Đề tài Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay

Qua quá trình nghiên cứu ta thấy lợi nhuận là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp là cơ sở cho mọi hình thức kinh tế và cùng với những hiểu biết về vai trò cũng như hạn chế của lợi nhuận áp dụng vào đặc điểm của cơ chế kinh tế cũng như đặc điểm về chính trị xã hội nói lên sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể dừng lại ở các tốc độ tăng trưởng mà đi kèm với nó phải không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống với tiền lương và thu nhập kinh tế tăng trưởng mạnh, y tế giáo dục phát triển, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo, không làm phương hại tới phúc lợi xã hội hay làm đảo lộn vị trí xã hội tương đối của đa số dân chúng. Ngăn chặn sự xuống cấp thậm trí tha hoá trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội, các quan hệ và đạo đức truyền thống trong xã hội.

doc31 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1488 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên xây dựng lý luận về giá trị thặng dư một cách hoàn chỉnh vì vậy, lý luận giá trị thặng dư được xem là hòn đá tảng to lớn nhất trong toàn bộ học thuyết kinh tế của Mác. Qua thực tế xã hội tư bản lúc bấy giờ Mác thấy rằng giai cấp tư bản thì ngày càng giàu thêm còn giai cấp vô sản thì ngày càng nghèo khổ và ông đã đi tìm hiểu nguyên nhân vì sao lại có hiện tượng này. Cuối cùng, ông đã phát hiện ra rằng nếu tư bản là T đưa vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá thì số tiền thu về lớn hơn số tiền ứng ra. Ta gọi là T’ (T’ > T ) hay: T’ = T + DT CMác gọi DT là giá trị thặng dư. Ông cũng thấy rằng mục đích của lưu thông tiền tệ với tư cách là tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị. mục đích lưu thông T - H - T’ là sự lớn lên của giá trị, là giá trị thặng dư lên sự vận động T - H - T’ là không có giới hạn. Công thức này được Mác gọi là công thức chung của tư bản. Vậy giá trị thặng dư (m) là phần giá trị mới dôi ra ngoài ra trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt. Qua đó chúng ta thấy tư bản là giá trị đem lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê. Để nghiên cứu yếu tố cốt lõi tạo nên giá trị thặng dư trong quá trình sản xuất của tư bản, CMác đã chia tư bản ra làm hai bộ phận: tư bản bất biến và tư bản khả biến. Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm, tức là giá trị không biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất gọi là tư bản bất biến, ký hiệu là C. Còn bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thức giá trị sức lao động trong quá trình sản xuất đã tăng thêm về lượng gọi là tư bản khả biến, ký hiệu là V. Như vậy, muốn cho tư bản khả biến hoạt động được phải có một tư bản bất biến đã được ứng trước với tỉ lệ tương đương. Và qua sự phân chia này ta nhận thấy tư bản khả biến tạo ra giá trị thặng dư vì nó dùng để mua sức lao động. Còn tư bản bất biến thì có vai trò gián tiếp trong việc tạo ra giá trị thặng dư. Từ đây ta có thể kết luận: “Giá trị của một hàng hoá bằng giá trị tư bản bất biến mà nó chứa đựng, cộng với sự tăng thêm tư bản bất biến đó (tức là giá trị thặng dư đã được sản xuất ra). Nó được biểu hiện bằng công thức: Giá trị = C + V + m Giá trị tư liệu sản xuất chuyển vào sản phẩm C. Giá trị sức lao động của người công nhân (mà nhà tư bản trả cho người công nhân) là V. Giá trị mới do người công nhân sáng tạo ra: V + m. Như thế nhà tư bản bỏ ra một lượng tư bản để tạo ra giá trị là C + V. Nhưng giá trị mà tư bản thu vào là C + V + m. Phần m dôi ra là phần mà nhà tư bản bóc lột của người công nhân. ở trên chúng ta đã nghiên cứu nguồn gốc của giá trị thặng dư. Nhưng muốn hiểu hơn về nó ta cần phải nghiên cứu bóc lột tư bản về mặt lượng. Các phạm trù tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư mà ta nghiên cứu sau đây sẽ biểu hiện về mặt lượng của sự bóc lột. Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ số giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến. Ký hiệu là m’ ta có: Tỷ suất giá trị thặng dư=m/V Tỷ suất giá trị thặng dư nói lên lượng giá trị mà nhà tư bản chiếm đoạt của công nhân. Nếu gọi M là khối lượng giá trị thặng dư mà công nhân tạo ra, ta có: M=m’ x V M nói lên qui mô bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân. Nhà tư bản luôn tìm cách tạo ra giá trị thặng dư nhiều nhất bằng nhiều cách, bằng nhiều thủ đoạn. Trong đó Mác chỉ ra hai phương pháp mà chủ nghĩa tư bản sử dụng đó là sản xuất giá trị thặng dư tương đối và sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối. Ngoài ra còn có phương pháp sản xuất giá trị thặng dư siêu ngạch. Mác đã chỉ ra trong những giai đoạn phát triển siêu ngạch chủ nghĩa tư bản, khi kỹ thuật còn thấp hay tiến bộ chậm thì việc tăng giá trị thặng dư tuyệt đối bằng cách kéo daì tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động cần thiết hay không thay đổi. Nhưng phương pháp này còn có hạn chế về thời gian, về thể chất và tinh thần của người công nhân. Sự bóc lột này đã dẫn đến nhiều cuộc bãi công, đấu tranh của các nghiệp đoàn. Mặt khác đến giai đoạn phát triển sản xuất bằng cơ khí, khi mà kỹ thuật phát triển cao có thể làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản dựa vào tăng năng suất lao động để tăng giá trị thặng dư và nâng cao trình độ bóc lột. Nhà tư bản sản xuất ngày càng tăng giá trị thặng dư bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết do đó kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng dư trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi. Phương pháp này gọi là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối, phương pháp này không có giới hạn. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư chỉ là sự hiểu hiện qua sảu phẩm còn thực tế để thu được tiền thì sự chuyển hoá đó phải như thế nào. Vì công thức chung của chủ nghĩa tư bản là T - H - T’ nên mục đích cuối cùng của nhà tư bản là thu được T’ còn giá trị thặng dư chỉ là nền tảng để thu được T’ (T’ > T). Mác đã giúp ta giải quyếtvấn đề này vì ông đã tìm ra một đại lượng biểu hiện giá trị thặng dư đó là lợi nhuận (P). Do đó “các giá trị thặng dư khi được đem so sánh với tổng tư bản ứng trước thì mang hình thức biến tướng thành lợi nhuận”. Từ đó có thể thấy P chính là “con đẻ” của tổng tư bản ứng trước: C+V. chi phí thực tế xã hội và chi phí sản xuất tư bản chủ xuất phát từ giá trị hàng hoá: C+V+m. Muốn sản xuất hàng hoá phải chi phí một lao động nhất định bao gồm chi phí cho mua tư liệu sản xuất C gọi là lao động quá khứ và lao động tạo ra giá trị mới (V+m). Đứng trên quan điểm toàn xã hội, quan điểm của người lao động thì chi phí đó là chi phí thực tế để tạo ra giá trị hàng hoá (C+V+m). Nhưng đối với nhà tư bản thì họ không hao phí lao động để sản xuất ra hàng hoá nên là tư bản chỉ xem hết bao nhiêu tư bản chứ không tính xem chi phí hết bao nhiêu lao động cần thiết. Thực tế họ chỉ ứng ra sờ tư bản để mua tư liệu sản xuất (C) và mua sức lao động (V). Chi phí đó được Mác gọi là chi phí tư bản chủ nghĩa và ký hiệu là k(k= c + v). Giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa có sự chênh lệch nhau một lượng đúng bằng m. Do đó nhà tư bản bán hàng hoá sẽ thu về một phần lời đúng bằng giá trị thặng dư m, số tiền này gọi là lợi nhuận. Giá trị hàng hoá lúc này bằng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa cộng với lợi nhuận. Giá trị = k + P Về mặt lượng P có nguồn gốc là kết quả lao động không công của công nhân làm thuê. Tỷ suất lợi nhuận (P’) là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước. P’ = m.100% C + V Tỷ suất lợi nhuận không phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản mà nó nói lên mức lãi của việc đầu tư. Nó cho nhà tư bản biết họ đầu tư vào đâu thì có lợi. Do đó việc thu lợi nhuận - P và theo đuổi tỷ suất lợi nhuận - P’ là động lực thúc đẩy nhà tư bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản. Do mục tiêu đạt được lợi nhuận cao nhất nên giữa các nhà tư bản luôn luôn diễn ra sự cạnh tranh gay gắt. Các quá trình cạnh tranh của nhà tư bản được Mác phân chia thành hai loại: Cạnh tranh nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá nhằm mục đích tiêu thụ hàng hoá có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch. Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các nhà tư bản ở các ngành sản xuất khác nhau nhằm tìm nơi đầu tư có lợi hơn. ở các ngành khác nhau, sản xuất khác nhau do đó có những điều kiện khác nhau, tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Các nhà sản xuất chọn những điều kiện sản xuất có lợi cho mình nhất để thu được nhiều lợi nhuận, các nhà tư bản thì tìm nơi để đầu tư thu được lợi nhuận cao nhất đối với họ. C.Mác viết: “Do ảnh hưởng của cạnh tranh những tỷ suất lợi nhuận khác nhau đó san bằng đi thành một tỷ suất lợi nhuận chung, đó là con số bình quân của tất cả những tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Lợi nhuận của một tư bản có một lượng nhất định thu được, theo tỷ suất lợi nhuận chung đó, không kể cấu tạo hiện có như thế nào gọi là lợi nhuận bình quân”. Quá trình bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận là sự hoạt động của quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân trong xã hội tư bản. Sự hoạt động của quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân trong xã hội tư bản biểu hiện bởi sự hoạt động của quy luật giá trị thặng dư trong thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân đã che dấu hơn nữa thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Sự hình thành P và P’ không làm chấm dứt quá trình cạnh tranh trong xã hội tư bản, trái lại cạnh tranh vẫn tiếp diễn. Cùng với sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân ta thấy một bộ phận hàng hoá được bán cao hơn giá trị của chúng, còn bộ phận khác lại bán thấp hơn giá trị của chúng cũng theo một tỷ lệ như thế. Chỉ có bán hàng hoá theo những giá cả đó thì tỷ suất lợi nhuận trong các công ty mới có thể đồng nhất và ngang với nhau, dù cấu thành hữu cơ của các nhà tư bản đều khác nhau. “Những giá cả có được bằng cách lấy chi phí sản xuất của hàng hoá cộng với lợi nhuận bình quân gọi là giá cả sản xuất”. Vậy: Giá cả sản xuất = k + Trước đây khi chưa xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả xoay quanh giá trị hàng hoá. Giờ đây giá cả của hàng hoá xoay quanh giá cả sản xuất. Về mặt lượng, giá cả sản xuất và giá trị có thể không bằng nhau. Chính trong mối quan hệ này, giá trị vẫn là cơ sở, là nội dung bên trong của giá cả sản xuất, giá cả thị trường. Như vậy lợi nhuận được tạo ra từ sản xuất, giờ ta sẽ xét đến các hình thức chuyển hoá của lợi nhuận. II - Các hình thức chuyển hoá của lợi nhuận. Lợi nhuận được chuyển hoá thành: lợi nhuận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp,lợi tức và tỷ suất lợi tức, lợi nhuận ngân hàng địa tô, lợi nhuận độc quyền. 1. Lợi nhuận công nghiệp Trong công nghiệp để cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho thị trường các nhà sản xuất phải bỏ tiền vốn trong quá trình sản xuất và kinh doanh, họ muốn chi phí cho các đầu vào ít nhất và bán hàng hoá với giá cao nhất để khi trừ đi các chi phí còn số dư dôi để không chỉ sản xuất giản đơn mà còn tài sản xuất mở rộng không ngừng tích luỹ phát triển, sản xuất, củng cố và tăng cường vị trí của mình trên thị trường. Lợi nhuận ở đây chính là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí. Cần tối đa hoá lợi nhuận hoặc cực tiểu hoá chi phí sản xuất là hành vi làm tăng lợi nhuận hoặc giảm chi phí sản xuất, tức là phải làm gì để đạt được lợi nhuận cực đại cho doanh nghiệp. Tổng doanh thu của doanh nghiệp là số tiền mà doanh nghiệp kiềm chế được nhờ bán hàng hoá,dịch vụ trong một thời kỳ nhất định. Trong tổng doanh thu đó có một phần lợi nhuận kiếm được. Và quá trình bán này cũng được tư bản công nghiệp chia một phần lợi nhuận đó, một phần này gọi là lợi nhuận thương nghiệp. 