Đề tài Trong quá trình đánh giá phân tích chi tiêu công, sau khi phát hiện các khuyết tật của thị trường chính phủ đã sử dụng hình thức can thiệp nào? Liên hệ những hình thức can thiệp đó trong việc cung ứng hàng hóa dịch vụ công của chính phủ Việt Nam hi

I . Khái niệm, đặc điểm chi tiêu công 1. Khái niệm 2. Đặc điểm II. Hình thức can thiệp của chính phủ vào chi tiêu công 1.Vai trò của hình thức can thiệp của chính phủ vào chi tiêu công 1.1. Xây dựng khuôn khổ pháp lý quản lý chi tiêu NS hợp lí 1.2. Giúp cải thiện tính minh bạch chi ngân sách 1.3. Nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực đất nước 2 .Nội dung các hình thức 2.1. Chính phủ tổ chức sản xuất và cung cấp toàn bộ hàng hóa công đó 2.2. Thực hiện đánh thuế và trợ cấp nhằm không khuyến khích hoặc khuyến khích khu vực tư sản xuất và cung cấp hàng hóa công 2.3. Phối hợp cả hai biện pháp trên III.Kết luận

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1501 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Trong quá trình đánh giá phân tích chi tiêu công, sau khi phát hiện các khuyết tật của thị trường chính phủ đã sử dụng hình thức can thiệp nào? Liên hệ những hình thức can thiệp đó trong việc cung ứng hàng hóa dịch vụ công của chính phủ Việt Nam hi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng mà lợi ích của nó có thể định giá thì gọi là hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá. Ví dụ đường cao tốc, cầu...có thể đặt các trạm thu phí để hạn chế bớt số lượng người sử dụng nhằm tránh tắc nghẽn. Hàng hóa công cộng quốc gia và hàng hóa công cộng địa phương Hàng hóa công cộng quốc gia: do chính quyền trung ương cung cấp cho toàn bộ quốc gia. Những loại hàng hóa có cả hai tính chất trên ở mức cao sẽ thường được xếp vào hàng hóa công cộng quốc gia. Một số hàng hóa công cộng quốc gia tiêu biểu là ngoại giao, quốc phòng, chính sách lưu thông tiền tệ, v.v… Hàng hóa công cộng địa phương: do chính quyền địa phương cung cấp chủ yếu cho công dân địa. Hàng hóa công cộng địa phương thường chỉ mang một trong hai tính chất nói trên hoặc mang cả hai tính chất nhưng ở mức độ không cao. Một số hàng hóa công cộng địa phương tiêu biểu là giáo dục phổ cập, y tế cộng đồng, vệ sinh môi trường, cung cấp nước sạch, v.v… Hơn nữa, tính không cạnh tranh trong tiêu dùng của hàng hóa công cộng không bó hẹp trong phạm vi địa phương, quốc gia mà còn có tính chất quốc tế. Tri thức có thể coi là một hàng hóa công cộng quốc tế, mọi người dân trên thế giới đều có thể được hưởng lợi ích do tri thức đem lại. Ví dụ 1 : Tiêu biểu cho chương trình chi tiêu công là Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi (hay đọc là: "chương trình một-ba-năm"), là một trong các chương trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam do Nhà nước Việt Nam triển khai từ năm 1998. Chương trình được biết đến rộng rãi dưới tên gọi Chương trình 135 do Quyết định của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam phê duyệt thực hiện chương trình này có số hiệu văn bản là 135/1998/QĐ-TTg. Theo kế hoạch ban đầu, chương trình sẽ kéo dài 7 năm và chia làm hai giai đoạn; giai đoạn 1 từ năm ngân sách 1998 đến năm 2000 và giai đoạn 2 từ năm 2001 đến năm 2005. Tuy nhiên, đến năm 2006, Nhà nước Việt Nam quyết định kéo dài chương trình này thêm 5 năm, và gọi giai đoạn 1997-2006 là giai đoạn I. Tiếp theo là giai đoạn II (2006-2010). Giai đoạn I(1997-2006) Điều hành Chương trình 135 là Ban chỉ đạo chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa. Người đứng đầu ban này là một phó thủ tướng chính phủ; phó ban là Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc; và các thành viên là một số thứ trưởng các bộ ngành và các đại diện đoàn thể xã hội. Mục tiêu cụ thể của Chương trình 135 là: Phát triển sản xuất, nâng cao mức sống cho các hộ dân tộc thiểu số; Phát triển cơ sở hạ tầng; Phát triển các dịch vụ công cộng địa phương thiết yếu như điện, trường học, trạm y tế, nước sạch Nâng cao đời sống văn hóa. Có nhiều biện pháp thực hiện chương trình này, bao gồm đầu tư ồ ạt của nhà nước, các dự án nhà nước và nhân dân cùng làm (nhà nước và nhân dân cùng chịu kinh phí, cùng thi công), miễn giảm thuế, cung cấp miễn phí sách giáo khoa, một số báo chí, v.v... Năm 1999, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt danh sách 1.870 xã đặc biệt khó khăn và các xã biên giới làm phạm vi của Chương trình 135. Các năm tiếp theo, do có sự chia tách và thành lập xã mới, nên số xã thuộc phạm vi Chương trình 135 đã vượt con số trên. Khi giai đoạn I kết thúc, Nhà nước Việt Nam đã chi khoảng 10 nghìn tỷ đồng, cả nước đã xây dựng và đưa vào sử dụng hơn 25 nghìn công trình thiết yếu các loại, góp phần thay đổi đáng kể bộ mặt nông thôn miền núi, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, cũng có đánh giá rằng hiệu quả của Chương trình 135 còn chưa cao, nhiều mục tiêu chưa thực hiện được. Giai đoạn II (2006-2010) Chính phủ Việt Nam đã xác định có 1.946 xã và 3.149 thôn, buôn, làng, bản, xóm ấp đặc biệt khó khăn thuộc các xã khu vực II thuộc 45 tỉnh, thành được đưa vào phạm vi của Chương trình 135. Mục tiêu tổng quát Tạo chuyển biến nhanh về sản xuất Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất gắn với thị trường. Cải thiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Giảm khoảng cách phát triển giữa các dân tộc và giữa các vùng trong nước. Đến năm 2010: Trên địa bàn không có hộ đói, giảm hộ nghèo xuống còn dưới 30%. Nội dung chính chương trình Nhà nghèo trước khi chưa có chương trình Hỗ trợ phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ sản suất của đồng bào các dân tộc. Đào tạo cán bộ khuyến nông thôn bản. Khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Xây dựng các mô hình sản xuất có hiệu quả, phát triển công nghiệp chế biến bảo quản. Phát triển sản xuất: Kinh tế rừng, cây trồng có năng suất cao, chăn nuôi gia súc, gia cầm có giá trị. Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Làm đường dân sinh từ thôn, bản đến trung tâm xã phù hợp với khả năng nguồn vốn, công khai định mức hỗ trợ nhà nước. Xây dựng kiên cố hóa công trình thủy lợi: Đập, kênh, mương cấp 1-2, trạm bơm, phục vụ tưới tiêu sản xuất nông nghiệp và kết hợp cấp nước sinh hoạt. Làm hệ thống điện hạ thế đến thôn, bản; nơi ở chưa có điện lưới làm các dạng năng lượng khác nếu điều kiện cho phép. Xây dựng các công trình cấp nước sinh hoạt cho cộng đồng. Xây dựng nhà sinh hoạt cộng đồng thôn, bản (tùy theo phong tục tập quán) ở nơi cấp thiết. Đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ sở, kiến thức kĩ năng quản lý điều hành xã hội, nâng cao năng lực cộng đồng. Đào tạo nghề cho thanh niên 16 - 25 tuổi làm việc tại các nông lâm trường, công trường và xuất khẩu lao động. Hỗ trợ các dịch vụ, nâng cao chất lượng giáo dục, đời sống dân cư hợp vệ sinh giảm thiểu tác hại môi trường đến sức khỏe người dân. Tiếp cận các dịch vụ y tế, bảo hiểm và chăm sóc sức khỏe cộng động. Một số dự án của chính phủ cho chương trình 135 Các dự án nông, lâm, khuyến ngư phát triển các ngành nghề: cung cấp cho người nghèo những kiến thức kỹ năng, lập kế hoạch, phân bổ thích hợp sản xuất, nâng cao công nghệ sản xuất để họ tạo được thu nhập ổn định. Chính sách hỗ trợ ngư dân tổng kinh phí năm 2008 là trên 2100 tỷ đồng. Chính phủ đã ban hành rất nhiều chính sách ưu đãi về thuế, phí, lệ phí. Thống kê cho thấy , nhóm chính sách này lên tới 5 loại, trong đó có thuế sử dụng đất nông nghiệp, tiền thuê mặt đất- mặt nước, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng… Việc áp dụng các loại thuế này, nhiều đối tượng đã được hưởng lợi, tạo thuận lợi lớn cho người dân, doanh nghiệp ở vùng khó khăn Các dự án hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng cho các vùng đặc biệt khó khăn: Ngân sách TW hỗ trợ sẽ là 800.000.000/ năm theo chương trình 135. Năm 2005, tỉnh Lào Cai nâng cấp 532 công trình với tổng chiều dài 1.400km và 93 cây cầu; gần 300 công trình thủy lợi, tưới tiêu cho 6 ngàn ha lúa và hoa màu. Tỉnh Thanh Hóa, từ năm 1999 đến 2006 trên địa bàn 102 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh Thanh Hóa đã có 503 công trình cơ sở hạ tầng nông thôn được xây dựng và hoàn thành, với tổng kinh phí đầu tư 277,5 tỷ đông. Năm 2008, chính phủ đã dành 3.800 tỷ đồng cho chương trình 135 giai đoạn II, hỗ trợ đầu tư rất quan trọng cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng mới được hơn 500 công trình trong phạm vi cả nước, chủ yếu là các chương trình về hạ tầng giao thông, giáo dục, y tế và tăng cường nhận thức pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số… tính đến nay, các tổ chức quốc tế, các nhà tài trợ của nhà nước, các tổ chức trên thế giới đã hỗ trợ khoảng 300 triệu USD cho chương trình 135 của Việt Nam . Kết thúc năm 2008, Chương trình đã có 110 xã hoàn thành mục tiêu: 93,7% xã cơ bản đã có các công trình thiết yếu về cơ sở hạ tầng; 61% xã có công trình thủy lợi nhỏ đảm bảo phục vụ sản xuất. Về cơ bản thì đạt được mục tiêu: phát triển cơ sở hạ tầng các xã nghèo, hoàn thành các công trình hạ tầng cơ sở thiết yếu. nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại: cuối năm 2003, phát hiện sai phạm 8 tỷ đồng trong việc chi cho xây dựng cơ sở hạ tầng cho dân tộc thiểu số, một số công trình không tính đến hiệu quả lâu dài: Ninh Thuận công trình thủy lợi không hiệu quả trong mùa khô, chưa đưa vào sử dụng, Đập Phà Sắc 3km đường ống nước bị gãy. Cung cấp hàng hóa công Chính sách trợ giúp kinh tế: cung cấp dịch vụ y tế nhiều hơn cho người nghèo, để giảm rủi ro đối với họ. Một chính sách thân thiết khác là khám chữa bệnh cho người nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi. Được thực hiện từ năm 2002 đến năm 2009 đã có 21 triệu người được thụ hưởng. Tổng kinh phí để mua thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo trong giai đoạn 2005-2009 là trên 8.500 triệu lượt người nghèo được cấp thẻ BHYT và khoảng 90% được khám chữa bệnh bằng thẻ. Chính sách hỗ trợ giáo dục: nâng cao số lượng trẻ em được đến trường, phát triển trình độ giáo dục cho người nghèo bằng cách thực hiện các chương trình hỗ trợ như: cho vay vốn ưu đãi sinh viên ĐH, CĐ thuộc diện hộ nghèo, khó khăn ( Ngân hàng chính sách xã hội còn có 597 phòng giao dịch ở các quận huyện nơi đang theo học tại các trường ĐH, CĐ để làm thủ tục vay vốn ưu đãi); các học bổng cho các sinh viên nghèo hiếu học, miễn giảm học phí cho học sinh thuộc diện hộ nghèo, hoàn cành khó khăn. Năm 2007, 5 triệu lượt học sinh nghèo được miễn giảm học phí, năm 2007-2008 có hơn 750.000 học sinh, sinh viên đã được vay vốn học tập gần 5.169 tỷ đồng. Trong đó, số hộ nghèo chiếm hơn 14%, hộ cận nghèo 67%, hộ khó khăn gần 15%. Theo đánh giá của Ngân hàng chính sách xã hội, sau hai năm thực hiện quyết định 157 của thủ tướng chính phủ về đào tạo, đối tượng và chính sách ưu đãi được mở rộng hơn, số tiền cho vay của chương trình đã tăng lên 47 lần so với chín năm trước đó. Số học sinh sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được thụ hưởng cũng tăng gấp 14 lần. Chính sách về nước sạch và nhà ở: cung cấp cho người nghèo đặc biệt là dân tộc thiểu số về nhà ở và nước sạch để xóa đói giảm nghèo bền vững. Chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở, nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số. Về nhà ở: mức giao diện tích đất tối thiểu 200m2 cho mỗi hộ đồng bào sống ở nông thôn. Căn cứ quỹ đất ở và khả năng ngân sách của địa phương. Ngân sách TW hỗ trợ với mức 5 triệu đồng/ hộ để làm nhà ở. Căn cứ tình hình và khả năng ngân sách, các địa phương hỗ trợ thêm và huy động sự giúp đỡ của cộng đồng. Về nước sạch: đối với các hộ đồng bào dân tộc ở phân tán vùng cao, núi đá, khu vực khó khăn về nguồn nước sinh hoạt thì Ngân sách TW hỗ trợ 0,5 tấn xi măng/ hộ để xây dựng bể chứa nước hoặc hỗ trợ 300.000 đồng/ hộ để đào giếng và tạo nguồn nước sinh hoạt. Còn đối với công trình cấp nước sinh hoạt tập trung: ngân sách trung ương hỗ trợ 50% đối với các thôn, bản có từ 20% đến dưới 50% số hộ đồng bào dân tộc thiểu số. Các địa phương khi xây dựng các công trình cấp nước sinh hoạt tập trung cho đồng bào phải đảm bảo tính bền vững và hiệu quả. Sau 4 năm thực hiện từ năm 2001, quyết định 134, nguồn kinh phí đã giải ngân được 3.734,12 tỷ đồng ( đạt 83% kế hoach). Trong đó hỗ trợ nhà ở đạt 118%, hỗ trợ đất ở 83%, hỗ trợ nước phân tán 81% , hỗ trợ nước tập trung là 84%. Với chính sách này người dân có nhà ở ổn định nhiều hơn và nhiều vùng có nước sạch để sử dụng… Hiện tại, chính sách này được triển khai tại 51 địa phương với gần 500.000 hộ dân được thụ hưởng. Tổng kinh phí dành cho chương trình này đã lên tới trên 9.000 tỷ đông trong giai đoạn 2004-2008. Chính sách hỗ trợ pháp lý: bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo, bảo đảm công lý và bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ pháp lý, nâng cao nhận thức và kiến thức về các vấn đề mà pháp luật và các quy định, tham gia phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo và thực hành cơ sở dân chủ. Nhận xét: khi đánh giá về các chính sách hỗ trợ người nghèo, vùng khó khăn ta thấy rằng các