải xác định được: sự xuất hiện của công ty trên thị trường, tạo ra những khách hàng nòng cốt đầu tiên, gây dẫn sự tín nhiệm của xã hội đối với công ty. Việc xuất hiện của công ty trên thị trường Việt Nam phải được nhiều người biết đến. Vì không phải ai biết cũng quan tâm thực sự đến công ty mà chỉ khoảng 20% số người biết sẽ quan tâm thực sự đến công ty. Việc quảng cáo đóng vai trò khá quan trọng do Việt Nam còn chưa chú ý nhiều đến Bảo hiểm. Vì vậy việc làm cho người dân hiểu được ý nghĩa của Bảo hiểm là rất cần thiết. Sau đó công ty cần phải có những khách hàng “nòng cốt” của mình. Đây là những khách hàng đến với công ty từ rất sớm và trung thành trong thời gian dài, được công ty ưu ái trong dịch vụ. Từ đó sẽ nảy sinh ra khách hàng mới do quảng cáo hoặc do người đã mua sản phẩm của công ty nói cho biết… Giai đoạn đầu bao giờ cũng khó khăn bởi cong ty phải gây được tín nhiệm đối với xã hội. Tất cả các hoạt động đều phải thận trọng, bảo đảm chất lượng đến mức tối đa để tạo một dư luận thuận lợi cho công ty. b/ Mục tiêu lâu dài Nói tóm lại những mục tiêu trước mắt cũng là để đi đến mục tiêu lâu dài là dần dần mở rộng thị phần của công ty từ đó tăng doanh thu, tăng lợi nhuận và thu nhập của nhân viên. 2/ Mở rộng thị phần của công ty Như đã nói ở trên thì việc mở rộng thị phần vừa là mục tiêu trước mắt và là mục tiêu lâu dài, đồng thời nó là mục tiêu chiến thuật, mục tiêu chiến lược của công ty. Mở rộng được thị phần mới có thể tính đến tăng trưởng doanh thu và tiếp đến là các mục tiêu khác. Việc một công ty mở rộng được thị phần cũng có nghĩa là nó đã chiếm một phần thị trường của công ty khác ( trong trường hợp tổng thị trường là không đổi). Tuy nhiên, thực hiện được việc này không đơn giản mà đòi hỏi công ty phải có những cái mới hơn công ty khác mà nó thường tập trung vào: - Chất lượng dịch vụ cao hơn: đền bù, bồi thường đầy đủ và nhanh chóng, thủ tục đơn giản nhất, thuận tiện nhất. - Phí Bảo hiểm thấp hơn các công ty khác: tìm mọi cách tiết kiệm -chi phí để hạ phí mà vẫn đảm bảo chất lượng dịch vụ cao. - Khách hàng thuận tiện khi mua Bảo hiểm: đại lý ở những nơi tiện ghé qua, dễ tìm kiếm, có người trực thường xuyên tiếp khách hàng, thái độ niềm nở, mau mắn. - Tuyên truyền quảng cáo hợp lý để tất cả mọi người đều biết về những ưu việt đó, phả cho mọi người biết thật nhiều và rộng. Vậy mở rộng thị phần chính là hiệu quả của công ty vì đó là kết quả tổng hợp của các hoạt động xúc tiến trên thị trường. 3/ Tăng trưởng doanh thu của công ty Mở rộng thị phần là đIều tất yếu dẫn đến tăng doanh thu của công ty ( tăng khách hàng). Trong mức tăng số khách hàng chỉ ẩn chứa sự tăng doanh thu theo chiều rộng ( rất quan trọng) nhưng cần chú ý mức tăng doanh thu bình quân một khách hàng vì nó ẩn chứa 2 nhân tố theo chiều sâu là: Sự tăng về sức mua Bảo hiểm của từng khách hàng Thay đổi cơ cấu khách hàng, tỷ lệ khách hàng của loạI hình Bảo hiểm có doanh thu lớn tăng lên, tỷ lệ khách hàng của loạI hình Bảo hiểm có doanh thu nhỏ giảm