Đề tài Trợ cấp xuất khẩu ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập

- Hướng phát triển thị trường xuất nhập khẩu Việt Nam tới năm 2010 Chủ biên: PTS. Phạm Quyền & PTS. Lê Minh Tâm. - Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu Việt Nam 2001- 2010. - Quyết định 195/ 1999/ QĐ - TTg về quỹ hỗ trợ xuất khẩu. - Viện nghiên cứu thương mại, Hồ sơ các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt nam, Hà Nội năm 1999 - Thương mại Việt nam trong quá trình hội nhập quốc tế, hà nội, 1999 - KS.Vũ Lưu, báo cáo tổng hợp đề tài khoa học cấp bộ “ Cơ sở khoa học về chiến lược hỗ trợ xuất khẩu cho các hợp tác xã và các doanh nghiệp vừa và nhỏ việt nam”, Hà nôi, 1999

doc77 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 995 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Trợ cấp xuất khẩu ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được đánh quá cao, vượt quá lợi ích thực sự mà hàng nhập khẩu nhận được. Về hình thức bên ngoài, thuế chống trợ cấp lại có nhiều điểm tương đồng với thuế nhập khẩu. Vì vây, xét về mặt hình thức, ở một chừng mực nhất định cũng có thể coi thuế chống trợ cấp là một hình thức thuế nhập khẩu đặc biệt. Thuế chống trợ cấp giống với thuế nhập khẩu ở các điểm sau: Đối tượng chịu thuế là hàng nhập khẩu; Phương pháp quản lý thuế tương đối giống với thuế thông thường: cùng được cơ quan hải quan thu tại cửa khẩu; Tác động tương đối rõ ràng và minh bạch ở khâu áp dụng nếu so với các biện pháp phi thuế quan khác (mặc dù quá trình điều tra có thể bị các cơ quan áp dụng lạm dụng vì một số mục đích nhất định). Tuy nhiên, thuế chống trợ cấp có một số điểm khác căn bản so với thuế nhập khẩu thông thường: Thuế nhập khẩu thông thường chủ yếu nhằm mục đích bảo hộ cho sản xuất trong nước còn thuế chống trợ cấp nhằm đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa hàng trong nước và hàng nhập khẩu; Thuế nhập khẩu thông thường mang tính ổn định, trong khi thuế chống trợ cấp mang tính tình huống rõ rệt. Dù là nhằm bảo hộ cho sản xuất trong nước, tạo nguồn thu cho ngân sách hay đảm bảo công bằng xã hội, thuế nhập khẩu đều được áp dụng theo một định hướng tương đối ổn định. Trong khi đó, thuế chống trợ cấp chỉ xuất hiện khi phát sinh trợ cấp làm ảnh hưởng đến nhà sản xuất trong nước. Thuế chống trợ cấp sẽ mất đi khi không còn trợ cấp nữa hay khi các nhà sản xuất trong nước không còn chịu ảnh hưởng bất lợi của hàng hoá được nước ngoài trợ cấp nữa. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRỢ CẤP XUẤT KHẨU Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP I. Cơ sở đề ra giải pháp 1. Những thuận lợi và khó khăn Dự kiến của những năm tới, hoạt động xuất khẩu của ta có một số thuận lợi cơ bản. Sau khi thi hành các biện pháp nhằm giải phóng tiềm năng, Chính phủ đã và đang quan tâm nhiều hơn tới các giải pháp theo chiều sâu, tác động đến hiệu quả và sức cạnh tranh của toàn bộ hoạt động xuất khẩu . Khả năng phối hợp giữa các cơ quan để ứng phó với các tình huống phức tạp bên ngoài cũng đang dần được cải thiện. Bên cạnh đó, bầu không khí kinh doanh tiếp tục sôi động, Việt nam tiếp tục được cho là điểm đến an toàn sẽ có tác động tích cực đến đầu tư và xuất khẩu của ta trong những năm tới. Tuy có một số thuận lợi nhưng nhìn chung hoạt động xuất khẩu trong những năm tới của ta sẽ phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Trong nước, một số mặt hàng nông sản đã gặp phải những hạn chế mang tính cơ cấu, hoặc do tiềm năng sản xuất giới hạn , hoặc do thị trường đã có dấu hiệu bão hoà. Thứ hai, vấn đề năng lực cạnh tranh chưa được cải thiện căn bản, việc rà soát để giảm các chi phí dịch vụ đầu vào đối với xuất khẩu triển khai còn chậm. Những vướng mắc về mặt thủ tục và mặt bằng sản xuất, đặc biệt là tính ổn định của môi trường, chính sách đầu tư vẫn là một vấn đề bức xúc. Thứ ba, tác động của các giải pháp về mở rộng quyền kinh doanh đối với xuất khẩu ngày càng giảm dần sau khi đã phát huy tác dụng rất tích cực trong giai đoạn trước. Mặt khác, có thể nhận thấy các biện pháp khuyến khích xuất khẩu của ta tuy nhiều nhưng chưa đi vào chiều sâu, có chỗ có nơi còn chưa thông suốt và chưa nhất quán, cá biệt một số biện pháp nếu duy trì lâu sẽ làm tăng sức ỳ từ phía doanh nghiệp. Bên cạnh những yếu tố trong nước, tình hình bên ngoài cũng có những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới xuất khẩu, trong đó nổi bất là: - Diễn biến tình hình tại Irắc sẽ ảnh hưởng đến cục diện kinh tế trên thế giới , tác động lớn tới xu hướng biến động giá dầu thô, từ đó ảnh hưởng dây chuyền đến giá cả của nhiều hàng hoá và dịch vụ trên thị trường thế giới . Mặt khác, cuộc chiến tại Irắc cũng tác động trực tiếp tới xuất khẩu của ta vào thị trường này. Hiện nay, ta xuất khẩu vào Irắc mỗi năm khoảng 400 – 450 triệu USD (chiếm 2,8% trong tổng kim ngạch). Các mặt hàng chủ lực là gạo, chè, sản phẩm sữa, dầu thực vật. Trong tình hình chiến tranh, xuất khẩu sang thị trường này sẽ có thể bị gián đoạn. Vì vậy, ta cần phải chủ động mở thị trường mới, nhất là đối với gạo và chè để có thể chuyển hướng kịp thời. - Như một số nước đang phát triển khác, xuất khẩu của nước ta, nhất là hàng dệt may và giày dép sẽ chịu sự cạnh tranh ngày càng lớn, nhất là trong điều kiện Trung Quốc là thành viên WTO và EU đang loại bỏ hạn ngạch dệt may với một số nước thành viên WTO thông qua các hiệp định dệt may song phương (xuất khẩu hàng dệt may của ta vào EU năm 2002 đã giảm tới 9%). Tuy nhiên, xuất khẩu của ta cũng có cơ hội mới khi Trung Quốc dành cho Việt Nam quy chế tối huệ quốc như cá thành viên WTO. Lợi thế này cùng với lợi thế về vị trí địa lý là cơ sở thuận lợi để thiết lập quan hệ buôn bán lâu dài với Trung Quốc, tăng cường xuất khẩu các mặt hàng nông sản, thuỷ sản , nhất là vào các tỉnh phía Tây nam Trung Quốc. - Từ 1/1/2003, tiến trình hội nhập của ta trong CEPT thực sự đi vào chiều sâu. tất cả các dòng thuế còn lại trong danh mục loại trừ tạm thời phải đưa vào cắt giảm xuống mức 20%, trong đó có nhiều mặt hàng quan trọng như xi măng, giấy, gạch ốp lát, sắt thép, hàng điện tử , rau quả và thực phẩm chế biến... Đây sẽ là thách lớn đối với các ngành thay thế nhập khẩu. Tuy nhiên, ta cũng có thêm cơ hội xuất khẩu khi bắt đầu được hưởng mức thuế ưu đãi của các nước ASEAN –6 (hầu hết cá dòng thuế đã được giảm xuống 0-5%). các mặt hàng cần tăng cường xuất khẩu là hàng dệt may, giày dép, hải sản, thực phẩm chế biến, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa và các mặt hàng nông sản. - Những thực tế mới của môi trường kinh doanh quốc tế : Trong những thập kỷ 90, khi nói đến thương mại thế giới, thì đó không phải là công việc kinh doanh thường lệ, bởi vì những thực tế mới đã làm thay đổi tận gốc rễ môi trường kinh doanh. Kết qủa thành công của vòng đàm phán Uruguay, sự thống nhất liên minh Châu Âu, việc hình thành khối tự do Bắc Mỹ, tổ chức thương mại thế giới và nhiều khối mậu dịch khác nữa...