chính sách tương đối đầy đủ, toàn diện trên các lĩnh và gắn với sản xuất, đời sống của người nghèo, vùng khó khăn, góp phần giảm nghèo nhanh. Tuy nhiên, chương trình chi tiêu công cũng còn tồn tại biến dạng như: Chất lượng của chương trình, công trình không cao: chính sách vẫn còn phân tán, trùng lắp trong quá trình thực hiện các chính sách an sinh xã hội cũng được chính phủ chi ra. Trong đó đáng nói nhất là tình trạng giải ngân vốn cho các chương trình, dự án còn châm, làm giảm vốn hiệu quả vốn đầu tư. Chất lượng một số công trình đầu tư chưa được đảm bảo. Có công trình đầu tư xây dựng xong đã không mang lại hiệu quả, như đầu tư chợ nhưng không có người mua bán, nhiều trường học bệnh viện xuống cấp nhanh, một số khu neo đậu tàu thuyền không có tàu thuyền vào. Sai đối tượng, tham ô: Nhiều chính sách trước khi ban hành chưa có nghiên cứu kỹ, chưa xác định được đối tượng thụ hưởng nên khi đi vào cuộc sống gặp rất nhiều khó khăn, gây lãng phí. Đồng thời quá trình phân bổ tiền trợ cấp từ Chính phủ xuống địa phương nhiều trường hợp sai đối tượng và bị ăn bớt. Do đó,ước tính tỷ lệ rò rỉ của Quốc gia theo các năm trung bình khoảng 10%. Ví dụ như: dịp tết Kỷ Sửu, Chính phủ đã chi 3.800 tỷ đồng để hỗ trợ người nghèo ăn tết, mỗi nhân khẩu 200.000đồng hoặc 1trđ/ hộ. Thế nhưng chủ trương hợp lòng dân đó đã bị một số nơi làm méo mó. Phổ biến nhất là tình trạng tiền cho dân nghèo bị xà xẻo hoặc lấy của người nghèo chia cho người không nghèo.Bên cạnh đó, một số chương trình phân bổ tiền sai, ví dụ trong chương trình kiểm toán 135, Kiểm toán nhà nước đã đề nghị xử lý gần 39,6 tỷ đồng. Đáng lưu ý là trong khi rất nhiều địa phương mong mỏi nhận được sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước để thoát nghèo vẫn có trên 2,347 tỷ đồng tiền thừa, không dùng đến, phải nộp trả ngân sách Nhà nước. Trong khi đó, có khoảng 4, 9 tỷ đồng đã bị các địa phương chi sai đối tượng. Tái nghèo: bên cạnh đó vẫn còn một số hộ đã thoát nghèo nhưng trong một thời gian ngắn lại bị tái nghèo. Mà nguyên nhân đó là, người dân chưa được hưởng đầy đủ các chính sách trợ cấp của Nhà nước và bị tác động bởi các yếu tố khách quan như: thiên tai, dịch bệnh và biến động xấu của thị trường. Ví dụ 2 : Theo dự báo của EVN, tổng nhu cầu điện sản xuất toàn quốc năm 2011 là 117,63 tỷ kWh, tăng 17,63% so với tổng sản lượng điện thực hiện năm 2010 (100,1 tỷ kWh), trong đó tổng nhu cầu điện sản xuất 6 tháng mùa khô 2011 là 56,14 tỷ kWh tăng 18,3% so với thực hiện 6 tháng mùa khô 2010, tổng nhu cầu điện sản xuất 6 tháng cuối năm 2011 là 61,49 tỷ kWh tăng 16,8% so với thực hiện 6 tháng cuối năm 2010. Do tình hình khô cạn năm 2010 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc tích nước các hồ thuỷ điện. Tại thời điểm ngày 01 tháng 01 năm 2011, mực nước hầu hết các hồ thuỷ điện trên cả nước đều thấp hơn nhiều so với mực nước yêu cầu, cụ thể mực nước hồ Hòa Bình chỉ đạt 100,89m/117m (thấp hơn 16,11m yêu cầu), hồ Tuyên Quang chỉ đạt 108,7m/120m (thấp hơn 11,3m), hồ Ialy đạt 493,0m/515m (thấp hơn 21,96m), hồ Trị An đạt 54,0m/62m (thấp hơn 7,98m). Tổng lượng nước thiếu hụt của các hồ chứa thủy điện so với mực nước yêu cầu đầy hồ vào khoảng 13 tỷ m3, tương đương sản lượng điện thiếu hụt khoảng 3 tỷ kWh. Bên cạnh đó, một số nhà máy điện do phải khai thác liên tục trong thời gian qua, thời hạn bảo dưỡng sửa chữa đã vượt quá mức cho phép, do đó hay xảy ra sự cố. Ngoài ra, một số nhà máy nhiệt điện than mới đưa vào hoạt động năm 2010 vẫn chưa vận hành ổn định, nên hệ thống điện quốc gia vẫn có nguy cơ thiếu điện vào các tháng mùa khô 2011. Trước các khó khăn về cung ứng điện nêu trên, Bộ Công Thương đã khẩn trương chỉ đạo EVN xây dựng kế hoạch cung cấp điện mùa khô và cả năm 2011 để trình Bộ phê duyệt. Ngày 12 tháng 01 năm 2011, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 0152/QĐ-BCT phê duyệt Kế hoạch cung cấp điện và vận hành hệ thống điện năm 2011 làm cơ sở pháp lý cho điều hành cung ứng điện. Theo đó, các loại nguồn thủy điện, nhiệt điện than, nhiệt điện khí, nhập khẩu điện đã được huy động phát điện tối đa, các nguồn điện có giá thành cao (chạy dầu FO, DO) cũng được huy động ở mức rất cao để đáp ứng nhu cầu điện của hệ thống.  Việc điều chỉnh giá điện năm 2011 Sự cần thiết điều chỉnh giá điện 2011 Ngày 23 tháng 02 năm 2011 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 268/QĐ-TTg về biểu giá bán lẻ điện áp dụng từ năm 2011 và Quyết định số 269/QĐ-TTg về giá bán điện năm 2011. Việc điều chỉnh giá điện năm 2011 là bước đi cần thiết để thực hiện chủ trương của Chính phủ về việc chuyển các mặt hàng sang thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước và thực hiện lộ trình điều chỉnh giá điện quy định tại Quyết định 21/2009/QĐ-TTg ngày 12/2/2009 của Thủ tướng Chính phủ về giá bán điện năm 2009 và các năm 2010 - 2012 theo cơ chế thị trường. Cũng qua đây nhằm xử lý một số vấn đề mang tính căn bản, dài hạn hơn để xử lý những khó khăn, vướng mắc trong lĩnh vực phát triển điện lực ở nước ta thời gian qua, chủ yếu như: Giá điện của Việt Nam trong những năm qua vẫn đang ở mức thấp và thấp hơn giá thành thực tế cho sản xuất kinh doanh điện nếu tính đầy đủ các yếu tố đầu vào theo giá thị trường, do vậy không bảo đảm được cân bằng tài chính cho các đơn vị sản xuất điện, không hấp dẫn được các nhà đầu tư vào lĩnh vực này, dẫn tới tình trạng chậm đầu tư các nguồn điện mới; đồng thời cũng không khuyến khích doanh nghiệp và người sử dụng điện điện lựa chọn đổi mới công nghệ sản xuất, sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả, v.v... Bên cạnh đó, hiện nay chi phí cho sản xuất kinh doanh điện cũng đã tăng cao. Theo báo cáo của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), hầu hết các chi phí thực tế cho sản xuất kinh doanh điện (số liệu chưa được kiểm toán) đều tăng cao hơn so với số liệu tính toán. Trong năm 2010, các nhà máy nhiệt điện chạy than mới đưa vào vận hành phát không ổn định, điều kiện thuỷ văn bất lợi, hạn hán kéo dài, các nhà máy thủy điện không đủ nước để vận hành, vì vậy hệ thống phải huy động các nguồn điện có giá cao (nguồn điện chạy dầu, nhập khẩu) làm tăng thêm chi phí hàng nghìn tỷ đồng. Các thông số đầu vào hình thành giá điện cũng đã tăng cao Biểu giá điện năm 2011 được điều chỉnh trên nguyên tắc không gây ra sự biến động lớn về giá; bảo đảm an sinh xã hội, đặc biệt đối với các hộ nghèo và các hộ thu nhập thấp, tức là nhà nước vẫn có cơ chế hỗ trợ giá điện cho các hộ này giá điện cho các thành phần được xây dựng minh bạch, không có bù chéo trong