Đề tài Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

Việt Nam tiến hành CNH, HĐH trong hoàn cảnh khó khăn về mọi mặt, trong đó, một vấn đề nổi lên tương đối gay gắt là thiếu vốn cho đầu tư. Huy động vốn thực sự trở thành vấn đề cốt yếu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên, dựa vào tính chất, đặc điểm của từng thời kỳ cụ thể để lựa chọn, huy động, sử dụng nguồn vốn nào là việc làm đòi hỏi phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng vì nó ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ, kết quả, tính bền vững của sự nghiệp CNH, HĐH cũng như sự phát triển của đất nước. Thời kỳ đầu tiến hành sự nghiệp CNH, HĐH khi khả năng tích luỹ và huy động vốn trong nước còn khó khăn, khi mà trình độ tổ chức cũng như các điều kiện để sử dụng vốn vay, còn kém hiệu quả thì vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò như lực khởi động cho quá trình tiến hành CNH, HĐH. Từ khi thực hiện chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài cho đến nay, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam bình quân 1737,7 triệu USD/năm. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các dự án đầu tư nước ngoài bình quân tại Việt Nam thời kỳ 1991-2000 là 17423,2 tỷ đồng/năm. Đối với một nền kinh tế nhỏ như nước ta thì đây là một lượng vốn đầu tư không nhỏ, nó thực sự là nguồn vốn góp phần tạo ra sự chuyển biến không chỉ về quy mô đầu tư mà điều quan trọng hơn là nguồn vốn này có vai trò như chất xúc tác, điều kiện để việc đầu tư của nước ta đạt được hiệu quả nhất định. Nếu so với tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản xã hội thời kỳ 1991-2000 thì vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các dự án nước ngoài chiếm 24,8% và lượng vốn đầu tư này có xu hướng tăng lên qua các năm. Vốn đầu tư xây dựng từ các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 1991-2000 là 174232 tỷ đồng gần bằng 50% tổng số vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước là 354203 tỷ đồng. Tìm kiếm lĩnh vực kinh tế và địa bàn đầu tư có khả năng thu lợi nhuận cao là đặc điểm bẩn chất nhất đầu tư trực tiếp nước ngoài. Do đó, trong khi các nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn những ngành sản xuất, những địa bàn kinh doanh thuận lợi để đầu tư thì chính phủ ta có thể dành số vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước để tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư vào những ngành trọng điểm và những lĩnh vực thấy không nên có yếu tố nước ngoài, cũng như đầu tư vào những địa bàn khó khăn nhằm tạo ra sự phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng của đất nước. Nói cách khác, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn bổ xung quan trọng giúp Việt Nam phát triển một nền kinh tế cân đối, bền vững theo yêu cầu của công cuộc CNH, HĐH.

doc70 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1215 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g 335 3693,1 10 Mỹ 143 1451,5 4 Nhật Bản 333 3601,7 11 ôxtrâylia 107 1189,5 5 Hàn Quốc 383 3329,0 12 Hà Lan 46 1159,9 6 Pháp 168 2582,7 13 Malaixia 107 1156,6 7 Quầnđảo Vigin 133 1940,0 14 Thái Lan 145 1127,7 Nguồn: Niên giám thống kê 2001, NXB Thồng kê Hà nội-2001 Qua bảng trên cho thấy chúng ta đang có điều kiện để tiếp cận được với các trung tâm lớn về kinh tế, có kỹ thuật và công nghệ cao. Có thể nói rằng, trong thời gian qua môi trường đầu tư của Việt Nam đã có những thay đổi thuận lợi hơn cho việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. 2.4. Đầu tư nước ngoài phân theo vùng lãnh thổ Với mong muốn thu hút hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các vùng nên chính phủ ta đã có những chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào những vùng có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tuy vậy, cho đến nay mặc dù các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có mặt trên 61 tỉnh, thành phố trong cả nước song mức độ phân bố các dự án rất không đồng đều, tập trung chủ yếu ở những tỉnh thành phố lớn như: thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bà rịa-Vũng Tầu, Bình Dương và Hải Phòng. Tổng số vốn đăng ký của 6 tỉnh và thành phố này chiếm 75% số dự án và 76% số vốn đầu tư trong cả nước. Nếu thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là hai thành phố đi đầu trong cả nước về thu hút vốn đầu tư nước ngoài và đã chiếm tới 50,3% tổng số vốn đầu tư nước ngoài của cả nước thì 10 địa phương có điều kiện thuận lợi cũng chiếm tới 87,8%: TP. Hồ Chí Minh với số vốn đăng ký 9991,3 triệu USD (chiếm 28,3% tổng số vốn đăng ký của cả nước) số liệu tương ứng của các địa phương tiếp theo như sau: Hà Nội:7763,5 (22%); Đồng Nai: 3439 (9,7%); Bà rịa-Vũng Tầu: 2515,9 (7,1%); Bình Dương:1677,9 (4,8%); Hải Phòng:1507,7 (4,3%); Quảng Ngãi 1333 (3,8%); Quảng Nam- Đà Nẵng: 1013,7(2,9%); Quảng Ninh:872,8 (2,5%); Lâm Đồng: 866 (2,4%). Qua số liệu trên có thể thấy rằng xu hướng tập trung đầu tư nước ngoài ở các tỉnh, thành phố lớn ít có thay đổi qua hơn một thập kỷ qua. Nguyên nhân chủ yếu là do điều kiện về cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, thị trường tiêu thụ và thu nhập ở các tỉnh thành phố lớn thuận lợi hơn và phát triển hơn so với các tỉnh thành phố khác. Như vậy, đây cũng là một trong những vấn đề rất cần được chú ý quan tâm điều chỉnh trong thời gian tới để đảm bảo một sự đồng bộ trong đầu tư nước ngoài vào tất cả các tỉnh thành phố. 2.5. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam phân theo ngành kinh tế Phân tích cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế cho thấy: Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có mặt ở hầu khắp mọi ngành của nền kinh tế quốc dân và có sự chuyển dịch phù hợp với yêu cầu của công cuộc CNH,HĐH đất nước. Nếu giai đầu các dự án đầu tư tập trung chủ yếu vào xây dựng khách sạn, nhà hàng, văn phòng cho thuê thì tới nay chủ yếu tập trung vào các ngành sản xuất vật chất. Cụ thể tính chung cho giai đoạn 1998-2002 nước ta đã thực hiện 4447 dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng số vốn đăng ký là 43194 triệu USD; trong đó, ngành Công nghiệp với 2698 dự án có tổng vốn đăng ký đạt 19422,4 triệu USD là lĩnh vực chiếm tỷ trọng lớn nhất cả về số dự án lẫn vốn đầu tư (45%), tiếp đến là lĩnh vực khách sạn-du lịch, xây dựng, và các dịch vụ khác. (Số liệu về một số ngành khác xem bảng 7) Bảng7: Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép 1988-2002 phân theo ngành kinh tế. Ngành kinh tế Số dự án Tổng vốn đăng ký (Triệu USD) Tỷ lệ% theo vốn đăng ký Nông, lâm nghiệp 354 1433,3 3,32 Thuỷ sản 114 380,4 0,88 Công nghiệp 2698 19422,4 45,00 Xây dựng (**) 330 4709,8 10,90 Khách sạn, du lịch 228 5013,5 11,60 GTVT, bưu điện 158 3676,8 8,51 Tài chính, Ngân hàng 35 248,1 0,57 Văn hóa, y tế, giáo dục 140 607,6 1,41 Các ngành dịch vụ khác* 390 7702,1 17,81 Tổng 4447 43194,0 Nguồn: Niên giám thống kê 2002 * Bao gồm cả xây dựng