Đề tài Triển vọng và những giải pháp thúc đẩy thương mại Việt Nam-EU

Trong những năm qua, hai bên đã không ngừng tạo cho nhau những thuận lợi, ưu tiên trong thương mại cũng như các lĩnh vực khác như : EU công nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường, tạo thuận lợi cho hàng hoá của Việt Nam khỏi sự phân biệt, hưởng qui chế tối huệ quốc MFN, GSP. Bên cạnh đó một việc làm hết sức có ý nghĩa là EU sẽ mở cửa thị trường hơn nữa cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, ủng hộ Việt Nam vào WTO. Đây là những việc làm mà phía đối tác mong muốn được quan hệ lâu dài và toàn diện với Việt Nam, từng bước tạo cho Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Hai bên đã coi nhau là những đối tác quan trọng, phía Việt Nam cũng đã đóng góp to lớn cho mối quan hệ song phương này như với cương vị là Chủ tịch của ASEAN, là thành viên của APEC, là cầu nối cho mối quan hệ hợp tác Á - Âu và ASEAN, Việt Nam ngày càng chứng tỏ vị thế quan trọng của mình trong khu vực. Đồng thời việc thiết lập mối quan hệ với Việt Nam - EU sẽ có lợi thế quan trọng tại khu vực Đông Nam Á, rộng hơn Châu Á - Thái Bình Dương. Thông qua Việt Nam, EU sẽ mở rộng quan hệ thương mại với các nước trong khu vực cũng như những ảnh hưởng về chính trị. Một Liên minh Châu Âu sẽ mạnh hơn trong thời gian tới không thể không tăng cường hợp tác với Việt Nam.

doc66 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1338 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Triển vọng và những giải pháp thúc đẩy thương mại Việt Nam-EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c độ tăng bình quân mặt hàng này đạt gần 10%/năm. Kim ngạch xuất khẩu giày năm 1996 tăng hơn 30 lần so với năm 1992 và là mặt hàng có kim ngạch đứng đầu xuất khẩu hàng hoá sang EU. Giai đoạn từ 1993 đến 1999, kim ngạch xuất khẩu giày dép tăng bình quân 40 - 50%/năm 1 Nguồn: Những vấn đề kinh tế thế giới số 2/2000. tr 75 Bảng 4: Kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào EU (đ/v:triệu USD) Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Kim ngạch 26 119 271 380 520 851 630 870 Hiện nay, Việt Nam là một trong năm nước có số lượng giày dép tiêu thụ nhiều nhất ở EU do giá rẻ, chất lượng và mẫu mã chấp nhận được. Năm 1996, Việt Nam là nước đứng thứ ba (sau Trung Quốc và Inđônêxia) trong số năm nước xuất khẩu giầy nhiều nhất vào EU. Năm 2002 kim ngạch xuất khẩu giầy dép vào EU đạt 1330 triệu USD, ước đạt 1500 triệu USD vào năm 2003. Do kim ngạch xuất khẩu giầy dép của Việt Nam vào EU tăng rất nhanh nên EU đã bắt đầu quan tâm đến việc tăng trưởng xuất khẩu giày dép của Việt Nam, như thời gian qua EU đã cử đoàn sang làm việc với Hiệp hội da giầy Việt Nam và khảo sát thực tế tại Việt Nam. Chắc chắn trong thời gian tới với mặt hàng giày dép của Việt Nam, EU sẽ có những chính sách thích hợp với thị trường của họ. 2.2.3. Mặt hàng xuất khẩu của EU vào thị trường Việt Nam. Trong những năm qua, xuất khẩu của Việt Nam sang EU tăng đều đặn qua các năm với tỷ trọng tăng dần từ 10 đến 15% và đến 20% tổng kim ngạch xuất khẩu vào năm 2000. Xuất khẩu tăng tạo cơ sở cho gia tăng nhập khẩu. Hiện nay các nước EU chiếm 15% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Từ 1992 đến nay kim ngạch buôn bán hai chiều Việt Nam - EU tăng liên tục: năm 1992 tăng 52,4%; năm 1993 tăng 39,9%; năm 1994 tăng 32%; năm 1995 tăng 45,4%; năm 1996 tăng 27,5%; năm 1997 đạt trên 3,3 tỷ USD tăng 6 lần so với năm 1991; năm 1998 đạt 4,09 tỷ USD tăng 7,2% so với năm 1997; năm 1999 đạt 3,9 tỷ USD tăng 10 lần trong đó EU xuất khẩu sang Việt Nam là 1 tỷ USD 1 Nguồn: Nghiên cứu kinh tế châu Âu số 1, 2/2001; Thời báo Kinh tế Sài Gòn 16.11.2001 . Cho thấy nhập khẩu của Việt Nam từ bạn hàng EU tăng nhanh, tốc độ tăng trưởng trung bình giữa các năm 1993 - 1999 là 40%. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ EU là ô tô, xe máy nguyên chiếc, phụ tùng và linh kiện ô tô, xe máy. Nhìn chung khoảng 55% kim ngạch nhập khẩu là máy móc thiết bị trang bị cho nhiều ngành kỹ thuật cao; 20% là hoá chất, tân dược. Chúng ta thấy có một số vấn đề lớn nổi lên trong quá trình xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU đó là: Thứ nhất, kim ngạch nhập khẩu của EU từ Việt Nam dao động từ 7% đến 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, trong đó Đức và Pháp là hai trong số 10 thị trường nhập khẩu lớn nhất đối với hàng hoá của Việt Nam. Hai là, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU tăng với tốc độ bình quân khá cao: 49%/năm thời kỳ 1991-1999. Điều này chứng tỏ EU là đối tác hỗ trợ rất lớn cho những nỗ lực của Việt Nam trong việc cải thiện các cán cân thương mại. Ba là, Việt Nam đã phát huy được lợi thế so sánh của mình trong việc tập trung xuất khẩu một số mặt hàng có thế mạnh vào thị trường các nước EU. Bốn là, việc khai thông thị trường EU đòi hỏi Việt Nam phát triển cơ sở vật chất và năng lực của một số ngành tham gia vào xuất khẩu như nông nghiệp, nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, công nghiệp nhẹ như may mặc, giày da đã góp phần chuyển đổi nhanh chóng về chất lượng sản phẩm, về mẫu mã, bao bì không ngừng được đổi mới. Và qua đây cũng đặt ra câu hỏi cần giải quyết về phía các doanh nghiệp là việc phụ thuộc rất lớn vào vốn đầu tư. Để đánh giá được đầy đủ những kết quả này, trong thời gian qua các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã có những thuận lợi và trong thời gian tiếp theo, hàng hoá của Việt Nam vẫn được hưởng những thuận lợi này. Trước tiên, trong chính sách của mình, Việt Nam coi trọng hợp tác với EU và phía EU cũng coi trọng quan hệ hợp tác với Việt Nam. Hai là, những cuộc tiếp xúc và đối thoại chính trị ở cấp cao giữa Việt Nam và EU nói chung, giữa Việt Nam và các nước thành viên EU nói riêng, đặc biệt là chuyến viếng thăm của Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, Thủ tướng Phan Văn Khải đã tạo ra bầu không khí chính trị và những điều kiện khung pháp lý thuận lợi cho quan hệ giữa hai bên bước vào một thời kỳ mới với những chất lượng và hiệu quả cao hơn, hai bên đã trở thành đối tác tin cậy của nhau và coi đây là một lực đẩy để khai thác tốt hơn những tiềm năng to lớn hiện có. Ba là, trên cơ sở Hiệp định khung về hợp tác, hai bên đã từng bước thể chế hoá sự hợp tác bằng việc thiết lập ủy ban hỗn hợp bằng các hình thức trao đổi thông tin, diễn đàn, trao đổi đoàn và tiếp xúc thường xuyên, vừa hoàn thiện thêm khuôn khổ pháp lý, vừa mở rộng lĩnh vực hợp tác và vừa định hướng vào những chặng thời gian tới. Bốn là, năm năm thực hiện Hiệp định khung về hợp tác vừa thông qua không chỉ đã cho