Đề tài Vai trò của các ngân hàng trung ương trong nền kinh tế thị trường

Chúng ta biết rằng bất kỳ một hoạt động kinh tế nào cũng liên quan đến ngân hàng dù là gián tiếp hay trực tiếp ; như vậy khu vưc ngân hàng phải được đặt ở vị trí hàng đầu đặc biệt là NHTW giúp cho các ngân hàng không đi chệch khởi mục tiêu đã định.Một khu vực ngân hàng vững mạnh sẽ là hậu thuẫn cho các thành phần kinh tế hoạt động có hiệu quả. Một khu vưc ngân hàng sẽ tạo điều kiện để hình thành thị trường vốn hoàn hảo trong nền kinh tế.

doc34 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1203 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của các ngân hàng trung ương trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c ngân hàng giải quyết vấn đề khả năng hoàn trả ngắn hạn do tiền gửi bị tạm thời rút ra. Tín dụng thời vụ được cấp để đáp những ứng nhu cầu thời vụ của một số ít ngân hàng đang nghỉ và những vùng nông nghiệp hoạt động theo kiểu thời vụ. Tín dụng mở rộng được cấp cho các NHTM bị khó khăn nghiêm trọng về khả năng hoàn trả do tiền gửi bị rút ra; thì không yêu cầu hoàn trả nhanh chóng ngay. Những ngân hàng được cấp loại tín dụng này phải nộp một bản đề nghị trình bày nhu cầu vay tín dụng mở rộng và một bản kế hoạch khôi phục lại khả năng hoàn trả của ngân hàng. Ngoài việc sử dụng làm một công cụ để ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ và cung ứng tiền tệ, chiết khấu còn quan trọng ở chỗ nhằm tránh khỏi những cơn sụp đổ tài chính. Vai trò quan trọng nhất của NHTW là trở thành người cho vay cuói cùng, nó phải cung cấp dự trữ cho ngân hàng khi các ngân hàng bị đe doạ phá sản, do đó ngăn chặn những cưn sụp đổ ngân hàng và tài chính. Sử dụng công cụ chiết khấu để tránh những cơn sụp đổ tài chính bằng cách thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng là một yêu cầu cực kỳ quan trọng để tiến hành chính sách tiền tệ thành công. Tuy nhiên, một vấn đề nảy sinh là nếu một ngân hàng biết được NHTW sẽ cấp cho mình tín dụng chiết khấu khi ngân hàng gặp khó khaưn thì nó dám mạo hiểm chấp nhận nhiều rủi ro hơn vì tin rằng NHTW sẽ đến giải quyết khó khăn cho nó. Vai trò người cho vay cuối cùng của NHTW tạo ra như một vấn đề may rủi về tinh thần. So với công cụ nghiệp vụ thị trường tự do, việc sử dụng chính sách chiết khấu để kiểm soát cung ứng tiền tệ hình như không có hiệu quả bằng các nghiệp vụ thị trường tự do hoàn toàn là sự tự do hành động của NHTW trong khi khối lượng cho vay chiêtài sản khấu lại không như vậy. NHTW có thể thay đổi lãi suất chiết khấu nhưng không thể bắt các ngân hàng phải đi vay. Hơn nữa các nghiệp vụ thị trường tự do dễ dàng được đảo ngược lại hơn là đảo ngược những thay đổi trong chính sách chiết khấu, việc can thiệp vào thị trường mở sẽ được ưa chuộng hơn kỹ thuật tái chiết khấu vì nó mềm dẻo hơn. Đối với các nghiệp vụ tái chiết khấu, chính các NHTW đóng vai trò bị động, do phải đáp ứng nhu cầu hàng ngày của NHTW. Trong hệ thống thị trường mở, NHTW đóng vai trò chủ động bởi vì chính NHTW yêu cầu vốn khả dụng cho thị trường tiền tệ. Phương thức thị trường mở không chỉ cung cấp vốn khả dụng cho các NHTM trên thị trường tiền tệ mà còn rút vốn khả dụng ra khỏi thị trường tiền tệ. Điều đó giúp NHTW kiểm soát tốt hơn lượng vốn khả dụng ngân hàng và lãi suất trên thị trường. Cũng cần phải nói thêm rằng, tuy hai công cụ trên đều có những mặt ưu nhược điểm riêng nhưng chúng đều có mục đích là đảm bảo tái cấp vốn của NHTW cho NHTM. Ngoài hai công cụ trên, NHTW còn sử dụng công cụ là quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc (Rd) + Dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ tối thiểu giữa dự trữ tiền mặt với các khoản ký gửi mà NHTW yêu cầu NHTM phải duy trì. Khoản dự trữ bắt buộc là khoản tiền dự trữ cần thiết để NHTM có thể ứng phó với những luồng tiền mặt rút ra bất ngờ. Nếu một khoản dự trữ bất buộc đang có hiệu lực, các NHTM có thể giữ lượng tiền mặt cao hơn dự trữ tiền mặt theo yêu cầu nhưng không được giữ ít hơn. Nếu lượng tiền mặt của họ giảm xuống xuống thấp hơn lượng bắt buộc, họ phải vay tiền mặt ngay, thường là vay của NHTW để khôi phục lại tỷ lệ dự trữ bắt buộc Khi NHTW quy định một khoản dự trữ bắt buộc cao hơn tỷ lệ dự trữ mà các ngân hàng thận trọng phải duy trì trong bất kỳ tình hình nào thì hậu quả của nó là giảm bớt việc tạo ra những khoản ký gửi của các ngân hàng, làm giảm giá trị của thừa số tiền và giảm lượng cung tiền đối với bất kỳ cơ số tiền bất định nào. Một khoản dự trữ bắt buộc có tác dụng như một khoản thuế đánh vào các ngân hàng bằng cách bắt buộc họ phải duy trì một khoản dự trữ cao hơn trong tổng số các khoản có dưới dạng dự trữ ngân hàng và một tỷ lệ thấp hơn của các khoản cho vay có lãi suất cao. Hệ thống dự trữ bắt buộc tạo nên một mối quan hệ máy móc giữa tạo tiền do NHTM thực hiện (bằng việc làm xuất hiện tiền gửi) và nhu câù tái cấp vốn tại NHTW. Hệ thống này rất mềm dẻo vì tuỳ theo mục đích của chính sách tiền tệ và tuỳ theo mức vốn khả dụng ngân hàng, NHTW có thể điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đặc biệt, việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể điều hoà vốn khả dụng ngân hàng khi có nguồn thu ngoại tệ lớn. Hệ thống này có sự cạnh tranh giữa các ngân hàng bởi vì nó áp dụng không phân biệt mọi ngân hàng trong toàn hệ thống. Ba công cụ kể trên đây có tác dụng tổng quát là kiểm soát khối lượng cho vay của ngân hàng, mức lãi suất và khối lượng tiền tệ nói chung. Nhưng ngân hàng trung gian còn thoải mái ở chỗ cho ai vay tuỳ sự xét đoán của mình, điều đó có nghĩa là ba công cụ nên chưa ảnh hưởng đến cơ cấu tín dụng mà ngân hàng trung gian cấp cho khách hàng. Nếu NHTW không áp dụng chính sách kiểm soát tín dụng, ngân hàng trung gian sẽ chỉ hướng vào những nơi có thể thu được lợi nhuận cao ít chú trọng tới những ngành có hoạt động lợi ích xã hội nhiều hơn. Chính sách kiểm soát tín dụng sẽ giới hạn mức tối đa cấp cho những ngành hoạt động nào được xem như ưu tiên, cần yểm trợ tín dụng mạnh hơn. Chính sách kiểm soát tín dụng gồm hai nội dung chính là hạn mức tài sản và quản lý lãi suất. chương II ngân hàng nhà nước Việt Nam trong sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước 1. Sự cần thiết phải xây dựng các thể chế tài chính hữu hiệu trong nền kinh tế chuyển tiếp Qua qua trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường là hết sức khó khăn và phức tạp. Kinh tế trong giai đoạn chuyển tiếp có khu vực kinh tế tư nhân nhỏ nhưng phát triển rất nhanh và nhanh