giá giữa các đối tượng khách hàng; giá điện được tính toán để tách bạch chức năng kinh doanh và bảo trợ xã hội của ngành điện. Bảng giá điện từ 01/03 năm 2011 Số TT Nhóm đối tượng khách hàng GIÁ (VND/kWh) 1 Giá bán lẻ điện cho các ngành sản xuất 1.1 Các ngành sản xuất 1.1.1 Cấp điện áp từ 110 kV trở lên a) Giờ bình thường 1,043 b) Giờ thấp điểm 646 c) Giờ cao điểm 1,862 1.1.2 Cấp điện áp từ 22 kV đến dưới 110 kV a) Giờ bình thường 1,068 b) Giờ thấp điểm 670 c) Giờ cao điểm 1,937 1.1.3 Cấp điện áp từ 6 kV đến dưới 22 kV a) Giờ bình thường 1,093 b) Giờ thấp điểm 683 c) Giờ cao điểm 1,999 1.1.4 Cấp điện áp dưới 6kV a) Giờ bình thường 1,139 b) Giờ thấp điểm 708 c) Giờ cao điểm 2,061 1.2 Bơm nước tưới tiêu 1.2.1 Cấp điện áp từ 6 kV trở lên a) Giờ bình thường 956 b) Giờ thấp điểm 497 c) Giờ cao điểm 1,415 1.2.2 Cấp điện áp dưới 6 kV a) Giờ bình thường 1023 b) Giờ thấp điểm 521 c) Giờ cao điểm 1,465 2 Giá bán lẻ điện cho khối hành chính sự nghiệp 2.1 Bệnh viện, nhà trẻ, mẫu giáo, trường phổ thông 2.1.1 Cấp điện áp từ 6 kV trở lên 1,117 2.1.2 Cấp điện áp dưới 6 kV 1,192 2.2 Chiếu sáng công cộng 2.2.1 Cấp điện áp từ 6 kV trở lên 1,217 2.2.2 Cấp điện áp dưới 6 kV 1,291 2.3 Đơn vị hành chính sự nghiệp 2.3.1 Cấp điện áp từ 6 kV trở lên 1,242 2.3.2 Cấp điện áp dưới 6 kV 1,291 3 Giá bán điện cho kinh doanh 3.1 Cấp điện áp từ 22 kV trở lên a) Giờ bình thường 1,713 b) Giờ thấp điểm 968 c) Giờ cao điểm 2,955 3.2 Cấp điện áp từ 6 kV đến dưới 22 kV a) Giờ bình thường 1,838 b) Giờ thấp điểm 1,093 c) Giờ cao điểm 3,067 3.3 Cấp điện áp dưới 6 kV a) Giờ bình thường 1,862 b) Giờ thấp điểm 1,142 c) Giờ cao điểm 3,193 4 Giá bán lẻ điện cho sinh hoạt 4.1 Giá bán lẻ điện sinh hoạt Cho kWh từ 0-50kWh (diện người nghèo) 993 Cho kWh từ 0-100 kWh (không thuộc diện người nghèo) 1,242 Cho kWh từ 101- 150 1,304 Cho kWh từ 151-200 1,651 Cho kWh từ 201- 300 1,788 Cho kWh từ 301- 400 1,912 Cho kWh từ 401 trở lên 1,962 4.2 Giá bán lẻ điện sinh hoạt dùng công tơ thẻ trả trước 1,639 2.2 .Thực hiện đánh thuế và trợ cấp nhằm không khuyến khích hoặc khuyến khích khu vực tư sản xuất và cung cấp hàng hóa công Thực tế ở các nước phát triển cho thấy nếu nhà nước giữ vai trò chi phối trong cung ứng dịch vụ công thì hiệu quả sẽ không cao, nhưng nếu không có nhà nước cũng sẽ thất bại. Mặc dù có những hạn chế nhất định, trên một số lĩnh vực cung ứng dịch vụ công cụ thể, song thực tế cho thấy rằng chỉ có nhà nước mới có đủ khả năng cung ứng các dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ công cộng mà không thể tư nhân nào cũng có thể không vì lợi nhuận mà đảm nhận, và việc đảm nhận tốt vai trò này của Nhà nước là điều kiện cho sự phát triển bền vững của xã hội. Ở Việt Nam, cho đến nay nhà nước vẫn là chủ thể chủ yếu trong cung cấp dịch vụ công.. Trong xu thế hội nhập, với mục tiêu xây dựng “nhà nước của dân, do dân, vì dân” thì việc nhà nước cung cấp các DVC phục vụ nhân dân, thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo ra sự phát triển bền vững là điều tất yếu. Tuy nhiên, xuất phát từ thực trạng cung ứng DVC hiện nay cho thấy, vai trò của Nhà nước trong cung cấp DVC là hết sức quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi mà khu vực tư nhân vẫn chưa đủ mạnh để có thể đảm nhận được những lĩnh vực thiết yếu. Chính sách quốc phòng: việc phòng thủ cho một quốc gia là một dạng hàng hóa hoàn toàn khác biệt so với máy vi tính hay nhà ở: con người không thể thanh toán cho từng đơn vị hàng hóa mà họ sử dụng mà phải mua một tổng thể cho toàn bộ quốc gia. Cung cấp dịch vụ quốc phòng cho một cá nhân không có nghĩa là những người khác ít được bảo vệ hơn, bởi vì trên thực tế tất cả mọi người đều tiêu thụ các dịch vụ quốc phòng này cùng nhau. Trên thực tế thì dịch vụ quốc phòng được cung cấp cho tất cả dân chúng trong một quốc gia kể cả những người không muốn dịch vụ này, bởi vì không có một cách làm hiệu quả nào khác. Chỉ có các quốc gia chứ không phải là các làng xã hay các cá nhân có thể có đủ nguồn lực để sản xuất máy bay chiến đấu phản lực. Loại hình hàng hóa này gọi là hàng hóa công cộng, bởi vì không một doanh nghiệp tư nhân nào có thể bán dịch vụ quốc phòng cho các công dân của một quốc gia mà vẫn duy trì được hoạt động kinh doanh. Nó chỉ đơn giản là không thể bán dịch vụ quốc phòng cho những người cần và không bảo vệ những người từ chối thanh toán dịch vụ đó. Và nếu những người này vẫn được bảo vệ mà không phải trả tiền thì tại sao họ phải chọn cách thanh toán? Điều này được coi là vấn đề "kẻ ăn không", và đó là lý do chính giải thích vì sao chính phủ phải điều hành quốc phòng và dùng thuế để chi cho quốc phòng. Không có nhiều hàng hóa công cộng thực sự - những hàng hóa nhiều người có thể cùng sử dụng và là đối tượng của vấn đề kẻ ăn không - do đó hầu hết các hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế thị trường đều có thể được các công ty tư nhân sản xuất và bán trong các thị trường tư nhân. Các ví dụ khác về hàng hóa công cộng có thể kể đến là chương trình kiểm soát lũ lụt và sâu bọ, và thậm chí cả băng tần sóng phát thanh và truyền hình được phát sóng rộng rãi trong không trung. Mỗi hàng hóa này đều có thể được nhiều người tiêu dùng sử dụng cùng lúc, và cũng là đối tượng để những kẻ ăn không hưởng thụ, ít nhất ở một mức độ nào đó. Tuy nhiên, với sóng phát thanh và truyền hình, các chương trình có thể được các cá nhân sản xuất và thu lợi bằng cách bán thời gian phát sóng cho quảng cáo. Hoặc trong một vài trường hợp khác, các tín hiệu phát sóng hiện đã được đổi tần số điện tử để các công ty tư nhân có thể kiếm tiền bằng cách cho thuê các thiết bị giải mã cho những người muốn xem các chương trình này. Chính sách giáo dục của nhà nước. Khi bạn đến với trường học cuả mình, bạn đang tìm kiếm cách cải thiện cho chính mình và gia đình chứ không cần thiết phải cải thiện cho cả một cộng đồng lớn. Nhưng kết quả từ sự nâng cao học vấn của bạn đã trở thành một thành viên hữu ích và được đào tạo cao hơn trong cộng đồng của bạn. Bạn hiện giờ có những kỹ năng mới và đã xây dựng được một doanh nghiệp mới tạo cơ hội và việc làm cho những người khác. Như vậy, học vấn của bạn đã làm lợi cho những người khác, điều này khác với quan hệ giữa những người sản xuất và tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ. Giáo dục thường được coi là đưa lại những lợi ích ngoại sinh cho một quốc gia do những nhân công có học vấn thường linh hoạt và năng suất hơn, và chắc chắn là ít khả năng thất nghiệp hơn. Điều này có nghĩa là chi tiêu nhiều hơn cho giáo dục ngày hôm nay có thể sẽ dẫn đến những khoản tiết kiệm của xã hội và cá nhân không phải chi tiêu vào việc phòng chống tội phạm, nghèo đói và các vấn đề xã hội khác, cũng như tăng mức độ kỹ năng, tính linh hoạt và năng suất của lực lượng lao động. Mở rộng ra, bất cứ sản phẩm nào đưa lại những lợi ích ngoại sinh đáng kể hoặc lợi ích vượt trội thì chính phủ có thể xem xét đến việc trợ cấp hoặc khuyến khích tiêu dùng, sản xuất sản phẩm đó để giá trị của các lợi ích ngoại sinh đó có thể được tính bằng giá cả thị trường và sản lượng đầu ra của các sản phẩm đó. Trong khi chi phí ngoại sinh sẽ dẫn đến việc sản xuất dư thừa một số hàng hóa nhất định thì việc tồn tại lợi ích ngoại sinh sẽ dẫn đến việc sản xuất dưới mức cầu các hàng hóa và dịch vụ khác. Ví dụ : Hiện nay, thuế TTĐB đang được căn cứ vào số chỗ ngồi: dưới 5 chỗ chịu thuế suất 50%, từ 6 - 15 chỗ là 30% và từ 16 - 24 chỗ là 15%.