2. Lợi nhuận thương nghiệp Chúng ta đã đề cập đến quan điểm của chủ nghĩa trọng thương, ở đó họ cho rằng lợi nhuận là kết quả của sự trao đổi không ngang giá. Họ coi trọng thương nghiệp là sự lừa gạt “không một người nào thu được lợi mà không làm thiệt kẻ khác”. Quan điểm này hoàn toàn sai lầm và nguyên nhân của sự sai lầm này là do họ tách rời quá trình lưu thông và quá trình sản xuất ra khỏi nhau. Khác với tư bản thương nghiệp trước, chủ nghĩa tư bản thương nghiệp hiện đại thì tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách rời ra phục vụ quá trình lưu thông hàng hoá của tư bản công nghiệp. Tư bản thương nghiệp chỉ hạn chế ở chức năng mua và bán, nó không sáng tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Nó chỉ làm nhiệm vụ thực hiện giá trị và giá thặng dư. Nhìn bề ngoài lợi nhuận thương nghiệp là do mua rẻ, bán đắt do lưu thông tạo ra. Nhưng thực chất “lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp”. Nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp một phần bởi vì tư bản thương nghiệp chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông đó là một khâu, một giai đoạn của quá trình sản xuất - tức là một khâu trong quá trình chu chuyển của tư bản, không có giai đoạn đó thì quá trình tái sản xuất không thể tiếp tục được. Và dĩ nhiên nhà tư bản thương nghiệp cũng không phải là hoạt động không công được mà họ cũng đòi hỏi phải có lợi nhuận. Điều này bắt buộc nhà tư bản công nghiệp phải nhường một phần lợi nhuận của mình cho tư bản thương nghiệp. Vậy: “lợi nhuận thương nghiệp là số chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hoá.” Nhưng điều đó không có nghĩa là nhà tư bản thương nghiệp bán hàng hoá cao hơn giá trị của nó, mà là nhà tư bản thương nghiệp mua hàng hoá thấp hơn giá trị và khi bán thì anh ta bán đúng giá trị của nó. Và vì nhà tư bản thương nghiệp tham gia vào việc phân chia giá trị thặng dư (m) cho nên đời sống của xã hội tư bản hai loại giá sản xuất: Giá cả sản xuất công nghiệp và giá cả sản xuất thực tế. Sự hình thành lợi nhuận thương nghiệp đã che dấu thêm một bước quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa. Do việc phân phối lợi nhuận giữa tư banr công nghiệp và tư bản thương nghiệp diễn ra theo quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân thông qua cạnh tranh. 3. Lợi tức và tỉ suất lợi tức Trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản công nghiệp luôn có số tư bản tiền tệ ứng trước tạm thời nhàn rỗi ví dụ như tiền lương quỹ khấu hao của tư bản cố định, tiền dùng để mua nguyên vật liệu nhưng chưa đến kỳ mua và bộ phận giá trị thặng dư tích lũy (dưới dạng tiền T) để mở rộng sản xuất nhưng chưa sử dụng đến,... Số tiền nhàn rỗi như thế không đem lại một thu nhập nào cho nhà tư bản. Nhưng đối với nhà tư bản thì tiền phải đẻ ra tiền. Vì vậy nhà tư bản cho người khác vay để lấy lãi. Tổng số giá trị mà anh ta cho người khác vay là tư bản cho nên nó sẽ quay trở về tay anh ta. Nhưng nếu chỉ có việc tổng số giá trị ấy quay trở về tay anh ta thôi, thì đó không phải là sự quay trở về của một giá trị đã đem cho vay với tư cách là tư bản, mà chỉ là việc hoàn lại một giá trị đã cho vay. Muốn quay trở về với tư cách là tư bản, thì tổng số giá trị ứng ra không những phải vẫn giữ được nguyên vẹn, mà còn phải sinh sôi nảy nở và tăng thêm lên trong quá trình vận động. Tức là nó phải quay về kèm theo một giá trị thặng dư: T + DT, và ở đây, DT này là lợi tức hay là cái phần lợi nhuận trung bình không nằm lại ở trong tay nhà tư bản hoạt động, mà rơi vào tay nhà tư bản tiền tệ. Việc nhà tư bản tiền tệ cho các nhà tư bản vay tiền còn được gọi là Tư bản cho vay - Và nguồn gốc của lợi tức chính là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất. Nhưng việc nhà tư bản cho vay thu được lợi tức che dấu mất thực chất bóc lột tư bản chủ nghĩa. Dựa vào công thức