chóng và khu vực kinh tế Nhà nước ngày càng co lại. Tuy nhiên, phần lớn các trường hợp kinh tế tư nhân không xuất hiện ngay lập tức mà dần theo thời gian và khu vực kinh tế Nhà nước cũng không hề có biểu hiện mất ngay. Với sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, xây dựng được một hệ thống tài chính vững chắc, lấy thị trường làm có sở để đảm bảo cho các thành phần kinh tế hoạt độngtốt là một việc làm hết sức cần thiết. Trong quá trình chuyển tiếp sang nền kinh tế thị trường các nhà ra quyết định phải đối mặt với những mâu thuẫn giữa các mục tiêu đã đề ra; mặc dù sự chuyển đổi hướng tới nền kinh tế thị trường hàm ý rằng Chính phủ cần phải rút khỏi vị trí thống trị của mình trong nền kinh tế nhưng mặt khác cũng cần phải có hoạt động của Chính phủ để giải quyết những nhiệm vụ mới suất hiện. Một trong số những nhiệm vụ đó là xây dựng một hệ thống tài chính vững chắc hữu hiệu, lấy thị trường làm cơ sở, thực thi một chính sách tiền tệ có hiệu quả. Những nền kinh tế này thiếu hầu hết những tổ chức quan trọng của kinh tế thị trường, thị trường cạnh tranh cho các nhân tố, các hàng hoá và dịch vụ, một hệ thống tài chính cạnh tranh và được đầu tư vốn đầy đủ, một cơ cấu pháp luật và điều chỉnh nhằm đảm bảo cho hệ thống tài chính. Trong các nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây, hệ thống tài chính đều ở trạng thái tồi tệ. Tài chính hầu như chỉ đóng vai trò ghi chép, lưu giữ thụ động, trong khi việc phân bố các nguồn lực do chính kế hoạch tập trung kiểm soát Các quyết định tín dụng đều đã được lên kế hoạch trước. Hệ thống ngân hàng bị suy kiệt vì nguồn vốn thấp, một số lượng lớn các khoản nợ không hoạt động của các quốc doanh, các khoản cho vay gián tiếp tập trung theo khu vực địa lý và khu vực ngành, ngân hàng tiết kiệm có mạng lưới chi nhánh nhỏ bé. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng hầu như không có lãi, được Nhà nước bù lỗ. Các nhà quản lý lại có rất ít kinh nghiệm trong việc đánh giá các đơn xin vay, trong việc tính toán và giải quyết các rủi ro. Thị trường cổ phần và thị trường trái phiếu thì hoặc là không tồn tại hoặc là rất nhỏ bé và không linh hoạt trong việc chuyển đổi ra tiền mặt hoặc trên có sở trao đổi và các doanh nghiệp đã tạo nên một mạng lưới rộng rái tín dụng giữa các hãng vỡi nhau. Những khó khăn trên đây đặt ra những yêu cầu rất lớn đối với hệ thống tài chính. Như trên đã nêu, xây dựng được một hệ thống tài chính vững chắc là việc làm cần thiết song nó cũng đòi hỏi chúng ta luôn luôn phải thận trọng trong từng bước đi không vội vã và có thể dẫn đến sự đổ bể của cả nền kinh tế. Cần phải nắm vững những di sản để lại từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Không nên áp đặt đột ngột việc kiềm chế tín dụng gắt gao đối với các doanh nghiệp, điều này có thể gây ra sự páh sản hàng loạt các doanh nghiệp. Đối với quá trình tư nhân hoá các xí nghiệp quốc doanh, tài chính là - và cần phải là chủ yếu trong việc tạo điều kiện chuyển quyền sở hữu từ Nhà nước sang khu vực tư nhân, đảm bảo cho kết quả của quá trình tư nhân hoá sẽ thay đổi thực sự cách thức hoạt động của các doanh nghiệp. Mặt khác, việc xây dựng hệ thống tài chính còn phụ thuộc vào tình hình tài chính thực tế mỗi nước. Mỗi nước đều có những đặc điểm kinh tế riêng biệt, những thuận lợi và khó khăn khác nhau trong quá trình phát triển do đó vấn đề đặt ra là mỗi nước phải xác định được rõ ràng điểm nào là điểm mạnh, điểm nào là điểm yếu của mình để từ đó xác định đâu là điểm chủ yếu, đâu là điểm thứ yếu trong hệ thống tài chính. Chúng ta đều thấy rằng con đương dẫn đến sự thành công chính là xây dựng hệ thống tài chính hữu hiệu và vững chắc, song điều này không có nghĩa là tiến hành cải tổ đồng loạt. Ưu tiên tối cao phải giành cho việc cải tổ lại khu vực ngân hàng . Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng là nguồn cung cấp vốn cho hoạt động ngắn hạn của Công ty và đưa ra các khoản đầu tư dễ chuyển đổi thành tiền mặt mà ngân hàng có thể lưu giữ chứng từ. Ngân hàng cũng là nguồn cung cấp chính vốn con nguời đã được đào tạo trong việc đánh giá các rủi ro tín dụng và nhờ thế tạo ra nền tảng đảm bảo cho việc phân phối nguồn tài lực một cách có hiệu quả. Việc cung cấp tài chính có hiệu quả sẽ trực tiếp tác động vào việc nâng cao hiệu quả trong sản xuất nói riêng và trong xã hội nói chung. 2. Vai trò của khu vực ngân hàng Một trong những thử thách với những nền kinh tế kế hoạch tập trung trước đây chính là sự phân quyền trong việc phân bố nguồn tài lực. Lý do hang đầu trong động cơ kinh tế nhằm chuyển đổi sang cơ chế thị trường là sự nhận thức được rằng kế hoạch hoá tập trung không đưa lại sự phân phối vốn có hiệu quả và vì thế mà các nguồn tài nguyên vật chất không được sử dụng có năng suất thấp. Về mặt này bản chất của thị trường là giảm tới mức tối thiểu ảnh hưởng của các nhân tố phi kinh tế tác động leen sự phân phối các nguồn tài nguyên và cũng chính nhờ đó mà cải thiện được hiệu suất đầu tư. Vấn đề trọng tâm phải quyết định cái gì sẽ thay thế cơ chế kế hoạch hoá làm trung gian giữa những thành phần kinh tế có nguồn tài chính thặng dư và những thành phần kinh tế không có đủ vốn để cung cấp cho công việc đầu tư của mình. Theo truyền thống, vị trí trung gian này được thống trị bởi khu vực ngân hàng. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau và với các hình thức trung gian ngoài ngân hàng đã buộc ngân hàng phải nâng cao sự thành thạo trong việc đánh giá rủi ro tín dụng và xác định những khoản đầu tư có lợi nhất. Trong quá trình thực hiện điều này các ngân hàng đòi những nguồn tin có giá trị về cả người cho vay và người vay tiền. Trên cơ sở đánh giá các nguồn thông tin đó ngân hàng sẽ quyết định lựa chọn những khoản đầu tư có lơị nhất. Ngay cả ở những nước công nghiệp phát triển, mặc dù có sự phát triển và đa dạng của nhiều tổ chức tài chính song vai trò chủ đạo của khu vực ngân hàng đối với sự phát triển của nền kinh tế là không thể phủ nhận được. ở nước ta trước đây thì sao ? do hậu quả của lạm phát kéo dài, bắt nguồn từ những mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế quốc dân, thực trạng hoạt động tiền tệ, tín dụng trong những năm 80 hết sức rối ren. Tiền mặt phát ra rất lớn năm sau cao hơn năm trước với khối lượng lớn hơn nhiều lần nhưng vẫn không đáp ứng đủ cho nhu cầu sản xuất và lưu thông hàng hoá. Chức năng trung tâm tiền mặt của ngân hàng bị thu hẹp. Tiền mặt quay ngoài vòng kiểm soát của ngân hàng với tất cả tác động tiêu cực của nó đến