điều này chứng tỏ là nhà nước khuyến khích và tạo ưu đãi hơn cho việc tiêu thụ xe ôtô có nhiều chõ ngồi Giáo dục công lập có lẽ là ví dụ lớn nhất và đặc trưng nhất về chi tiêu và trợ cấp của chính phủ cho một dịch vụ được xem là có lợi ích ngoại sinh đáng kể. Chúng hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. 1 đặc điểm xuyên suốt của hàng hóa công. Nó hoạt động để cung cấp lợi ích cho mọi người. Tất cả mọi người đều có được lợi ích như nhau. Khu vự tư cung cấp hàng hóa công : Tính không hiệu quả khi khu vực tư nhân cung cấp hàng hóa công cộng: Cây cầu - một ví dụ về hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá nhưng điều đó là không được mong muốn Đối với những hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá thì để ngăn chặn tình trạng tắc nghẽn, cần áp dụng việc thu phí để những người tiêu dùng có thể được hưởng đầy đủ lợi ích do hàng hóa công cộng mang lại. Tuy nhiên nếu mức phí quá cao (chẳng hạn do chi phí giao dịch để thực hiện cơ chế loại trừ lớn) thì số lượng người sử dụng có thể thấp hơn điểm gây tắc nghẽn quá nhiều dẫn đến tổn thất phúc lợi xã hội. Trong trường hợp khu vực tư nhân đứng ra cung cấp hàng hóa cộng cộng thì mức phí họ thu của người tiêu dùng sẽ khiến cho tổn thất phúc lợi xã hội xảy ra.. Do vậy, đối với hàng hóa công cộng mà chi phí biên để cung cấp bằng 0 hoặc không đáng kể thì hàng hóa đó nên được cung cấp miễn phí, kể cả khi nó có thể được loại trừ bằng giá. Một nguyên nhân nữa khiến cho tư nhân cung cấp hàng hóa công cộng không hiệu quả là nó thường có xu hướng được cung cấp với số lượng ít. Một người có vườn bên đường được trồng hoa thì cả khu vực gần đó sẽ tăng vẻ mỹ quan cũng như nhiều người cùng được thưởng thức vẻ đẹp của hoa. Thế nhưng người trồng hoa sẽ cân đối thời gian, chi phí bỏ ra với nhu cầu thưởng thức vẻ đẹp của hoa của cá nhân mình chứ không tính đến nhu cầu của những người hàng xóm, chính vì vậy người đó nhiều khả năng sẽ trồng ít hoa đi. Tuy vậy khu vực tư nhân có thể cung cấp hàng hóa công mà trước đây người ta cho rằng phải hoàn toàn do Chính phủ thực hiện. Công trình nghiên cứu của nhà kinh tế học đạt giải Nobel Elinor Ostrom cho thấy người ta rất giỏi sử dụng những hoạt động mang tính chất xã hội hóa để giải quyết những vấn đề mà các sách giáo khoa kinh tế cho rằng phải hoàn toàn do Chính phủ thực hiện.   Cung cấp các “hàng hóa công” (như là hệ thống thủy lợi cho một cộng đồng nông thôn) thường hứa hẹn đủ lợi ích để có thể tạo ra tính sáng tạo của những người mà - nếu được trao đủ tự do và sự đảm bảo về quyền lợi thì có thể xác định rõ ràng cách thức hợp tác với nhau để cung cấp các hàng hóa đó. Sự hợp tác này thường được thực hiện dưới những hình thái khác nhau mà chúng ta có thể thấy trên thị trường giống như những hàng hóa đặc trưng của khu vực tư nhân (giầy dép chẳng hạn). Theo cách tiếp cận tương tự, các học giả khác sau nhiều năm đã phát hiện ra vô số những ví dụ trong lịch sử về việc khu vực tư nhân đã cung cấp thành công những “hàng hóa công”. Đôi khi là các công ty tư nhân thực hiện việc này để tìm kiếm những lợi nhuận được tính bằng tiền, một số các trường hợp khác là do người dân hợp tác để có được những lợi ích chung trong thực tế, chỉ có điều là chúng không được quy ra tiền hoặc được trao đổi trên các thị trường truyền thống. Việc phát hiện những ví dụ như vậy thường làm các nhà kinh tế học đặc trưng - những người mà tư duy của họ thường bị đóng khung trong những mô hình tương tác kinh tế sai lầm - ngạc nhiên. Có lẽ một trong những phát hiện đáng ngạc nhiên nhất là về việc người ta phát hành ra tiền tệ tư nhân (hay “hoạt động ngân hàng tự do”). F. A. Hayek, George Selgin, và người bạn đồng môn của tôi tại George Mason University là Larry White đã đi đến kết luận rằng không chỉ những gì tương tự tiền đều có khả năng được khu vực tư nhân cung cấp mà trên thực tế chúng đã được khu vực tư nhân cung cấp - đặc biệt là khoảng thời gian từ 1716 đến 1844 tại Scotland. Về đường xá Với các đường cao tốc giới hạn việc tham gia thì không có vấn đề gì. Những nhà xây dựng đường cao tốc tư nhân có thể dựng các trạm soát vé tại đầu đường và cuối đường để thu phí việc sử dụng đường của họ. Không một kẻ lậu vé nào có thể làm hỏng những nỗ lực thu phí từ những khách hàng sẵn lòng chi trả. Tuy nhiên các khu phố thì lại khác. Thực hiện việc thu phí tại các ngã tư quả là một điều bất tiện khủng khiếp. Các hình thức hợp tác công – tư: Giữa hai thái cực nhà nước hay tư nhân đứng ra làm toàn bộ, các hình thức còn lại, dù ít hay nhiều đều có sự tham gia của cả hai khu vực. Có năm hình thức hợp tác công - tư phổ biến trên thế giới: Thứ nhất, nhượng quyền khai thác (Franchise) là hình thức mà theo đó cơ sở hạ tầng được nhà nước xây dựng và sở hữu nhưng giao (thường là thông qua đấu giá) cho tư nhân vận hành và khai thác. Thứ hai, hơi khác với nhượng quyền khai thác, ở mô hình thiết kế - xây dựng - tài trợ - vận hành (Design- Build - Finance - Operate hay DBFO), khu vực tư nhân sẽ đứng ra xây dựng, tài trợ và vận hành công trình nhưng nó vẫn thuộc sở hữu nhà nước. Thứ ba, xây dựng - vận hành - chuyển giao (Build - Operate - Transfer hay BOT) là mô hình mà ở đó công ty thực hiện dự án sẽ đứng ra xây dựng và vận hành công trình trong một thời gian nhất định sau đó chuyển giao toàn bộ cho nhà nước. Mô hình này khá phổ biến ở Việt Nam.  