đi. Như vậy, có thể số khách mua Bảo hiểm không tăng nhưng doanh thu Bảo hiểm vẫn tăng vì: Doanh thu Bảo hiểm = Doanh thu bình quân một khách hàng x Số khách Mua Bảo hiểm 4/ Tăng lợi nhuận của công ty và thu nhập của nhân viên Mọi công ty khi tham gia kinh doanh đều muốn kiếm lợi nhuận. Lúc đầu có thể lãi ít tức là doanh thu chỉ lớn hơn chi phí ít nhưng về sau càng đòi hỏi lãi cao hơn tức là lãi suất cao. Mà: Lãi suất = Lợi nhuận Số vốn dùng vào kinh doanh Cho nên muốn lãi suất cao phải có doanh thu cao, chi phí thấp và số vốn dùng vào kinh doanh thấp. Chi phí thấp vừa do tiết kiệm, không phô trương lãng phí vừa là kết quả của hoạt động quản lý chặt chẽ, có hiệu quả. Có chi phí thấp ta mới giảm được phí để cạnh tranh mà vẫn có lãi. Còn về vốn, muốn tiết kiệm vốn phải tìm cách quay vòng vốn nhanh, không để vốn bị ứ đọng ở bất kỳ khâu nào, đặc biệt phải tránh nợ khó đòi và tính toán khéo léo để đưa nhiều lượng tiền nhàn rỗi vào các hoạt động kinh doanh phụ. Thu nhập của nhân vỉên là điều đáng quan tâm của công ty Thu nhập thực tế = Thu nhập (bằng tiền) Chỉ số giá sinh hoạt Chỉ khi nào thu nhập thực tế tăng mới tạo nên tâm lý an tâm, phấn khởi cho nhân viên. Ngoài ra với mức lương hấp dẫn sẽ giữ chân và lôi kéo những người giỏi đến công ty làm việc. II/ các quan hệ trong hệ thống quản trị kinh doanh Bảo hiểm 1/ Điều hành hoạt động của công ty Bảo hiểm a/ Điều hành đối nội: là điều hành các hoạt động nội bộ công ty như tổ chức cơ cấu bộ máy, quản trị các mặt hoạt động nhân sự, quản lý tài sản, quản lý vốn và chi phí. b/ Điều hành đối ngoại: là điều hành các hoạt động thu hút khách hàng, đền bù tổn thất, tiến hành kinh doanh phụ trợ vốn nhàn rỗi, quan hệ với các đối tác và các cấp chính quyền. Các hoạt động đối ngoại là nguồn của doanh thu và lợi nhuận và cũng là kết quả của các hoạt động điều hành đối nội. 2/ Các quy tắc kết hợp quan hệ a/ Kết hợp giữa thị trường và nguồn nhân lực Nguồn nhân lực là sức mạnh của doanh nghiệp để phát triển trong đó chất lượng nhân lực, uy tín doanh nghiệp đóng vai trò hết sức cơ bản. Có nhân viên và cán bộ quản trị tài giỏi, công ty mới thiết lập nhiều loại hình Bảo hiểm khác nhau, nâng cao chất lượng dịch vụ để giữ khách hàng và lôi kéo thêm khách mới. Điều này sẽ giúp công ty mở rộng thị trường và từ đó thu thêm nhiều phí Bảo hiểm, sẽ tăng vốn dự trữ, thu hút được người giỏi, làm cho nguồn lực tiếp tục mạnh thêm, tạo ra vòng quay khép kín, tương tác giữa thị trường và nguồn lực theo chiều hướng có lợi. b/ Kết hợp giữa kết quả và hiệu quả kinh doanh Hai phạm trù này không đồng nhất, kết quả không đồng thời là hiệu quả. Tuy nhiên, chúng có liên hệ chặt chẽ với nhau: kết quả tốt là tiền đề cho hiệu quả kinh doanh. 