đã làm thay đổi thị trường toàn cầu. Những thực tế mới này đã làm thay đổi căn bản chính sách thương mại của các nước, dẫn đến sự cần thiết phải có các chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại, đặc biệt là xuất khẩu, trong đó các nước phải xem xét lựa chọn các sản phẩm xuất khẩu cụ thể cũng như các chính sách trợ cấp xuất khẩu tốt nhất. Mặt khác, những thay đổi này cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự ra đời các hình thức tài trợ xuất khâủ mới, làm phát sinh các yêu cầu về những xu hướng mới trong thông tin thị trường, nghiên cứu thị trường và nuôi dưỡng thế giới quan mới về công ty xuất khẩu như là những công ty quốc tế hoá.. Những ảnh hưởng của môi trường kinh doanh mới tới các quốc gia và các doanh nghiệp có thể tóm tắt dưới đây: - Vấn đề tự do hoá thương mại - Các hiệp định WTO Ngày 5 tháng tư năm 1994, tại Marakesh - Marốc, Hiệp định cuối cùng của vòng đàm phán Uruguay đã được ký kết. WTO ra đời ngày tháng giêng năm 1995 với phương châm đẩy mạnh phát triển kinh tế thế giới thông qua việc đẩy mạnh trao đổi thương mại để cải thiện việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Việc giảm thuế quan do yêu cầu của tự do hoá đã tác động ngay lập tức đến mọ khía cạnh của kinh tế thế giới: + Thứ nhất, thuật ngữ "cạnh tranh quốc tế "theo quan niệm cũ trở nên hạn hẹp bởi vì hàng hoá và dịch vụ của một nước ngày nay không chỉ phải cạnh tranh quyết liệt ở thị trường nước ngoại mà ngay ở thị trường trong nước, hàng hoá đó cũng vấp phải sự cạnh tranh mạnh mẽ do việc bảo hội không còn được duy trì. + Thứ hai, những cơ hội và thách thức mới được tạo ra từ tự do hoá thương mại . ở nhiều nước , dưới sức ép cạnh tranh sẽ có những ngành và sản phẩm không thể tồn tại được nữa do không còn được bảo hộ và ưu đãi. Điều này bắt buộc các nước phải tìm ra các sản phẩm mới thay thế hay điều chỉnh sản phẩm cho phù hợp. Chính vì vậy, việc hoạch định chiến lược xuất khẩu vốn đã khó lại càng trở lên khó khăn hơn, dó là chưa nói tới việc phát triển xuất khẩu. + Thứ ba, các tập đoàn công nghiệp hùng mạnhvà các nước phát triếnẽ tìm ra những phương thức mới để bảo hộ các ngành công nghiệp của họ. Một mặt, cạnh tranh yêu cầu các nước phải nâng cao các tiêu chuẩn chất lượngvà dịch vụ phục vụ khách hàng cũng như phải tuân thủ những quy định về môi trườg trong sản xuất. Mặt khác, các tiêu chuẩn này lại được các nước công nghiệp phát triển sử dụng như những hàng rào phi thuế quan để ngăn trở xuất khẩu cuả các nước đang phát triển. + Thứ tư, các nước chậm phát triển nhất sẽ là các nước bị rủi ro nhất bởi các tác động của tự do hoá . Các nước này hầu như chưa có hàng hoá, dịch vụ để bán ra thị trường tự do để hưởng lợi từ việc giảm thuế quan trong khi lại phải mởcửa thị trường ngay cho hàng hoá, dịch vụ của nước ngoài. Thậm chí, các nước chậm phát triển nhất cũng không có nững nguồn lực cần thiết để tiến hành hoạt động nghieen cứu triển khai nhằm cải tiến kỹ thuật sản xuất, cung cấp sản phẩm thích ứng với thị trường...Do vậy, ở các nước chậm phát triển này, vấn đề đau đầu nhất là việc giải bài toán phát triển kinh tế trong môi trường toàn cầu hoá.Khi bàn luận về chủ đề này,, rất nhiều ý kiến cho là các nước chậm phát triển phải xây dựng chiến lược xuất khẩu trong liên quan chặt chẽ với chiến lược đầu tư và phát triển công nghiệp. + Thứ năm, những thực tiễn mới từ môi trường thương mại thế giới tự do hoá cũng đồng nghĩa với các yêu cầu rất lớn và rất cấp bách phải hỗ trợ phát triển cho các nước đang phát triển và chuyển đổi nên kinh té để các nước này có thể thực sự tham gia vào hệ thống thương mại đa biên. - Giao lưu dễ dàng và nhanh chóng hơn Sự phát triển nhanh chóng của xa lộ thông tin Internet từ đầu những năm 1990 đã tạo ra những cơ hôị chưa từng có cho các nước đang phát triển, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ của họ. Mạng internet tinh vi dựa trên nền những máy fax truyền thống và các diễn đàn điện tử hiện nay cho phép thực hiện giao lưu quốc tế hết sức nhanh chóng với chi phí thấp hơn nhiều. Việc đưa vào sử dụng hệ thống thư điện tử mới đây lại tạo thêm những cơ hội mới cho các nước đang phát triển tiến hành hoạt động marketing và phân phát thông tin cho khách hàng tiềm năng. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể sử dụng internet như một công cụ marketing đắc lực: quảng cáo, thông tin về sản phẩm,giải đáp về sản phẩm và dịch vụ nhanh chóng, bán hàng trực tiếp, cung cấp dịch vụ khách hàng, nghiên cứu thị trường, tìm kiếm khách hàng... một cách nhanh chóng và ít tốn kém. 2. Phương hướng hoạt động xuất khẩu của Việt nam trong thời gian tới Nhằm góp phần thực hiện thắng lợ chủ trương đường lối của đảng về phát triển kinh tế đối ngoại, thực hiện các mục tiêu xuất khẩu đã được đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội mười năm 2001-2010 Tư tưởng và nôi dung bao trùm về chiến lước xuất nhập khẩu của Việt nam được đề cập tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX là: nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đát nước, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo các loại sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ. Cụ thể là phải hướng tới thực hiện thắng lợi các mục tiêu của chiến lược xuất khẩu 2001-2010, trong đó: (1) Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ: - Năm 2005 đạt 32,4 tỷ uSD - Năm 2010 đạt 62,7 tỷ USD, trong đó xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ sau: Về xuất khẩu hàng hoá: - Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm: 15%, trong đó: + Thời kỳ 2001-2005 : tăng 16% + Thời kỳ 2006-2010: tăng 14% - Giá trị xuất khẩu: năm 2005 đạt khoảng 28,4 tỷ USD và năm 2010 đạt khoảng 56,4 tỷ uSD Về xuất khẩu dịch vụ: - Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm thời kỳ 2001-2010 đạt 15% - Giá trị xuất khẩu năm 2005 đạt khoảng 4 tỷ USD, năm 2010 đạt 8,1 tỷ USD (2) Cơ cấu hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu chuyển dịch theo hướng: - Trước mắt huy động được mọi nguồn lực hiện có của đát nước để đẩy mạnh xuất khẩu, tạo công anh việc làm, tăng thu ngoại tệ; - Chủ động gia tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến và chế tạo với giá trị gi tăng ngày càng