văn phòng và căn hộ ** Bao gồm cả xây dựng khu chế xuất Qua bảng trên ta nhân thấy rằng, dòng vốn đầu tư vào Việt Nam trong những năm qua chủ yếu tập trung vào những ngành dễ thu lợi nhuận, thời gian thu hồi vốn nhanh, có thị trường tiêu thụ trong nước lớn…Đối với ngành nông nghiệp mặc dù có số dự án khá lớn 354 dự án chiếm gần 8% trong tổng số dự án nhưng tổng số vốn đầu tư lại thấp điều đó chứng tỏ những dự án đầu tư vào lĩnh vực này có quy mô nhỏ (4 triệu USD/1dự án); tình hình này đặt ra những vấn đề cấn suy nghĩ và điều chỉnh trong thời gian tới. Sở dĩ như vậy vì nước ta vẫn được coi là một nền nông nghiệp lúa nước với đa số dân cư hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Vì thê nông nghiệp là một trong những lĩnh vực có nhiều tiềm năng mà chúng ta chưa có điều kiện khai thác. Và từ đặc điểm phân bố dân cư, lao động, việc làm như hiện nay thì sự thành công trong phát triển nông nghiệp nông thôn là một trong nhưng chỉ tiêu cơ bản để đánh giá mức độ thành công của sự nghiệp CNH-HĐH. Trên cơ sở đó, trong thời gian tới chúng ta cần có nhưng biện pháp thích hợp hơn nữa nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoai vào lĩnh vực nông nghiệp, từ đó phát huy những lợi thế vốn có của ngành nông nghiệp. 2.6. Về các hình thức đầu tư Nếu phân tích theo hình thức đầu tư có thể thấy được sự biến đổi của bức tranh đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trước đây, hình thức liên doanh là hình thức phổ biến nhất và đóng vai trò chủ đạo, chiếm 61% số dự án và 70% vốn đăng ký thì giờ đây hình thức này có xu hướng ngày càng giảm; cùng với nó là sự tăng lên của hình thức 100% vốn nước ngoài. Sở dĩ như vậy là do thời kỳ đầu, các thủ tục để triển khai thực hiện dự án còn đòi hỏi nhiều giấy tờ, lại phải thông qua nhiều khâu rất phức tạp, trong khi đó người nước ngoài còn ít hiểu biết về các điều kiện kinh tế- xã hội và pháp luật Việt Nam, họ thường gặp khó khăn trong giao dịch, quan hệ cùng một lúc với khá nhiều cơ quan chức năng của Việt Nam để có được đầy đủ các điều kiện triển khai xây dựng cơ bản cũng như tổ chức thực hiện dự án đầu tư. Trong hoàn cảnh như vậy, đa số các nhà đầu tư nước ngoài thích lựa chọn hình thức liên doanh để bên đối tác Việt Nam đứng ra lo các thủ tục pháp lý cho sự hoạt động của doanh nghiệp hiệu quả hơn. Sau một thời gian hoạt động trong môi trường đầu tư ở Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài có điều kiện hiểu biết hơn về pháp luật, chính sách, phong tục tập quán và cách thức hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Sự am hiểu của các nhà đầu tư được nâng lên trong điều kiện các thủ tục cấp giấy phép của Việt Nam đang từng bước được cải thiện theo hướng ngày càng đơn giản hơn trước, và cùng với sự xuất hiện những tổ chức tư vấn giúp các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các thủ tục triển khai, tổ chức sản xuất kinh doanh của dự án tương đối có hiệu quả. Vì vậy, nhu cầu có đối tác Việt Nam đê tiến hành các thủ tục, đối với nhà đầu tư nước ngoài đã giảm đi một cách đáng kể. ( Bảng 8) Bảng 8: Đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo hình thức đầu tư 1988-2002 Đơn vị : tỷ USD Hình thức đầu tư Số dự án còn hiệu lực Vốn đầu tư đăng ký Vốn đầu tư thực hiện 100% vốn nước ngoài 2615 15,45 7,11 Liên doanh 1694 27,13 10,91 Hợp đồng hợp tác KD 265 5,72 5,6 BOT, BTO, BT 7 1,94 0,22 Từ bảng số liệu thấy rằng hình thức liên doanh hiện nay chỉ còn chiếm gần 37% tổng số dự án giảm 24% so với trước đây, trong khi đó hình thức 100% vốn nước ngoài lại có số dự án tăng lên chiếm 57% tổng số. Còn hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh đến nay chỉ chiếm gần 6% số dự án và 11,4% số vốn đầu tư, chủ yếu trong các lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí và dịch vụ viễn thông, in ấn và phát hành báo chí. Đối với phương thức “ Xây dựng-kinh doanh-chuyển giao”(BOT) thì mới được bắt đầu từ khi có Nghị định 87/CP ngày 23/11/1993 của Chính phủ nhằm khuyến khích FDI xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tuy vậy chưa có nhiều dự án. Đến nay hình thức này mới có 7 dự án với số vốn đăng ký 1,94 tỷ USD bởi lẽ đây là hình thức mới, phía Việt Nam còn ít kinh nghiệm, hơn nữa điều kiện thực hiện lại phức tạp… Qua nghiên cứu các hình thức đầu tư cho thấy: Các hình thức ĐTNN hiện nay vẫn chưa đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, cần tiếp tục nghiên cứu mở rộng, bổ sung thêm các hình thức mới như cho phép thành lập các công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài… 3. Tác động tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với CNH, HĐH ở Việt Nam. Nếu xuất phát từ một số khía cạnh cụ thể để xem xét, phân tích, đánh giá thì hiện nay vẫn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau khi nhận định về tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Dẫu biết rằng bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có mặt tích cực, mặt tiêu cực, nhưng trên bình diện tổng thể ta có thể khẳng định rằng: trong điều kiện nước ta hiện nay thì đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò như lực khởi động và như một yếu tố đảm bảo cho cả quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá củaViệt Nam. Nếu xem xét tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với một số vấn đề hiện đang được xem là những yếu tố, điều kiện cơ bản nhất của sự nghiệp CNH, HĐH ta có thể khái quát dưới bốn tác động chính như sau: 3.1. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn quan trọng và một trọng những điều kiện tiên quyết để Việt Nam thực hiện và đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Việt Nam tiến hành CNH, HĐH trong hoàn cảnh khó khăn về mọi mặt, trong đó, một vấn đề nổi lên tương đối gay gắt là thiếu vốn cho đầu tư. Huy động vốn thực sự trở thành vấn đề cốt yếu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên, dựa vào tính chất, đặc điểm của từng thời kỳ cụ thể để lựa chọn, huy động, sử dụng nguồn vốn nào là việc làm đòi hỏi phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng vì nó ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ, kết quả, tính bền vững của sự nghiệp CNH, HĐH cũng như sự phát triển của đất nước. Thời kỳ đầu tiến hành sự nghiệp CNH, HĐH khi khả năng tích luỹ và huy động vốn trong nước còn khó khăn, khi mà trình độ tổ chức cũng như các điều kiện để sử dụng vốn vay, còn kém hiệu quả thì vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò như lực khởi động cho quá trình tiến hành CNH, HĐH. Từ khi thực hiện chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài cho đến nay, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam bình quân 1737,7 triệu USD/năm. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các dự án đầu tư nước ngoài bình quân tại Việt Nam thời kỳ 1991-2000 là 17423,2 tỷ đồng/năm. Đối với một nền kinh tế nhỏ như nước ta thì đây là một lượng vốn đầu tư không nhỏ, nó thực sự là nguồn vốn góp phần tạo ra sự chuyển biến không chỉ về quy mô đầu tư mà điều quan trọng hơn là nguồn vốn này có vai trò như chất xúc tác, điều kiện để việc đầu tư của nước ta đạt được hiệu quả nhất định. Nếu so với tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản xã hội thời kỳ 1991-2000 thì vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các dự án nước ngoài chiếm 24,8% và lượng vốn đầu tư này có xu hướng tăng lên qua các năm. Vốn đầu tư xây dựng từ các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 1991-2000 là 174232 tỷ đồng gần bằng 50% tổng số vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước là 354203 tỷ đồng. Tìm kiếm lĩnh vực kinh tế và địa bàn đầu tư có khả năng thu lợi nhuận cao là đặc điểm bẩn chất nhất đầu tư trực tiếp nước ngoài. Do đó, trong khi các nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn những ngành sản xuất, những địa bàn kinh doanh thuận lợi để đầu tư thì chính phủ ta có thể dành số vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước để tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư vào những ngành trọng điểm và những lĩnh vực thấy không nên có yếu tố nước ngoài, cũng như đầu tư vào những địa bàn khó khăn nhằm tạo ra sự phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng của đất nước. Nói cách khác, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn bổ xung quan trọng giúp Việt Nam phát triển một nền kinh tế cân đối, bền vững theo yêu cầu của công cuộc CNH, HĐH. Không những thế, hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài còn tạo ra một trong những nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài( không kể dầu khí) đã nộp ngân sách nhà nước thời kỳ 1994-2000 với số tiền là 1749 triệu USD. Cụ thể là, năm 1994:128 triệu USD, 1995: 195triệu USD, 1996: 263 triệu USD, 1997:315 triệu USD, 1998:317 triệu USD, 1999: 271 triệu USD, 2000:260 triệu USD. Có thể nói, đây cũng là một nguồn thu ngoại tệ quan trọng góp phần quan trọng trong việc làm cân đối cán cân thanh toán quốc tế, trong đó có cả việc mua sắm các thiết bị phục vụ cho công cuộc CNH, HĐH đất nước. Tỷ lệ đóng góp của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong GDP tăng dần qua các năm. Về định tính, sự hoạt động của nguồn vốn có nguồn gốc từ đầu tư trực tiếp nước ngoài như là một trong những động lực ghây phản ứng dây chuyền thúc đẩy sự hoạt động của đồng vốn trong nước. Một số chuyên gia kinh tế tính toán rằng, cứ một đồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động sẽ làm cho bốn đồng vốn trong nước hoạt động theo. Như vậy, có thể nói, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những tác nhân có khả năng làm cho việc hình thành tại Việt Nam một thị trường vốn thực sự có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Bảng 9: Tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tổng vốn đầu tư xây dựng thực hiện toàn xã hội thời kỳ 1991-2000. Năm Tổng số vốn đầu tư (tỷ đồng) Vốn trong nước (tỷ đồng) Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài Số lượng (tỷ đồng) So với tổng số % 1991 13471 11545 1926 14.3 1992 24737 19552 5185 21 1993 42177 31556 10621 25.2 1994 54296 37796 16500 30.4 1995 68048 46048 22000 32.3 1996 79367 56667 22700 28.6 1997 96870 66570 30300 31.3 1998 97336 73036 24300 25 1999 105200 86300 18900 18 2000 120600 98200 21800 18.2 Nguồn : Niêm giám thống kê 2001; thời báo kinh tế 3.2. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần tạo ra những năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới, sản phẩm mới, công nghệ mới, phương thức sản xuất- kinh doanh mới,làm cho cơ cấu của nền kinh tế nước ta từng bước chuyển biến theo hướng của một nền kinh tế công nghiệp hoá, thị trường, hiện đại. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một nhân tố quan trọng và đang ngày càng khẳng định rõ vai trò của mình trong việc đóng góp vào sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn có chỉ số phát triển cao hơn chỉ số phát triển của các thành phần kinh tế khác, và cao hơn hẳn chỉ số phát triển chung của cả nước. Năm 1995 chỉ số phát triển của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là 114.98% thì chỉ số phát triển chung của cả nước là 109.54%.Số liệu tương ứng của năm 1996 là 119.42% và 109.34%, 1997 là 120.75% và 108.15%, 1998 là 119.1% và 105.8%, 1999 là 117.6% và 104.8%, 2000 là 109.9% và 106.7%. Tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tíêp nước ngoài trong tổng sản phẩm trong nước cũng có xu hướng tăng lên qua các năm tương đối ổn định tỷ trọng này đạt 6.3% năm 1995; 7.39%-1996; 9.07%-1997; 10.03%- 1998; 12.2%-1999; 13.3%-2000; 13.76%-2001; 13.9%-2002. Đối với ngành công nghiệp Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần tích cực trong việc chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng CNH, HĐH, phát triển lực lượng sản xuất. Nếu trong những năm đầu, FDI chủ yếu tập trung vào dịch vụ phi sản xuất như khách sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê thì trong những năm gần đây, FDI chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp sản xuất vật chất. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không những có tỷ trọng cao mà còn có xu hướng tăng lên đáng kể trong tổng giá trị sản xuất của toàn ngành. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn tạo ra hơn 25% giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp, tỷ trọng giá trị sản xuất của khu vực này đạt 25.1%(1995); 26.73%(1996); 28.9%(1997); 31.98%(1998); 34.73%(1999); 35.5%(2000). Tốc độ tăng trưởng của khu vực công nghiệp đạt mức khá trong những năm qua, năm 1996 đạt 21.7%; 1997 đạt 23.2%; 1998 là 23.3%; 2000là 20%; 2001đạt 14.6%; 2002 đạt 14.8%. Cùng với đầu tư trong nước, dầu tư nước ngoài đã góp phần trong việc hình thành nên hệ thống 67 khu công nghiệp, khu chế xuất trong cả nước góp phần phân bố lại công nghiệp một cách hợp lý, xử lý môi trường tốt hơn, nâng cao hiệu quả đầu tư và hiệu lực quản lý. Hơn nữa, nó góp phần vào quá trình đô thị hoá, hình thành khu dân cư mới, tạo việc làm cho hơn 200 nghìn lao động địa phương và hàng chục ngàn lao động dịch vụ khác. ở các thành phố lớn, việc hình thành các khu công nghiệp , khu chế xuất đã tạo điều kiện cho các địa phương này tách sản xuất ra khỏi dân cư, giảm thiểu ô nhiễm môi trường đô thị. Sự đóng góp của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã chi phối đáng kể quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta- tỷ trọng công nghiệp tăng lên và đang ngày càng chiếm ưu thế trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài với vị của công nghiệp thể hiện tương đối rõ nét trong thực tế vừa qua. Sự chuyển biến về tỷ trọng công nghiệp trong GDP gần như đồng biến với tỷ trọng GDP của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong GDP của ngành công nghiệp. Điều này chứng tỏ, trong số các nhân tố ảnh hưởng, đầu tư trực tiếp nước ngoài không những có vai