3/ Đại lý và môi giới của công ty Bảo hiểm Muốn tổ chức một công ty Bảo hiểm hoạt động tốt cần phải có hoạt động của môi giới và đại lý Bảo hiểm. a/ Môi giới Bảo hiểm Môi giới Bảo hiểm là hoạt động độc lập nhằm thiết lập quan hệ giữa khách hàng và tổ chức Bảo hiểm. Các công ty môi giới đại diện cho khách hàng tìm kiếm thị trường Bảo hiểm có uy tín, đảm bảo nguồn tài chính, tỷ lệ phí hợp lý để giới thiệu cho khách hàng. Như vậy, môi giới Bảo hiểm có nhiệm vụ: Vận động, tuyên truyền và khai thác dịch vụ Bảo hiểm. Là người đi khai thác, môi giới Bảo hiểm phải tuyên truyền cho người tham gia hiểu rõ lợi ích của Bảo hiểm, điều kiện Bảo hiểm, lợi thế của công ty Bảo hiểm mà khách hàng tham gia…. Sau khi đã thoả thuận, công ty môi giới hướng dẫn ký hợp đồng và theo dõi thực hiện hợp đồng. Khi có tổn thất xảy ra người môi giới phải hướng dẫn khách hàng làm thủ tục đòi người Bảo hiểm. Công ty môi giới được hưởng quyền lợi từ công ty Bảo hiểm thông qua môi giới phí. Ngoài ra, công ty môi giới còn phải chịu trách nhiệm về uy tín của công ty Bảo hiểm. Trong trường hợp nhất định công ty môi giới còn phải bồi thường trách nhiệm nghề nghiệp. b/ Đai lý Bảo hiểm Đai lý Bảo hiểm là một cá nhân hay tổ chức đại diện cho một công ty Bảo hiểm, vì quyền lợi của công ty Bảo hiểm, thay mặt công ty Bảo hiểm để bán các sản phẩm của công ty cho người mua. Nói tóm lại, cả đại lý và môi giới Bảo hiểm đều có chức năng làm tăng thị phần của công ty Bảo hiểm nhất là môi giới bởi vì nhờ nó mà người dân có thể hiểu rõ hơn về Bảo hiểm từ đó dẫn đến nhiều người biết và mua sản phẩm Bảo hiểm. Đại lý phải ở nơi thuận tiên để mọi người có thể ghé mua một cách dễ dàng, người trực phải có thái độ ân cần và chăm sóc khách hàng một cách nhiệt tình. IV/ những khó khăn và thuận lợi khi tổ chức công ty Bảo hiểm trên thi trường việt nam hiện nay. Bước vào một thế kỷ mới- đó là sự hội nhập và hợp tác giữa các nước phát triển một cách chóng mặt. Việt Nam cũng vậy. Chúng ta đã, đang và sẽ tham gia các khối ASEAN, AFTA, APEC… Cùng với quá trình hội nhập đó chính phủ đã cho phép một số công ty Bảo hiểm 100% vốn nước ngoài vào hoạt động tại thị trường Việt Nam, mở ra nhiều cơ hội và không ít khó khăn cho các công ty Bảo hiểm Việt Nam. 1/ Thuận lợi Với sự góp mặt của các công ty Bảo hiểm nước ngoài sẽ góp phần cải thiện mạnh mẽ hơn môi trường đầu tư tại Việt Nam, nó tạo ra hình ảnh một thị trường Bảo hiểm Việt Nam đầy sôi động. Với các loại hình doanh nghiệp đa dạng, sản phẩm Bảo hiểm phong phú đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng cho dù là khách hàng khó tính nhất. Cùng với sự góp mặt của các công ty Bảo hiểm nước ngoài là quá trình chuyển giao công nghệ hiện đại, phương thức quản lý tiên tiến và các yếu tố đầu vào của bất kỳ doanh nghiệp nào- đó là vốn, là các cán bộ có trình độ lành nghề… Tất cả những yếu tố đó sẽ đưa ngành Bảo hiểm Việt nam phát triển ở tầm cao hơn. Sự tham gia của các công ty Bảo hiểm nước ngoài vào thị trường Bảo hiểm Việt Nam đã tạo ra một sự cạnh tranh bình đẳng nhưng cũng rất khó khăn buộc các công ty Bảo hiểm Việt Nam thực sự bước vào cuộc. Hơn bao giờ hết, đây cũng chính là thời gian cần thiết để các doanh nghiệp trong nước tự cải thiện lại hoạt động của mình, phát huy sức mạnh nội lực để đủ sức tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh. Và đó cũng chính là ưu điểm lớn nhất của cạnh tranh bởi cạnh tranh giúp cho các doanh nghiệp Bảo hiểm tự hoàn thiện mình hơn. Việt Nam với dân số khoảng 80 triệu người nên thị trường Bảo hiểm còn sơ khai. Do đó, cần phải được khai thác triệt để trong khi đó các công ty nước ngoài chỉ chờ cơ hội là sẽ xâm nhập vào ngay. Như vây, tiềm năng của thị trường Bảo hiểm Việt Nam là rất lớn nhưng các công ty Bảo hiểm Việt Nam đã không khai thác triệt để. Điều này thể hiện ở sức mua người Bảo hiểm. Ví dụ như năm 1998 mức phí bình quân của một người mới chỉ là 1,6 USD/ người/ năm trong khi đó ở các nước Đông Nam á là 100 USD/ người/ năm, còn ở Mỹ là 5000 USD/ người/ năm. Nguyên nhân chủ yếu là do thu nhập của người dân còn quá thấp và người dân chưa có nhu cầu Bảo hiểm cao. Do đó, các công ty phải tích cực quảng cáo để người dân mình có thể nhận thấy được sự cần thiết của hoạt động Bảo hiểm, từ đó sẽ làm cho khách hàng đến với công ty Bảo hiểm nhiều hơn và nhu cầu về Bảo hiểm sẽ tăng lên nhanh chóng. 2/ Khó khăn Ngoài những thuận lợi ở trên, chúng ta còn rất nhiều khó khăn khi thành lập công ty Bảo hiểm. Sự góp mặt của công ty Bảo hiểm nước ngoài cũng gây ra không ít khó khăn với hàng trăm năm kinh nghiệm hoạt động. Nhưng thế mạnh của các công ty này không chỉ ở kinh nghiệm hoạt động, phương pháp tổ chức quản lý hiệu quả, đội ngũ cán bộ được đào tạo chính quy, bài bản mà còn là sự hậu thuẫn bởi nguồn tài chính khổng lồ từ các công ty mẹ. Họ có thể nhanh chóng chiếm lĩnh được thị trường Bảo hiểm Việt Nam bằng cách hạ thấp phí hơn các công ty của chúng ta, cung cấp đầy đủ các sản phẩm Bảo hiểm và chất lượng phục vụ khách hàng tốt nhất. Đó chính là khó khăn lớn đặt ra cho các doanh nghiệp Bảo hiểm Việt Nam. Mặt khác do mới thành lập nên các công ty Bảo hiểm Việt Nam chưa có đội ngũ cán bộ giỏi về nghiệp vụ Bảo hiểm, tái Bảo hiểm, quản lý rủi ro và đặc biệt là thiếu giám định viên trong công tác giám định, bồi thường tổn thất. Vì thiếu kiến thức nên nhiều khi giám định không chính xác dẫn đến phải bồi thường một cách oan uổng hoặc những vụ tổn thất lớn thì phải thuê các chuyên gia nước ngoài giám định với chi phí cao. Mặc dù, các công ty Bảo hiểm trong nước đã liên hệ và cho đi học nước ngoài nhưng số cán bộ đó vẫn không đủ đáp ứng sự phát triển nhanh chóng của thị trường Bảo hiểm. Điều đáng nói hơn cả là vấn đề cạnh tranh giữa các công ty trong nước. Các công ty cạnh tranh chủ yếu là cạnh tranh về các “ Dịch vụ” phục vụ khách hàng mà không có cạnh tranh về mặt kỹ thuật nghiệp vụ. Không những thế giữa các doanh nghiệp còn có hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh. Ngoài ra hoạt động kinh doanh Bảo hiểm bị chi phối quá nhiều bộ luật như luật dân sự, luật doanh nghiệp, luật đầu tư, luật hàng hải,… nhưng đôi khi chúng không đồng bộ với nhau làm một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp lựa chọn các công ty Bảo hiểm nước ngoài, làm mất đI một lượng tiền tệ cho đất