Thứ tư, khác biệt một chút với mô hình BOT, trong mô hình xây dựng - chuyển giao - vận hành (BTO), quyền sở hữu CSHT được chuyển giao ngay cho nhà nước sau khi xây dựng xong, nhưng công ty thực hiện dự án vẫn giữ quyền khai thác công trình. Cuối cùng là phương thức xây dựng - sở hữu - vận hành (Build - Own - Operate hay BOO). Ở mô hình này, công ty thực hiện dự án sẽ đứng ra xây dựng công trình, sở hữu và vận hành nó. Mô hình BOO rất phổ biến đối với các nhà máy điện cả ở Việt Nam và trên thế giới. Trong hầu hết các dự án CSHT công cộng (trừ mô hình BOO), việc sở hữu tư nhân chỉ có tính chất tượng trưng. Ví dụ, một cây cầu thuộc sở hữu của doanh nghiệp BOT, nhưng khi không có người sử dụng thì doanh nghiệp BOT hầu như không thể làm gì đó đối với cây cầu. Thêm vào đó, trong nhiều trường hợp rất khó xác định dự án được thực hiện theo cách thức nào, nhất là cách 2, 3 và 4. Nguồn thu để trang trải các khoản chi phí đầu tư và vận hành chủ yếu từ: (1) thu phí người sử dụng đối với những dự án có thể thu phí như giao thông chẳng hạn và/hoặc (2) nhà nước trả cho các công ty vận hành khi thuê họ thực hiện một số loại hình dịch vụ không có nguồn thu như quản lý nhà tù hay vệ sinh các bệnh viện chẳng hạn hay các dự án có nguồn thu không đủ bù đắp chi phí. Đối với các dự án có thu phí người sử dụng thì nhà nước là người quyết định mức giá. Công ty dự án Việc đầu tư các CSHT công thường đòi hỏi một nguồn vốn rất lớn nên ít doanh nghiệp đủ tiền để đầu tư toàn bộ. Hơn thế, nếu rủi ro xảy ra mà không thu hồi nợ được sẽ làm cả doanh nghiệp phá sản. Do vậy, để giảm thiểu rủi ro, các dự án CSHT lớn thường được đầu tư theo phương thức tài trợ dự án. Theo mô hình này, một công ty dự án sẽ được thành lập và các nhà đầu tư (chủ sở hữu công ty) chỉ bỏ ra một phần vốn rất nhỏ, phần còn lại chủ yếu là vay nợ. Ví dụ, một dự án có vốn đầu tư 1 tỉ đô la, nhưng vốn chủ sở hữu chỉ 50 triệu đô la là điều bình thường. Các công ty dự án đa phần thuộc sở hữu tư nhân, nhưng trong một số trường hợp chúng được thành lập theo mô hình liên doanh với nhà nước. Ngoài ra, có một mô hình đặc biệt là hợp tác công - công (public - public partnership). Theo mô hình này, đối tượng đứng ra thành lập công ty dự án là các doanh nghiệp hay cơ quan nhà nước. Dự án BOT cầu đường Bình Triệu II do Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 5 làm chủ đầu tư trước đây là một dự án dạng này. Ưu và nhược điểm của mô hình PPP Theo phân tích của Ngân hàng Phát triển châu Á trong quyển Public-Private Partnership Handbook (tạm dịch là Sổ tay hướng dẫn mô hình hợp tác công - tư), xuất bản năm 2008, ba động cơ để áp dụng mô hình PPP là thu hút vốn đầu tư tư nhân, gia tăng hiệu quả sử dụng các nguồn lực có sẵn, và tạo ra động cơ cũng như nâng cao trách nhiệm giải trình. Nhìn từ góc độ nhà nước, ưu điểm lớn nhất của hợp tác công - tư là giảm được gánh nặng cũng như rủi ro đối với ngân sách. Ví dụ, đối với một dự án BOT, các nhà đầu tư tư nhân phải chịu hoàn toàn gánh nặng tài chính cũng như rủi ro về vận hành. Hơn thế, mô hình PPP giúp giải quyết được vấn đề kém hiệu quả. Vì mục tiêu lợi nhuận nên các nhà đầu tư tư nhân phải tìm cách để dự án được vận hành hiệu quả hơn. Thêm vào đó, với việc tham gia của khu vực tư nhân, sự sáng tạo, trách nhiệm giải trình cũng như sự minh bạch có khả năng sẽ được cải thiện. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của mô hình PPP là chi phí lớn hơn do các nhà đầu tư tư nhân yêu cầu một suất sinh lợi cao hơn. Trong nhiều trường hợp việc thiết kế cơ chế tài chính và cơ chế phân chia trách nhiệm, xác định mức thu phí hay phần trợ cấp của nhà nước là vô cùng phức tạp. Hơn thế, mâu thuẫn giữa lợi ích chung và lợi ích cá nhân cũng là một vấn đề. Vì một mục tiêu nào đó (ví dụ muốn có một khu đất hay dự án khác) mà nhà đầu tư tư nhân vẽ ra những dự án mà sau khi xây dựng rất ít, thậm chí không có người sử dụng là điều hoàn toàn có thể xảy ra. PPP ở Việt Nam Với mô tả ở trên, mô hình PPP trên thực tế đã có mặt ở Việt Nam từ đầu thập niên 1990. Ví dụ, dự án đô thị mới Phú Mỹ Hưng được thực hiện theo cách kết hợp giữa BOT và đổi đất lấy hạ tầng. Đây có thể xem là dự án theo mô hình hợp tác công - tư cũng như đổi đất lấy hạ tầng thành công nhất Việt Nam. Nếu so sánh với nhiều khu đất cũng như tài nguyên khác được giao cho các nhà đầu tư tư nhân mà Nhà nước gần như không thu được gì, thì ở dự án này, Nhà nước đã thu được: khoảng 60% lợi ích tài chính từ dự án, một con đường hiện đại và một mô hình đô thị kiểu mẫu. Ngoài ra, có thể kể đến nhiều dự án hợp tác công - tư khác đã và đang được triển khai từ thập niên 1990 đến nay như: BOT cầu Cỏ May, BOT cầu Phú Mỹ, điện Phú Mỹ, và rất nhiều nhà máy điện nhỏ và vừa khác đang được thực hiện theo phương thức BOO. Tóm lại, PPP hay hợp tác công - tư không phải là mô hình mới ở Việt Nam. Mô hình này có thể góp phần vào việc xây dựng các CSHT hay cung cấp dịch vụ công cộng, nhưng không nên kỳ vọng nó sẽ là chiếc đũa thần để giải quyết nút thắt CSHT ở Việt Nam. Thực ra, một trong những nguyên nhân gây ra thiếu hụt và quá tải CSHT ở Việt Nam là do không ít công trình đã được xây dựng hoặc là không hiệu quả (rất ít người sử dụng), hoặc là quá đắt, hoặc là cả hai. 2.2.3 Phối hợp cả hai biện pháp trên Ưu diểm của hệ thống kinh tế thi trường là rõ ràng, thể hiện ở chỗ thông qua các hoạt động cạnh tranh trên thị trường,các nhà sản xuất tìm mọi cách để phân phối và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực có hiệu quả của các nguồn lực của nền kinh tế để theo đuổi mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Người tiêu dùng được tự do thỏa mãn tối đa lợi ích của mình trên giới hạn nguồn lực của họ.Như vậy,thị trường là “bàn tay vô hình”dẫn dắt đến chỗ đạt được lợi ích cho mọi người. Thế nhưng chúng ta cũng không quên rằng đôi khi “bàn tay vô hình” đó cũng dẫn nền kinh tế đi lầm đường lạc lối. Nó có những khuyết tật không thể tránh khỏi đó là: Các yếu tố ngoại lai. Thiếu hàng hóa công. Sự gia tăng về quyền lực độc quyền. Chênh lệch thái quá về thu nhập dân cư. Thông tin thị trường lệch lạc. Sự can thiệp của chính phủ sẽ đảm bảo hiệu quả cho sự vận động của thị trường được ổn định nhằm tối đa hiệu quả kinh tế đảm bảo định hướng chính trị của sự phát triển kinh tế nhằm khắc phục những khuyết tật của thị trường. a. Sự gia tăng độc quyền. Thị trường độc quyền là cấu trúc thị trường của một ngành kinh doanh mà trong đó chỉ có một người bán (doanh nghiệp,công ty ) duy nhất. Độc quyền cung cấp một loại sản phẩm duy nhất (không có sản phẩm thay thế gần đúng). Công ty duy nhất đó gọi là công ty độc quyền và sản lượng sản phẩm nó chiếm toàn bộ sản phẩm của ngành kinh doanh. Những ngành công nghiệp điện lực,cấp nước,thông tin liên lạc,giao thông công cộng...thường có cấu trúc thị trường độc quyền. Các công ty độc quyền ít có động cơ cải tiến,đổi mới vì