đời sôngs kinh tế - xã hội. Trong tín dụng, nhất là tín dụng ngắn hạn, dư nợ tăng rất nhanh và dần thoát khỏi nguồn vốn huy động. Tốc độ tăng tín dụng vượt xa tốc độ phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Các chi nhánh ngân hàng cơ sở chỉ biết cho vay, ỷ lại hoàn toàn vào vốn của NHTW bù đắp. Thiệt hại duy nhất thuộc về NHNN người đại diện cho Chính phủ quản lý nguồn vốn đó. Hơn nữa, chức năng quản lý Nhà nước, chức năng hướng dẫn thanh toán trong nền kinh tế quốc dân của NHNN không thực hiện được. Mối liên hệ hữu cơ giữa tiền mặt và tiền gửi bị phá vỡ. Phạm vi thanh toán qua tài khoản ở ngân hàng bị thu hẹp. Thanh toán bằng tiền mặt ngày càng mở rộng. Tình hình trên bắt nguồn từ tổ chức hoạt động của hệ thống ngân hàng. Từ khi ra đời, NHNN là ngân hàng phát hành, đồng thời vừa là ngân hàng trực tiếp cho vay vốn đối với nền kinh tế quốc dân, vừa là tổ chức quản lý Nhà nước về tiền tệ tín dụng, thanh toán. Do hoạt động của nền kinh tế quốc dân trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, không thừa nhận thị trường nên không có thị trường t1. Hoạt động ngân hàng tương đối đơn giản, không đòi hỏi sự năng động, linh hoạt trong hạch toán kinh doanh vì ngân hàng thực chất như là cơ quan cấp phát tài chính thứ hai, sau ngân sách cấp phát vốn cho xí nghiệp. Quản lý nhà nước trong hệ thống ngân hàng một cấp không thoát khỏi việc tuân thủ một cách máy móc những quy định, những chỉ thị, mệnh lệnh của ngân hàng cấp trên về tiền tệ , tín dụng, thanh toán. Trong hoạt động tín dụng, ngân hàng không ý thức đầy đủ về trách nhiệm đối với nguồn vốn huy động chỉ biết cho vay theo chỉ tiêu kế hoạch của cấp trên, càng xin được vốn nhiều càng cho vay rộng rãi, trong khi đó dịch vụ ngân hàng lại yếu kém. Thái độ phục vụ khách hàng, phong cách giao dịch của nhân viên ngân hàng còn nhiều khâu phiền hà, cửa quyền thiếu văn minh, lịch sử cần thiết ... Nói chung, có thể thấy rằng những điều kiện cần có để tiến hành hoạt động kinh doanh ngân hàng, đến lúc này là chưa có. Và đây cũng chính là sự cần thiết phải chuyển ngân hàng sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Từ thực trạng này, vấn đề đặt ra là phải tiến hành cải tổ hệ thống ngân hàng. 3. Việt nam trong quá trình đổi mới và hoàn thiện hệ thống ngân hàng. Nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây đang đẩy mạnh từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế tiền tệ có sự quản lý của Nhà nước, từng bước hoà nhập với nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới. Việt Nam mới đang ở trong giai đoạn chuyển tiếp (thời kỳ quá độ), trong giai đoạn tới để thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng mà Đảng và Nhà nưóc đã vạch ra, một trong những nhiệm vụ đầu tiên phải được xem xét chính là hoàn thiện và phát triển lĩnh vực ngân hàng, tiền tệ. Tiền tệ và ngân hàng đóng vai trò như là người mở đầu, người nâng đỡ, người điều chỉnh, người tham gia, người quyết định đối với mọi quá trình sản xuất, từ hình thái thô sơ nhất đến hình thái phức tạp, hiện đại và tinh vi nhất. Hình thái tiền tệ phản ánh trình độ phát triển kinh tế, là thước đo lịch sử, là vật kết tinh của xã hội và là động cơ cực mạnh cuốn hút và khơi dậy mọi tiềm ẩn kinh tế, xã hội. Tầm quan trọng của ngân hàng và tiền tệ trong sự phát triển kinh tế là không thể phủ nhận. Vị trí của đồng tiền và vai trò của ngân hàng càng trở nên quan trọng đối với việc ổn định và phát triển kinh tế trong điều kiện cơ chế thị trường. Trong nền kinh tế tiền tệ , mọi hoạt động kinh tế đều liên quan đến hoạt động tài chính, tín dụng, giám sát và điều tiết thông qua hệ thống ngân hàng ;ngân hàng được coi là một bộ phận của kết cấu hạ tầng. Do đó ngân hàng được tổ chức thành một hệ thống nhất, điều tiết lưu thông hàng hoá và dịch vụ trên phạm vi toàn quốc nhằm thực hiện chức năng quản lý vĩ mô đối với quá trình sản xuất, lưu thông, phân phối và tín dụng trên phạm vi toàn xã hội. Như vậy chúng ta có thể thấy được ý nghĩa quan trọng của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là đối với Việt nam, một đất nước mà từ trước cho đến nay, ngoài ngân hàng, các tổ chức tài chính tín dụng như Công ty tài chính, hợp tác xã tín dụng thì các hình thức tài chính phi ngân hàng còn chưa phát triển. Nhận thức được tầm quan trọng đó, công cuộc đổi mới và hoàn thiện hệ thống ngân hàng đã bắt đầu thực sự tiến hành với mốc đánh dấu là Nghị định số 53/HĐBT ngày 16/3/1988 của Hội đồng bộ trưởng nay là Chính phủ về việc tổ chức lại hệ thống ngân hàng Việt nam. hệ thống ngân hàng Việt nam được phân định thành hai cấp là Ngân hàng Nhà nước Việt nam với chức năng quản lý Nhà nước đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng, ngân hàng chuyên doanh hoạt động như những ngân hàng thương mại theo chế độ hạch toán kinh tế. Cùng với quá trình đổi mới toàn diện nền kinh tế, để tiếp tục đổi mới hệ thống ngân hàng, ngày 23/5/19909 Hội đồng Nhà nước (nay là Uỷ ban thường vụ Quốc hội) đã thông qua Pháp lệnh ngân hàng. Hợp tác xã tín dụng Công ty tài chính. Việc ban hành hai pháp lệnh Ngân hàng nói trên đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới một cách toán diện các hoạt động tài chính, t1, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc đổi mới hệ thống Ngân hàng việt nam. Đặc điểm, gần đây ngày 26/12/1997 chủ tịch nước Trần Đức Lương đã ký lệnh công bố luật Ngân hàng Nhà nước Việt nam (gồm 7 chương, 63 điều) và luật các tổ chức tín dụng (gồm 11 chương, 131 điều). Điều này đảm bảo cho tính đồng bộ của cơ chế tài chính tiền tệ quốc gia, phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, hoạt động của hệ thống Ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng còn được sự hỗ trợ rất đắc lực của hàng loạt các luật, các Nghị định như luật Công ty, luật phá sản, luật đất đai .... Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, và với sự nỗ lực của bản thân ngành, trong thời gian qua hệ thống Ngân hàng Việt nam đã đạt được nhiều thành tích đáng kể. Đó là bước đầu xây dựng được hệ thống ngân hàng thích ứng với cơ chế tiền tệ, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần đẩy lùi lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cụ thể là những năm 1980 - 1986 nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng khủgn hoảng nặng nề mà đặc trưng nổi bật là lạm phát phi mã, tốc độ phát triển kinh tế giảm sút, mất cân đối cả đối nội và đối ngoại. Bước ngoặt đầutiên của hoạt động ngân hàng từ năm 1988, khi các chính sách và biện pháp cải tổ mạnh mẽ đã được ngành ngân hàng thực hiện : nâng lãi suất huy động lên mức cao (12%/tháng đầu năm 1989) để thu hút khối lượng tiền mặt rất lớn đang nằm đọng trong lưu thông, xoá bỏ cơ bản chế độ tỷ giá, áp dụng tỷ giá thả nổi có điều tiết linh hoạt, đi đôi với điều chỉnh dần lãi suất xuống theo kết quả kìm chế lạm phát, kích thích xuất khẩu, hướng nhập khẩu vào các mặt hàng phục vụ sản xuất trong nước. Mặt khác, từ sau khi có Pháp lệnh ngân hàng, ngành ngân hàng đã từng bước áp dụng các công cụ quản lý vĩ mô gián tiếp thay thế cho các công cụ kiêmr soát trực tiếp trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ. Đặc biệt, NHNN đã áp dụng một loạt biện pháp nhằm thắt chặt lượng tiền cung ứng và kết quả là tốc độ lạm phát phi mã trước đó 410,9% năm 1988 xuống còn 67,4% năm 1991, 17,4% năm 1992 và 5,2% năm 1993. Năm 1994, nền kinh tế vẫn duy trì được mức tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 1993 (8,8%) nhưng mức lạm phát đã cao hơn dự kiến (14,4%) ; mức lạm phát năm 1995 là 12,7% năm 1996 là 4,5% và gần 4% năm 1997. Những năm đầu của quá trình đổi mới ngân hàng, nền kinh tế nước ta phải đối phó với những khó khăn gay gắt. Với những chính sách đổi mới của Ngân hàng Nhà nước, đặc biệt là khống chế khối lượng tiền cung ứng, chính sách tín dụng, chính sách lãi suất, chính sách tỷ giá ... đã góp phần thúc đẩy sự cải thiện nền kinh tế theo hướng phục hồi và phát triển. ngành Ngân hàng cũng góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu tín dụng Ngân hàng đã tăng dần cho lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh trong khi bảo đảm có chọn lọc việc duy trì những doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh có hiệu quả. Tỷ trọng cho vay các xí nghiệp quốc doanh năm 1991 là 90% và ngoài quốc doanh là 10% thì đến năm 1994, tỷ trọng đó là 65%, năm 1995 là 58,5% và 41,5%. Trước đây, Ngân hàng Trung ương hoạt động ngắn hạn là chủ yếu. Để phục vụ tốt hơn cho quá trình công nghiệp hoá, Ngân hàng đã chú ý mở rộng hoạt động trung và dài hạn. Tỷ trọng cho vay ngắn hạn từ 85% và trung dài hạn 15% (năm 1991) thì đến năm 1994 đã thay đổi 67% và 33%. Năm 1995 so với năm 1994, dư nợ cho vay ngắn hạn tăng 36,7%, dư nợ cho vay trung và dài hạn tăng 24,6%. Cơ cấu tín dụng ngân hàng qua các năm Trích từ : Sách “ Ngân Hàng Việt Nam quá trình xấy dựng và phát triển“ - NXB Cính Trị Quốc Gia - 1996 Trang Quốc doanh Ngoài quốc doanh Ngắn hạn Trung & dài hạn 1991 1992 1993 1994 1995 90,0 88,0 72,0 65,0 58,0 10,0 12,0 28,0 35,0 41,0 85,0 84,0 77,0 67,0 75,0 15,0 16,0 23,0 33,0 25,0 Sự tăng trưởng tín dụng và các định hướng của nền kinh tế quốc dân đã tạo nên cơ cấu tín dụng ngày càng hợp lý, thúc đẩy từng bước sự thay đổi cơ cấu kinh tế. Hơn nữa, cùng với việc mở rộng cho vay đến tất cả các thành phần kinh tế, hệ thống ngân hàng đặc biệt quan tâm đầu tư phát triển khu vực nông nghiệp và nông thôn, quan tâm đến cho vay khuyến khích xuất khẩu, cho vay ứng dụng tiến bộ khoa học và áp dụng công nghệ mới. Nhiều công cụ và hình thức huy động vốn đa dạng được đưa vào áp dụng trong hệ thống ngân hàng : kỳ phiếu của NHTM, tiết kiệm xây dựng nhà ở... Nhờ đó, vốn hoạt động của các ngân hàng đã tăng liên tục với tỷ lệ khá cao : năm 1991 tăng 68%, năm 1992 tăng 19%, năm 1993 tăng 14%, 1994 tăng 59% và năm 1995 tăng 32%. Nguồn vốn trong nước được tăng trưởng cùng với nguồn vốn từ nước ngoài là điều kiện cơ bản, đã góp phần tích cực tăng đầu tư, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Có thể nói, những thành quả bước đầu đạt được trong công cuộc đổi mới và hoàn thiện hệ thống ngân hàng ở Việt nam đã góp phần đáng kể vào sự phát triển chung của nền kinh tế trong đó không thể thiếu vai trò đặc biệt quan trọng của NHTW Thống đốc ngân hàng Nhà nước giờ đây đã có quyền kiểm soát tăng trưởng tiền tệ để thực hiện được các chỉ tiêu về lạm phát và tăng trưởng kinh tế lành mạnh. NHNN đã chủ động hơn trong việc lựa chọn các biện pháp, chính sách can thiệp vào nền kinh tế để nhằm đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Trên thế giới, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể mà mỗi quốc gia có mục tiêu của chính sách tiền tệ khác nhau. ở Việt nam, chính sách tiền tệ có mục tiêu đã được xác định là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát từ đầu thập kỷ 90 đến nay, lạm phát đã giảm thấp và được kiềm chế, chỉ còn 14,3% năm 1994, 12,7% năm 1995 và 4,5% trong năm 1996, và gần 4% năm 1997. Trong khi đó, nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định : 8,8% năm 1994 và 9,5% năm 1995 và 9,5% năm 1996. 22,7 19,6 3,6 4,5 12,7 14,4 27,8 22,6 Thành công đó của Việt nam trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường, đã được dư luận quốc tế đánh giá cao. Trong số các nguyên nhân của thành tựu, nổi lên là việc điều hành có hiệu quả lãi suất và tỷ giá trong nền kinh tế. Lãi suất là công cụ có vị trí quan trọng số một trong hệ thống các công cụ của chính sách tiền tệ quốc gia. Về bản chất, lãi suất là giá cả mua bán vốn, có tác dụng điều hoà cung cầu vốn, thúc đẩy tăng tốc độ lưu chuyển vốn trong nền kinh tế. ở Việt nam, cho đến hết năm 1996, lãi suất vẫn chưa trở thành giá cả mua bán vốn trong nền kinh tế nên các ngân hàng thương mại thừa hàng nghìn tỷ đồng vốn trong khi nhu cầu của các doanh nghiệp vẫn rất lớn. Tuy nhiên nhìn lại, năm 1996, đã đánh dấu mốc lịch sử trong cuộc cách mạng về lãi suất của hệ thống ngân hàng Việt nam. Các mức trần lãi suất cho vay tối đa được điều chỉnh trong năm 1996 Đơn vị : % Loại lãi suất 1/1/96 15/7/96 1/9/95 1/10/96 1. Cho vay ngắn hạn tối đa 2. Cho vay trung và dài hạn 3. Lãi suất cho vay của NHTMCP nông thôn 4. Lãi suất cho vay của QTDND 1,75 1,7 2,0 2,5 1,60 1,65 1,8 2,2 1,5 1,55 1,7 2,1 1,25 1,35 1,5 1,8 Từ ngày 1/1/1996, NHNN Việt Nam chấm dứt việc quy định cụ thể chi tiết các loại lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay thay bằng việc chỉ quy định trần lãi suất cho vay tối đa, NHNN đã 4 lần quyết định hạ trần lãi suất. Theo đó, lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa lần lượt giảm từ 2,1% / tháng (trước 31/12/1995) xuống còn 1,75% từ 1/1/1996, 1,6% từ 15/7/1996 ; 1,50% từ 1/9/96 và 1,25%/tháng từ 1/10/1996. Phù hợp với thông lệ quốc tế, lãi suất cho vay trung hạn được nâng lên cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn : 1,55%/tháng từ 1/9/1996 và 1,35% / tháng từ 1/10/1996. Đồng thời khoảng cách giữa lãi suất cho vay bằng nội tệ và lãi suất