nước. Có lẽ các doanh nghiệp Bảo hiểm Việt Nam chỉ khai thác sơ qua chứ chưa đáp ứng đủ nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của khách hàng, chưa thoả mãn tối đa nhu cầu Bảo hiểm trong nước, trong khi đó, Chinfon Manulife vừa vào thị trường Việt Nam đã cho ra đời 2 nghiệp vụ mới: Bảo hiểm hỗn hợp và Bảo hiểm hỗn hợp giáo dục. Không những thế mà các công ty Bảo hiểm trong nước còn bỏ qua nhiều thị trường không khai thác như nghiệp vụ Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu với mặt hàng là dầu thô với kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỷ USD/ năm hoàn toàn do các công ty nước ngoài đảm nhiệm. Ngoài ra sự bồi thường của các công ty Bảo hiểm Việt Nam còn chậm trễ dễ làm mất lòng tin của khách hàng. Như vậy, với khó khăn như thế thì công ty Bảo hiểm trong nước cần phải khắc phục nhiều thì mới có thể tiến xa hơn được. V/ một số giải pháp để đưa thị trường bảo hiểm việt nam phát triển. Trong 35 năm hoạt động, chúng ta không thể phủ nhận những thành tựu mà thị trường Bảo hiểm Việt Nam đạt được với sự đa dạng hoá, mở rộng phạm vi và quy mô của các doanh nghiệp Bảo hiểm. Từ chỗ chỉ có 1 công ty, hiện nay đã có 15 công ty Bảo hiểm, hơn 40 văn phòng đại diện và hàng loạt các chi nhánh khác. Mặt khác do sự cạnh tranh khốc liệt giữa các công ty Bảo hiểm khác nhau nên tốc độ tăng trưởng doanh thu từ năm 1992 đến năm 1998 là tăng khá nhanh. Thông qua bảng sau chúng ta có thể thấy rõ: Doanh thu của thị trường Bảo hiểm Việt Nam ( tỷ đồng ) 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 270 436 741 1026 1275 1362 1800 Tuy nhiên không thể đánh giá hoạt động Bảo hiểm cũng như lợi ích mà nó mang lại thông qua những con số mà ta phải so sánh với tốc độ phát triển kinh tế xã hội và với tất vả các nước trên thế giới. Ví dụ, năm 1996, doanh thu toàn ngành Bảo hiểm chỉ chiếm 0,48% tổng sản phẩm quốc nội còn so với các nước trong khu vực là 5- 10%. Để đạt được mục tiêu tăng tỉ trọng doanh thu từ 0,56% GDP năm 1998 lên 2% GDP vào những năm 2005- 2010 và đưa ngành Bảo hiểm Việt Nam bước vào thời kỳ mới thì nhiệm vụ của chúng ta phải phát huy thế mạnh và tìm ra cách khắc phục những hạn chế, yếu kém. 1/ Về phía Nhà nước Với tư cách là chủ thể quản lý, định hướng cho sự phát triển, Nhà nước phải nhanh chóng thực hiện các giải pháp sau: a/ Cần thiết ban hành Luật Bảo hiểm Luật Bảo hiểm chính là cơ sở pháp lý thúc đẩy thị trường Bảo hiểm Việt Nam phát triển. Tuy mới ở dạng tiềm năng, đang còn non yếu và sơ khai, nhưng đã xuất hiện cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp, và cạnh tranh không lành mạnh là tình trạng phổ biến trong thời gian gần đây, điều đó đã gây ảnh hưởng không tốt tới ngành Bảo hiểm còn non trẻ của đất nước. Bên cạnh đó, quyền lợi của người tham gia Bảo hiểm chưa được đặt ngang tầm với “ thượng đế”. Đã không ít trường hợp các công ty Bảo hiểm thu phí của khách hàng, nhưng khi xảy ra tổn thất lại viện tới lý do tổn thất nằm ngoài phạm vi Bảo hiểm. Ngoài ra quyền