nó không chịu sức ép cạnh tranh thường xuyên như trong điều kiện thị trường cạnh tranh ,làm chậm sự phát triển của xã hội. Đối với các doanh nghiệp thì “tối đa hóa lợi nhuận”được đặt lên trên hết,với các doanh nghiệp độc quyền cũng vậy ,do không có ai cạnh tranh nên số lượng sản phẩm và mức giá đem ra của các doanh nghiệp này khiến cho “ lợi nhuận” thu vào là lớn nhất. Nên điều tất yếu là người tiêu dùng sẽ phải gánh chịu. Nhà nước có giải quyết nhưng vấn đề này còn lỏng lẻo,quản lí còn chưa chặt. Ngoài ra các doanh nghiệp lớn thường bắt tay nhau để thành một tập đoàn hùng mạnh,áp đảo thị trường với mức giá cao,nhằm thu nhiều lợi nhuận, đồng thời khống chế việc thâm nhập vào thị trường của các công ty nhỏ hơn đang cạnh tranh với họ ,điều khiển thị trường,cùng nhau độc quyền thị trường thị trường đó. Ví dụ về ngành điện chính phủ chỉ định tập đoàn điện lực độc quyền sản xuất. Sự độc quyền của EVN trong ngành điện trước nay luôn là vấn đề gây tranh cãi. Nó được cho là nguyên nhân của việc kinh doanh không hiệu quả cũng như chất lượng dịch vụ kém của tập đoàn này. Tình trạng cắt điện luân phiên thường xuyên đã ảnh hưởng nhiều đến hoạt động sản xuất của doanh nghiệp và sinh hoạt của các hộ dân. Dựa trên nguyên nhân này, ý kiến về việc cải tổ ngành điện lực theo hướng chia nhỏ EVN được đưa ra với mục đích tạo sự cạnh tranh mang tính thị trường, từ đó tạo nguồn cung cấp điện ổn định. Trong các năm gần đây,giá điện tăng liên tục và hậu quả phải gánh chịu là người tiêu dùng. Tháng 3 năm 2010 Nhà nước đã ra quyết định tăng giá điện thêm 15% trong khi nền kinh tế Việt Nam cũng như thế giới vừa bước qua khủng hoảng. Tình hình giao thông ở Hà Nội hiện nay cũng là những vấn đề được mọi người quan tâm khá nhiều. Mặc dù được chính phủ quan tâm nhiều nhưng tình trạng tắc đường xảy ra như cơm bữa làm ảnh hương rất nhiều tới cuộc sống của nhân dân. “rối như tơ vò” là những từ có thể diễn đạt khá chính xác giao thông của Hà Nội. Để cải thiện tình hình giao thông chính phủ đã giao cho Xí nghiệp xe bus Thăng Long trực thuộc Tổng công ty vận tải Hà Nội thực hiện cung cấp vận tải xe bus phục vụ cho việc đi lại của nhân dân. Theo đó mỗi người dân sẽ được trợ cấp khi di chuyển bằng xe bus,người dân chỉ phải trả 3000đ/1 lượt xe. Chính phủ thực hiện việc trợ cấp cho mỗi người dân là 2000đ/lượt xe. Để giảm bớt tình trạng độc quyền chính phủ có những hình thức can thiệp: Đánh thuế:thuế đánh vào các công ty độc quyền gần như là một phương thức luật định ở nhiều quốc gia. Chính phủ đánh thuế vào các công ty để thu bớt phần lợi nhuận siêu ngạch của công ty độc quyền ,như vậy sẽ hạn chế bớt quyền lực của công ty độc quyền. Chính phủ dùng những nguồn thu thuế của những công ty độc quyền để đầu tư phát triển các công trình công cộng cung cấp cho dân chúng. Điều tiết giá cả và sản lượng của các công ty độc quyền :chính phủ áp dụng các biện pháp này đối với các công ty độc quyền trong những ngành phục vụ công cộng như ngành: ngành điện,cung cấp nước sạch,thông tin liên lạc,giao thông công cộng,ngân hàng, bảo hiểm ...Giá điều tiết nhỏ hơn giá cân bằng của công ty ,với giá này công ty không có lợi nhuận trên bình nhưng vẫn có lợi nhuận bình thường. Sản lượng điều tiết lớn hơn sản lượng cân bằng của công ty. Xác lập quyền sở hữu của chính phủ: trong một số ngành cung cấp các dịch vụ công cộng. Chính phủ thường lập ra các công ty độc quyền hoạt động trong những ngành đó. Chính những hình thức sở hữu nhà nước mà chính phủ dễ dàng điều tiết và kiểm soát các công ty độc quyền này hơn. Ban hành luật lệ chống độc quyền: nhiều quốc gia chính phủ ban hành những luật lệ để điều tiết và kiểm soát các công ty. Những luật lệ này cho phép các cơ quan pháp luật và cơ quan quản lí Nhà nước giám sát về giá cả,sản lượng,và việc gia nhập hoặc rời bỏ một số ngành công nghiệp nhất là các ngành cung cấp các dịch vụ công cộng. Mục tiêu hàng đầu của luật chống độc quyền là xúc tiến một nền kinh tế có tính cạnh tranh,bằng cách cấm các hoạt động hạn chế hay có thể hạn chế sự cạnh tranh và bằng cách giới hạn những hình thức cấu trúc thị trường có thể chấp nhận được. b. Thiếu hàng hóa công cộng. Hàng hóa công cộng là những hàng hóa do Nhà nước trực tiếp đảm nhận việc cung ứng hay ủy nhiệm cho các cơ sở ngoài Nhà nước thực hiện nhằm đảm bảo trật tự và công bằng xã hội phục vụ các lợi ích chung thiết yếu ,các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân. Hàng hóa công cộng không có tính cạnh tranh trong tiêu dùng. Điều này có nghĩa là tiêu dùng của một người không phải giảm số lượng hay chất lượng của hàng hóa đã có sẵn cho những người tiêu dùng khác. Một đặc điểm quan trọng của dịch vụ công cộng là tính cộng đồng. Tính cộng đồng ở đây có thể hiểu theo hai nghĩa:dịch vụ này là dịch vụ có thể dùng chung do đó nó liên quan đến công đồng người tiêu dùng,cộng đồng dân cư. Phần lớn các dịch vụ công cộng là những dịch vụ chung liên quan đến những nhu cầu cơ bản, thiết yếu của đời sống cộng động dân cư, mọi người đều có quyền tiếp cận,hưởng thụ,và bình đẳng trong tiếp cận như:chăm sóc sức khỏe,văn hóa,giáo dục,khoa học công nghệ và thể dục thể thao...Chính do đặc điểm này người ta thường xác định dịch vụ công cộng là một lĩnh vực chính sách. Hoạt động cung ứng dịch vụ công cộng đều thuộc danh mục kiểm soát của Nhà nước. Đầu tư cho dịch vụ công cộng thường khó thu hồi vốn qua các quan hệ thị trường thông thường , do đặc tính loại trừ của dịch vụ công cộng, việc thu phí dịch vụ công cộng là rất khó khăn ,ngoài ra do phần lớn các dịch vụ công cộng đều là các dịch vụ cơ bản thiết yếu đối với đời sống nhân dân , thuộc phạm trù phúc lợi công cộng,phạm trù chính sách. Vì vậy, các nhà đầu tư tư nhân thường ngại bỏ vốn đầu tư theo các quan hệ thị trường thông thường. Vấn đề với hàng hóa công cộng là không cá nhân nào có động lực để chi trả cho hàng hóa công cộng. Do nó không có hiệu quả và luôn không khả thi, để ngăn chặn mọi người không tiêu dùng một hàng hóa công cộng, mọi người có thể tiếp tục sử dụng nó thậm chí cho dù họ không trả tiền. Trong tình huống như vậy mỗi người có động cơ trở thành “người hưởng thụ miễn phí”và để những người khác trả tiền công cộng. Tất nhiên vấn đề là hàng hóa sẽ vừa không đủ cung cấp cho thị trường nên hàng hóa công cộng sẽ thiếu. Tuy nhiên hiện nay chính phủ đã áp dụng một số biện pháp giải quyết vấn đề này. Chính phủ cố sửa chữa những khuyết tật này của thị trường bằng việc cung cấp hoặc trợ cấp cho việc sản xuất hàng hóa công cộng. Ngoài ra xã hội hóa dịch vụ công cộng cũng là giải pháp mang