thấy quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và EU được định hướng đúng đắn và dựa trên cơ sở bền vững, mà còn đưa lại những kinh nghiệm quí giá để hai bên phát huy tốt hơn nữa những tác dụng tích cực của hiệp định và để triển khai thực hiện hiệp định hiệu quả hơn nữa trong thời gian tới. Bên cạnh đó hàng xuất khẩu của Việt Nam còn được hưởng những thuận lợi như là: EU là một thị trường chung với những chính sách và quy định chung cho cả 15 nước thành viên, như vậy Việt Nam chỉ cần quán triệt một bộ luật chơi duy nhất; Hiệp định hợp tác khung giữa Việt Nam và EU ký năm 1995 khẳng định hai bên dành cho nhau quy chế tối huệ quốc về thương mại (điều 3) và mong muốn tạo điều kiện thuận lợi để thương mại giữa Việt Nam và EU phát triển mạnh và đa dạng. Đồng thời hai bên đã ký kết những hiệp định, thoả thuận chuyên ngành về dệt may, giày dép, thủy sản...; Việt Nam là nước đang phát triển, nhiều nhóm hàng xuất khẩu của ta được hưởng hệ thống ưu đãi thuế phổ cập (GSP) mới của EU áp dụng từ 01/07/1999, tuỳ theo nhóm hàng mức thuế bằng 35%, 70%, 85% mức thuế nhập khẩu thông thường, thậm chí có nhóm hàng (như hạt điều, cao su...) được miễn thuế nhập khẩu. Riêng giầy dép Việt Nam được hưởng mức thuế nhập khẩu thấp hơn một số nước. Tuy nhiên trong những năm quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU đã tăng mười lần, bên cạnh những thuận lợi các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn gặp những trở ngại. Khó khăn đầu tiên là sự hạn chế bởi hạn ngạch nhập khẩu mà cụ thể đối với hàng dệt may Việt Nam. Mặc dù khối lượng hạn ngạch hàng dệt may đã tăng nhiều so với trước nhưng còn thấp so với khả năng cung cấp của Việt Nam và nhu cầu mua hàng của các nhà nhập khẩu EU. Hai là, hàng rào thuế quan của EU đối với một số mặt hàng nông sản mà Việt Nam có thể xuất sang EU lại rất cao như thuế nhập khẩu gạo lên đến 100%, đường gần 200% (mặc dù những mặt hàng này được hưởng GSP) trong khi một số lượng lớn hàng của nhiều nước khác được giảm nhiều hơn hoặc miễn thuế do được hưởng các ưu đãi thương mại riêng. Hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang EU khó cạnh tranh được với hàng của các nước vùng Châu Phi, Thái Bình Dương và Caribê cũng như một số nước Đông Âu, do các nước này được hưởng ưu đãi thương mại theo công ước Lomé hoặc các hiệp định liên kết. Ba là, theo quy định của EU, nước xuất khẩu phải có kế hoạch và thiết bị đầy đủ để giám sát dư lượng độc tố trong nhóm hàng nông sản và thực phẩm. Do cơ quan chức năng của Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu trên nên từ trước đến nay nhiều mặt hàng nông sản thực phẩm như thịt, mật ong ... chưa xuất được sang EU. Bốn là, khó khăn lớn mà đòi hỏi phải có nhiều nỗ lực mới vượt qua được, đó là các doanh nghiệp Việt Nam chưa làm tốt Marketing và thiếu vốn để mua nguyên liệu cần thiết. Do đó chưa lập được các quan hệ đối tác trực tiếp với nhà xuất khẩu mà phải xuất khẩu vào EU qua trung gian (theo ước tính hiện nay từ 10-45% tổng trị giá giày dép và quần áo Việt Nam xuất khẩu vào EU là thông qua trung gian). Ngoài ra chúng ta còn gặp một số khó khăn như thiết bị máy móc, công nghệ cao của các nước EU có trình độ tiên tiến hiện đại, chất lượng cao song giá lại quá cao so với khả năng thanh toán của các đối tác Việt Nam. Tiếp nữa, trong quá trình hội nhập do nhu cầu bảo hộ một số doanh nghiệp non trẻ và dự trữ ngoại tệ có hạn, một số quy định về nhập khẩu đối với một số nhóm hàng trong đó có những nhóm hàng EU xuất khẩu nhiều nhưng chưa phù hợp với khả năng xuất khẩu nguyên tắc thông lệ quốc tế, tạm thời hạn chế xuất khẩu của EU vào Việt Nam. Với những khó khăn trên, doanh nghiệp Việt Nam còn gặp trong một số ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam vào EU còn nghèo nàn về chủng loại, tập trung cao vào một số ít mặt hàng (dệt may, giày dép, cà phê) chất lượng hàng còn kém, không đạt độ đồng đều. Điều này rất dễ gây ra những nguy cơ tiềm tàng cho hàng xuất khẩu của Việt Nam khi thị hiếu, đơn đặt hàng của thị trường này thay đổi. Bên cạnh đó, trong quá trình xâm nhập hàng hoá của Việt Nam vào EU còn bị hạn chế do chất lượng hàng Việt Nam chưa được đồng đều, chưa nghiêm túc trong buôn bán với bạn hàng EU. Về lâu dài sẽ gây ra tâm lý không tốt từ phía EU, làm giảm uy tín của hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị trường này. Một tồn tại mà cũng là yếu kém của chúng ta cần phải dần được khắc phục cải tiến đó là thiết bị kỹ thuật chế biến hàng xuất khẩu còn lạc hậu gây ảnh hưởng rất lớn tới lợi thế so sánh giữa hàng Việt Nam với hàng của các nước có cùng chủng loại trên thị trường này. Trong kinh doanh buôn bán với bạn hàng EU các doanh nghiệp Việt Nam chúng ta còn chịu thiệt thòi dẫn tới lỡ cơ hội đó là việc không được cung cấp đầy đủ thông tin về thị trường, về giá cả, về thị hiếu, về mặt hàng được ưa chuộng tại các thời điểm trong năm như có một mặt hàng thay đổi mốt hai lần trong một năm. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới lợi nhuận của doanh nghiệp Việt Nam đó là hầu hết các công ty nhập khẩu lớn của những thị trường như EU, Nhật Bản... đều có văn phòng đại diện tại Việt Nam nên họ nắm bắt kịp thời về tình hình nguyên liệu của nước ta và đòi giảm giá khi nước ta bước vào vụ thu hoạch. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU luôn ở tình trạng xuất siêu. Do vậy EU cũng đòi hỏi Việt Nam phải mở cửa hơn nữa thị trường của mình cho các sản phẩm của EU xâm nhập. Đây là một thách thức đối với thị trường Việt Nam. Ngoài ra, các mặt hàng Việt Nam sẽ phải gặp khó khăn do EU áp dụng hạn ngạch bởi vì: So sánh số liệu thống kê của Việt Nam với số liệu thống kê của EU có thể thấy kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU lớn hơn rất nhiều so với kim ngạch thống kê của Việt Nam. Điều này có liên quan tới hình thức buôn bán trung gian tới một nước thứ ba và gian lận trong thương mại. Điều làm ảnh hưởng tới tiến độ tăng trưởng thương mại của hai bên là do EU trong buôn bán còn áp dụng kèm theo với các vấn đề nhân quyền. Trên đây là những thuận lợi và một số khó khăn trong hoạt động thương mại Việt Nam và EU. Tuy nhiên, có nhận xét chung là những hoạt động thương mại trong thời gian qua chưa xứng với tiềm năng của hai bên. Muốn vậy, cả hai bên cùng phải nỗ lực hơn nữa trong việc tạo cho nhau những điều kiện thuận lợi và hạn chế cũng như tháo gỡ một số rào cản không cần thiết có thể ảnh hưởng tới tăng trưởng xuất - nhập khẩu Việt Nam - EU. Việc này, phía đối tác EU được coi là những người chủ động hơn trong việc thúc đẩy tiến trình thương mại Việt Nam - EU trong