cao, chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và tri thức cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô; - Cải tiến chất lượng, mẫu mã sản phẩm và phát triển sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu của thị trường. (3) Cơ cấu thị trường xuất khẩu chuyển dịch theo hướng mở rộng và đa dạng hoá, dựa trên nguyên tắc: - Tích cực, chủ động tranh thủ mở rộng thị trường, nhất là sau khi tham gia WTO; - Đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ với các đối tác, phòng ngừa chấn động đột ngột; - Mở rộng tối đa về diện song trọng điểm là các thị trường có sức mua lớn, tiếp cận các thị trường cung ứng công nghệ nguồn; Tìm kiếm các thị trường mới ở Mỹ la tinh và Châu phi. 3. Những quan điểm chính về trợ cấp xuất khẩu Các chuyên gia kinh tế đã chỉ rõ rằng trong điều kiện môi trường kinh doanh quốc tế mới hiện nay, để đảm bảo thành công trong xuất khẩu của một nước về lâu dài và để tuân theo luật của tổ chức thương mại thế giới Việt Nam không thể kéo dài chính sách trợ cấp xuất khẩu khi đã chính thức gia nhập WTO. Chúng ta cần phải có những biện pháp mở rộng hoạt động thương mại ra thế giới đặc biệt phải chú trọng tới công tác xúc tiến xuất khẩu. Công tác xúc tiến xuất khẩu ở đây không chỉ tập trung vào các hoạt động như thông tin thương mại, các đoàn công tác thương mại, quảng cáo thương mại và đại diện thương mại ở nước ngoài...mà cần có những nội dung mới, đặc biệt là tăn cương năng lực sản xuất, cung cấp cho xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu cũng như việc xây dựng ccá chiến lược xuất khẩu quốc gia. Vì những vấn đề này mang tính quy luật phổ biến ở các nước đang phát triển và chuyển đổi nền kinh tế nên cũng là những vấn đề phổ biến ở Việt nam. Thực tế, nước ta đang đứng trước những vấn đề lớn, những thách thức đối với xuất khẩu bền vững là: - Những hạn chế về nguồn hàng cho xuất khẩu: Những hạn chế về nguồn hàng cho xuất khẩu là vật cản lớn nhất đối với xuất khẩu bền vững của Việt nam. Nếu Việt Nam không đủ năng lực để sản xuất sản phẩm xuất khẩu đáp ứng yêu cầu của thị trường thế giới thì khó có thể duy trì được nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu cao làm động lực cho tăng trưởng kinh tế. Thực tế, có rất nhiều bằng chứng chứng tỏ những khó khăn về thị trường thường là hệ qủa của những khó khăn trong sản xuất. Đơn cử như thị trường thịt lợn, trước đây Việt nam đã từng có hiệp định “G to G” với Malaysia và Singapore về xuất khẩu thịt lợn sang hai thị trường này, nhưng cdo chúng ta không có thịt lợn để xuất hẩu sang hai thị trường đó nên đã bỏ mất hai thị truường. Ngay cả những mặt hàng Việt nam đang dư thừa cung cấp như cà phê, hạt tiêu cũng có thể chứng tỏ những khó khăn về thị trường đều bắt nguồn từ sản xuất mà ra. Nếu chúng ta trồng được nhiều giống cà phê chè hơn thì chúng ta đã có thể có thị trường tốt hơn cho xuất khẩu cà phê, hoặc chúng ta không chỉ xuất khẩu hạt tiêu đen xô mà ngành công nghiệp chế biến có khả năng cung cấp các sản phẩm khác như hạt tiêu trắng, hạt tiêu xanh, nhựa dầu hạt tiêu...theo yêu cầu của thị trường thế giới thì rõ ràng có thể giải quyết vấn đề thị trường xuất khẩu hạt tiêu tốt hơn...Những bất cập trong sản xuất cung ứng các sản phẩm trên cho xuất khẩu thường là do khan hiếm nguồn tài trợ, thiếu các phương tiện kỹ thuật hiện đại và thiếu các dịch vụ tốt phục vụ cho sản xuất. - Thiếu sức cạnh tranh: Cạnh tranh của đất nước, của doanh nghiệp và sản phẩm là chìa khoá để đảm bảo xuất khẩu thành công. Những yếu kém trong cạnh tranh của nền kinh tế và của các doanh nghiệp Việt nam được thể hiện qua thứ hạng 62/78 nước mà WEF (đánh giá năng lực cạnh tranh của các nền kinh tế năm 2001) xếp hạng năng lực cạnh tranh tổng thể của Việt nam năm 2001. Việc thiếu các phương tiện và dịch vụ hỗ trợ thương mại mang tính cạnh tranh như công nghệ tiến tiến, phương thức sản xuất và kiểm tra chất lượng tối ưu, hệ thống marketing hoàn hảo, kỹ thuật bao gói tốt nhất, tài trợ xuất khẩu cạnh tranh và các kỹ năng xuất khẩu khác đã làm giảm sức cạnh tranh của nhiều sản phẩm của Việt nam trên thị trường quốc tế. - Hiểu biết hạn chế về luật lệ xuất khẩu: Các nhà quản lý và các doanh nghiệp Việt nam cần phải hiểu biết về hệ thống phức hợp, đồ sộ các quy tắc, luật lệ của WTO để có thể hình thành lên các chiến lược xuất khẩu quốc gia hiện thực và bán được sản phẩm ra thị trường nước ngoài. Rất tiếc là hiện nay ở nước ta mới chỉ có rất ít các chuyên gia về lĩnh vực này nên nhiệm vụ đào tạo và phổ biến kiến thức về các hiệp định WTO càng trở nên khó khăn. - Thiếu các chiến lược xuất khẩu quốc gia: Việc nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu, nắm vững bí quyết kỹ thuật xuất khẩu và thâm nhập được thị trường nước ngoài đòi hỏi phải có các chiến lược xuất khẩu quốc gia làm cơ sở nền tảng. Chiến lược xuất khẩu quốc gia của Việt Nam thời kỳ 2001-2010 đã được Chính phủ phê duyệt tháng 10/2000. Để chiến lược được triển khai có hiệu quả, phải xây dựng các chiến lược xuất khẩu của từng ngành và từng khu vực doanh nghiệp. Cho tới nay, rất nhiều ngành và nhiều doanh nghiệp của Việt Nam chưa xây dựng được các chiến lược phát triển xuất khẩu. III. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả trợ cấp xuất khẩu ở việt nam. 1. Các giải pháp ở tầm vĩ mô 1.1. Thiết lập các tổ chức xúc tiến thương mại để hỗ trợ cho các doanh nghiệp tham gia thị trường nước ngoài, đặc biệt là các DNVVN. XTXK phải góp phần khai thác tới mức cao nhất lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế, các doanh nghiệp và các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam. 1.2. Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý và tạo môi trường tâm lý xã hội thuận lợi hỗ trợ các DNVVN Việt nam tham gia xuất khẩu. 1.3. Để tạo một khung pháp lý hoàn chỉnh, thống nhất hỗ trợ hoạt động xuất khẩu của khu vực DNVVN, Nhà nước cần có các giải pháp sau đây: - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng. - Trong điều kiện môi trường thương mại thế giới ngày càng trở nên toàn cầu hóa và tự do hoá mạnh mẽ với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin, mạng internet...việc phát triển xuất khẩu nhanh và bền vững đòi hỏi các nước phải tham gia phân công lao động quôcs tế dựa trên lợi thế cạnh tranh của từng nước, mà xuất phát điểm của lợi thế cạnh tranh là lợi thế so sánh. Qua quá trình phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước dưới tác động ảnh hưởng của môi trường kinh doanh quốc tế thay đổi, những lợithế so sánh và lợi thế cạnh tranh của từng nước sẽ thay đổi. Như vậy XTXK của Việt Nam trước hết phải xác định và xuất phát từ lợi thế cạnh tranh của đất nước và các doanh nghiệp về từng sản phẩm, dịch vụ. - Định hướng XTXK các sản phẩm và dịch vụ của Việt Nam thời gian tới là: Trong thời gian trước mắt, XTXK vẫn phải tập trung vào việc phát triển thị trường xuất khẩu cho các sản phẩm nông lâm thuỷ sản, khoáng sản nguyên liệu, hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, sử dụng nhiều lao động... nhưng phải hướng tới việc xúc tiến mạnh mẽ các sản phẩm có giá trị gia tăng, có hàm lượng công nghệ cao và tri thức cao hàng chế biến sâu, thiết kế, chế tạo, hàng điện tử, tin học, kể cả phần mềm) cũng như xuất khẩu các sản phẩm dịch vụ có khả năng cạnh tranh như xuất khẩu lao động, du lịch, vận tải biển và dịch vụcảng, giao nhận y tế giáo dục... XTXK phải chú trọng xây dựng và nâng cao uy tín của hàng hóa và dịch vụ Việt Nam cả ở thị trường trong nước quốc tế. Hoạt động XTXK của Việt nam phải theo hướng xây dựng và nâng cao uy tín của hàng hóa và dịch vụ Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế thông qua các biện pháp giám sát và quản lý chất lượng hàng hóa xuất khẩu theo tiêu chuẩn quốc tế, khuyến khích các doanh nghiệp cải tiến mẫu mã, đóng gói, bao bì đồng thời tích cực tuyên truyền quảng bá ở nước ngoài tạo điều kiện cho các doang nghiệp Việt Nam sản xuất hàng xuất khẩu đạt các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế như ISO 9000, ISO 14000 HACCP... nhằm xoá bỏ những rào cản kỹ thuật do các nươc phát triển đặt ra. XTXK phải thúc đẩy khả năng tham gia xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Xuất phát từ vai trò của các DNVVN như là yếu tố tiềm năng quan trọng trước tăng trưởng xuất khẩu của các nước đang phát triển nói chung và của Việt Nam nói riêng, hoạt động XTXK của CHính phủ phải thúc đẩy khả năng tham gia xuất khẩu của các DNVVN. Định hướng hoạt động XTXK của Nhà nước cho cá doanh nghiệp như sau: Thời gian trước mắt vẫn còn đẩy mạnh xuất khẩu của các donh nghiệp lớn nhưng bên cạnh đó, phải tập trung mọi nỗ lực của nhà nước và toàn xã hội hỗ trợ các DNVVN tham gia xuát khẩu, nâng phần đóng góp của DNVVN trong xuất khẩu tương ững với tiềm năng xuất khẩu của khu vực này. - Tăng cường các hoạt động XTXK ở nước ngoài (offshore) đi đôi với việc cải tiến khả năng cung cấp cho xuất khâủ ở trong nước và đẩy nhanh tốc độ quốc tế hoá các doanh nghiệp trong nước (onshore). - Tăng cường cử cán bộ tổ chức các hoạt động XTTM ở nước ngoài, khuyến khích các donh nghiệp mở đại diện thường trú, văn phòng liên lạc, đại diện ủy thác, công ty liên doanh trước mắt là ở các thị trường trọng điểm và các trung tâm thương mại lớn của thế giới như Mỹ, Nhật Bản, EU và Trung Quốc... để phát triển thị trường XK. Triển khai xây dựng cá trung tâm thương mại Việt Nam ở nước ngoài, tích cực tuyên truyền, quảng bá các dịch vụ Việt Nam cũng như hình ảnh của một đất nước Việt Nam an toàn, một đối tác thương mại tin cậy... Mặt khác, công tác XTXK cần phải quan tâm hơn nữa tới việc phát triển cung ứng hàng hoá và dịch vụ cho XK thông qua việc tăng cường năng lực nghiên cứu triển khai năng lực thiết kế và chế tạo sản phẩm, phát triển sản phẩm mới, đổi mới trình độ khoa học và công nghệ để tăng năng suất và nâng cao chất lượng sản phẩm. Đồng thời công tác XTXK còn phải chú ý giúp hoàn thiện cơ cấu tổ chức và nâng cao năn lực quản lý của các doanh nghiệp thông qua các dịch vụ hỗ trợ về đào tạo và dịch vụ thuận lợi hoá thương mại để doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh tổng thê., biết điều chỉnh mình để thích ứng với sự thay đổi phương thức kinh doanh cũng như đáp ứng được sự trông đợi của thị trường về một nhà cung cấp cạnh tranh. - Tăng cường đa dạng hoá nguồn lực XTXK, hoàn thiện về mặt tổ chức và đa dạng hóa các dịch vụ XTXK của Chính phủ và các TSIs nhằm đáp ứng được nhu cầu và yêu cầu của các DN XK và các khách hàng đẻ đảy mạnh XK của đất nước. - Đa dạng hóâ nguồn lực tài chính để đẩy mạnh hoạt động XTXK của cả nhà nước và tư nhân; nỗ lực thực hiện xúc tiến đầu tư cho XK; thành lập các quỹ hỗ trợ XTXK để hỗ trợ cho các TPOS và bản thân các DN trong các công tác như đào tạo tư vấn, tham gia hội trở triển lãm... 1.4. Nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội ngành hàng: Hiện nay, cả nước đã có 13 Hiệp hội ngành hàng xuất khẩu. Một số Hiệp hội đã có tác dụng tích cực nhưng nhìn chung hiệu quả hoạt động và vai trò của Hiệp hội còn hạn chế. Nguyên nhân là do thiếu một chế định hoàn chỉnh và đồng bộ về tổ chức hoạt động của Hiệp hội, bộ máy chuyên trách của Hiệp hội chưa đủ mạnh và không hợp lý (có phần bị nhà nước hóa), nội dung hoạt động của Hiệp hội chưa được định hình. Mặt khác, đối với nước ta, Hiệp hội ngành hàng còn là vấn đề mới. Do tầm quan trọng của Hiệp hội trong cơ chế thị trường, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ: (a) Sớm tổ chức hội nghị chuyên đề để bàn về Hiệp hội ngành hàng. (b) Ban hành một nghị định riêng của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Hiệp hội ngành hàng (không xử lý chung với các loại hình hội, hiệp hội khác). Theo quan điểm học viên, quy định mới về hiệp hội nên có sự phân công trách nhiệm rõ ràng việc quảnlý nhà nước các hiệp hội cho các Bộ, ngành theo hướng: Bộ Nội vụ soạn thảo ban hành hoặc trình Chính phủ ban hành các quy định pháp luật về tổ chức, hoạt động của các Hiệp hội, ra quyết định thành lập và quản lý hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, các Bộ quản lý ngành quyết định thànhlập các Hiệp hội nghề nghiệp (như Hội nhà văn, hội nhà báo...) Riêng Bộ Thương mại quản lý các Hiệp hội ngành hàng từ quyết định thành lập, điều lệ, xây dựng các quy định bổ sung, nêu rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các Hiệp hội trong lĩnh vực xuất khẩu đến theo dõi hoạt động. Sở dĩ đề xuất cơ chế như trên là vì đặc thù và nhu cầu hoạt động của các loại hình hội, hiệp hội là rất khác nhau. Đặc biệt, trong bối cảnh nước ta đang chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nên có một cơ chế phù hợp để tạo ra sự gắn kết chặt chẽ giữa Bộ Thương mại, các Bộ, ngành sản xuất và Hiệp hội ngành hàng. (3) Cho phép định hình lại nội dung hoạt động của các hiệp hội theo các hướng chủ yếu sau: - Hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển xuất khẩu và mở rộng thị trường nội địa; cung cấp thông tin thị trường và khách hàng trong các doanh nghiệp hội viên. - Xác định phương hướng liên kết và hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở tự nguyện của các thành viên. - Bảo vệ quyền lợi của các hội viên trong các vụ kiện bán phá giá hoặc