cho vay bằng ngoại tệ rút ngắn lại, tạo sự bình đẳng hơn nữa giữa nội tệ và ngoại tệ. Lãi suất cho vay giảm tới mức thấp nhất từ trước đến nay đã thúc đẩy các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế vay vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Điều đặc biệt là khác hẳn với các đợt điều chỉnh lãi suất trước đây mặc dù 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất mà tình hình kinh tế - xã hội vẫn ổn định, giá cả không có biến động. Điều đó cho thấy người dân đã đặt lòng tin vào hệ thống ngân hàng, sức mua đồng đều được đảm bảo. Tuy nhiên, để cho công cụ lãi suất của Việt nam đóng được vai trò của nó như ở các nước có nền kinh tế tiền tệ thì cần phải làm nhiều việc. Đó là cần sự linh hoạt trong buôn bán tiền. ở các nước trên thế giới, NHTW chỉ công bố một loại lãi suất tái chiết khấu, còn ở Việt nam, NHTW cần công bố nhiều loại trần lãi suất khác nhau, có tới 4 loại lãi suất cho vay của NHTM Chính phủ nông thôn và lãi suất cho vay của quỹ tín dụng nhân dân (TTDND). Do đó, tính linh hoạt của lãi suất để thúc đẩy cạnh tranh chưa được phát huy đúng ý nghĩa của nó, láiuất cho vay của NHTM Chính phủ nông thôn là 1,5% và của QTDND là 1,8% / tháng đã làm cho nông dân là người phải chịu lãi suất cao nhất trong nền kinh tế gấp 1,2 - 1,5 lần so với mức 1,25 % cho vay ở thành thị. Trong khi thành phần kinh tế này đúng ra phải được ưu tiên hơn cả bởi vì lợi nhuận thấp, lao động chủ yếu là thủ công lại đóng góp khối lượng hàng hoá lớn nhất cho xuất khẩu : gạo, cà phê, cao su, hạt điều, hàng thủ công, thuỷ hải sản. Điều này có vẻ trái ngược với qui định chênh lệch lãi suất 0,35%. Ngay từ đầu năm cho đến hết năm 1996, NHTW quy định cho các tổ chức tín dụng (TCTD) phải thực hiện bình quân lãi suất đầu ra và đầu vào không được vượt quá 0,35%. Đây được coi là một bước tiến (bỏ quy định cụ thể các mức lãi suất tiền gửi ) nhưng lại có hai bức lùi bởi quy định này làm triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các TCTD, họ không phấn đấu giảm chi phí hoạt động, không tạo điều kiện mạnh dạn đầu tư cho đổi mới công nghệ ... Bên cạnh đó, các công cụ điều chỉnh lãi suất chưa phát huy tác dụng. Cho đến cuối năm 1996, hệ thống ngân hàng Việt nam đã phát triển đến giai đoạn cao nhất về số lượng, cơ cấu và các loại hình ngân hàng : 4 NHTM quốc doanh với 1200 chi nhánh, 54 NHTM cổ phần và 2 công ty tài chính cổ phần, 3 NH liên doanh với nước ngoài, 24 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 70 văn phòng đậi diện ngân hàng nước ngoài, 1 công ty liên doang cho thuế tài chính và 1 công ty cho thuế tài chính của nước ngoài, 50 HTX tín dụng và hơn 700 QTĐND; ngoài ra còn có 5 công ty bảo hiểm, một công ty liên doanh bảo hiểm, một công ty tái bảo hiểm và 6 quỹ đầu tư ở Việt Nam. Những tổ chức đó thông qua công cụ lãi suất thực hiện huy động vốn và đầu tư vốn cho nên kinh tế thực hiện mua bán vốn trực tiếp lẫn nhau hoặc trên thị trường liên ngân hàng, hình thành nên lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. Đơn vị : % 129 129 127 100 Thị trường nội tệ liên ngân hàng được NHTW đưa vào hoạt động từ năm 1992 và thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bắt đầu hoạt động từ cuối 1993. Đến nay mới chỉ có khoảng hơn 50% số tổ chức tài chính tín dụng nói trên là thành viên tham gia vào thị trường. Thị trường hoạt động không thường xuyên chưa trở thành nơi buôn bán vốn giữa các thành viên, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng chưa có tác dụng hình thành nên lãi suất cho vay bình quân trong nền kinh tế. Các ngân hàng vẫn trực tiếp vay vốn lẫn nhau. Cho đến hết năm 1996, tổng nguồn vốn của các tổ chức tài chính tín dụng ở Việt nam lên tới gần 100.000 tỷ đồng, chi nợ cho vay và đầu tư cho nền kinh tế gần 75.000 tỷ đồng, đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Khối lượng vốn nay tiếp tục tăng nhanh trong những năm tới. Trong khi đó, Việt nam đang tiến tới hoà nhập với cộng đồng tài chính quốc tế, có đông đảo các ngân hàng nước ngoài đang hoạt động ở Việt nam... Do đó, NHTW cần có biện pháp thu hút tất cả các tổ chức nói trên tham gia là thành viên và giao dịch thường xuyên trên thị trường liên ngân hàng ; NHTW cần chỉnh sửa những cơ chế, quy chế không phù hợp, phát huy hiệu quả hoạt động của thị trường này để cho lãi suất trên thị trường liên ngân hàng có tác tác dụng điều chỉnh lãi suất bình quân trong nền kinh tế. NHTW không nên quy định trần lãi suất cho vay tối đa, chỉ công bố lãi suất cho vay tái chiết khâu mà thôi. Một vấn đề quan trọng là cần có các biện pháp thanh tra, kiểm soát có hiệu quả và có biện pháp hỗ trợ kịp thời. Cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90, cùng với việc gia tăng lạm phát, đồng tiền Việt Nam cũng suất giá nhanh, có thời điểm chiếm tỷ giá ngoại tệ lên tới 14.500 - 14. 600 VNĐ/USD. Nạn mua bán, trao đổi trên thị trường chợ đen "phát triển", người dân đua nhau đầu cơ và cất trữ ngoại tệ. Sau đó, do NHTW thực hiện nhiều biện pháp có hiệu quả, tỷ giá ngoại tệ đã giảm dần xuống và trong hơn hai năm qua, ổn định ở mức 11.000 VNĐ/USD, mức dao động tỷ giá trong năm 1995 chỉ có +0,4% và trong 14 tháng đầu năm 1996 là +0,2% Với việc kiên trì điều hành tỷ giá theo hướng ổn định, NHTW đã chống đỡ được xu hướng tỷ giá giảm thấp do luồng ngoại tệ đổ vào VIệt Nam tăng nhanh, thúc đẩy cả xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng,, tạo nên sự phát triển ổn định của nền kinh tế. NHTW đã tăng cường kiểm tra tình trạng ngoại hối của các NHTM và quy định các NHTM chỉ được quy định mức tỷ giá mua bán ngoại tệ tăng giảm 1% so với mức tỷ giá công bố hàng ngày của NHTW. Tuy nhiên, việc quản lý ngoại tệ và tỷ giá hối đoái trong thời gian có một số vấn đề đang nổi lên là công tác quản lý việc mua bán, thanh toán, trao đổi bằng ngoại tệ vẫn chưa được thực hiện nghiêm túc. TRên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nhiều khi cung nhiều hơn cầu, người bán không có người mua hoặc ngược lại, người mua không có người bán. NHTW đã mua ngoại tệ vào quá mức dự trữ của mình trong khi đó chỉ tiêu phát hành VNĐ cho mua ngoại tệ cũng đã hết hoặc không bán ra kịp thời làm giảm sút ý nghĩa của tiền tệ ngoại tệ liên ngân hàng. Lãi suất cho vay bằng nội tệ vẫn cao gấp 1,3 - l,6 lần lãi suất cho vay ngoại tệ. Vậy vấn đề đặt ra là NHTW cần lựa chọn chiến lược lãi suất (lãi suất trong nước lãi suất ngoại tệ) như thế nào cho hợp lý ? Sang năm 1997, như chúng ta đã biết là năm nổ ra cơn bão tiền tệ ở