lợi của công ty Bảo hiểm cũng đang bị đe doạ bởi những hành vi gian lận, thiếu trung thực, nhằm trục lợi của một bộ phận nhỏ những người tham gia Bảo hiểm. Hơn nữa, việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới của Việt Nam qua các tổ chức ASEAN, APEC, WTO, ... đòi hỏi phải có một khung pháp lý làm cơ sở cho mọi hoạt động, giúp cho các nhà đầu tư tin tưởng hơn vào thị trường Bảo hiểm Việt Nam. Như vậy, việc ra đời của Luật Bảo hiểm là cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Vấn đề hiện nay là làm sao soạn thảo, ban hành và thực hiện có hiệu quả Luật Bảo hiểm, tạo hành lang pháp lý và bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia. Luật Bảo hiểm Việt Nam chỉ được coi là hoàn chỉnh khi đạt các tiêu chuẩn cần thiết như tiếp cạn các chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực Bảo hiểm, xác định rõ trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia, xác định vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước... Chúng ta hy vọng rằng Luật Bảo hiểm Việt Nam vừa mang những nét chung nhất của ngành Bảo hiểm thương mại thế giới vừa giữ được nét đặc thù riêng có của thị trường Bảo hiểm Việt Nam. b/ Hạn chế số lượng các công ty Bảo hiểm nước ngoài Việc chính phủ mở cửa thị trường Bảo hiểm lúc này là hoàn toàn đúng đắn, nhưng mở đến mức độ nào để doanh nghiệp Bảo hiểm nước ta không bị thua trên sân nhà mới là điều cần cân nhắc kỹ lưỡng. Hiện nay trên thị trương Bảo hiểm Việt Nam đã có 2 công ty 100% vốn nước ngoài, 4 công ty liên doanh với các công ty mẹ là những công ty hàng đầu thế giới với trên mấy trăm năm kinh nghiệm hoạt động, với một số vốn khổng lồ, với phương thức tổ chức quản lý kinh doanh Bảo hiểm khao học, tiên tiến, sẵn sàng đè bẹp công ty Bảo hiểm trong nước lúc nào không hay nếu không có sự can thiệp của Nhà nước. Nhật Bản là đất nước có thị trường Bảo hiểm phát triển mạnh mẽ, nhưng khi mở cửa cho các công ty 100% vốn nước ngoài vào hoạt động thì quá trình đó được thực hiẹen một cách từ từ, thận trọng không gây sốc bằng cách giới hạn số lượng giấy phép hoạt động, nghĩa là mỗi năm chính phủ chỉ cấp một giấy phép cho một công ty nước ngoài vào kinh doanh trên thị trường. Huống hồ gì là ở Việt Nam, một đất nước với thị trường Bảo hiểm non yếu, sơ khai. Vì vậy, việc mở cửa thị trường Bảo hiểm phải tiến hành từng bước một, phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế và ngành Bảo hiểm Việt Nam, cũng như phù hợp với tiến trình Việt Nam gia nhập vào WTO, APEC... c/ Thành lập hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam Để giúp các doanh nghiệp Bảo hiểm trong nước hợp tác chặt chẽ với nhau hơn trong môi trường cạnh tranh, đồng thời cũng là cầu nối giữa các doanh nghiệp Bảo hiểm với cơ quan quản lý Nhà nước thì cần thiết phải thành lập hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam. Từ đó nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh Bảo hiểm từ khâu cấp giấy phép hoạt động kinh doanh, đến quản lý và giám sát trong quá