thời gian tới. 2.3. Quan hệ Việt Nam với một số nước thành viên. Hiện nay, Việt Nam quan hệ buôn bán 13 trong 15 nước EU. Trong đó, Pháp, Đức, Anh và Hà Lan nằm trong danh sách những bạn hàng lớn nhất chiếm 90% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU. Bảng 5: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam và EU. Nước Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước EU (triệu USD) Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ các nước EU (triệu USD) 1991 1995 1999 1991 1995 1999 Đức 6,7 218,0 654,3 101,2 175,5 270,8 áo 5,9 9,4 34,9 2,5 15,3 27,3 Bỉ 0,1 34,6 360,7 6,8 21,7 70,8 Đan Mạch - 3,5 43,7 - 43,4 27,9 Tây Ban Nha 0,7 8,8 108 - 1,7 27,4 Phần Lan - 2,1 16,9 10 11,7 19,1 Pháp 83,1 169,1 354,9 147,9 276,6 301,1 Hy Lạp - 0,5 5 - 1,1 Ai-len - 9,2 1,9 - 11,9 Italy 3,8 57,1 159,4 1,2 53,6 97,1 Luxembourg - 0,1 - 1 Hà Lan 16,1 79,8 342,9 8,4 36,3 48,9 Bồ Đào Nha - 0,8 4 3,4 Anh 2,4 74,6 421,2 9 50,7 96,5 Thụy Điển 1,2 4,7 45,2 14,2 22,6 48,5 Tổng số của EU 120,2 672,2 2.499 301,2 710,1 1051,8 Tổng số các nước trên thế giới 2.087 5.448,9 11540 2338,1 8155,4 11622 (Nguồn: Bộ thương mại Việt Nam.) 2.3.1. Quan hệ thương mại Việt Nam với Đức Ngay từ những định hướng đầu tiên trong chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, thị trường EU nói chung và thị trường Đức nói riêng đã được các doanh nghiệp Việt Nam chú ý. Kim ngạch hai chiều đã tăng trưởng một cách rõ rệt. Nếu như năm 1990 tổng kim ngạch xuất khẩu Việt - Đức mới chỉ đạt 159,9 triệu USD thì năm 1995 con số này đã tăng lên là 393,5 triệu USD; năm 1999 là 925 triệu USD và trên1033 triệu USD năm 2000*(Tổng cục hải quan). Bảng 6: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt - Đức (đơn vị tính triệu USD) 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1999 2000* Tổng kim ngạch XNK 159,9 107,9 75 121,1 264,3 393,5 925,1 1033.112 Kim ngạch xuất khẩu 41,1 6,7 34,4 50,1 115,2 218 659,3 730.083 Kim ngạch NK 118,5 101,2 40,6 72,0 149,1 17,5 270,8 303.029 Nguồn: Báo cáo Bộ thương mại; * Tổng cục hải quan; Niên giám thống kê-Tổng cục thống kê; Nhìn từ góc độ của Việt Nam mối quan hệ thương mại, Đức là bạn hàng thương mại đứng đầu trong thị trường thống nhất EU đã phát triển tương đối khả quan trong những năm qua. Theo số liệu thống kê của Đức, từ 1991 - 1999 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã tăng hơn 900%, với tổng kim ngạch hiện nay lên tới trên 1 tỷ USD. Đức là một thị trường tiềm năng đầy sức hấp dẫn dường như nhiều khía cạnh chưa được các nhà xuất khẩu Việt Nam khai thác như GDP của Đức hiện nay đạt trên 2100 tỷ USD, nhập khẩu trị giá hàng năm là 600 tỷ USD, đặc biệt ở Đức với số dân hơn 82 triệu đang lão hoá ngày càng hướng nhiều hơn đến việc hưởng thụ và tiêu dùng. Trong buôn bán với bạn hàng Đức, thì Việt Nam đã đạt mức thặng dư thương mại lên tới 700 triệu USD vào năm 1999. Đức trở thành một đối tác quan trọng nhất của Việt Nam trong việc mở rộng bán hàng hoá vào thị trường này. Nhiều nhóm thành phẩm của Việt Nam đã dành được chỗ đứng trong những năm qua. Các sản phẩm chế biến đã chiếm 85% tổng giá trị xuất khẩu (860 triệu USD) vào năm 1999. Các sản phẩm xuất khẩu chính của Việt Nam là hàng dệt chiếm khoảng 40%, giầy và các sản phẩm khác từ da khác chiếm 22% thị phần (220 triệu USD), đồ nhựa chiếm 11,5%. Với trình độ khoa học kỹ thuật, khả năng thiết bị công nghệ tiên tiến còn hạn hẹp thì việc xuất khẩu những sản phẩm trên vào được thị trường với những đòi hỏi khắt khe về chất lượng sản phẩm quả là một thành công không nhỏ đối với mặt hàng xuất khẩu của ta. Tuy nhiên, xét về lâu dài chúng ta cần phải đi sâu vào sản xuất các mặt hàng có khả năng cạnh tranh cao không chỉ riêng với thị trường Đức mà còn cả với EU cần phải đi vào sản xuất các mặt hàng chế biến tinh với kỹ thuật công nghệ cao, tận dụng các lợi thế so sánh. Muốn như vậy cần phải căn cứ vào khả năng và nhu cầu để nhập những thiết bị công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển. Cộng hoà Liên bang Đức là một nguồn cung cấp đáng tin cậy các thiết bị công nghệ này. Kim ngạch nhập khẩu từ Đức tăng từ 118,5 triệu USD năm 1990 lên 175 triệu USD (1995); 270,8 triệu USD (1999) và năm 2000 là 328.967 triệu USD, trong đó riêng các thiết bị trong ba năm từ 1993 đến 1995 chúng ta đã nhập 16,6 triệu DM loại thiết bị nhập từ Đức. Bảng 7: Một số loại thiết bị nhập từ Đức (đơn vị tính 1000 DM) Loại thiết bị 1993 1994 1995 Thiết bị xây dựng 1408 3231 5150 Máy sản xuất vật liệu xây dựng 282 813 406 Thiết bị khai thác mỏ 366 19 733 Sử lý khoáng sản 941 1692 2580 Tổng 2997 5737 7896 Nguồn: Thời báo kinh tế số 11 từ 14-20/3/1998. Tóm lại, sự thay đổi cơ cấu và tỷ trọng cho thấy xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Đức đã phát triển nhiều hơn theo hướng những lợi thế so sánh về chi phí. Đa dạng hoá hàng xuất khẩu là chìa khoá cho sự thành công xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua và cũng định hướng cho những năm tới. 2.3.2. Quan hệ thương mại Việt Nam - Anh. Với Việt Nam, so với các bạn hàng khác, thì Anh là một bạn hàng buôn bán đến muộn. Song mối quan hệ này đã phát triển nhanh chóng trong những năm qua. Mối quan hệ này đã trải qua 25 năm phát triển nó không ngừng củng cố và thúc đẩy mối quan hệ kinh tế thương mại hai chiều. Vương quốc Anh là một trong số 15 thành viên của EU và cũng là nước nằm trong khối thịnh vượng chung, từ cuối thế kỷ 18 đầu 19 Anh đã trở thành nước công nghiệp hoá đầu tiên trên thế giới. Đến nay, Anh là quốc gia thương mại lớn thứ năm trên thế giới nên Anh quốc là một bộ phận của nhóm các nước thiết lập nên nền thương mại thế giới. Hiện nay đầu tư trực tiếp của Anh vào Việt Nam tính tổng cộng trên 500 triệu USD và hiện đứng thứ mười ba trong số các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và đứng thứ ba trong số các nước Châu Âu đầu tư vào Việt Nam. Bên cạnh đó, Anh cũng giúp Việt Nam trong vấn đề xoá đói giảm nghèo trong quan hệ văn hoá - giáo dục và coi đây là những động lực chính để phát triển quan hệ hợp tác. Thương mại và đầu tư được coi là “chiều khoá” cho mối quan hệ hai nước. Thương mại hai chiều năm 1997 vào khoảng 500 triệu USD, trong đó bao gồm: xuất khẩu của Anh sang Việt Nam tăng gấp đôi tới 154,5 triệu USD. Xuất khẩu Việt Nam vào Anh tăng 35% với tổng giá trị là 344 triệu USD (ở đây chưa kể tới buôn bán gián tiếp trị giá 75,1 triệu USD/năm thông qua Singapore và Hồng Kông). Tổng kim ngạch buôn bán hai chiều giữa hai nước trị giá gần 600 triệu USD và 178,3 triệu USD từ tháng 1-5/1998. Năm 1999 Việt Nam xuất khẩu vào Anh 421,2 triệu USD và 479,277 triệu USD năm 2000 và nhập khẩu trở lại tương ứng là 96,524 triệu USD; 150,458 triệu USD1 Báo ngoại thương số 1-10 tháng 03/2001 . Anh là một thị trường lớn với nhu cầu nhập khẩu ngày càng tăng, đặc biệt là về sản phẩm nhiệt đới. Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu nông sản, hải sản cũng như một số mặt hàng tiêu dùng khác như giày dép và hàng lưu niệm. Hàng hoá Việt Nam tại thị trường Anh còn nghèo về chủng loại và hạn chế về số lượng. Nếu các nhà xuất khẩu của Việt Nam hiểu được đầy đủ hơn cách làm ăn của người Anh, có cách tiếp thị tích cực hơn, chủ động đi tìm các lĩnh vực và mặt hàng còn ít người quan tâm hoặc những cái mà Việt Nam có lợi thế riêng thì triển vọng tăng xuất khẩu sang Anh không phải là nhỏ. Quan hệ Việt - Anh trong thời gian tới sẽ có những bước phát triển to lớn, đáp ứng với những tiềm năng của cả hai bên. Trong đó Anh đã cam kết tự do hoá thương mại và đi đầu trong việc mở cửa thị trường Châu Âu cho hàng hoá Việt Nam xâm nhập. Tiếp đó là sự thâm nhập dần của Việt Nam vào WTO sẽ cải thiện được lối vào của thị trường thế giới và thúc đẩy quan hệ thương mại Việt - Anh phát triển hơn nữa. 2.3.3. Quan hệ thương mại Việt Nam với Pháp. Quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Cộng hoà Pháp thực sự có những bước tăng trưởng đáng kể từ hơn một thập kỷ nay. Trong quan hệ thương mại, năm 1991 là năm đầu tiên kim ngạch buôn bán hai chiều vượt ngưỡng 1 tỷ FFr; năm 1998 tăng lên 5,13 tỷ; năm 1999 là 5,3 tỷ và năm 2000 đạt 5,53 tỷ FFr 1 Báo thương mại số 10 năm 2000, trang 24 . Việt Nam xuất khẩu sang Pháp chủ yếu là hàng giày dép, may mặc, đồ gỗ, đồ da, mây tre, thủ công mỹ nghệ, chè, cà phê.. đồng thời nhập khẩu trở lại máy móc thiết bị hàng tiêu dùng, dược phẩm, thiết bị điện, sản phẩm chế tạo... Tốc độ gia tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Pháp trong suốt thập kỷ qua khá nhanh và khá vững chắc với khoảng 41%/ năm, trong đó nhiều năm Việt Nam đạt ở mức xuất siêu sang Pháp. Những năm gần đây, cơ cấu hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Pháp có nhiều thay đổi theo hướng giảm dần nhóm hàng nguyên liệu (nông - lâm - hải sản), trong khi tăng dần nhóm hàng công nghiệp chế biến. Không chỉ thay đổi về chủng loại mà chất lượng và mẫu mã hàng xuất khẩu cũng được nâng lên và cải tiến đáng kể. Cụ thể những "mặt hàng mới" ngày càng chiếm tỷ trọng lớn. Tháng 3/2000, Bộ thương mại Việt Nam và Bộ nông - ngư Pháp đã ký biên bản thoả thuận về đấu tranh chống hàng giả và bảo vệ tên gọi xuất xứ các mặt hàng nông thủy sản và thực phẩm. Theo đó hai nước sẽ phối hợp hành động trong các dự án đào tạo về hệ thống luật, trình tự, thủ tục hành chính, kiểm tra trong kinh doanh và trấn áp hàng hoá gian lận. Trong thời gian tới, để tăng cường quan hệ thương mại giữa hai nước đặc biệt là việc đẩy mạnh xuất nhập khẩu hàng hoá cuả Việt Nam sang thị trường Pháp, các doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm đến các yếu tố sau: Trong nhiều nhân tố có ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến quan hệ thương mại và hợp tác kinh tế song phương, tình hình kinh tế hai nước đang ổn định và tăng trưởng vững chắc là điều kiện thuận lợi trước hết và cơ bản cho các doanh nghiệp Việt Nam và Pháp khai thác hết thế mạnh của mình. Cơ chế chính sách cũng là một yếu tố quan trọng tác động đến quan hệ thương mại trong những năm qua, cơ chế chính sách liên quan đến thương mại của cả hai nước đã được cải thiện nhiều. Tuy thế, các doanh nghiệp của ta vẫn bị ràng buộc nhiều dẫn đến bỏ lỡ không ít cơ hội làm ăn. Tới đây, cơ chế chính sách cần thông thoáng hơn để cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể cạnh tranh bình đẳng với các đối thủ khác trên thị trường Pháp. ơ Hoạt động thương mại của tất cả các nước thành viên EU đều theo một chính sách chung do đó khi chúng ta dành được sự ưu đãi nào đó của EU thì đương nhiên cũng là ưu đãi của từng nước EU, trong đó có Pháp. Vấn đề nắm bắt thông tin về thị trường của các doanh nghiệp nước ta trong thời gian qua còn yếu. Gần đây, nhiều doanh nghiệp nước ta đã bắt đầu chủ động cử đoàn đi khảo sát thị trường mở chi nhánh và văn phòng đại diện tại Pháp - đó là hướng đi đúng cần được khuyến khích. Tới đây cơ quan thương mại tại Pháp cần hỗ trợ hơn cho các doanh nghiệp của ta theo hướng này1 Trích Báo thương mại số 10-2000 . Các cuộc đối thoại chính trị giữa lãnh đạo cấp cao hai nước được duy trì thường xuyên, đó là luồng sinh khí cho sự tăng cường hiểu biết lẫn nhau và tạo điều kiện cho hai nước phối hợp hành động trong các vấn đề quốc tế và song phương vì lợi ích của cả hai nước. 2.3.4. Quan hệ thương mại Việt nam - Hà Lan. Quan hệ Hà Lan - Việt Nam được hình thành từ đầu thế kỷ 17. Năm 1632, khi công ty thương mại Đông ấn của Hà Lan đặt trụ sở tại Hội An thì người Hà Lan đã có thương cảng đầu tiên ở Việt Nam. Quan hệ Ngoại giao giữa Việt Nam - Hà Lan được chính thức thiết lập vào ngày 03/04/1973 và Đại sứ quán Hà Lan ở Hà Nội mở vào năm 1976, gần đây quan hệ kinh tế thương mại giữa hai bên ngày càng được tăng cường và phát triển. Hà Lan là bạn hàng thương mại lớn thứ 17 của Việt Nam và là bạn hàng thứ 4 của Việt Nam trong EU sau Pháp, Đức, Anh. Quy mô buôn bán đang được mở rộng và kim ngạch xuất nhập khẩu tăng liên tục trong nhiều năm (34,6%). Việt Nam luôn ở vị trí xuất siêu sang Hà Lan và mức xuất siêu ngày càng lớn, năm 1999 kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang Hà Lan đạt 434 triệu USD, thặng dư đạt 294 triệu USD2 Nguồn: Nghiên cứu châu Âu số 4/2000 . Bảng 8: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Hà Lan giai đoạn 1990-2000 (triệu USD) Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Nhập siêu 1990 6,4 2,7 3,7 1991 16,2 8 8,2 1992 20,1 16 4,1 1993 28,1 26 2,1 1994 61 25 36 1995 80 36,3 43,7 1996 147,4 51,4 96 1997 266,8 50,5 216,3 1998 304,1 54 250,1 1999 343 49 294 2000* 390.240 86.026 304.114 Nguồn: Niên giám thống kê 1999, *Tổng cục hải quan, Bộ thương mại. Về cơ cấu hàng hoá các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Hà Lan là giày dép, hàng may mặc trừ len, gạo, cà phê, chè, gia vị, hải sản và than đá... Đồng thời nhập khẩu các sản phẩm: máy móc, thiết bị vận tải, dược phẩm, hoá chất hữu cơ... Tuy nhiên, luồng thương mại từ Hà Lan sang Việt Nam còn quá nhỏ, kim ngạch nhập khẩu cao nhất của Việt Nam từ Hà Lan trong những năm gần đây là 54 triệu USD; năm 1999 con số này chỉ đạt 49 triệu USD. Thương mại với Việt Nam chỉ chiếm 1% thương mại của Hà Lan với Châu á. Hà Lan vẫn luôn đóng vai trò truyền thống tích cực trong hợp tác phát triển, giúp cải