chống bán phá giá. - Phản ánh ý kiến của các hội viên về quy hoạch và các chính sách phát triển sản xuất - kinh doanh ngành hàng lên các cơ quan Chính phủ. - Hợp tác với các tổ chức, các hiệp hội ngành hàng quốc tế nhằm nâng cao vị thế và uy tín của ngành trong cộng đồng quốc tế. (c) Giao các Bộ, ngành hữu quan xúc tiến việc thành lập một số Hiệp hội mới như hiệp hội đối với ngành hàng cao su, một số ngành hàng thủ công mỹ nghệ. 1.5. Về việc bị đánh thuế chống trợ cấp xuất khẩu: nếu bị đánh thuế chống trợ cấp trực tiếp, ta có thể khắcphục tình trạnh trên bằng cách trợ cấp gián tiếp như: tài trợ cho các hoạt động xúc tiến xuất khẩu, tham gia hội chợ triển lãm ở nước ngoài, cấp kinh phí cho các kháo đào tạo nhân lực... 2. Các giải pháp ở tầm vi mô 2.1. Chính sách khuyến khích sản xuất - Chính sách đối với làng nghề Nghề thủ công truyền thống của Việt nam được duy trì và phát triển chủ yếu là ở các làng nghề. Cả nước có đến hàng ngàn làng nghề, có những làng nghề tồn tại và phát triển hàng trăm năm, thậm chí hàng ngàn năm nay (nghề gốm bát tràng có từ 500 năm, nghề kim hoàn 1.400 năm, nghề tơ lụa Hà Đông 1.700 năm). Trong quá trình phát triển, các làng nghề đã phân hoá rõ rệt: một số phát triển mạnh và lan toả sang các vùng xung quanh (như nghề gốm, chạm khảm, chế biến gỗ, mây tre đan); một số phát triển cầm chừng, không ổn đinh ( nghề đồ sành, đúc đồng); nhưng có những làng nghề gặp nhiều khó khăn ít có cơ hội phát triển ( nghề giấy gió, gò đồng, dệt thổ cẩm Chăm) thậm chí đang trong quá trình suy vong và có khả năng mất đi (như nghề giấy sắc, tranh dân gian, dệt quai thao) Để các ngành, nghề thủ công truyền thống, các làng nghề duy trì và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ, chủ yếu tập trung trên các mặt sau: + Đối tượng được hưởng các chính sách khuyến khích, ưu đãi của Nhà nước là các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh được thành lập theo pháp luật. Vì vậy, các làng nghề phải thông qua các đơn vị sản xuất kinh doanh của mình để tranh thủ, khai thác các chính sách khuyến khích ưu đãi hiện hành của Nhà nước cũng như các chính sách sẽ được ban hành trong tương lai. Như vậy, trước hết cần phổ biến, hướng dẫn cho các nhà sản xuất –kinh doanh trong làng nghề đăng ký hoạt động theo đúng pháp luật,hiểu biết các chính sách và các thủ tục đã qui định để được hưởng các chính sách khuyến khích ưu đãi hiện có sẽ được Nhà nước ban hành. Chính sách hỗ trợ ưu đãi của hà nước đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh các mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống là mặt hàng chủ yếu trong chính sách của Nhà nước đối với các làng nghề. + Làng nghề với tư cách là một đơn vị hành chính, một đơn vị làm ăn có tính phường, hội cần phát huy được nội lực của mình nhưng cũng cần được sự hỗ trợ của Nhà nước để xử lý một số vấn đề như cơ sở hạ tầng, môi trường như việc Nhà nước phát triển cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào của các khu công nghiệp (ở các khu công nghiệp, Nhà nước bảo đảm đầu tư 100%). Từ đó, đề nghị Chính phủ cho thực hiện chính sách hỗ trợ tài chính thực hiện các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng (đường giao thông, bến bãi, đường dây tải điện), dự án xử lý các vấn đề về môi trườngtại khu vực làng nghề, cụ thể là Nhà nước đầu tư riêng qua ngân sách của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để thực hiện các dự án đầu tư cho làng nghề được duyệt hàng năm với mức không thấp hơn 50% tổng số thu vào ngân sách từ làng nghề trong năm trước. Các làng nghề có xuất khẩu trên 30% giá trị sản lượng hàng hoá của mình thì được UBND tỉnh, thành phố xem xét phê duyệt các dự án đàu tư thuộc lĩnh vực nêu trên theo qui định của chính phủ và đưa vào dự án ngân sách củ tỉnh, thành phố để được cấp vốn theo qui định hiện hành. - Chính sách đối với nghệ nhân Nghệ nhân, thợ cả có vai trò rất tích cực bảo tồn và phát triển ngành nghề cũng như làng nghề thủ công truyền thống. Có thể nói không có nghệ nhân thì không có làng nghề hợac hoặc tí nhất thì cũng không thể có làng nghề phát triển, làng nghề lừng danh. Muốn duy trì và phát triển làng nghề truyền thống , Nhà nước cần có chính sách đối với nghệ nhân, giúp đỡ, hỗ trợ , khuyến khích họ phát huy tài năng phát triển nghề, phát triển sản xuất phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, truyền dạy cho con cháu, đào tạo làng nghề cho lao động sản xuất Ngay trong thời kỳ phong kiến ở nước ta, những nghệ nhân, thợ giỏi có công sáng tạo các sản phẩm tinh xảo, những công trình nghệ thuật, kiến trúc nổi tiếng thường được nhà vua phong các danh hiệu “Kỳ tài hầu”, “Hàn lâm đại chiếu”, “Cửu phẩm bá hộ”, được thưởng và hậu đãi. Và trong thời gian qua đã có tổ chức xét phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân” và thưởng huy chương “bàn tay vàng” cho những nghệ nhân, thợ giỏi. Trước thực tế trên, đề nghị Chính phủ có chính sách và ban hành qui chế chính thức về phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân” và giải thưởng “Bàn tay vàng” kèm theo giải thưởng cho các nghệ nhân, thợ giỏi đạt tiêu chuẩn qui định. Tiêu chuẩn để được phong tặng danh hiệu nghệ nhân có thể là: + Phải là thợ giỏi , có tay nghề cao, điêu luyện với thủ pháp nghệ thuật, kỹ xảo riêng tạo ra những sản phẩm tinh xảo độc đáo; được đồng nghiệp thừa nhận và suy tôn về trình độ tay nghề. + Có nhiều thành tích sáng tạo sáng tạo ra các sản phẩm có giá trị nghệ thuật được xã hội công nhận (được giải thưởng trong các cuộc thi, triển lãm, sản phẩm được đặt trong bảo tàng, công trình văn hoá) hoặc sản phẩm mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao (sản xuất với khối lượng lớn cho tiêu dùng và xuất khẩu, tạo nhiều việc làm). Có sáng kiến cảI tạo kỹ thuật sản xuất trong nghề, như sử dụng nguyên liệu mới, cải tiến công cụ làm nghề, cải tiến thao tác kỹ thuật, có hiệu quả trong lao động sản xuất + Có thành tích truyền nghề, dạy nghề, tích cực tham gia sửa chữa, phục chế các sản phẩm, công trình văn hoá, xây dựng công trình văn hoá mới theo yêu cầu của Nhà nước. Kiến nghị Chính phủ giao cho một cơ quan quản lý Nhà nước (Bộ văn hoá thông tin hoặc Bộ Công nghiệp,) hoặc Liên minh các hợp tác xã soạn thảo trình Chính phủ ban hành chính sách và qui chế này. Sau khi có qui chế chính thức, cơ quan này tiếp tục được giao hiệm vụ theo dõi, quản lý và tổ chức thực hiện. Việc xét thưởng và phong thưởng danh hiệu nghệ nhân theo qui chế do Hội đồng ở Trung ương thực hiện, có đại diện lãnh đạo một số Bộ, ngành tham gia, hoặc chính phủ uỷ quyền cho UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lập Hội đồng xét duyệt theo qui chế chung. - Nghệ nhân được phong tặng có quyền lợi sau: + Được thưởng bằng tiền khi nhận danh hiệu và huy chương + Được bồi dưỡng kiến thực về hội hoạ, mỹ thuật tại các trường cao đẳng mỹ thuật (miễn phí) +Tuỳ theo nhuu cầu phát triển của từng ngành nghề, được Nhà nước tổ chức cho đi thăm quan, khảo sát thị trường nước ngoài (miễn phí) + Được hưởng thù lao xứng đáng khi tham gia truyền nghề, dạy nghề và được thưởng khi có thành tích xuất sắc. + Được Nhà nước bảo hộ qiuyền sở hữu đối với các sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá. + Khi có sản phẩm độc đáo tinh xảo hoặc maaux mã hàng mới xuất khẩu với khối lượng lớn thi được xét thưởng theo kết quả xuất khẩu thu được. + Trong trường hợp nghệ nhan, thợi giỏi tiếp xúc với khách hàng nước ngoài chào bán và tìm được khách mua hàng theo mẫu mã mình sáng tạo ra thì doanh nghiệp ký hợp đồng và xuất khẩu lô hàng đó phải trả thù lao về chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp (nếu có) hoặc tiền hoa hồng môi giới cho nghệ nhân theo qui định của pháp luật, đồng thời nếu việc xuất khẩu có ý nghĩa, giá trị kinh tế lớn thì nghệ nhân còn được Nhà nước xét thuởng thoả đáng. + Được Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí cho hoạt động của câu lạc bộ nghệ nhân nhằm trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp. Đối với việc đào tạo nghệ nhân, thợ giỏi cần được Nhà nước hỗ trợ như sau: + Những người đã được phong danh hiệu nghệ nhân hoặc những thợ giởi đạt trình độ xấp xỉ nghệ nhân do địa phương đề nghị, được Nhà nước hỗ trợ theo các láơp bồi dưỡng kiến thức về hội hoạ, mỹ thuật tại các trường cao đẳng mỹ thuật theo chế độ miễn phí (vì nghệ nhân, thợ giỏi trưởng thành thông qua thực tế lao động sản xuất và tiếp thu kinh nghiệm, bí quyết kỹ thuật gia truyền chưa được học hành có bài bản nên sức sáng tạo bị hạn chế. Kinh nghiệm thực tế chỉ ra rằng, nếu nghện nhân thợ giỏi hợp tác gắn bó với hoạ sĩ thì sự sáng tạo trong nghề nghiệp, sản xuất tăng lên gấp bội). + Nghệ nhân nào có thành tích đào tạo một nghệ nhân khác nối nghiệp mình hoặc đào tạo thành công một thợ cả (trình độ xấp xỉ tiêu chẩn nghẹ nhân, được cơ sở sản xuất suy tôn và địa phương xác nhận) thì được Nhà nước cấp bằng khen hoặc trao huy chương “Vì sự nghiệp phát triển ngành nghề truuyền thống” kèm theo một khoản tiền hỗ trợ chi phí đào tạo dưới dạng một khoản tiền xứng đáng (giá trị có thể là 50 triệu VNĐ). + Nhà nước cử nghệ nhân thợ giỏi ra nước ngoài tham quan khảo sát học hỏi nghề nghiệp theo chế độ miễn phí vừa là quyền lợi của nghệ nhân như đa nêu ở phần trên, vừa là một phương thức đào tạo nâng cao trình độ sáng tạo cho nghệ nhân. + Việc thực hiện tốt chính sách đối với nghệ nhân, thợ giỏi là một đảm bảo duy trì và phát triển đội ngũ thợ lành nghề trong các ngành nghề thủ công truyền thống, góp phần bảo tồn và phát triển một trong những di sản văn hoá quý giá của dân tộc. - Chính sách đối với lao động thủ công Thợ thủ công trong các làng nghề truyền thống thường không học trong các trường lớp mà chủ yếu các nghệ nhân, thợ giỏi truyền dạy nghề theo phương pháp “cầm tay chỉ việc”, vừa làm vừa học”. Trong đó, những thủ pháp kỹ thuật , nghệ thuật, bí quyết nhà nghề thường các nghệ nhân, thợ cả chỉ truyền dạy cho con cháu mình, không dễ lộ ra ngoàI, họ giữ gìn các bí quyết đó với ý thức đầy đủ và cẩn trọng. Trong lĩnh vực khác thường được Nhà nước đầu tư xây dựng các trường dạy nghề , vậy Nhà nước cũng cần có các chính sách hỗ trợ đào tạo thợ thủ công trong các ngành nghề truyền thống phù hợp với đặc điểm nêu trên. Để thực hiện yêu cầu này có thể áp dụng các chính sách – biện pháp sau: + Mở trường mỹ thuật thực hành ở một số nơi (tỉnh, thành) có nhu cầu hoặc mở thêm khoa mỹ thuật thực hành trong các trường cao đẳng kỹ thuật hiện có để đào tạo thợ phổ thông theo phương thức vừa học vừa lao động sản xuất tại các làng nghề, cơ sở sản xuất, nhất là những cơ sở có nhiều hàng xuất khẩu. Nhà nước hỗ trợ một phần chi phí và những cơ sở sản xuất có lao động vừa học vừa làm đóng góp một phần. Chi phí nhà nước hỗ trợ chủ yếu sử dụng để trang trải các chi phí về giảng dậy như mời giảng viên và nghệ nhân giảng bàI và hướng dẫn thực hành, các chi phí thí nghiệm (nếu có) Nếu không làm được như trên thì nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí từ quỹ hỗ trợ việc làm (vốn ngân sách cấp cho chương trình hỗ trợ việc làm hàng năm của nhà nước) để các cơ sở sản xuất, nhât slà các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu tự tổ chức việc đào tạo nghề. Kinh phí hỗ trợ được thực hiện theo dự án đào tạo hoặc theo kết quả đào tạo nghề do UBND tỉnh, thành xét duyệt. - Chính sách cung ứng nguyên liệu cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ: Để tạo diều kiện cho các cơ sở sản xuất –kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ tiếp cận thuận lợi hơn nguồn nguyên liệu khai thác trong nước, nhất lkà một số nguyên liệu như gỗ, song, mây, tre, lá.. ; đề nghị cho áp dụng một số chính sách-biện pháp sau: + Đối với gỗ nguyên liệu khai thác từ rừng tự nhiên được các Bộ, ngành và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giao hạn mức cho các doanh nghiệp, đơn vị trực tiếp sản xuất kinh doanh sản phẩm gỗ mỹ nghệ thuộc ngành, địa phương mình quản lý (trên cơ sở hạn mức chung do thủ tướng chính phủ phê duyệt), đề nghị ưu tiên giao hạn mức cho các đơn vị có hợp đồng xuất khẩu sản phẩm gỗ mỹ nghệ. Tuy nhiên, các đơn vị này phải quyết toán việc sử dụng gỗ nguyên liệu cho các hợp đồng đó thì mới được giao hạn mức gỗ nguyên liệu cho năm sau và được nhận gỗ trực tiếp từ các đơn vị khai thác gỗ, tránh việc giao nhận lòng vòng đẩy giá thành lên cao, khó cạnh tranh tiêu thụ sản phẩm. + Đối với các loại nguyên liệu khác, như song mây, tre lá các đơn vị khai thác phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu, kiến nghị Nhà nước có chính sách hỗ trợ các dự án đầu tư xây dựng vùng trồng nguyên liệu (mây vườn) phục vụ xuất khẩu (giao đát, giảm tiền thuê đất hoặc tiền thuế sử dụng đất) Tại Philippin, chính phủ đã hỗ trợ cho các công ty tư nhân lập nông trang trồng mây 6.000 ha, nay đã có thu hoạch với giống mây đường kính lớn, giá trị thương mại cao. Nhà nước tổ chức xây dựng ngành công nghiệp khai thác và xử lý nguyên liệu để cung ứng cho các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu như nguyên liẹu gỗ, nguyên liệu cho ngành sản xuất gốm sư, vì các cơ sở sản xuất thường không đủ khả năng vốn và kỹ thuật để đầu tư xây dựng công nghiệp này. Nguyên