trình hoạt động. 2/ Đối với doanh nghiệp Để có thể tồn tại và phát triển trong tình hình cạnh tranh mới các doanh nghiệp cần phải tập trung triển khai các giải pháp sau: Đa dạng hoá các loại hình nghiệp vụ Bảo hiểm, hoàn thiện các loại nghiệp vụ đang tiến hành, rà soát lại nội dung của từng sản phẩm Bảo hiểm để xem sản phẩm nào đáp ứng nhu cầu của số đông và được khách hàng quan tâm, tập trung chú trọng các nghiệp vụ Bảo hiểm phục vụ đầu tư nước ngoài, đồng thời nghiên cứu phát triển các loại nghiệp vụ Bảo hiểm mới như Bảo hiểm tín dụng, Bảo hiểm hưu trí, Bảo hiểm lòng trung thành... Để tăng cường khả năng cạnh tranh các doanh ngiẹp phải làm tăng khả năng tài chính. Những doanh nghiệp Bảo hiểm có vốn nhỏ cần nghiên cứu sát nhập để trở thành doanh nghiệp có vốn lớn hơn. Đối với những doanh nghiệp Nhà nước có vốn tương đối lớn thì không ngừng nghiên cứu các hình thức huy động vốn, có thể gọi vốn góp của các tổng công ty Nhà nước khác nhằm tạo ra sự hợp tác toàn diện và đa dạng giữa các doanh ngiệp lớn. Sự hợp tác giữa các doanh nghiệp theo các hướng “liên kết ngang” này sẽ tạo cơ sở và tiền đề cho mô hình “ Tập đoàn đại công ty” trong tương lai. Hiện nay, trên thị trường Bảo hiểm Việt Nam các công ty chỉ phát huy thế mạnh trong liên kết dọc mà chưa tận dụng được việc liên kết ngang với ngành khác. Hơn thế nữa, để tăng cường khả năng tài chính, các doanh nghiệp còn tập trung nghiên cứu và thực hiện các chương trình đầu tư hiệu quả, thành lập các quỹ đầu tư và các công ty chứng khoán để tham gia vào thị trường vốn. Nâng cao trình độ cán bộ và trình độ tổ chức kinh doanh Bảo hiểm để đáp ứng với yêu cầu của thời kỳ mới. Sử dụng các đòn bẩy kinh tế như tiền lương, tiền thưởng để khuyến khích, duy trì được đội ngũ cán bộ giỏi có kinh nghiệm công tác. Marketing trong Bảo hiểm là một lĩnh vực mà các công ty Bảo hiểm Việt Nam vừa yếu lại vừa thiếu. Thực trạng này đã gây không ít khó khăn cho các công ty trong việc mở rộng thị phần. Vì vậy, các công ty Bảo hiểm cần phải sử dụng các biện pháp Marketing trong kinh doanh, như tạo mối quan hệ thân tình giữa các nhà Bảo hiểm với khách hàng, có chính sách ưu đãi với các khách hàng lâu năm truyền thống, tạo ấn tượng tốt đối với những khách hàng mới lạ, áp dụng các hình thức tuyên truyền quảng cáo, để bất cứ nơi nào, bất cứ khi nào khách hàng cũng thấy hình ảnh của công ty và tạo nên cảm giác tốt đẹp nếu như họ đến với công ty, và họ sẽ nhận được một sự phục vụ bất cứ lúc nào họ có nhu cầu. Đồng thời các công ty cần phải xem xét lại chính mình, những mặt thuận lợi nào cần phát huy, và những mặt yếu kém nào cần hạn chế. Và những quy định nào có thể tạo kẽ hở cho các hành vi trục lợi Bảo hiểm, làm gì để ngăn chặn các hành vi ấy?, biểu phí quy định đã phù hợp với giá trị của sản phẩm chưa?, cơ cấu tổ chức bộ máy, trình độ năng lực cán bộ và việc bố trí sắp xếp công việc đã hợp lý chưa?... Tất cả những nhân tố đó sẽ góp phần tiết kiệm chi phí quản lý, giảm giá thành sản phẩm, tăng tính hấp dẫn