thiện mức sống của các nước đang phát triển. Vì vậy triển vọng phát triển hợp tác Việt Nam - Hà Lan không có hạn chế và sẽ tốt đẹp. 2.3.5. Quan hệ thương mại Việt Nam - Thụy Điển. Vương quốc Thụy Điển là một trong những nước phương Tây thiết lập quan hệ Ngoại giao với Việt Nam ở cấp đại sứ từ 11/1/1969. Trong công cuộc đổi mới của Việt Nam cũng như trong quan hệ thương mại Việt Nam luôn nhận được sự ủng hộ tích cực từ phía đối tác Thụy Điển. Theo số liệu thống kê, hiện nay quan hệ thương mại hai nước còn ở mức thấp nhưng trên thực tế, một số lượng hàng hoá trao đổi giữa hai nước còn qua những công ty ở nước thứ ba. Tuy nhiên, từ năm 1980 trở lại đây mặc dù kim ngạch buôn bán ở Việt Nam và Thụy Điển đã có những chuyển biến tích cực, song Việt Nam luôn ở vị thế nhập siêu trong cán cân thương mại. Nếu ở thời kỳ 1980-1995 quan hệ buôn bán giữa hai nước chỉ ở mức dưới 30 triệu USD mỗi năm với số lượng xuất khẩu cuả Việt Nam sang Thụy Điển không vượt quá 10 triệu USD thì từ năm 1996 trở lại đây, kim ngạch xuất nhập khẩu đã đạt xấp xỉ 100 triệu USD, thậm chí năm 1998 con số này đã lên tới 136 triệu USD, trong đó xuất khẩu đạt 58 triệu USD còn nhập khẩu đạt 78 triệu USD. Năm 1999, mậu dịch song phương giữa hai nước đạt gần 94 triệu USD với giá trị xuất nhập khẩu tương ứng là 45,3 và 48,6 triệu USD. Bảng 9: Tình hình xuất khẩu các mặt hàng chủ yếu của Việt Nam sang Thụy Điển năm 1999 Tên hàng Đơn vị tính Lượng Trị giá (USD) Lượng Trị giá (USD) Giày dép USD 5.652.538 45.237.004 Hàng dệt may USD 966.658 11.214.9438 Cà phê Tấn 21 21.210 435 589.920 Cao su Tấn 241 154.491 Hải sản USD 713.565 Hạt điều Tấn 27 154.694 Gạo Tấn 86 29.090 Hạt tiêu Tấn 13 45.570 Hàng thủ công mỹ nghệ USD 139.497 1.453.718 Linh kiện vi tính và phụ kiện USD 297.626 Hoa quả tươi khô USD 3.972 Giày dép các loại USD 3.156.822 16.560.317 Nguồn: Tổng cục hải quan. Năm 2000, Việt Nam nhập khẩu 44.021 triệu USD, xuất khẩu 55.060 triệu USD1 Ngoại thương 1-10/3/2001. . Về cơ cấu hàng hoá: các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Thụy Điển là giày dép, hàng may mặc trừ len, thực phẩm, hàng chế biến... Và nhập từ thị trường này các mặt hàng: thiết bị viễn thông kỹ thuật cao, máy móc, sắt thép các loại, sản phẩm hoá chất hỗn hợp, thiết bị điện... Trong thời gian tới, chúng ta tin tưởng vào triển vọng của các mối quan hệ thương mại song phương sẽ bước sang một giai đoạn mới, tỷ trọng kim ngạch buôn bán hai chiều của Việt Nam và các nước thành viên trong Liên minh Châu Âu tăng lên cả về số lượng cũng như chất lượng. Chương 3: Triển vọng và những giải pháp thúc đẩy thương mại Việt nam - EU Quan hệ thương mại Việt nam - EU được đánh dấu từ khi bình thường hoá ngoại giao (11/1996) đã có những kết quả to lớn từ hai phía. Đây chính là sự nỗ lực của Việt Nam - EU mong muốn thúc đẩy hơn nữa đặc biệt là trong quan hệ thương mại. Tuy nhiên, quan hệ thương mại giữa Việt Nam - EU còn ở mức khiêm tốn chưa xứng đáng với tiềm năng của hai bên. 3.1. Triển vọng. 3.1.1. Lợi thế trong triển vọng hợp tác thương mại giữa Việt Nam - EU. * EU không chỉ ngày càng thấy rõ vị trí địa lý và vai trò chính trị quan trọng của Việt Nam ở Đông Nam á và trên thế giới mà còn thấy tiềm năng to lớn về kinh tế, tài nguyên con người có học thức, có văn hoá của Việt Nam. Việt Nam không chỉ là một đối tác rất quan trọng với họ trong buôn bán và làm ăn, mà còn là một cửa ngõ giúp họ mở rộng quan hệ với các nước ở Đông Dương, Đông Nam á, Châu á cũng như tại các diễn đàn, khu vực và thế giới. Nằm trong khu vực được đánh giá có mức tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới, nhiều nước láng giềng tiến nhanh hơn Việt Nam nhưng chính điều này lại tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập dễ dàng hơn. EU cũng thấy có nhu cầu muốn Việt Nam mở rộng quan hệ về các mặt với EU, từ đó có những tiến bộ về kinh tế, khoa học kỹ thuật và công nghệ của EU cũng như điều kiện thu hút các khu vực khác của thế giới làm cho quan hệ quốc tế của EU được đa dạng và nhiều chiều hơn. Việt Nam là nước duy nhất ở Đông Nam á mà Châu Âu hiểu rõ nhất, người Châu Âu cũng hiểu người Việt Nam hơn các nước trong vùng. Liên minh Châu Âu dành cho Việt Nam quy chế tối huệ quốc (MFN) và đặc biệt là quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) thường được dành cho các nước đang phát triển nên Việt Nam có điều kiện thuận lợi mở rộng buôn bán sang thị trường Châu Âu với diều kiện duy nhất là đảm bảo chất lượng hàng hóa. Điều này có ý nghĩa thực tiễn to lớn vì trong khi Việt Nam chưa phải là thành viên WTO Việt Nam vẫn được hưởng quy chế ưu đãi trên. Việt Nam là thành viên của ASEAN, APEC, các khối kinh tế này có mối quan hệ rộng và từ lâu với EU và thông qua hợp tác hữu nghị á - Âu (ASEM) mà Việt Nam với tư cách là thành viên sáng lập sẽ có những mối quan hệ hợp tác chặt chẽ hơn giữa ASEAN và EU với mục tiêu hàng đầu là tăng cường thương mại và đầu tư giữa hai khu vực. Điều đó có nghĩa là Việt Nam sẽ có thêm điều kiện mở rộng hợp tác nhiều mặt trong nhiều lĩnh vực với EU. EU cũng muốn tăng cường sự có mặt để củng cố quan hệ cạnh tranh ba phía với Mỹ - Châu Âu - Nhật Bản ở khu vực đầy năng động này. Trong buôn bán thế giới, các nước trong khối ASEAN cũng muốn có EU như một đối trọng với Mỹ ở một số lĩnh vực. * Phía Việt Nam: Việt Nam coi trọng thúc đẩy quan hệ hợp tác về kinh tế thương mại với EU. Thực tế đã chứng minh điều này và trong thời gian tới Việt nam thực sự muốn nỗ lực hơn đặc biệt trong quan hệ thương mại với EU với triển vọng vô cùng to lớn, với một Liên minh Châu Âu ngày càng mở rộng hơn ra bên ngoài sẽ là một thị trường có số dân 545 triệu dân, sản xuất hơn 20% lượng hàng hoá và dịch vụ thế giới và trở thành thị trường lớn trên thế giới. Một EU sẽ được thiết lập với ba vành đai kinh tế, trong đó cộng đồng Châu Âu là một hạt nhân. Hiệp hội thương mại tự do Châu Âu là vành đai thứ hai và một số nước Đông Âu là vành đai thứ ba. Điều này sẽ tạo những cơ hội cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường rộng lớn trong tương lai. Đồng thời EU cũng là đối tác luôn ủng hộ Việt Nam gia nhập vào các tổ chức thương mại thế giới WTO. Do đó EU sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hoá Việt Nam như tăng khả năng cạnh tranh so với các đối thủ khác. Quan hệ hợp tác về kinh tế thương mại gữa Việt Nam - EU trong tương lai sẽ tạo ra cân bằng trong quan hệ buôn bán với các cường quốc lớn như Mỹ, Nhật Bản và các nước trong khu vực như: Trung Quốc, NICs, ASEAN 6. Trong tương lai với sự trợ giúp tích cực từ phía EU và bản thân từng thành viên của EU sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp xúc với khoa học công nghệ đứng thứ hai sau Mỹ. Việc này sẽ tác động mạnh mẽ tới hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam như chất lượng được nâng cao, hàm lượng chất xám trong sản phẩm cao, do đó ảnh hưởng tốt tới lợi thế cạnh tranh so với hàng hoá của các nước khác. Vì là một thị trường khó tính nên yêu cầu chất lượng cao đảm bảo một số tiêu chuẩn quốc tế như mã vạch, bao bì, an toàn.. Đương nhiên khi hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đảm bảo tốt tiêu chuẩn trên có nghĩa là sẽ đứng vững trên thị trường cạnh tranh khốc liệt này. Do vậy tương lai hàng hoá Việt Nam sẽ có khả năng xuất khẩu được nhiều thị trường hơn. 3.1.2. Những thách thức trong hợp tác thương mại giữa Việt Nam - EU. Luật pháp chính sách quản lý kinh tế - thương mại của Việt Nam chưa hoàn chỉnh. Luật pháp chính sách là công cụ quan trọng để đảm bảo hội nhập thành công, kinh tế phát triển. Các hoạt động hợp tác kinh tế đang diễn ra theo thể chế kinh tế thị trường, theo xu thế tích cực tự do hoá, theo "luật chơi" của các thể chế kinh tế quốc tế và khu vực. Nhưng hệ thống đồng bộ gây khó khăn cho chúng ta khi đáp các cam kết của các tổ chức kinh tế quốc tế. Việc hoàn chỉnh luật pháp chính sách của ta phù hợp với thông lệ quốc tế, những nguyên tắc và các tổ chức mà nước mình tham gia, vừa phù hợp với đặc thù của nước ta, đặc biệt là định hướng xã hội chủ nghĩa. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu. Các doanh nghiệp còn yếu cả về sản xuất và quản lý. Doanh nghiệp nước ta hầu hết là quy mô nhỏ yếu kém cả về hai mặt quản lý và công nghệ, lại hình thành và hoạt động quá lâu trong cơ chế bao cấp. Chúng ta cũng chưa tạo đủ cơ chế, biện pháp có hiệu lực nhằm kích thích thúc đẩy các doanh nghiệp gắn sự tồn tại và phát triển của mình với việc cải tiến sản xuất kinh doanh với khả năng cạnh tranh trên thương trường, nhất là thương trường quốc tế. Khả năng tiếp thị và trình độ Marketing của các doanh nghiệp trên trường quốc tế còn yếu. Cụ thể là khi thực hiện một dự án hợp tác thì phía các doanh nghiệp không muốn tham gia tích cực vào phần hàng hóa và làm nhiệm vụ Marketing quốc tế. Đây là hạn chế nhất của các doanh nghiệp Việt Nam vì như thế Việt Nam sẽ dần dần mất đi tính chủ động trên thị trường thế giới cũng như không nắm được nhu cầu thị hiếu của khách hàng và điều đó dẫn đến vai trò của doanh nghiệp Việt Nam bị chi phối trong các hợp tác. Một hạn chế nữa mà các doanh nghiệp Việt Nam thường gặp phải đó là vấn đề vốn tài chính, nguồn nguyên liệu và nguồn nhân lực có trình độ khoa học công nghệ cao (tuy nhiên đây không phải là vấn đề làm giảm tính hấp dẫn của các doanh nghiệp Việt Nam). Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ tận dụng được 40% năng lực của mình tại thị trường EU 70%. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt nước ta vào EU được thực hiện thông qua các nhà trung gian như Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc và Đức. Thực tế là còn nhiều chủng loại mặt hàng có hạn ngạch nhưng hiện nay vẫn chưa có doanh nghiệp nào sản xuất những mặt hàng yêu cầu trang thiết bị của công nhân lành nghề và có tay nghề kỹ thuật cao nhưng các doanh nghiệp của nước ta chưa đáp ứng được. Trong tương lai, thị trường tiếp tục mở rộng. Nếu ta không đầu tư để lấp các lỗ hổng về kỹ thuật thì sẽ mất đi một tiềm năng to lớn về thị trường. Cùng với vấn đề đặt ra là làm sao chúng ta có thể tiếp cận thị trường và xuất khẩu trực tiếp sang thị trường EU. 3.2. Những giải pháp. Để tăng cường quan hệ thương mại Việt Nam - EU hơn nữa không chỉ một bên tham gia mà cần có sự hợp tác tích cực của hai bên. 3.2.1. Về phía EU. Phía EU cần phải ưu tiên hơn nữa trong chính sách của mình đối với Việt Nam trong việc thúc đẩy hơn nữa quan hệ thương mại hai bên như tăng thêm hạn ngạch cho một số hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam cũng như cho Việt Nam hưởng hệ thống ưu đãi (GSP), tạo thuận lợi cho phía Việt Nam trong việc công nhận kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế thị trường. Trong việc tiếp cận thị trường EU là một thị trường đơn nhất nhưng lại rất đa dạng bởi vì: EU bao gồm 15 nước thành viên và mỗi nước có một yêu cầu, đòi hỏi về chủng loại khác nhau. Do vậy, việc EU tích cực trao đổi thông tin cùng với phía Việt Nam về thị hiếu thị trường của nhau là cần thiết. EU cũng nên tạo điều kiện hơn nữa cho hàng hoá Việt Nam được xuất khẩu trực tiếp vào thị trường của mình. Về phía Việt Nam coi vấn đề thông tin hai chiều về thị trường là vô cùng quan trọng đối với lợi thế của hàng hoá Việt Nam cũng như hàng của EU. Vấn đề này cần được sự giúp đỡ tích cực từ hai phía, đặc biệt nên chủ động hơn từ phía EU như cung cấp các thông tin cần thiết vế các mặt hàng để những nhà sản xuất Việt Nam có thể chủ động đáp ứng những tiêu chuẩn của EU. Đây là sự giúp đỡ cụ thể trong yêu cầu giúp đỡ rộng hơn về xúc tiến thương mại - giới thiệu cho phía Việt Nam về thị trường đơn nhất Châu Âu với hệ thống thuế quan phổ cập, các biện pháp phi hạn ngạch, thủ tục xuất - nhập khẩu, tiêu chuẩn chất lượng, giá cả vv.. EU cần phải tích cực hơn nữa trong việc hợp tác với Việt Nam trong việc kiểm định lại nguyên tắc xuất xứ của hàng hoá để tránh gian lận trong thương mại của hàng xuất khẩu Việt Nam sang EU. Trong trao đổi kinh nghiệm: Phía EU nên chủ động hơn trong việc dẫn dắt, tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy các chương trình hợp tác với Việt Nam vì những lợi ích chung và lợi ích của chính mình. Điều này giúp cho các thành viên EU trong buôn bán, kinh doanh tại thị trường Việt Nam làm quen, tránh bỡ ngỡ, cảm giác về Việt Nam là thị trường rủi ro . Nhiều những quan niệm khác nhau và các vấn đề chính trị nhạy cảm như dân chủ, nhân quyền và khác biệt văn hoá. Do vậy cần loại bỏ các rào cản về nhân quyền, dân chủ mà EU thường hay kèm theo trong các hợp đồng. Điều quan tâm nhất, về phía EU nên nỗ lực hơn trong sự tăng cường hiểu biết của các doanh nghiệp cả hai bên về thị trường của nhau. Bên cạnh đó EU thúc đẩy việc thực hiện đầy đủ, có hiệu quả những điều khoản mà EU và Việt Nam đã ký kết trong các hiệp định 3.2.2. Về phía Việt Nam. Để đáp lại Việt Nam cần phải có những ưu tiên hơn nữa trong chính sách của mình đối với các đối tác của EU. Cụ thể coi vai trò của nhà nước là cực kỳ quan trọng như công khai và thể chế hoá những chủ trương chính sách, cải tiến cơ chế xuất - nhập khẩu không phải chỉ trên định hướng chung mà cả trong các nghiệp vụ mang tính thủ tục hành chính cần phải thông thoáng hơn "một cửa". Việt Nam cần phải ban hành