Đông Nam á và khủng hoảng tài chính toàn cầu nhưng nền tài chính tiền tệ ở Việt Nam vẫn đứng vững. Tình hình đó có nhiều nguyên nhân, có thể là do đồng tiền Việt Nam chưa phải là đồng tiền chuyển đổi, Việt Nam chưa có tiền tệ chứng khoán, đầu tư nước ngoài vào Việt nam đều là đầu tư trực tiếp và tình trạng đầu cơ tiền tệ chưa có ở Việt Nam nhưng trước hết là do NHTW đã có những biện pháp, chính sách kịp thời và hợp lý để nhằm làm giảm tới mức tối thiểu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế nước nhà. Ngày 13/10/1997 Thống đốc NHNN Việt nam đã ký quyết định số 342/QĐ - NH3, cho phép các NHTM được phép mua bán ngoại tệ trong biên độ ±10% so với tỷ giá chính thức do NHNN công bố, tăng gấp đôi so với mức ±5% trước đó. Tỷ giá ngoại tệ đã tăng đột biến, với mức tỷ giá từ chỗ 11.800 VNĐ/USD đã tăng lên 12.200 rồi 12500 và 13.000 đồng. Cho đến thời điểm cuối năm (giữa tháng 12/1997) vẫn ở mức xấp xỉ 14.000 VNĐ/USD. Sau đó, (từ 20/12/1997) tỷ giá có giảm chút ít còn 13.350 - 13.400 VNĐ/USD nhưng vẫn ở mức cao. Thực chất việc tăng tỷ giá ngoại tệ (VNĐ/USD của NHNN không phải là phá giá VNĐ. Nói đúng ra đây là một giải pháp tích cực dù có phần chậm chễ và đột ngột bước đầu đã kéo được đồng tiền Việt Nam (mà xét đến cùng là cả nền kinh tế ) thoát ra khỏi thế "gọng kìm" nguy hiểm của hiện tượng "đôla hoá" và gánh nặng nợ nước ngoài luôn có chiều hướng gia tăng. Xét trong bối cảnh thị trường tiền tệ quốc tế hiện nay, nhất là trong mối tương quan sức mua đồng VNĐ và USD thì mức điều chỉnh nâng tỷ giá danh nghĩa VNĐ/USD mới chỉ ở vào khoảng 80-85% tỷ giá ngang bằng sức mua đáng kể phải có. Xét ở trong nước, thực tế sức mua VNĐ vẫn đang tăng lên (biểu hiện ở chỉ lạm phát thấp, lãi suất hạ biên). Đây còn là sự điều chỉnh hợp lý nhằm phá thế "đông cứng" tỷ giá VNĐ/USD từ nhiều năm nay mà do chưa đủ điều kiện (lạm phát còn cao) nên chưa thực hiện tốt và chỉ như vậy mới phản ánh đúng hơn tương quan giữa đồng VNĐ và USD. Chính sách tỷ giá mới đang thúc đẩy hỗ trợ tích cực việc điều chỉnh một loạt các chính sách thương mại, đầu tư, tín dụng ... của Nhà nước nhằm ngăn chặn ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng tiền tệ các nước trong khu vực Đông Nam á đã và đang có dấu hiệu tác động đến nền kinh tế Việt Nam kể từ hồi đầu tháng 7/1997. Về lãi suất, từ 1/7/1997 NHNN đã điều chỉnh giảm "trần" lãi suất cho vay các loại phù hợp với chỉ số lạm phát để khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng, sử dụng đồng vốn có hiệu quả hơn. Như vậy, kể từ cuối năm 1995 đến nay, đây là lần giảm lãi suất thứ 5. Lãi suất cho vay đồng nội tệ tiếp tục giảm chung các loại khoảng 20%, lãi suất cho vay đồng ngoại tệ giảm khoảng 10%. Các mức lãi suất cho vay đối với các khu vực nông thôn và các đối tượng được ưu đãi như vùng núi, hải đảo, người nghèo cũng được giảm tương ứng. Lãi suất nợ quá hạn cũng được điều chỉnh giảm áp dụng thống nhất theo mặt bằng mới để giảm bớt gánh nặng cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, đây vẫn chỉ là phương thức hoạch định chính sách lãi suất mang tính tình thế, thụ động. Bởi lẽ về cơ bản, lãi suất chỉ đạo của NHNN vẫn chưa phản ánh đúng thực chất quan hệ cung - cầu vốn của nền kinh tế. Nền kinh tế vẫn thiếu vốn trầm trọng, đặc biệt là nhu cầu vốn trung, dài hạn để đổi mới, trang bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại nhằm nâng cao năng lực sản xuất, hiệu quả và sức mua cạnh tranh của các mặt hàng nội địa. Trong lúc đó, nhiều doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận vay vốn ngân hàng theo nhu cầu mong muốn. Kết quả là áp lực vay nợ nước ngoài, tìm kiếm thêm nguồn ngoại tệ qua con đường này vẫn gia tăng khiến "cầu" tín dụng trong nước bị thu hẹp tương đối. Việc hạ lãi suất nội tệ liên tục ngày càng kém ý nghĩa một khi còn nới lỏng quản lý nợ nước ngoài, thiếu nhất quán về quản lý ngoại hối và chậm trễ phát triển hoàn thiện các thị trường tiền tệ thống nhất trong cả nước để tập trung, thu hút mọi nguồn vốn nhà rỗi vào sử dụng một cách hiệu quả nhất thông qua hệ thống tài chính - ngân hàng. Như vậy, phần nào chúng ta cũng đã thấy được một số hoạt động chính cũng như vai trò đặc biệt quan trọng của NHNN Việt nam trong sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiêts của Nhà nước. Những thành tựu đã được là không thể phủ nhận, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số vấn đề đòi hỏi cần có giải pháp hữu hiệu để giải quyết, từ đó mới có thể nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của NHTW trong nền kinh tế. chương iii một số giải pháp củng cố và hỗ trợ vai trò của NHTW trong giai đoạn hiện nay 1.Một số vấn đề còn tồn tại trong hoạt động của NHTW : Từ sự phân tích ở phần chương II, có thể thấy một số hạn chế trong hoạt của NHNN Việt nam như sau : - NHNN còn can thiệp quá sâu vào việc ấn định các mức lãi suất của NHTM, còn qui định nhiều mức lãi suất khống chế khác nhau, khiến cho các NHTM không thể nào hoạt động theo thông lệ thị trường, không thể cạnh tranh với nhau vì lợi ích của bản thân và của nền kinh tế. ở hầu hết các nước NHTW chỉ công bố lãi suất tái chiết khấu và quản lý cho vay cao nhất (trần lãi suất ), để cho các NHTM chủ động qui định lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể, tạo thuận lợi cho các NHTM tự chịu trách nhiệm về các hoạt động nghiệp vụ của mình. NHTW điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn đối với các NHTM sát với lãi suất huy động vốn trên thị trường, tăng cường kiểm tra để đảm bảo thực hiện đúng qui định về lãi suất và không để có sự chênh lệch khoảng cách quá lớn giữa các ngân hàng. - Việc qui định lãi suất theo thời hạn tín dụng có nội dung khác biệt với thông lệ Quốc tế. Vốn cho vay trung hạn và dài hạn có lãi suất thấp hơn lãi suất vốn cho vay ngắn hạn không những có sự trái ngược với thông lệ Quốc tế, mà còn có nghịch lý ngay cả việc thực hiện chính sách lãi suất trong nước : lãi suất huy động vốn trung hạn và dài hạn cao hơn lãi suất huy động vốn ngắn hạn, trong khi lãi suất cho vay thì ngược lại. Vốn cho vay thời hạn ngày càng dài, tỷ lệ rủi ro càng lớn nên lãi suất càng cao dần lên. Lãi suất huy động và lãi suất cho vay giữa ngoại tệ và bản tệ có sự chênh lệch lớn chưa khuyến khích việc thu hút ngoại tệ gửi vào ngân hàng nhưng lại khuyến khích các doanh nghiệp thích vay ngoại tệ làm nảy sinh tiêu cực, thu lợi chưa xác đáng, chưa hạn chế việc sử dụng ngoại tệ trong thanh toán và lưu thông. - Mức lãi suất tín dụng đang thực hiện