liệu được khai thác, xử lý đúng qui trình công gnhệ vừa đảm bảo tiết kiệm nguyên liệu, đảm bảo chất lượng nguyên liệu đầu vào do đó nần cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh hàng hoá của ta trên thị trường thế giới. 2.2. Chính sách tài chính, tín dụng khuyến khích sản xuất và xuất khẩu + Tăng mức ưu đãi đầu tư sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ (sửa đổi, bổ sung Nghị định 51/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999). Theo hệ thống chính sách khuyến khích, ưu đãi hiện hành, những dự án đầu tư sản xuất kinh doanh nội địa các mặt hàng thủ công mỹ nghệ thuộc các ngành nghề truyền thống được ưu đãi ở mức cao hơn các ngành nghề thủ công mỹ nghệ khác không thuộc các ngành nghề truyền thống. Nhưng trong xuất khẩu (nếu xuất khẩu đạt giá trị trên 30% giá trị hàng hoá sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp), thì không có sự khác biệt. Vì vậy kiến nghị: hàng thủ công mỹ nghệ thuộc các ngành nghề truyền thống theo qui định trong trường hợp có xuất khẩu đạt trên 30% giá trị của đơn vị sản xuất – kinh doanh, tức là đạt 2 nội dung được ưu đãi qui định trong danh mục A, thì cho hưởng mức ưu đãi cao hơn liền kề, thí dụ: Dự án sản xuất kinh doanh mặt hàng thủ công mỹ nghệ thuộc ngành nghề truyền thống (thuộc danh mục A), có sử dụng nhiều lao động, được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 2 năm và giảm 50% cho bốn bước tiếp theo; Nếu dự án thực hiện xuất khẩu trên 30% (tức là đạt nội dung khác của danh mục A), thì được hưởng mức ưu đãi cao hơn liền kề, tức là miễn ba năm thuế thu nhập doanh nghiệp và giảm 50% cho 5 năm tiếp theo. + Sửa đổi bổ sung các qyu định cho vay vốn, nhất là vốn ưu đãI Theo nghị định 43/1999/NĐ-CP ngày 29/6/1999 của chín phủ về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, chỉ những dự án đầu tư tại các vùng khó khăn (trong đó có dự án sản xuất hàng xuất khẩu, đặc biệt là các dự án sử dụng nhiều lao động) mới được vay vốn từ quỹ Hỗ trợ phát triển Nhà nước. Vì vậy, kiến nghị chính phủ mở rộng cho vay vốn từ quỹ này đối với các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh thuộc các ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống đã được quy định trong danh mục A, không kể là các dự án đầu tư tại vùng nào; đồng thời các dự án này được áp dụng chính sách “hỗ trợ lãi suất sau đầu tư” quy định tại Nghị định 43 nêu trên, hoặc được Quỹ này bảo lãnh tín dụng đầu tư. Trường hợp dự án đầu tư sản xuất kinh doanh hàng xuất thì còn có thể được Quỹ hỗ trợ xuất khẩu Quốc gia cấp tín dụng xuất khẩu ưu đãi và bảo lãnh tín dụng xuất khẩu. Chính sách khuyến khích, ưu đãi hiện có đối với các ngành nghề truyền thống (theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước) là áp dụng cho các dự án đầu tư thành lập mới hoặc mở rộng các cơ sở sản xuất kinh doanh các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Hiện nay, các đơn vị sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ đều thiếu vốn, không vay được vốn hoặc không đủ sức vay vốn với lãi suất cao để tổ chức sản xuất kinh doanh. Để khuyến khích khai thác các cơ sở sản xuất kinh doanh hiện có tăng nguồn hàng cho xuất khẩu, đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh có hợp đồng xuất khẩu đạt mức từ 50 ngàn USD trở lên kiến nghị Chính phủ cho hưởng các ưu đãi về vốn kinh doanh như sau: + Được ngân hàng ưu tiên cho vay đủ vốn sản xuất - kinh doanh theo hợp đồng đã ký, + Sau khi thực hiện hợp đồng, được uỹ Hỗ trợ phát triển của Nhà nước hoặc quỹ Hỗ trợ xuất khẩu hỗ trợ lãi suất theo qui định taị Nghị định 43/1999/NĐ- CP ngày 29/6/1999, tức là hỗ trợ 50% lãi suất trên số vốn thực tế đã vay của Ngân hàng. + Đồng thời, các nhà sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu cũng được hưởng các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp qui định tại điều 27 Nghị định 5/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ qui định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước, tức là các ưu đãi bổ sung về thuế đối với nhà đầu tư sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. 2.3. Chính sách khuyến khích xuất khẩu + Chính sách hỗ trợ công tác tiệp thị và xúc tiến thương mại Do đặc điểm khó khăn trong sản xuất kinh doanh như đã trình bày ở trên, kiến nghị Nhà nước có chính sách hỗ trợ một phần chi phí xúc tiến, tiếp thị mở rộng thị trường xuất khẩu. Hơn nữa, trong thương mại quốc tế, không có hoặc ít thấy nước nào không dành một nguồn kinh phí nhất định từ ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho công tác xúc tiến thương mại, nhất là cho việc khuyếch trương xuất khẩu. Cụ thể , Nhà nước hỗ trợ các hình thức sau: a. Hỗ chợ 50% chi phí thuê gian hàng cho sở sở sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ tham gia hội chợ triển lãm ở nước ngoài. 50% chi phí còn lạiđược hỗ trọ nếu đơn vị nào ký được hợpđồng xuất khẩu với trị giá trên 50 ngàn USDtrong thời gian hội chợ diễn ra. Viẹc hỗ trợ này có thể thực hiện trực tiếp đối với doanh nghiệp từ một trung tâm xúc tiến thương mại hoặc thông qua các công ty quốc doanh được giao nhiệm vụ tổ chức tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế. b. Đề nghị cho thành lập thêm một số trung tâm xúc tiến thương mại tại một số nơi ở nước ngoài tương tự như "Việt Nam Square" tại Osaka, Nhật Bản (có thêm ở vùng Trung Đông, Pháp hoặc Đức, Nga, Hoa Kỳ hoặc Canada, mỗi nơi một trung tâm). Các trung tâm này có các gian hàng cho các doanh nghiệp trong nước thuê để trưng bày chào bán hàng xuất khẩu với giá khuyến khích. Riêng hàng thủ công mỹ nghệ được miễn phí. c. Phục vụ lễ hội của các nước trên thế giới là một hướng quan trọng thúc dẩy xuất khẩu. Hàng năm trên thế giưoí có rất nhiều lễ hội, nếu nắm bắt được nhu cầu, thiết kế mẫu mã hàng phù hợp nhu cầu của từng lễ hội thì có thể bán được nhiều loại hàng thủ công mỹ nghệ, kể cả hàng thổ cẩm của các dân tộc ở nước ta. Để có thể triển khai xuất khẩu phục vụ các nhu cầu lễ hội và Noel của các nước trên thế giới như là một trong những mũi nhọn khuyếch trương xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong những năm tới, kiến nghị: - Ở những nơi Việt Nam có đại diện thương mại thì giao nhiệm vụ cho họ tìm hiểu khảo sát nhu cầu phụ vụ lễ hội và Noel tại địa bàn. Khi phát hiện nhu cầu và tìm được đối tác thì cử ngay nhóm công tác đến tận nơi khảo sát, thiết kế mẫu mã hàng chào bán và ký hợp đồng cho các cơ sở sản xuất trong nước sản xuất và giao hàng. Chí phi cho nhóm công tác trong một vài năm đầu do Nhà nước hỗ trợ 100%. Nếu ký được hợp đồng có giá trị thì được xét