hệ thống luật trong đó có luật thương mại phù hợp với các quy định trong tiến trình tham gia WTO mà cả Việt Nam và EU thảo luận. Trong chủ động tìm hiểu về thị trường EU: Các doanh nghiệp Việt Nam thường thiếu thông tin hiểu biết kịp thời về thị trường EU nên chúng ta thường hay thiệt thòi trong thương mại. Việt Nam cần phải bảo đảm một thị trường ổn định như ban hành chính sách phù hợp với các "luật chơi", giá cả, cung cầu… Việt Nam cũng cần phải có những chiến lược phù hợp đối với mỗi mặt hàng chủ lực của Việt Nam, có như vậy mới tận dụng được các lợi thế mà EU dành cho và hình ảnh (uy tín) hàng xuất khẩu của Việt Nam được nâng cao. * Các giải pháp cụ thể: Đối với thị trường: Liên minh Châu Âu là một thị trường rộng lớn, đầy tiềm năng đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới. Hiện tại, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam luôn tăng cao ở mức xuất siêu. Bên cạnh đó, hàng xuất khẩu của Việt Nam đã xâm nhập hầu hết các nước trong Liên minh Châu Âu và được hưởng với mức thuế ưu đãi của EU. Tuy nhiên, trong thời gian tới hàng hoá của Việt Nam sẽ gặp khó khăn. Do vậy, để nâng cao xuất khẩu lâu dài và ổn định nhất thiết các doanh nghiệp Việt Nam phải có những giải pháp hợp lý. Cụ thể: với thị trường phải có những giải pháp như thế nào cho hàng hoá Việt Nam thâm nhập dễ dàng hay đối với sản phẩm phải làm gì?. Để cho ra đáp số cho từng giải pháp thì đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải có một cách phân tích xác thực. Trước tiên thực lực của các doanh nghiệp như thế nào, thứ hai là những khả năng của thị trường rộng lớn này. Những cảm giác dễ dãi đợi chờ sự trợ giúp của Chính phủ, những ưu đãi từ phía EU cần phải được đánh giá đúng chính là sự nỗ lực từ phía các doanh nghiệp Việt Nam là chính bởi vì những lợi thế này không phải là lâu dài đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Điều mà các doanh nghiệp phải làm ở đây là phải làm quen với sự cạnh tranh gay gắt khi Việt Nam tham gia vào WTO. Nếu không có sự chuẩn bị trước, sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không trụ vững được trên thị trường quốc tế hay đơn giản hơn là thị trường trong nước. Trước hết qua thực tiễn quan hệ buôn bán với bạn hàng chúng ta thấy một điều EU tuy rộng lớn, dễ dãi nhưng cũng rất khắt khe. Do vậy để đáp ứng những đòi hỏi này thì doanh nghiệp Việt Nam phải tìm hiểu kỹ lưỡng về thị hiếu của thị trường như những thị hiếu thay đổi theo mùa, mốt, theo thị hiếu của từng nước thành viên EU. Chúng ta thấy rõ một điều hiển nhiên khi hàng hoá xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua chúng ta đã gặp không ít khó khăn do không tìm hiểu kỹ lưỡng thị trường, do công tác quảng cáo sản phẩm của chúng ta còn yếu kém nhạy cảm đối với sự thay đổi của thị hiếu, do đây là thị trường với nhiều quốc gia và tất nhiên thị hiếu của từng nước thành viên của EU cũng rất khác nhau, đó là một khó khăn mà trong thời gian tới chúng ta phải làm tốt. Các doanh nghiệp Việt Nam còn mắc ở chỗ là kinh phí cho khâu quảng cáo, khâu nghiên cứu thị trường còn rất hạn chế . Do vậy để bù đắp được những hạn chế này, Chính phủ và các doanh nghiệp hai bên cần phải tăng cường trao đổi về những khó khăn. Hiện tại EU và việt nam cùng hợp tác trao đổi qua các kênh thông tin mà các doanh nghiệp của cả hai bên có được những thông tin cần thiết, kịp thời. Tuy nhiên việc làm này chưa được liên tục. Do vậy, trong thời gian tới với sự thông suốt lợi ích đôi bên thì cả phía Việt Nam và EU cần phải tăng cường hơn nữa trong đó sự nỗ lực từ phía EU là rất cần thiết . Thứ hai là các doanh nghiệp Việt Nam chúng ta đã có phần “choáng ngợp” với thị trường rộng lớn trong tương lai khi EU mở rộng cửa cho các thành viên mới tham gia. Tuy nhiên, đây cũng là dấu hiệu cho thấy quan hệ thương mại Việt Nam – EU sẽ có phần nào giảm đi do sớm muộn các nước thành viên mới sẽ là thành viên của EU và tất nhiên EU cũng sẽ dành những ưu đãi cho những nước này . Do vậy trong thời gian tới để giành được thị trường này Chính phủ Việt Nam cần phải tăng cường hợp tác về mọi mặt với EU. Đây chính là sự hỗ trợ rất lớn trong quan hệ buôn bán mà hai bên dành cho nhau, EU cũng đã nhận thấy ở thị trường Việt Nam có những lợi thế cho các sản phẩm xuất khẩu của EU. Thứ ba là doanh nghiệp Việt Nam phải tích cực và chủ động hơn nữa trong việc tiếp cận thị trường cũng như việc đẩy nhanh tốc độ xuất khẩu trực tiếp vào thị trường EU. Tóm lại, để đẩy mạnh kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với EU cần nghiên cứu đề xuất một chính sách thị trường hợp lí cho các khu vực EU, chủ động xâm nhập tiếp cận thị trường, kết hợp giữa đầu tư của EU vào Việt Nam với phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - EU, tạo ra nguồn hàng xuất khẩu của Việt Nam theo tiêu chuẩn EU, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tăng cường hoạt động thông tin về thị trường EU, áp dụng nhiều biện pháp hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất nhập khẩu với EU, đặc biệt khuyến khích các mặt hàng có lợi thế trên thị trường EU, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất hàng xuất khẩu đạt các tiêu chuẩn kĩ thuật quốc tế như ISO 9000, ISO 14000, HACCP (điểm kiểm soát tới hạn và phân tích mối nguy hại trong chế biến thành phần) nhằm vượt qua những rào cản kĩ thuật của thị trường EU. - Giải pháp về sản phẩm: Một là phải cải thiện hàng hóa của Việt Nam đó không chỉ là sản phẩm đạt tiêu chuẩn Châu Âu mà còn giá cả có khả năng cạnh tranh với phương thức kinh doanh linh hoạt. Hai là trong thời gian tới các doanh nghiệp Việt Nam nếu muốn tăng kim ngạch xuất khẩu vào EU thì trước hết họ phải có một chiến lược sản phẩm cụ thể thích ứng với những thay đổi của tình hình thị trường. ở đây họ không chỉ lập kế hoạch từ khi đầu vào và đầu ra của sản phẩm trong đó cần phải đáp ứng đầy đủ nguyên liệu, giá cả nguyên liệu, không ngừng cải tiến các trang thiết bị máy móc đáp ứng các tiêu chuẩn của EU, đào tạo nâng cấp tay nghề cho công nhân, tìm được thị trường đầu ra cho sản phẩm… Có như vậy hàng xuất khẩu của Việt Nam mới có thể cạnh tranh được trên thị trường EU. Đối với từng loại mặt hàng xuất khẩu chiến lược cũng cần được chú ý, đó là các doanh nghiệp Việt Nam phải đa dạng hoá chủng loại mặt hàng xuất khẩu sang EU. Trong những năm phát triển quan hệ thương mại vừa qua, bên cạnh việc chúng ta xuất khẩu hàng hoá cũng đã có sự cải thiện về chủng loại mặt hàng, thế nhưng nhiều nhóm mặt hàng mà chúng ta chưa đáp ứng được, một phần cũng do những khó khăn nhất định như vốn, máy móc hiện đại. Tuy vậy, đây chỉ là khó khăn trước