và cuối cùng là tăng sức cạnh tranh của các công ty Bảo hiểm trong nước. kết luận Mặc dù đã ra đời và hoạt động được 35 năm nhưng thị trường Bảo hiểm Việt Nam vẫn còn ở dạng tiềm năng, quy mô thị trường còn nhỏ bé, nhiều khu vực thị trường còn bỏ trống, sản phẩm Bảo hiểm chưa thực sự phong phú đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tham gia. Vì vậy khi thành lập công ty Bảo hiểm chúng ta cần phải lưu ý những yếu điểm trên để phát triển công ty một cách đúng hướng. Ngoài ra còn phải tạo uy tín tốt đối với thị trường do có công ty Bảo hiểm nước ngoài tham gia. Sự cạnh tranh rất gay go nhưng như thế mới đòi hỏi chúng ta thực sự vươn lên để đạt những kết qủa tốt. Như vậy cùng với công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá của đất nước, chúng ta có quyền hy vọng vào sự phát triển của công ty Bảo hiểm Việt Nam cũng như thị trường Bảo hiểm. tài liệu tham khảo 1/ Giáo trình Quản trị Kinh doanh Bảo hiểm (trường Đại học KTQD) 2/ Giáo trình “ Bảo hiểm” ( trường Đại học KTQD) 3/ Giáo trình “Bảo hiểm” _ Nhà xuất bản Tài chính 1999 4/ Tạp chí “ Kinh tế Bảo hiểm” 5/ Tạp chí “ Tài chính” số 1/97, 9/98, 9/99. 7/ Tạp chí “ Thị trường Tài chính Tiền tệ” số 6/1998 8/ Báo “ Đầu tư” số 86 ngày 25/10/1999. mục lục Lời nói đầu Phần 1: Tổng quan về thị trường Bảo hiểm I/ Khái niệm và sự cần thiết của Bảo hiểm 1/ Khái niệm thị trường Bảo hiểm 2/ Sự cần thiết của Bảo hiểm II/ Những đặc trưng cơ bản của thị trường Bảo hiểm 1/ Cung, cầu của thị trường Bảo hiểm 2/ Cạnh tranh và liên kết Phần 2: Thị trường Bảo hiểm Việt Nam I/ Lịch sử ra đời, sự phát triển của thị trường Bảo hiểmViệt Nam 1/ Thị trường Bảo hiểm Việt Nam trước nghị định 100 CP 2/ Thị trường Bảo hiểm Việt Nam sau nghị định 100 CP II/ Các loại hình công ty Bảo hiểm trên thị trường Việt Nam 1/ Công ty Bảo hiểm Nhà nước. 2/ Công ty Bảo hiểm cổ phần 3/ Công ty liên doanh Bảo hiểm 4/ Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm 5/ Công ty Bảo hiểm chuyên ngành III/ Thị phần của các Công ty Bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm Phần 3: Những vấn đề cơ bản để tổ chức một công ty Bảo hiểm trên thị trường Việt nam hiện nay I/ Cơ cấu tổ chức của công ty Bảo hiểm 1/ Cơ cấu tổ chức 2/ Chức năng của một số bộ phận chủ yếu II/ Mục tiêu quản trị kinh doanh công ty Bảo hiểm trên thị trường Bảo hiểm Việt Nam hiện nay. 1/ Mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài 2/ Mở rộng thị phần của công ty 3/ Tăng trưởng doanh thu của công ty 4/ Tăng lợi nhuận của công ty và thu nhập của nhân viên. III/ Các quan hệ trong hệ thống quản trị kinh doanh Bảo hiểm 1/ Điều hành hoạt động của công ty Bảo hiểm 2/ Các quy tắc kết hợp quan hệ 3/ Đại lý và môi giới của công ty Bảo hiểm IV/ Những thuận lợi và khó khăn khi tổ chức công ty Bảo hiểm trên thị trường Bảo hiểm Việt Nam hiện nay. V/ Một số giải pháp để đưa thị trương Bảo hiểm Việt Nam phát phát triển mạnh mẽ Kết luận

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34982.doc
Tài liệu liên quan