trò rất quan trọng trong phát triển công nghiệp, mà còn có tác động tích cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu nước ta theo hướng hình thành một cơ cấu kinh tế CNH, HĐH. Đầu tư nước ngoài góp phần hình thành một số ngành công nghiêpợ mới, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế như khai thác- chế biến dầu khí, sản xuất, lắp ráp ô tô, sản phẩm điện tử… Trong ngành công nghiệp khai thác, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang có vị trí chủ đạo, với tỷ trọng 79% giá trị sản xuất của toàn ngành. Tiêu biểu mức tỷ trọng ở một số năm như sau: năm 1995: 77.8%; 1996: 78%; 1997: 77.7%; 1998: 81.4%. Đặc biệt, giá trị sản xuất của ngành khai thác dầu thô và khí tự nhiên chủ yếu do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra với cá số liệu cụ thể như sau: năm 1995:99.7%; 1996: 99.7%; 1997: 99.8%; 1998: 99.8%. Trong ngành công nghiệp chế biến, tỷ trọng giá trị sản xuất của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 22% và có xu hướng ngày càng tăng, từ 18.1% (1995); 20.1%(1996); 22.9%(1997); đến 25.3%( 1998). Trong đó, ở một số ngành quan trọng, tỷ trọng giá trị sản xuất của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như sau: 71% trong gnành sản xuất và sửa chữa xe có động cơ( trong đó 100% trong sản xuất và lắp ráp xe máy,ô tô); 44.3% trong ngành sản xuất sản phẩm bằng da và giả da; 100% trong ngành sản xuất tụ điện, máy in, máy giặt, tủ lạnh, điều hoà không khí, đầu video, sản xuất sợi PE, PES; 67.6% trong ngành sản xuất radio, tivi, thiết bị truyền thông; 31% trong ngành sản xuất kim loại; 22.2% trong ngành sản xuất điện, điện tử; 20.1% trong ngành sản xuất hoá chất; 19.1% trong ngành may mặc; 18.6% trong ngành dệt. Các công nghệ hiện đang sử dụng ở các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành công nghiệp được đánh giá là hiện đại hơn các công nghệ vốn có của nước ta. Cụ thể, các công nghệ đang sử dụng trong lĩnh vực dầu khí, viễn thông, …đều thuộc loại công nghệ hiện đại và các công nghệ này thực sự đã góp phần tạo nên bước ngoặt tích cực trong quá trình phát triển kinh tế của nước ta. Đa số công nghệ sử dụng trong các nghàmh công nghiệp điện tử, hoá chất, ô tô, xe máy, vật liệu xây dựng đều là những dây chuyền tự động tương đối hiện đại.Một số sản phẩm vi mạch, điện tử,..được sản xuất bằng công nghệ tiên tiến. Các khách sạn, văn phòng cho thuê đều được trang bị thiết bị hiện đại tiêu chuẩn quốc tế. Đối với ngành nông nghiệp Đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực nâng cao năng lực sản xuất trong ngành nông nghiệp, chuyển giao cho ngành nhiều giống cây, giống con, tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao, góp phần thúc đẩy quá trình đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp và tăng khả năng cạnh tranh của nông, lâm sản. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông -lâm- ngư nghiệp theo yêu cầu của quá trình CNH, HĐH đất nước. Nếu trước đây, đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung vào chế biêdns gỗ, lâm sản thì gần đây, nhiều dự án đã đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất giống, trồng trọt, sản xuất thức ăn chăn nuôi, trồng rừng, sản xuất nguyên liệu giấy…Các dự án đầu tư trực tếp nước ngoài trong nông- lâm- ngư nghiệp đã góp phần cải thiện đáng kể đời sống của đông đảo người dân Việt Nam cư trú ở khu vực nông thôn, góp phần đầu tư, cải thiện cơ sở hạ tầng vốn rất lạc hậu, yếu kém ở nhiều địa phương, tạo thêm nhiều việc làm ở nông thôn, tạo ra khả năng tiếp cận những công nghệ tiên tiến cho sản xuất nông- lâm- ngư nghiệp. Sự xuất hiện của nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã trở thành nhân tố tác động mạnh làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất- kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam theo hướng tích cực và thích nghi với nền kinh tế thị trường. Để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp có vốn đàu tư nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã phải chủ động trong hạch toán sản xuất, tích cực đầu tư, cải tiến máy móc thiết bị, quảng cáo sản phẩm... Đầu tư nước ngoài thực sự đã trở thành lực lượng có điều kiện để giải quyết những bài toán khó mà các nhà đầu tư trong nước thường gặp phải và khó giải quyết. Khi đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động, phát huy hiệu quả, không những sẽ tạo ra môi trường thuận lợi, thu hút các nhà đầu tư trong nước bỏ vốn ra sản xuất, kinh doanh mà còn cho du nhập vào Việt Nam các phương thức kinh doanh mới trong việc tiếp thị, mua bán hàng hoá dịch vụ, tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường cũng như hình thành một số thị trường mới như thị trường lao động thị trường dịch vụ…Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, một mặt đã tạo ra hàng loạt các doanh nghiệp có nhiều tiềm lực và khả năng hoạt động trên thị trường đất Việt Nam, Buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh để trưởng thành.Mặt khác, chúng cung ứng cho thị trường nội địa nhiều hàng hoá, dịch vụ, góp phần làm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của sản xuất và đời sốngnhân dân cũng như đáp ứng cho thị trường nước ta những hàng hoá trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Tuy nhiên, về lâu dài, nếu để các doanh nghịêp có vốn đầu tư nước ngoài duy trì sản xuất theo hướng thay thế nhập khẩu thì rất dễ làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chiến lược CNH, HĐH. Nhưng trong điều kiện khó khăn hiện nay, thì đây vừa là nguồn bổ xung hàng hoá quan trọng, vừa là điều kiện tốt để tiết kiệm được lượng ngoại tệ mà trước đây phải dùng để nhập khẩu hàng hoá. 3.3. Hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra được một số lượng lớn chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp có thu nhập cao, đồng thời góp phần hình thành cơ chế thúc đẩy việc nâng cao năng lực cho người lao động Việt Nam. Một trong những mục tiêu đặt ra khi thực hiện chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nước ta là tạo ra nhiều việc làm cho người lao động tronh nước. Đến nay, ta thấy đây là mục tiêu mà chúng ta đã thu hút được kết quả cao hơn so với một số mục tiêu khác. Đến năm 2001, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra cho người lao động Việt Nam 380000 chỗ làm việc trực tiếp và khoảng hơn một triệu lao động gián tiếp ( bao gồm công nhân xây dựng và các ngành sản xuất, dịch vụ phụ trợ có liên quan). Số lao động làm việc trong các hoạt động có liên quan đến hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài bằng khoảng 39%-405 tổng số lao động bình quân hàng năm trong khu vực nhà nước. Thu nhập bình quân của lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 70 USD / tháng, tức bằng khoảng 150% mức thu nhập bình quân của lao động trong khu vực nhà nước. Đây là yếu tố hấp dẫn đối với lao động Việt Nam, do đó đã tạo ra sự cạnh tranh nhất định trên thị trường