ở nước ta hiện nay do qui định của NHNN từ ngày 01/01/1993 trong đó lãi suất cho vay vốn ngắn hạn tối đa là 2,1%/tháng, tương ứng với 25,2%/năm, như vậy là cao gấp 2,5 - 3 lần lãi suất cho vay của các nước trên thế giới ( mức lãi suất cho vay bình quân của các nước là 6 - 8%/năm ) mức lãi suất trên không phù hợp với chỉ số tăng giá trên thị trường xã hội, ở các nước lãi suất được điều chỉnh thường xuyên theo diễn biến của thị trường. Mức lãi suất trên cũng chưa thoả đáng so với hiệu quả chung của nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay, do đó hạn chế người kinh doanh vay vốn để mở rộng đầu tư, làm tăng giá thành hàng hoá sản suất trong mức khiến cho hàng nội địa không cạnh tranh với hàng ngoại. - Như vậy, với khung lãi suất hiện hành, NHTW muốn tạo thế cân bằng nhưng thực tế nó không thể tạo được cân bằng trong nền kinh tế thực của đất nước. - Khối lượng giao dịch bằng tiền mặt vẫn còn là chủ yếu. Thói quen và cách tổ chức giao dịch này của hệ thống ngân hàng hạn chế đến tốc độ và tính nhanh nhạy kịp thời trong hoạt động sản xuất kinh doanh, gây khó khăn, trở ngại trong quá trình lưu thông hàng hoá, dịch vụ. - Sự phối hợp hoạt động giữa các ngân hàng còn rất ít và thiếu chặt chẽ. Sự luôn chuyển vốn trong trong và ngoài nước từ nơi thừa đến nơi cần chưa được đáp ứng kịp thời và có hiệu quả thông qua hệ thống ngân hàng. - Quy mô cung ứng tiền tệ đã tăng đáng kể trong những năm gần đây nhưng ngành ngân hàng vẫn chưa thể quản lý đánh giá và kiểm soát được lượng tiền trôi nổi trong dân nhất là lượng vàng và ngoại tệ. - Các mối quan hệ lợi ích chưa được giải quyết thoả đáng giữa cấu trúc về lãi suất gửi, lãi suất tiền vay với cấu trúc về thuế (kinh doanh ngân hàng phải chịu thuế 4 - 15%) và các khoản qui định về khoản dự trữ (ở Việt nam, các NHTM phải có tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% gửi ở NHNN bất kỳ lúc nào. Ngày 10 tháng 01 năm 1995 NHNN đã ra thông tư quy định lại tỷ lệ này là 8%). Ngoài ra, NHNN còn yêu cầu tất cả các NHTM giữ lại thêm 20% và gửi ở NHNN để giải quyết những khiếu nại. Với lãi suất 0,3%/tháng thêm 20% này các NHTM phải chịu thêm một thứ thuế đáng kể nữa cùng với lãi suất gửi tiền tiết kiệm 1,7%/3tháng. Tất cả làm giảm động cơ của NHTM trong việc tích cực huy động tiền gửi. - Việc quản lý ngoại hối còn nhiều tồn tại. Nhiều hoạt động thương mại nước ngoài không nằm trong sự kiểm soát của ngân hàng. NHNN chưa thực sự kiểm soát được các luồng ngoại hối vào Việt nam trên mọi lĩnh vực như suất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài, vay nợ viện trợ, chuyển tiền phi mậu dịch, kiều hối... Nguyên nhân của tình trạng này là việc sử dụng ngoại tệ còn rộng rãi. Tổ chức và cá nhân đều có quyền mở tài khoản ngoại tệ. Ngoại tệ không phân biệt nguồn gốc đều có thể sử dụng được. Ngoại tệ tiền mặt được lưu hành rộng rãi và trở thành phương tiện thanh toán, cất giữ trong dân... chính những yếu tố này ảnh hưởng không tốt tới thị trường hàng hoá, thị trường ngoại tệ và tỷ giá. - Đội ngũ cán bộ tuy có được đào tạo lại và nâng cao trình độ nhưng vẫn còn xa mới đáp ứng được yêu cầu hoạt động của ngân hàng trong giai đoạn hiện nay. Với những tồn tại trên đây, đòi hỏi các biện pháp giải quyết thoả đáng để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của NHTW từ đó “... Tạo lập được một hệ thống ngân hàng đủ mạnh, cả về năng lực hoạch định và thực thi chính sách, năng lực quản lý, năng lực điều hành kinh doanh, đủ mạnh về trình độ công nghệ và kỹ thuật hiện đại để thích ứng với cơ chế thị trường, trở thành công cụ đắc lực cho mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước và sớm hội nhập vào cộng đồng tài chính Quốc tế. 2. Một số giải pháp khắc phục - NHTW cần mạnh dạn từ bỏ cách điều chỉnh lãi suất như thời gian qua. Trước đây, khi chúng ta từ bỏ việc qui định giá bán xi măng, bỏ việc bao cấp lương thực... thì cũng rất lo ngại về biến động thị trường, nhưng thực tế cho thấy tình hình thị trường lại diễn biến tốt hẳn lên. Vấn đề quan trọng là cần có các biện pháp thanh tra, kiểm soát có hiệu quả và có biện pháp hỗ trợ kịp thời. - NHTW cần thực thi một chính sách lãi suất linh hoạt hơn nên suất pháp từ cung cần về vốn trên thị trường để lãi suất thực sự trở thành giá cả mua bán vốn trong nền kinh tế để lãi suất là công cụ hữu hiệu nhất trong điều hành chính sách tiền tệ và là đòn bẩy tích cực thúc đẩy hoạt động tiết kiệm, tích luỹ và đầu tư trong nền kinh tế, cần chuẩn bị sớm những điều kiện cần thiết để thu hẹp dần khoảng cách lãi suất giữa bản tệ và ngoại tệ, tiến tới chỉ cho phép NHTM mua, bán ngoại tệ mà không được cho vay bằng ngoại tệ. - Cần sửa đổi một số điểm trong quyết định 396/TTg và thông tư hướng dẫn thực hiện QĐ 396/TTg của thủ tướng chính phủ về quản lý ngoại tệ. Tăng cường các biện pháp bảo đảm thực hiện nghiêm túc QĐ 396, tăng cường quản lý chặt chẽ việc vay nợ nước ngoài. - Cần tổng kết hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và nội tệ liên ngân hàng, rút ra những hợp lý và bất hợp lý, điều chỉnh hoạt động và nâng cấp đưa lãi suất trên thị trường liên ngân hàng cả nội tệ và ngoại tệ, có tính chất điều chỉnh lãi suất của các NHTM và điều chỉnh lãi suất trong nền kinh tế. Việc NHTW can thiệp vào tỷ giá cũng chỉ nên dừng ở mức độ nhất định trong khuôn khổ của chính sách tiền tệ, còn cần thiết phải để cho thị trường bao gồm: cung cần ngoại tệ lạm pháp, sức mua thực tế của VNĐ... điều chỉnh tỷ giá trên thị trường. - Cần nghiên cứu giảm bớt sự phụ thuộc của đồng tiền nước ta với việc dùng USD trong nhiều trường hợp đưọc coi như phương tiện thanh toán chuẩn, từ đó quy ra tiền Việt nam. ý tưởng về việc hình thành tỷ giá hối đoái không chỉ dựa vào USD mà cả các đồng tiền khác là rất đáng lưu ý nghiên cứu. - Nền kinh tế của một đất nước được ví như cơ thể sống, gồm nhiều bộ phận có quan hệ hữu cơ và tác động tương hỗ, do vậy NHNN cần đảm bảo tính hệ thống của các giải pháp. Đụng đến tỷ giá hối đoái là đụng đến lãi suất tiền gửi, tiền vay, hoạt động suất nhập khẩu, đầu tư, nợ nước ngoài... do đó cần tính toán thành nhiều phương án cụ thể, trong đó có lượng hoá được cái lợi, cái hại để so sánh, lựa chọn phương án tối ưu. - NHNN cần điều chỉnh chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia hướng mạnh vào tăng hiệu quả sử dụng mọ nguồn vốn trong và ngoài nước, hạn chế tiêu dùng xã hội để khuyến khích tiết kiệm và đầu tư, cần phát triển mạnh thị trường nội tệ. Tập trung vốn cho khu vực , ngành sản xuất - kinh