thưởng. - Ở những nơi nước ta chưa có cán bộ thương mại thường trú thì giao cho Ban xúc tiến thương mại cùng công ty hội chợ triển lãm quảng cáo của Bộ nghiên cứu, có kế hoạch cử nhóm công tác (bao gồm hoạ sĩ, nghệ nhân, cán bộ kinh doanh ngành hàng) đến tìm hiểu, khảo sát, thiết kế mẫu mã chào bán hàng theo cơ chế chính sách nêu trên. d. Cho phép các tổ chức, cá nhân được nhận tiền thù lao hoặc hoa hồng môi giới và cho phép các công ty xuất khẩu được trả khoản tiền này theo mức thoả thuận khi ký và thực hiện hợp đồng xuất khẩu (việc môi giới được thực hiện thông qua hợp đồng môi giới). e. Chính phủ cần có chính sách khuyến khích việc khai thác các hoạt động quốc tế như hội thảo, biểu diễn thảo tác nghề nghiệpnhằm mở rộng phát triển ngành nghề truyền thống, phục vụ xuất khẩu. Ví dụ như tại Achentina vào tháng 4 hàng năm có tổ chức hội chợ hàng thủ công mỹ nghệ và gần 700 nghệ nhân của các nước được mời tham gia biểu diễn, thao tác nghề, có gian hàng trưng bày miễn phí cho nghệ nhânTuỳ trường hợp cần thiết, Nhà nước có thể hỗ trợ kinh phí cho các nghệ nhân Việt nam tham gia các hoạt động này; kết hợp với việc giới thiệu mẫu mã hàng hoá. Hơn nữa, nghệ nhân có thể chào bán, ký kết các hợp đồng xuất khẩu theo uỷ nhiệm của các Công ty sản xuất kinh doanh trong nước, được hưởng thù lao hoặc hoa hồng theo kết quả chào bán và thực hiện các hợp đồng xuất khẩu ký được. 2.4. Chính sách thưởng xuất khẩu Theo qui định hiện hành, để được thưởng về kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, doanh nghiệp phải đạt mức kim ngạch 5 triệu USD/ năm trở lên. Đây là một tiêu chuẩn quá cao và khó có doanh nghiệp nào đạt được tiêu chuẩn để đưa vào diện được xét thưởng. Để khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ tích cự tham gia đẩy mạnh xuất khẩu, đồng thời cũng là cách hỗ trợ vượt qua những khó khăn trong sản xuất kinh doanh; kiến nghị cho áp dụng tiêu chuẩn kim ngạch xét thưởng ở từ mức 2 triệu USD/năm trở lên; vì nếu có nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đạt mức kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên 2 triệu USD/năm, thì đó là điều đáng mừng. Vả lại, nếu có được thưởng thì doanh nghiệp cũng chỉ được hưởng 1 lần trong cả cuộc đời tồn tại của mình; còn sau đó nếu doanh nghiệp duy trì và phát triển tốt để được xét thưởng tốt thì doanh nghiệp phải có tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu đạt mức qui định. Mức hiện hành là 20%/năm đối với toàn bộ kim ngạch của đơn vị năm sau so với năm trước. KẾT LUẬN ******************* Bước sang thế kỷ XXI, thế giới đang bước vào một nền kinh tế mới. Đó là nền kinh tế dựa trên nền tảng của tri thức và công nghệ. Môi trường thương mại quốc tế đã có những thay đổi căn bản trước làn sóng mạnh mẽ của toàn cầu hoá, tự do hoá và sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ...Những thay đổi cơ bản của môi trường thương mại quốc tế một mặt tạo ra những cơ hội to lớn cho sự phát triển của các quốc gia, nhưng mặt khác lại đặt các nước trước thách thức lớn nhất cho phát triển, đó là cạnh tranh khốc liệt hơn bao giờ hết. Để giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh sống còn này, các nước, khi tham gia thương mại quốc tế, phải có các chiến lược phát triển xuất khẩu thích ứng và tiến hành các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu phù hợp. Điều này càng đúng với Việt nam khi Đảng và Nhà nước ta chủ trương tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Mục tiêu nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu tăng gấp hợ hai lần nhịp độ tăng trưởng GDP trong chiến luức phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 có thực hiện được hay không tuỳ thuộc vào những nỗ lực phát triển xuất khẩu của Nhà nước và các doanh nghiệp Việt nam trong việc tranh thủ tối đa các cơ hội mới mở ra từ môi trường kinh doanh quốc tế và vượt lên những thách thức của cạnh tranh khốc liệt. Chính vì vậy, việc chú trọng vào trợ cấp xuất khẩu càng trở nên quan trọng và cũng là lý do khiến tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài "Trợ cấp xuất khẩu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu của Việt nam trong điều kiện hội nhập". Những đóng góp của bản khoá luận cho trợ cấp xuất khẩu của Việt nam được thể hiện ở những điểm mà tác giả tóm tắt sau đây: - Nêu ra các hình thức trợ cấp xuất khẩu chủ yếu của một số nước có điều kiện tương tự Việt nam đã áp dụng; - Phân tích những thành tựu và tồn tại của trợ cấp xuất khẩu Việt nam đã áp dụng trong thời gian qua; - Nêu ra những thuận lợi và thách thức đối với việc áp dụng trợ cấp xuất khẩu khi gia nhập thị trường quốc tế Để từ đó rút ra kinh nghiệm và đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trợ cấp xuất khẩu trong điều kiện hôi nhập. Hoàn thành bản khoá luận này, em hy vọng có thể đóng góp một phần nhỏ bé để các cơ quan nghiên cứu thương mại có thể đánh giá đúng những mặt tốt và chưa tốt trong quá trình thực hiện vừa qua, đưa ra một số gợi ý để các cơ quan nghiên cứu thương mại nghiên cứu tham khảo. Hy vọng trong điều kiện hội nhập, Việt nam sẽ đạt được nhiều thành tựu và mở rộng các mặt hàng xuất khẩu quan trọng và, có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Nghiên cứu ra những chính sách trợ cấp xuất khẩu hiệu quả, hợp pháp trong tiến trình hội nhập. ********************************* DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ΘΘΘ - Báo cáo tổng kết của vụ XNK - Bộ thương mại 2002. - Nghị quyết số 12/2001/NQ-CP ngày 02/11/2001 - Giáo trình Thanh toán quốc tế . Chủ biên: PGS.NGƯT.Đinh Xuân Trình - Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ - Tác giả: Lê Văn Tư & Lê Tùng Vân, NXB: Thống kê. - Hướng phát triển thị trường xuất nhập khẩu Việt Nam tới năm 2010 Chủ biên: PTS. Phạm Quyền & PTS. Lê Minh Tâm. - Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu Việt Nam 2001- 2010. - Quyết định 195/ 1999/ QĐ - TTg về quỹ hỗ trợ xuất khẩu. - Viện nghiên cứu thương mại, Hồ sơ các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt nam, Hà Nội năm 1999 - Thương mại Việt nam trong quá trình hội nhập quốc tế, hà nội, 1999 - KS.Vũ Lưu, báo cáo tổng hợp đề tài khoa học cấp bộ “ Cơ sở khoa học về chiến lược hỗ trợ xuất khẩu cho các hợp tác xã và các doanh nghiệp vừa và nhỏ việt nam”, Hà nôi, 1999 - Luận án tiến sĩ " Phát huy năng lực các thành phần kinh tế trong công nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu ở Việt nam hiện nay" của Nguyễn Thị Hồng Minh, thứ trưởng Bộ Thuỷ sản, 1996.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8180.doc
Tài liệu liên quan