lao động. Tuy nhiên, lao động làm mviệc trong các doanh nghiệp này đòi hỏi cường độ lao động cao, kỷ luật lao động nghiêm khắc…đúng với đòi hỏi về lao động trong nền sản xuất hiện đại.Trong một số ngành nghề còn đòi hỏi người lao động phải có trình độ cao về tay nghề, học vấn, ngoại ngữ... Sự hấp dẫn về thu nhập cùng với những đòi hỏi cao về trình độ là những đòi hỏi buộc người lao động Việt Nam phải có ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao trình độ và tay nghề để có thể đủ điều kiện được tuyển chọn vào các doanh nghiệp này. Các công nhân làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đều được bồi dưỡng trưởng thành và tạo nên một đội ngũ công nhân lành nghề, đáp ứng được yêu cầu đối với người lao động trong nền sản xuất tiên tiến. Sự phản ứng dây chuyền, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, với các doanh nghiệp trong nước là điều kiện thúc đẩy lực lượng lao động trẻ tự đào tạo một cách tích cực hơn,hiệu quả hơn cũng như góp phần hình thành cho người lao động Việt Nam nói chung một tâm lý tuân thủ nền nếp làm việc theo tác phong công nghiệp hiện đại. Về đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh: Khi các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài bắt đầu hoạt động, các nhầ đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam những chuyên gia giỏi, đồng thời áp dụng các chế độ, quản lý, tổ chức, kinh doanh hiện đại nhằm thực hiện dự án hiệu quả. Đây chính là điều kiện tốt một mặt để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận, học tập, nâng cao trình độ kinh nghiệm quản lý; mặt khác, để liên doanh có thể hoạt động tốt, các nhà đầu tư nước ngoài cungc phải đào tạo cán bộ quản lý cũng như lao động Việt Nam đến một trình độ đủ để đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật, công nghệ đang được sử dụng. Đến nay, chúng ta đã có khoảng 6000 cán bộ quản lý, 25000 cán bộ kỹ thuật đang làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Họ chủ yếu là những kỹ sư trẻ, có trình độ, có thể cùng các chuyên gia nước ngoài quản lý doanh nghiệp, tổ chức sản xuât, kinh doanh có hiệu quả và đủ khả năng tiếp thu nhanh chóng những công nghệ hiện đại, thậm chí cả những bí quyết kỹ thuật. 3.4. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là nhân tố có sức mạnh thúc đẩy quá trình mở cửa và hội nhập của nền kinh tế Việt Namvới thế giới. Đồng thời, nó là một trong những phương thức đưa hàng hoá sản xuất tại Việt Nam xâm nhập thị trường nước ngoài một cách có lợi nhất… Trong xu thế quốc tế hoá và khu vực hoá các hoạt động kinh tế hiện nay, mức độ thành công của mở cửa và hội nhập với thế giứi sẽ có tác động chi phối mạnh mẽ đến sự thành công của công cuộc đổi mới, đến kết quả của sự nghiệp CNH, HĐH cũng như tốc độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Thông qua thực hiện các dự án đầu tư, các nhà đầu tư nước ngoài trở thành “cầu nối” tạo điều kiện dể Việt Nam nhanh chóng tiếp cận với thị trường thế giới, mở rộng bạn hàng và thị phần ở nước ngoài, đồng thời giúp Việt Nam nhanh chóng tiếp cận và tiến hành hợp tác được với nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế, cũng như những trung tâm kinh tế, kỹ thuật, công nghệ mạnh của thế giới. Thật vậy, một cách trực tiếp hay gián tiếp, qua các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, sản phẩm của Việt Nam đã có điều kiện toả ra khắp thị trường thế giới, thúc đẩy sản xuất trong nước, và ngược lại, sản phẩm của nhiều nước cũng được nhập vào Việt Nam để đáp ứng nhu ccâu fsản xuất và tiêu dùng trong nước, do đó, đảm bảo nguồn nguyên vật liệu với giá cả phải chăng. Nói cách khác, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giúp Việt Nam nhanh chóng tìm kiếm được thị trường mới ở thị trường khu vực 2 ngay sau khi Liên Xô (cũ )và các nước Đông Âu tan rã. Hỗu hết các nước có nhiều dự án và nhiều vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam cũng đồng thời là bạn hàng lớn trong quan hệ thương mại với Việt Nam như Singapore hay Nhật Bản…Điều đó chứng tỏ đầu tư trực tiếp nước ngoài và ngoại thương có quan hệ tương hỗ với nhau. Nhờ có lợi thế trong hoạt động thị trường thế giới nên tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu ( KNXK ) của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cao hơn tốc độ tăng KNXK của cả nướcvà cao hơn hẳn KNXK của các doanh nghiệp trong nước. Cụ thể: năm 1996 KNXK của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 78.6% so với năm trước; thì KNXK của cả nước ta tăng 33.2%; còn KNXK của các doanh nghiệp trong nước chỉ tăng 29.5%. Số liệu tương ứng của năm 1997 là 127.2%; 26.6%; 14%. Năm 1998 là 10.7%; 234% và 1.8%. Năm 1999 là 30.2%; 23%và 21.1%. Năm 2000 là 29.6% và 24%. Năm 2002 là 7.9% và 4.5%. Về số tuyệt đối thì KNXK của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tăng một cách đáng kể qua các năm. Cụ thể: Bảng: Kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài: ( đơn vị: triệu USD) Năm 1992 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 KNXK 52 336 786 1790 1982 2547 3300 3560 Về tương đối, tỷ trọng KNXK của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong tổng KNXK của cả nước đang có xu hướng tăng lên. Bảng: Tỷ trọng KNXK của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tổng KNXK của cả nước ( đơn vị: %) Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Tỷ trọng 8.1 10.8 19.5 21.1 22.3 23.1 23.6 Về chủng loại xuất khẩu, hàng hoá xuất khẩu của khu vực này có ưu thế hơn hăn so vói doanh nghiệp trong nước ở chôc chúng chủ yếu là hàng công nghiệp chề biến và chế tạo, trong đó có nhiều mặt hàng có công nghệ cao như: bảng mạch in điện tử, máy thu hình, video… 4. Một số tồn tại Hoạt động đầu tư nước ngoài trong thời gian vừa qua đã thực sự có tác động tích cực, có vị trí quan trọng, góp phần làm chuyển biến nền kinh tế Việt Nam theo hướng một nền kinh tế CNH, ảnh hưởng tích cực của nó đối với quá trình CNH, HĐH đang ngày càng rõ nét và lan rộng. Tuy nhiên, trong quá trình thu hút đầu tư nước ngoài nhằm phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta vẫn nổi lên một số tồn tại yếu kém chủ yếu như sau: 4.1. Cơ cấu vốn đầu tư trực tíêp nước ngoài còn bất hợp lý, do đó, hiệu quả đầu tư chưa cao. Cụ thể là: Đầu tư mới chỉ hướng vào những ngành nghề có khả năng mang lại lợi nhuận nhanh nên các ngành nông- lâm- thuỷ hải sản đầu tư còn quá nhỏ. Số dự án đã đầu tư thì tỷ lệ thành công không nhiều do gặp rủi ro, thiên tai, nguồn nguyên liệu không ổn định, hợp đồng dài hạn cùng có lợi cho nông dân chưa được thực hiện tốt. Chủ trương đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư nước ngoài chưa được thực hiện tốt. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mới chỉ tập trung vào những địa phương có nhiều thuận lợi như các thành phố lớn, các trung tâm công nghiệp, trong khi các tỉnh miền núi, nông thôn còn quá nhỏ bé , không đáng kể. Chỉ riêng 10/61 tỉnh, thành phố có diều kiện thuận lợi đã thu hút tới 87.8% so với tổng số đầu tư nước ngoài vào cả nước. Thành phố HCM chiếm 33.6% số dự án và 28,8% vốn đầu tư, Hà Nội chiếm 13.8% số dự án và 20% vốn đầu tư. 4.2. Hạn chế trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ Một số hợp đồng đầu tư, dự án liên doanh ở tình trạng bất hợp lý; nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã coi Việt Nam là nơi tái sử dụng công nghệ cũ thải ra, gây ô nhiễm môi trường, nhiều dây chuyền công nghệ đã được tính với giá cao hơn nhiêu so với giá thực tế, nhiều loại nguyên vật liệu, phụ tùng công nghệ nhập khẩu cũng được tính giá cao, gây thiệt hại cho phía Việt Nam và làm lợi một cách bất hợp pháp cho nước ngoài vì họ càng có điều kiện để nâng cao vốn góp, để có thể tính giá thành lên cao, giảm bớt lợi nhuận chịu thuế. 4.3. Hầu hết các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam xuất phát từ các doanh nghiệp châu á Trong đó riêng Đài Loan, Hàn Quốc,Nhật Bản, Singapore đã chiếm gần 70 % số đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta. Vì vậy, khi xảy ra khủng hoảng tài chính tiền tệ thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sụt giảm đáng kể. Hơn nữa, những nước này phần lớn thuộc nhóm NICs, rất cần chuyển giao công nghệ lạc hậu và thay thế công nghệ mới, hiện đại hơn, do vậy nước ta sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp cận công nghệ mới nếu ta không xem xét cẩn thận. 4.4. Vấn đề quy hoạch đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đến nay chúng ta còn thiếu một quy hoạch tổng thể về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thật sự khoa học, phù hợp với thực tế và đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tình trạng thiếu đồng nhất về quy hoạch cũng như cách kêu gội vốn đầu tư giữa các ngành, các địa phương đã trở thành yếu tố tác động tiêu cực, cản trở chiến lược kêu gọi, hướng dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành và vùng lãnh thổ của cả nước. Điều này chỉ có thể được khắc phục khi chúng ta có sự điều chỉnh hợp lý về lợi ích giữa các nhà đầu tư với lợi ích của đất nước; lợi ích giữa trung ương với các địa phương; giữa các vùng của đất nước. 4.5. Năng lực, trình độ cán bộ quản lý bên Việt Nam còn yếu kém Thiếu tinh thần trách nhiệm và chưa được rèn luyện về bản lĩnh và tinh thần dân tộc khiến cho việc tổ chức quản lý ở một số doanh nghiệp liên doanh khi đi vào hoạt động chưa chặt chẽ, gây thua thiệt cho phía Việt Nam. 4.6. Về môi trường đầu tư của Việt Nam Môi trường đầu tư của Việt Nam về cơ bản vẫn còn ở tình trạng: hệ thống pháp luật chưa đầy đủ, thể hiện sự ổn định chưa cao, một số văn bản dưới luật ban hành chậm so với quy định; cơ sở hạ tầng nghèo nàn; các dịch vụ hậu cần yếu kém; quá trình ra quyết điịnh phức tạp, trì trệ, kéo dài; giá nhân công tuy có thấp hơn một số nước nhưng chi phí cho các điều kiện cần thiết đối với lao động đã nhiều thứ lại hay phát sinh, năng suất lao động thấp nên nếu hạch toán đầy đủ thì thực chất giá nhân công của Việt Nam cao hơn hẳn so với nhiều nước.. Phần III Xu hướng và giải pháp thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ công cuộc CNH-HĐH ở việt nam. 1 - Phương hướng tiến hành CNH, HĐH ở nước ta trong giai đoạn tới 1.1. Việc thực hiện CNH, HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa cần phải được rút ngắn về thời gian. Quan điểm về sự rút ngắn thời gian thực hiện quá trình CNH, HĐH nhằm nhanh chóng khắc phục tình trạng tụt hậu và từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã được khẳng định ngay trong Hội nghị BCH TƯ Đảng lần thứ 7 về vấn đề CNH, HĐH. Do đó, cần có chiến lược phát triển đất nước phù hợp, vừa có bước đi tuần tự, lựa chọn công nghệ sử dụng nhiều lao động, coi trọng CNH nông nghiệp, nông thôn, vừa đi ngay vào công nghệ hiện đại, bứt phá cơ cấu ở những ngành có điều kiện phát triển. 1.2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải dựa trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của từng vùng và của đất nước. Trong cách thức rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước, vấn đề tận dụng lợi thế so sánh của nền kinh tế, nâng cao và tạo ra năng lực cạnh tranh quốc tế mới được đặt ra hết sức cấp bách. Một trong những yếu tố nổi bật trong cơ cấu nguồn lực phát triển là việc lựa chọn cơ cấu, xác định bước đi, phù hợp với thực trạng các nguồn lực có lợi thế so sánh như nguồn nhân lực dồi dào và rẻ với trình độ văn hoá, tính cần cù và sự năng động…Do đó, hướng đầu tư cần tập trung vào những ngành có hàm lượng lao động cao, áp dụng công nghệ tận dụng lao động và những ngành tạo ra năng lực cạnh tranh mới. Mặt khác, tích cực tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế để phát triển kinh tế trong nước. Tiến hành CNH, HĐH ở nước ta trong giai đoạn tới, thực chất đó là CNH hướng về thị trường, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu, cạnh tranh dựa vào lợi thế so sánh của mình, cả những lợi thế sẵn có và những lợi thế mới tạo ra. 1.3. Trong quá trình thực hiện CNH, HĐH phải coi trọng đồng thời xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Bảo đảm nền kinh tế độc lập tự chủ chính là điều kiện cơ bản để giữ vững độc lập tự chủ về chính trị một cách đầy đủ, vững chắc và lâu dài, đồng thời tạo cơ sở vật chất kỹ thuật để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong công cuộc CNH, HĐH đất nước, đặc biệt trong bối cảnh quốc tế diễn biến rất phức tạp. Tuy nhiên, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ nhưng vẫn phải đặt nó trong mối quan hệ biện chứng với mở cửa, hội nhập, hợp tác và cạnh tranh quốc tế. Thông qua hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta mới có thể phát huy được lợi thế của mình trong quá trình hợp tác và phát triển với khu vực và thế giới, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng hội nhập quốc tế. Đồng thời tranh thủ được kiến thức và kinh nghiệm quản lý, thành tựu khoa học công nghệ…trên thế giới làm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. 1.4. CNH, HĐH phải được thực hiện một cách bền vững. Phát triển kinh tế không chỉ đòi hỏi phát triển nhanh mà còn phải phát triển bền vững, dựa trên nền tảng ổn định về an ninh chính trị, xã hội, kinh tế, cùng với phát triển kinh tế. Phải đảm bảo cân đối, hợp lý giữa phát triển kinh tế với công bằng xã hội và hài hoà với môi trường thiên nhiên. Đây chính là đặc điểm của quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 2 - Giải pháp thu hút FDI tại Việt Nam theo hướng phục vụ tốt hơn cho Sự Nghiệp CNH-HĐH giai đoạn tới 2.1. Đẩy mạnh thự hiện chiến lược kinh tế mở, hoàn thiện và cụ thể hóa chiến lược thu hút FDI Thu hút đầu tư nước ngoài thuộc lĩnh vực quan hệ kinh tế quốc tế, vì vậy chỉ có thể thu hút được đối tác bên ngoài khi chúng ta thực hiện chủ trương mở cửa nền kinh tế, hòa nhập vào đời sống kinh tế thế giới, đông thời tăng cường mở cửa bên trong vì giữa mở cửa bên ngoài và mở cửa bên trong có mối quan hệ mật thiết tác động lẫn nhau; khuyến khích mọi công dân bằng nhiều hình thức thích hợp bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh; mở cửa thông tin trong va ngoài nước, đặc biệt là thông tin kinh tế, thị trường, văn hóa, xã hội, khoa học và công nghệ dưới mọi hình thức, đặc biệt là phát triển liên lạc viễn thông quốc tế. Mục tiêu thu hút FDI là nhằm tranh thủ nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý để phát triển kinh tế, song cần đặc biệt chú ý đến chiến lược thu hút FDI, coi nó là bộ phận của tổng thể nền kinh tế nói chung và chiến lược kinh tế đối ngoại nói riêng. Chiến lược thu hút FDI phải thể hiện được nội dung chủ yếu sau: Phải có sự cân nhắc, xem xét, thận trong hơn khi phê duyệt các dự án đầu tư nước ngoài. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài sắp tới phải là những dự án có tác dụng góp phần làm cho cơ cấu kinh tế nước ta chuyển dịch theo hướng tiến bộ phù hợp với quá trình CNH-HĐH, hoặc nếu không thì cũng không phải là nhân tố làm cho cơ cầu kinh tế nước ta mất cân đối. Nguồn vốn FDI phải được bố trí hợp lý trên bàn cờ chiến lược chung của các nguồn vốn. Đây là cách làm có hiệu quả, song thường khó khăn, bởi vì khi mà đa phần các nhà đầu tư nước ngoài đều đặt ra các mục tiêu cho hoạt động đầu tư là lợi nhuận, là doanh thu, là thị phần…nên khi lập dự án họ thường có sự lựa chọn rất cẩn thận về thị trường và lĩnh vực đầu tư. Đối với vấn đề này, một mặt chúng ta cần có những chính sách ưu đãi hơn với mức độ chênh lệch về các điều kiện kinh tế xã hội, cơ sở hạ tầng…của đầu tư để điều chỉnh luồng dự án đầu tư nước ngoài. Mặt khác, trong một số trường hợp, nếu là dự án thực sự phát huy tác dụng, có vai trò tích cực trong tương lai thì có lẽ chúng ta phải dành quyền ưu tiên cho sự lựa chọn của nhà đầu tư, thậm chí khi nó đòi hỏi một vài hy sinh, thiệt thòi trước mắt. Trước thực trạng này, Nhà nước cần tìm cách huy động các nguồn ODA, cùng vời vốn ngân sách nhằm chủ động đầu tư vào những vùng, những ngành kinh tế, cơ sở hạ tầng… nơi mà có ít hoặc không có đầu tư trực tiếp nước ngoài, để thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế hợp lý và có hiệu quả, cũng như tạo ra các yếu tố có sức hấp dẫn hơn của những vùng này đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặt khác, tiếp tục nghiên cứu, bổ sung các chính sách ưu đãi thoả đáng đối với cá dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, lĩnh vực công nghiệp chế biến, đâu tư vào các vùng có cơ sở hạ tầng chưa phát triển, điều kiện kinh tế còn khó khăn… 2.2. Tiếp tục xây dựng và cải thiện môi trường pháp lý về đầu tư Môi trường đầu tư của nước ngoài là tổng hòa các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội có liên quan tác động đến hoạt động đầu tư và bảo đảm khả năng sinh lời của vốn đầu tư nước ngoài. Trong điều kiện luôn có sự cạnh tranh quốc tế về thu hút đầu tư thì việc cải thiện môi trường đầu tư là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với Việt Nam. Chúng ta không phủ nhận những tiềm năng nổi bật trong công tác xây dựng và ban hành pháp luật có liên quan đến đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua. Tuy nhiên, qua thử nghiệm thực tiễn đã bộ lộ không ít sai sót và hạn chế như: hệ thống pháp luật còn chưa đồng bộ và cụ thể, thực hiện pháp luật còn tùy tiện, gây nhiều khó khăn, phức tạp cho chủ đầu tư. Nhiều văn bản pháp lý ban hành chậm, nội dung của một số điều khoản trong văn bản pháp lý còn chồng chéo, chưa thống nhất, thậm chí còn có chỗ mâu thuẫn. Vì vậy trong thời gian tới, chúng ta cần đổi mới cơ chế chính sách tạo môi trường thuận lợi cho thu hút và triển khai FDI, thể hiện ở một số nội dung sau: Đa dạng hóa hơn nữa các hình thức thu hút FDI, mở rộng lĩnh vực thu hút FDI với các hình thức thích hợp như cho phép các doanh nghiệp FDI chuyển đổi từ công ty trách nhiệm hữu hạn sang công ty cổ phần và phát hành cổ phiếu để huy động vốn mở rộng đầu tư; cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua cổphần của các doanh nghiệp trong nước, kinh doanh nhà ở; cho phép các tập đoàn có nhiều dự án đầu tư ở Việt Nam thành lập dạng công ty mẹ con… Nghiên cứu sửa đổi đồng bộ hệ thống các loại thuế, xác định mức khởi điểm chịu thuế thu nhập cá nhân đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện chính sách thay thế dần nhân viên người nước ngoài bằng người Việt Nam. Xây dựng phương án, lộ trình áp dụng thống nhất các loại giá cả dịch vụ đối với các doanh nghiệp trong và ngoài nước, chấn chỉnh việc thu hút các loại phí và lệ phí không hợp lý, tạo môi trường bình đẳng trong nước cho các doanh nghiệp trong nước cũng như doanh nghiệp có vốn FDI. 2.3. Hướng nguồn vốn FDI phục vụ thiết thực quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Hội nghị Đảng toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa 7 khẳng định: Đất nước ta đang chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, đẩy tới một bước sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đầu tư phát triển, hơn lúc nào hết là điều kiện quan trọng hàng đầu để thực hiện bước phát triển mới đó. Muốn vậy, định hướng chiến lược thu hút vốn FDI tập trung vào các lĩnh vực sau: Xây dựng những công trình then chốt trong ngành công nghiệp như dầu khí, điện, xi măng, sắt thép, hóa chất…nhằm cải thiện hạ tầng cơ sở của sản xuất, thực hiện một phần thay thế nhập khẩu, ổn định sản xuất, giảm giá đầu vào… Ưu tiên các ngành công nghiệp mũi nhọn trong công nghệ và kỹ thuật như điện, vi điện tử, tin học, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới. Khuyến khích các dự án đầu tư phát triển sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu trong các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm gắn với vùng nguyên liệu Chú trọng đến các dự án thuộc ngành công nghiệ dịch vụ có tỷ suất sinh lợi cao như du lịch, khách sạn, sửa chữa tầu biển, dịch vụ sân bay, cảng khẩu, kinh doanh bất động sản… Quan tâm tới các dự án sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu, tài nguyên sẵn có của Việt Nam. Việc thu hút vốn FDI cần hướng vào một số vùng, địa phương, đặc biệt là các vùng, địa bàn trọng điểm quốc gia có điều kiện thuận lợi về môi trường đầu tư để tạo cơ hội phát triển kinh tế có sức lan tỏa và lôi kéo các vùng khác cùng đi lên. Cần có chính sách ưu tiên đặc biệt để thu hút vốn FDI vào những vùng nông thôn miền núi có khó khăn về hạ tầng cơ sở để khai thác tiềm năng, thế mạnh của các vùng này. Một mặt, cần phải phân loại doanh nghiệp ở các ngành để chọn lọc các doanh nghiệp có thể và cần thiết đưa vào hợp tác, liên doanh. Mặt khác, cần quy hoạch các cụm, khu công nghiệp tập trung để thu hút vốn FDI và các nguồn vốn trong nước đầu tư phát triển, hạn chế dần việc đầu tư phân tán, gặp đâu làm đó, mạnh ai người ấy làm. Các xí nghiệp trong khu công nghiệp tập trung có thể phát triển từ đơn lẻ đến quần thể, từ đơn