mắt nhưng về lâu dài các doanh nghiệp Việt Nam phải bằng sự nỗ lực của chính bản thân mình và cùng với sự trợ giúp thích đáng từ phía Chính phủ và phía đối tác EU thì doanh nghiệp Việt Nam chúng ta sẽ làm được. Trên thị trường thế giới và riêng EU đã có những mặt hàng của Việt Nam có hàm lượng chất xám cao như hàng điện tử, linh kiện và năm 2000 mặt hàng này đã xuất khẩu được gần 1 tỷ USD. Tựu chung lại, chỉ cần cả hai phía Việt Nam và EU có một chương trình cụ thể gỡ bỏ các trở ngại để hiểu nhau hơn đã là một đảm bảo đáng kể tạo cơ sở cho sự tiếp tục phát triển vững chắc hơn quan hệ hợp tác trong những thập niên đầu thế kỷ XXI. Đó là điều trong tầm tay và cả hai phía có thể làm được. Trong một cuộc hội thảo giữa các đại diện EU với giới doanh nghiệp Việt Nam tổ chức tại Hà Nội (10/2000), phía EU có nhiều đòi hỏi còn phía Việt Nam khi được đòi hỏi đã không thấy có những đề nghị gì về hướng giải quyết mới để mở rộng và khai thác sâu hơn thị trường EU, không có vấn đề gì để kiến nghị hay không có đủ thông tin về thị trường EU để có thể bàn luận, đề xuất? Đã đến lúc Liên minh Châu Âu phải xem xét lại hình ảnh của mình trong đời sống kinh tế xã hội Việt Nam. Kết luận Trong những năm qua, hai bên đã không ngừng tạo cho nhau những thuận lợi, ưu tiên trong thương mại cũng như các lĩnh vực khác như : EU công nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường, tạo thuận lợi cho hàng hoá của Việt Nam khỏi sự phân biệt, hưởng qui chế tối huệ quốc MFN, GSP. Bên cạnh đó một việc làm hết sức có ý nghĩa là EU sẽ mở cửa thị trường hơn nữa cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, ủng hộ Việt Nam vào WTO. Đây là những việc làm mà phía đối tác mong muốn được quan hệ lâu dài và toàn diện với Việt Nam, từng bước tạo cho Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Hai bên đã coi nhau là những đối tác quan trọng, phía Việt Nam cũng đã đóng góp to lớn cho mối quan hệ song phương này như với cương vị là Chủ tịch của ASEAN, là thành viên của APEC, là cầu nối cho mối quan hệ hợp tác á - Âu và ASEAN, Việt Nam ngày càng chứng tỏ vị thế quan trọng của mình trong khu vực. Đồng thời việc thiết lập mối quan hệ với Việt Nam - EU sẽ có lợi thế quan trọng tại khu vực Đông Nam á, rộng hơn Châu á - Thái Bình Dương. Thông qua Việt Nam, EU sẽ mở rộng quan hệ thương mại với các nước trong khu vực cũng như những ảnh hưởng về chính trị. Một Liên minh Châu Âu sẽ mạnh hơn trong thời gian tới không thể không tăng cường hợp tác với Việt Nam. Trên cơ sở nhận thức sâu sắc vị thế cũng như tầm quan trọng trong quan hệ thương mại Việt Nam - EU, chúng ta tin tưởng rằng mối quan hệ này sẽ được phát triển mạnh hơn và mở rộng hơn trong thời gian tới. Bởi vì nó được căn cứ vào những việc làm thực tiễn mà hai bên đã đạt được đó là Hiệp định khung về hợp tác đã được hai bên ký kết ngày 17/7/1995 tạo ra một khuôn khổ pháp lý cho sự hợp tác lâu dài. Đồng thời cả Việt Nam và Liên minh Châu Âu sẽ không thể thiếu nhau trong một thế giới đang có những chuyển mình mạnh mẽ trong thế kỷ 21, xu hướng toàn cầu hoá - khu vực hoá ngày càng đan xen lợi ích chặt chẽ hơn trên tinh thần các bên cùng có lợi. Tuy nhiên mối quan hệ thương mại Việt Nam - EU trong thời gian tới sẽ không gặp ít những trở ngại cũng như những thách thức mà cần đến sự dỡ bỏ và hợp tác chặt chẽ của đôi bên để đưa ra những giải pháp phù hợp. Đây là những việc làm cần phải được xúc tiến ngay từ bây giờ. Có như vậy chúng ta mới tin tưởng mối quan hệ thương mại sẽ có những kết quả cao hơn nữa trong thời gian tới. Quan hệ hợp tác quốc tế nói chung và với EU nói riêng có vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Hiệp định hợp tác giữa Cộng đồng Châu Âu và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tạo cơ hội cho quan hệ hợp tác toàn diện của hai bên tốt đẹp. Các cuộc gặp cấp cao, những cuộc họp làm việc của các quan chức cấp cao Chính phủ hai phía, các doanh nhân tìm hiểu thị trường… đang từng bước làm vững chắc và nâng cao hiệu quả quan hệ hợp tác. tài liệu tham khảo 1. Các khối kinh tế và mậu dịch trên thế giới - Viện nghiên cứu thế giới Nhà xuất bản chính trị Quốc gia 1996. 2. Hợp tác kinh tế và thương mại với EU - Uỷ ban kế hoạch nhà nước Nhà xất bản Hà Nội 1995. 3. Việt Nam chính sách thương mại và đầu tư - Bộ văn hoá thông tin GPXB 197 KXB 1997. 4. Nhịp cầu doanh nghiệp Việt Nam - EU - Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp. 5. Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu số 1, 2, 3, 4 năm 2001. 6. Tạp chí thương mại số 10, 20, 22 năm 2000. 7. Công nghiệp và thương mại số 25, 48 năm 2001. 8. Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương số 4 năm 2000. 9. Tạp chí phát triển kinh tế. 10. Những vấn đề kinh tế thế giới - số 2 năm 2001, 2002. 11. Nghiên cứu Đông Nam á số 3 năm 2000. 12. Đặc san: Quốc tế - Việt Nam - Anh Quốc. 13. Thời báo kinh tế Sài Gòn 16/11/2001 14. Tạp chí ngoại thương số 4,5 năm 2003 Luận Văn Tốt Nghiệp Luận Văn Tốt Nghiệp Đại học quốc giA hà nội Khoa kinh tế ----- &o& ----- Luận văn Tốt Nghiệp quan hệ thương mại Việt Nam - EU Sinh viên thực hiện : Vũ Hồng Hải Lớp : 10 B – Khoa Kinh tế Hà Nội 7/2003 Mục lục Lời mở đầu Chương I: KHái quát chung về quan hệ Việt Nam – EU Khái quát về Liên minh Châu Âu (EU) Quá trình phát triển quan hệ Việt Nam – EU Khái quát về tình hình kinh tế Việt Nam Quan hệ Việt Nam – EU Về chính trị Về viện trợ Về thương mại Về đầu tư Chương II : Quan hệ thương mại Việt Nam – Liên minh Châu Âu 2.1. Chính sách thương mại của EU với các nước 2.1.1. Chính sách thương mại nội khối của EU 2.1.2. Chính sách thương mại của EU với các nước trên thế giới 2.1.3. Chính sách thương mại của EU đối với Việt Nam Quan hệ thương mại Việt Nam – EU 2.2.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – EU 2.2.2. Cơ cấu mặt hàng 2.2.3. Mặt hàng xuất khẩu của EU vào thị trường Việt Nam Quan hệ Việt Nam với một số nước thành viên Quan hệ thương mại Việt Nam với Đức Quan hệ thương mại Việt Nam – Anh Quan hệ thương mại Việt Nam – Pháp Quan hệ thương mại Việt Nam – Hà Lan Quan hệ thương mại Việt Nam – Thụy Điển Chương III : Triển vọng và những giải pháp thúc đẩy thương mại Việt Nam – EU 3.1. Triển vọng 3.1.1. Lợi thế trong triển vọng hợp tác thương mại giữa Việt Nam – EU 3.1.2. Những thách thức trong hợp tác thương mại giữa Việt Nam – EU 3.2. Những giải pháp 3.2.1. Về phía EU 3.2.2. Về phía Việt Nam Kết luận Tài liệu tham khảo Trang 1 3 3 6 6 8 9 9 10 11 14 14 14 14 17 19 19 21 26 31 31 33 35 36 38 40 40 40 42 43 43 44 49 51

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33850.doc
Tài liệu liên quan