doanh có lợi thế cạnh tranh cao và đi đầu trong cải cách thương mại và thuế khoá, đồng thời hỗ trợ tích cực cho việc sắp sếp, cải cách các doanh nghiệp Nhà nước có nhiều triển vọng tốt. Khôi phục niềm tin của dân chúng, các nhà đầu tư và mọi doanh nghiệp voà hệ thống tài chính - ngân hàng. - Chấn chỉnh, kiện toàn các thị trường nội, ngoại tệ liên ngân hàng. NHNN chủ động can thiệp không để biến động tỷ giá ngoại tệ, giá vàng cao thấp bất thường, kiên quyết ngăn chặn và dập tắt mọi hành vi đầu có ngoại tệ, gây mất ổn định tiền tệ, gây mất ổn định tiền tệ. Sớm đưa các điểm mua bán ngoại tệ phi tập trung vào quy trình quản lý chặt chẽ của Nhà nước, tăng cường quản lý ngoại hối một cách tập trung, nâng cao mức dự trữ ngoại tệ quốc gia trên 3 tháng (12 tuần nhập khẩu); cần đổi mới công tác thanh toán - NHNN chủ động phối hợp chặt chẽ với các bộ nghành liên quan thực hiện đồng bộ các chính sách kinh tế vĩ mô, đảm bảo cùng hướng tới mục kích “cần” của nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách tích cực, khẩn trương xử lý dứt điểm công nợ để góp phần làm lành mạnh hoá quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp và ngân hàng, tao điều kiện mở rộng tín dụng mới. Cần tăng cường nâng cao trình độ cán bộ ngân hàng. Để lành mạnh hoạt động tín dụng ngân hàng, nên phân định rạch ròi trách nhiệm ngân hàng thực hiện các chính sách xã hội (xoá đói, giảm nghèo, hỗ trợ cho phát triển nông nghiệp nông thôn, tạo việc làm, khắc phục thiên tai, cho vay sinh viên ...) thông qua các chủ trương, chính sách cơ chế và hình thức triển khai rõ ràng (nguồn vốn, bù lỗ lãi suất, bù trừ rủi ro, thời gian ân hạn, điều kiện vay trả nợ ...). Cuối cùng, vấn đề đặt ra là phải tạo ra môi trường pháp lý đầy đủ để các hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ được an toàn và phát triển vững chắc (cần sớm ban hành luật về thế chấp cầm cố tài sản và luật phát mại tài sản.) Trên đây là một số giải pháp chính để góp phần cửng cố và hỗ trợ hơn nữa vai trò của NHTW trong giai đoạn hiện nay NHTW với tư cách là ngân hàng của chính phủ và ngân hàng của các ngân hàng sẽ đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia từ nay đến năm 2000.Đây sẽ là một giai đoạn hết sức quan trọng trong sự phát triển kinh tế nước ta. Giai đoạn này có nhiều thuận lợi cũng như không ít khó khănđòi hỏi nghành ngân hàng nhất là NHNN phải đổi mới hoạt động một cách toàn diện và sâu sắc, đây là một yêu cầu cấp bách. Bởi đổi mới ngân hàng để thích nghi với điều kiện kinh tế thị trường và thúc đẩy, phục vụ nền kinh tế thị trường. Ngân hàng là nghành chủ yếu trong việc tạo vốn cho công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Đổi mới ngân hàng vì một nền kinh tế mở ,đổi mới để hiện đại hoá ngân hàng - một hướng đổi mới hợp thời đại, đổi mới ngân hàng để có khả năng hợp tác và cạnh tranh. Kết luận Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường đang diễn ra ở hàng loạt các nước trên thế giới. Khi một nền kinh tế đã hoạt động và phát triển theo cơ chế thị trường thì bên cạnh các thị trường hàng hoá và thị trường sức lao động , thị trườngvốn cũng cần phát triển theo cùng nhịp độ. Chính sự phát triển của thị trường vốn vừa là đòi hởi khách quan vừa là yếu tố thúc đẩy sự phát triển của thị trường hàng hoá và thị trường sức lao dộng. Đến lượt mình thị trường hàng hoá phát triển lại đòi hỏi và thúc đẩy thị trường vốn phát triển. Chúng ta biết rằng bất kỳ một hoạt động kinh tế nào cũng liên quan đến ngân hàng dù là gián tiếp hay trực tiếp ; như vậy khu vưc ngân hàng phải được đặt ở vị trí hàng đầu đặc biệt là NHTW giúp cho các ngân hàng không đi chệch khởi mục tiêu đã định.Một khu vực ngân hàng vững mạnh sẽ là hậu thuẫn cho các thành phần kinh tế hoạt động có hiệu quả. Một khu vưc ngân hàng sẽ tạo điều kiện để hình thành thị trường vốn hoàn hảo trong nền kinh tế. Chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCH là một cong việc còn nhiều mới mẻ đối với Việt Nam. Đảng và Phính phủ đã xác định đúng đắn nhiệm vụ của đất nước là phải đổi mới căn bản hệ thống tài chính , tiền tệ ,ngân hàng phải thực sự trở thành trung tâm tiền tệ, tín dụng của cả nước. Trong thời gian qua, bộ máy hoạt các loại hình kinh doanh của khu vực này đã dược đỏi mới và đang từng bước được hiện đại hoá để theo kịp trình độ các nước trong khu vực và trên thế giới. Các hoạt động tài chính tín dụng đã bước đâù dựa trên nguyên tắc thị trường. ngoài nỗ lực của bản thân khu vực ngân hàng, Đảng và Chính phủ cũng cần quan tâm hơn nữa bằng cách nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật ,bổ sung các điều luật cần thiết phục vụ cho hoạt động trong lĩnh vực này. Hoàn thiện hệ thống ngân hàng là cơ sở vững chắc, tiền đề quan trọng cho sự ra đời của thị trường chứng khoán ở Việt Nam. TàI LIệU THAM KHảO 1) Sách “Kinh tế học” của David Begg, Stanley Fischer và Ruchger Dornbusch - NXB Giáo dục 1995(Trường đại học kinh tế quốc dân ) 2) Sách “Ngân hàng Việt Nam quá trình xây dựng và phát triển” NXB chính trị quốc gia - 1996 ( Ngân hàng nhà nước Việt Nam ) 3) Sách “ Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường” Dịch và biên soạn : Phó tiến sĩ Nguyễn Đức Thảo. NXB Mũi Cà Mau . 4) Sách “ Tiền tệ , tín dụng và ngân hàng” Chủ biên: Giáo sư - Tiến sĩ Lê Văn Tư NXB Thống kê 1997 5) Giáo trình “ Kinh tế học tiền tệ - ngân hàng”- khoa kinh tế - Trường ĐHKHXH và NV. 6) Tạp chí “Kinh tế 96-97 Việt Nam và thế giới” “Kinh tế 97-98 Việt Nam và thế giới” của thời báo kinh tế Việ Nam 7) Báo: “Thời báo kinh tế Việt Nam”, “Đầu tư” “Tài chính và thị trường” (Bộ tài chính - Thời báo tài chính Việt Nam). mục lục lời mở đầu Chương I : Vai trò của NHTW trong nền kinh tế thị trường. 1. Khái niệm NHTW 2. Chức năng, nhiệm vụ của NHTW trong nền kinh tế thị trường 2.1. NHNN là Ngân hàng phát hành 2.2. Ngân hàng của Chính Phủ 2.3. Ngân hàng của các Ngân hàng 2.4. NHTW và việc thực hiện chính sách tiền tệ Chương II: NHNN Việt Nam trong sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước. 1. Sự cần thiết phải xây dựng các thể chế tài chính hữu hiệu trong nền kinh tế chuyển tiếp. 2. Vai trò của khu vực Ngân hàng. 3. Việt Nam trong quá trình đổi mới và hoàn thiện hệ thống Ngân hàng Chương III : Một số giải pháp củng cố và hỗ trợ vai trò của NHTW trong giai đoạn hiện nay. 1. Một số vấn đề còn tồn tại trong hoạt động của NHTW. 2. Một số giải pháp khắc phục Kết Luận Tài liệu tham khảo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0894.doc
Tài liệu liên quan