ngành đến đa ngành; gắn linh hoạt giữa các xí nghiệp trong nước và xí nghiệp nước ngoài, giữa xí nghiệp FDI trong nước và xí nghiệp chế xuất, giữa sản xuất và thương mại, giữa sản xuất hàng hóa và kinh doanh tiền tệ; đa dạng các khu công nghiệp như khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp kỹ thuật cao, khu thương mại tự do… 2.4. Thực hiện chiến lược khuyến khích đầu tư của các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia, công ty toàn cầu để tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại. Thông qua nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia với ưu thế của mình đã tạo nên những ảnh hưởng to lớn đến các nước tiếp nhận đầu tư. Nguồn vốn của các công ty này tham gia đóng góp bổ sung nguồn vốn thiếu hụt trong nước, cân bằng cán cân thanh toán tại nước tiếp nhận. Ngoài ra, các nước tiếp nhận đầu tư có cơ hội tiếp nhận sự chuyển giao công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm tổ chức quản lý kinh doanh, đào tạo đội ngũ cán bộ lao động, tăng khả năng cạnh tranh và có nhiều cơ hội tiếp cận hội nhập với nền kinh tế thế giới. Thông qua FDI, các nước phát triển có điều kiện xuất khẩu công nghệ và chuyển giao công nghệ, còn đối với các nước đang phát triển như nước ta thì FDI được coi như là một phương tiện hữu hiệu để nhập khẩu công nghệ có trình độ cao hơn từ bên ngoài. Điều này chỉ ra rằng, cố gắng để thu hút được các công ty xuyên quốc gia lớn đến đầu tư là đòi hỏi của sự phát triển lâu dài. Tuy nhiên, một trong những điều kiện có tính chất quyết định khả năng thu hút các công ty xuyên quốc gia lớn đến đầu tư là phải có các doanh nghiệp đối tác trong nước đủ mạnh về nhiều mặt. Và để có được các doanh nghiệp loại này, Nhà nước ta cần có sự đầu tư thỏa đáng để sớm hình thành các tập đoàn kinh tế hùng mạnh làm trụ cột cho sự phát triển kinh tế nước nhà, vừa đủ sức vươn ra hoạt động có hiệu quả trên thị trường quốc tế. 2.5. Tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp, công chức nhà nước, và công nhân kỹ thuật có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phương pháp hoạt động kinh tế đối ngoại, trình độ ngoại ngữ và tay nghề kỹ thuật cao, đủ khả năng để đáp ứng tốt yêu cầu thu hút và quản lý hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Con người chính là chìa khóa mở ra các động lực cho tăng trưởng. Nhưng đó phải là con người có trí tuệ, đạo đức và tinh thần dân tộc. Phát triển nguồn nhân lực cần dựa trên nền tảng giáo dục có căn cơ. Giáo dục chính là lò nung tạo ra nguồn nhân lực mang lai sự phồn vinh, giàu có cho đất nước. Có giáo dục phát triển thì nền kinh tế mới có khả năng tiếp cận những thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến của thế giới và biến nó thành lợi thế riêng của đất nước. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và khu vực hóa, cạnh tranh trong sự liên kết và hội nhập trở thành tất yếu cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Ngoài lợi thế so sánh tĩnh như tài nguyên, lao động thì nguồn nhân lực có trí tuệ, chất xám là yếu tố quyết định thắng lợi trong cuộc cạnh tranh kinh tế đó. Như vậy, để thành công trong chiến lược CNH-HĐH, thoát khỏi đói nghèo, khăc phục tụt hậu và đuổi kịp với các nước trong khu vực, Việt Nam cần phải tăng tốc đẩy mạnh hơn nữa đầu tư giáo dục để tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao. Trước mắt, Nhà nước cần phải sớm có những quy định về những điều kiện phải có đối với cán bộ Việt Nam tham gia Hội đồng quản trị và quản lý các doanh nghiệp liên doanh, quy định cụ thể tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và chính trị. Trách nhiệm nghĩa vụ và quyền lợi của những người làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thể chế hóa các lợi ích tinh thần của người lao động Việt Nam, cũng như phương thức hoạt động của các tổ chức Đảng, Đoàn thể trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo hướng tăng cường hiệu lực của các tổ chức, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tạo quan hệ lành mạnh giữa các bên đối tác, và bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên. 2.6. Sớm hình thành một thị trường vốn đồng bộ, tạo ra khả năng đa dạng hóa trong huy động vốn cho đầu tư. Trước mắt, xúc tiến hoạt động có hiệu quả với quy mô rộng lớn của thị trường chứng khoán. Thực hiện mô hình cổ phần hóa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia rộng rãi hoạt động của thị trường vốn trong nước cũng như thị trường chứng khoán. 2.7. Nghiên cứu, xây dựng để sớm ban hành, áp dụng Bộ luật đầu tư chung cho cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thực hiện tốt và tiếp tục triển khai thực hiện lộ trình rút ngắn khoàng cách, sớm tiến tới gia đoạn xoá bỏ hẳn sự chênh lệch về giá, phí hàng hóa, dịch vụ, giá cước… giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Kết luận Việt nam tiến hành CNH-HĐH trong điều kiện “ Nền kinh tế vẫn còn mang tính chất nông nghiệp lạc hậu. Công nghiệp còn nhỏ bé, kết cấu hạ tầng kém phát triển. Cơ sở vật chất-kỹ thuật chưa xây dựng được bao nhiêu. Tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế và đầu tư phát triển còn thấp và chưa được quan tâm thích đáng. Kinh tế tuy có mức tăng trưởng khá nhưng năng suất, chất lượng và hiệu quả còn thấp”. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thực sự có vai trò rất quan trọng đối với sự nghiệp cải cách và đổi mới cũng như công cuộc CNH-HĐH ở Việt Nam. Nó đóng vai trò như lực khởi động cho quá trình CNH-HĐH của Việt Nam- FDI là lực lượng có các điều kiện để giúp ta giải quyết hai vấn đề (vốn và kỹ thuật) được coi là cơ bản nhất, quyết định khả năng tiến hành và sự thành công của thời kỳ đầu thực hiện CNH-HĐH. Những tác động tích cực của FDI đối với sự phát triển kinh tế, xã hội và CNH-HĐH của Việt Nam đang ngày càng tăng và tương đối nổi bật như: góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH; góp phần tạo ra những năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới, phương thức sản xuất kinh doanh mới… Về nguyên tắc, sự phát triển bằng chính năng lực của đất nứơc mới là sự phát triển ổn định và bền vững. Nhưng cũng có thể nói rằng, trong hoàn cảnh xuất phát điểm thấp, chúng ta rất khó đạt được những thành tựu như vừa qua nếu không có sự tham gia của FDI. Duy trì được sự ổn định về chính trị- xã hội; thúc đẩy nền kinh tế phát triển toàn diện; thống nhất cách đánh giá và những quan điểm cơ bản đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài; hình thành các giải pháp phù hợp với thực tế luôn biến động… là những yếu tố quyết định khả năng tồn tại và phát triển đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Việc thu hút, quản lý và tổ chức hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ có thể đạt được hiệu quả khi trình độ sản xuất-kinh doanh của ta phát triển theo chiều hướng và tốc độ thích hợp.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0022.doc
Tài liệu liên quan