tính hiệu quả cao . Xã hội hóa dịch vụ công cộng là quá trình mở rộng trách nhiệm của một hay một số thành phần xã hội thành trách nhiệm của nhiều thành phần xã hội hay của toàn xã hội trong việc đảm bảo cung cấp dịch vụ hàng hóa công cộng. Xã hội hóa dịch vụ công cộng nhằm hai mục tiêu lớn:thứ nhất phát huy tiềm năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động toàn xã hội chăm lo các dịch vụ công cộng mà trước hết là sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, thứ hai là tạo điều kiện để toàn xã hội,đặc biệt là các đối tượng chính sách và người nghèo được thụ hưởng dịch vụ công cộng. Xã hội hóa dịch vụ công cộng không chỉ đơn thuần là huy động nguồn lực vật chất,nguồn lực tài chính của xã hội. Quan trọng hơn là phát huy được trí lực và tinh thần trách nhiệm của xã hội đóng góp cho sự nghiệp chung nhằm phát triển về số lượng và nâng cao chất lượng dịch vụ công cộng. Trong xã hội hóa việc khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế cung ứng dịch vụ công cộng cho xã hội là một nội dung rất quan trọng vì nhiều lẽ: Phát triển dịch vụ công cộng là sự nghiệp của toàn dân cho nên cần huy động nguồn lực trong dân và doanh nghiệp để phát triển các dịch vụ công cộng Nhu cầu về dịch vụ ngày càng cao, ngày càng phong phú và đa dạng, nếu chỉ dựa vào các đơn vị công lập thì không thể nào đáp ứng được. Tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở ngoài công lập với các cơ sở công lập nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ công cộng. Chủ trương xã hội hóa dịch vụ công cộng có ý nghĩa về nhiều mặt, tạo thêm nguồn kinh phí cần thiết cho sự phát triển các dịch vụ công cộng phục vụ nhu cầu ngày càng cao của nhân dân và thực hiện tốt hơn công bằng xã hội ,xóa bao cấp tràn lan, chi phí của các đơn vị dịch vụ công cộng không chỉ do ngân sách Nhà nước gánh vác, mà còn có phần thu từ những người được hưởng dịch vụ và từ cộng đồng, xóa bỏ các khoản thu không chính thức không minh bạch đang tồn tại khá phổ biến và nặng nề đối với những người hưởng dịch vụ công cộng đi liền với sự phân phối không công bằng trong nội bộ các đơn vị làm dịch vụ,ngăn ngừa các hiện tượng trái đạo đức nghề nghiệp,phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp cung cấp dịch vụ công cộng. Chính phủ có nhiều biện pháp để tăng cường các hàng hóa công cộng. Nhà nước thường xuyên xây dựng cơ sở hạ tầng và điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Thật vậy, một nền kinh tế không thể “cất cánh” được trừ phi nó có được một cơ sở hạ tầng vững chắc. nhưng cũng do tính không thể phân chia của hàng hóa công cộng mà các nhà đầu tư tư nhân thấy rằng đầu tư vào đây không có lợi. vì thế ở hầu hết các nước , Nhà nước bỏ vốn vào đầu tư cơ sở hạ tầng, ổn định kinh tế vĩ mô cũng có thể xem như là hàng hóa công cộng. c. Yếu tố ngoại lai Yếu tố ngoại lai là các ảnh hưởng không tốt do các yếu tố bên ngoài gây nên cho hoạt động của công ty hay cho xã hội nói chung. Yếu tố ngoại lai xảy ra khi có sự khác biệt về phí tổn hoặc lợi ích giữa cá nhân với xã hội. Tuy nhiên,các chi phí hoặc lợi ích này (chi phí ngoại vi hoặc lợi ích ngoại vi)lại không được tính đến trong hệ thống giá cả và thị trường. Những chi phí ngoại vi cho sản xuất bao gồm:sự tắc nghẽn giao thông và ô nhiễm môi trường mà nhà máy hoặc xí nghiệp sản xuất tạo ra...vì phía thứ ba không được đền bù cho những khoản chi phí ngoại lai,nên các phí tổn sản xuất khoong được tính đến trong hệ thống giá. Trong nền kinh tế thị trường tự do, người ta chỉ mưu toan sử dụng tối đa những phương tiện hay lợi nhuận riêng của mình, và những chi phí hay lợi ích ngoại vi sẽ không được phản ánh trong giá cả của các đồ vật. Người sản xuất và người tiêu dùng bỏ qua ảnh hưởng của yếu tố ngoại vi, vậy nên giá cả của sản phẩm không phản ánh đúng giá trị thực của sản phẩm, chi phí thực trong cả quá trình sản xuất. Những yếu tố này gây nên sự giảm sút về phúc lợi của những người dân sống xung quanh hoặc có thể buộc những nhà máy khác ở gần đó phải tốn kém thêm chi phí để làm sạch nước sông đã bị ô nhiễm mà mình phải sử dụng trong sản xuất. Để cải tạo môi trường cần một khoản chi phí khá lớn. Ví dụ công ty Vedan đã sản xuất và bán các sản phẩm của mình nhưng chưa bao gồm các khoản “ xử lí chất thải”. Mà các khoản này được tính vào “ chi phí xã hội”. Như vậy sẽ có sự chênh lệch giá với các hãng bột ngọt khác vì những hãng khác phải tính thêm khoản “xử lí chất thải” và như vậy sẽ tăng mức cạnh tranh của hãng. Các tác động ngoại vi làm ô nhiễm môi trường dẫn đến làm giảm phúc lợi của những người khác. Do đó chính phủ cần có những biện pháp can thiệp chính đáng. Áp dụng thu thuế môi trường đối với các doanh nghiệp: thuế môi trường là đánh thuế vào một số sản phẩm, hàng hóa gây tác động xấu lâu dài đến môi trường và sức khỏe con người: xăng dầu, than, túi nilon...Số tiền doanh nghiệp phải trả dựa trên thành phần chất thải và tải lượng ô nhiễm của doanh nghiệp xả vào môi trường. Với những doanh nghiệp vi phạm mức độ nghiêm trọng (có khí thải, nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép từ 5 lần trở lên )...Đã đến lúc cần có những biện pháp cương quyết như vậy thì mới giảm thiểu được sự ô nhiễm môi trường do các doanh nghiệp gây ra. III.Kết luận Xét cho cùng, nhà nước vẫn là người chịu trách nhiệm cuối cùng trước xã hộivề số lượng cũng như chất lượng dịch vụ công, kể cả các dịch vụ công được thực hiện bởi các công ty tư nhân hay các tổ chức kinh tế-xã hội. Trong khi đó, đối với các công ty tư nhân, các tổ chức, cá nhân đảm nhận các dịch vụ công, lợi ích của chính bản thân họ không phải bao giờ cũng thống nhất với lợi ích của nhà nước, của xã hội. Vì vậy, nhà nước phải tạo ra cơ chế để các tác nhân bên ngoài nhà nước khi đảm nhận các dịch vụ công thực hiện mục tiêu xã hội. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu chất lượng dịch vụ công để đánh giá hoạt động của các đơn vị cung cấp, giám sát và kiểm tra hoạt động của các cơ sở này. Nhà nước cần định hướng phát triển đối với khu vực tư nhân, hướng khu vực tư nhân vào những lĩnh vực mà tư nhân hoạt động hiệu quả, đồng thời tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm không ngừng cải tiến việc cung ứng dịch vụ công cho xã hội. Điều cốt lõi là nhà nước phải cân nhắc, tính toán và giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa lợi ích của nhà nước, của xã hội với lợi ích của tổ chức và cá nhân tham gia cung ứng dịch vụ công.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docth7843o lu7853n ti chnh cng.doc
Tài liệu liên quan