vận động tư bản cho vay ở trên chúng ta hoàn toàn vạch trần được điều đó. Lợi tức vận động theo quy luật tỉ suất lợi tức. Tỷ suất lợi tức là tỉ lệ tính theo % giữa tổng số lợi tức và số tư bản tiền tệ cho vay. Tỷ suất lợi tức cao hay thấp phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận bình quân, tỷ lệ phân chia lợi nhuận thành lợi tức và thu nhập của xí nghiệp mà nhà tư bản hoạt động, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu của tư bản cho vay. 4. Lợi nhuận ngân hàng Lợi nhuận ngân hàng là thu nhập của nhà tư bản ngân hàng khi kinh doanh nghiệp vụ ngân hàng. Trong CNTB, lợi nhuận ngân hàng là hình thái biến tướng riêng biệt của giá trị thặng dư. Nghiệp vụ chính của ngân hàng là thu nhận tiền gửi và cho vay. Lợi tức của việc cho vay của ngân hàng lớn hơn lợi tức tiền gửi, con số chênh lệch ấy là nguồn gốc của lợi nhuận ngân hàng. Tuy vậy không phải toàn bộ con số chênh lệch ấy đều là lợi nhuận ngân hàng mà là lợi nhuận ngân hàng chỉ là con số còn lại sau khi đã trừ đi một phần để bù vào chi phí nghiệp vụ ngân hàng (lương nhân viên, sổ sách,...). Ngân hàng cho các nhà trực tiếp kinh doanh vay. Nhà tư bản lấy số tiền đó để sản xuất ra giá trị thặng dư (tư bản công nghiệp) hoặc thực hiện giá trị thặng dư (tư bản thương nghiệp), sau đó đem một phần giá trị thặng dư thu được làm thành lợi tức trả cho ngân hàng. Do đó lợi nhuận ngân hàng cũng là giá trị thặng dư. Sự cạnh tranh giữa các ngành trong xã hội tư bản cũng là do lợi nhuận ngân hàng bằng lợi nhuận bình quân, nếu không chủ ngân hàng sẽ chuyển vốn sang kinh doanh ngành khác. 5. Địa tô: Nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải thuê ruộng đất và thuê công nhân để tiến hành sản xuất. Do đó tư bản phải tính ra một phần giá trị thặng dư do công nhân tạo ra để trả cho địa chủ dưới hình thức “địa tô”. Địa tô TBCN là phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã trừ đi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất. Địa tô = m - chương ii: vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế việt nam hiện nay. I - Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường 1. Lợi nhuận thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển Lợi nhuận đóng vai trò rất lớn trong nền kinh tế. Nó ảnh hưởng tới cả chính trị xã hội, văn hoá, nó len lỏi vào mọi mặt của đời sống xã hội trong mọi nền kinh tế thị trường. Mà ta vẫn biết rằng mọi sự vật hiện tượng đều có tính hai mặt của nó là tích cực và tiêu cực như thế nào đó để phát huy mọi tính ưu việt và vai trò của lợi nhuận. Với mục đích lợi nhuận các nhà tư bản tìm đủ mọi cách để có được nhiều lợi nhuận. Trước đây họ có thể tạo ra lợi nhuận bằng cách kéo dài ngày lao động của công nhân nhưng phương pháp đó đã gặp phải sự chống đối mãnh liệt của công nhân chính vì lẽ đó mà họ chuyển sang bóc lột một cách tinh vi hơn. Nhà tư bản áp dụng kỹ thuật mới vào quá trình sản xuất và bắt buộc người công nhân phải làm việc có năng suất cao hơn. Nhưng chính mục đích áp dụng kỹ thuật mới đã làm cho các nhà tư bản đầu tư ngày càng nhiều vào khoa học kỹ thuật đặc biệt là vấn đề nghiên cứu, cho nên nó đã khuyến khích các tài năng cá nhân phát triển do vậy mà những phát minh lần lượt được ra đời đặc biệt trong thế kỷ XIX đến XX. Nó đã đưa lực lượng sản xuất phát triển một cách nhanh chóng yếu tố này đã giúp cho nhà tư bản không chỉ thu được lợi nhuận đơn thuần mà còn thu được lợi nhuận siêu ngạch. Người công nhân chính là người trực tiếp sử dụng, vận hành công nghệ mới vì vậy để quá trình sử dụng được tiếp diễn với hiệu quả kinh tế cao thì người công nhân bắt buộc phải nâng cao trình độ, nâng cao tay nghề nếu không họ sẽ bị đào thải bởi quy luật phát triển. Còn về mặt nhà tư bản thì họ cũng hiểu rằng để đạt được hiệu quả cao, tận dụng được hết các chức năng của công nghệ tiên tiến thì họ phải có một đội ngũ công nhân lành nghề với trình độ kỹ thuật cao. Vì vậy quá trình đầu tư cho chiến lược nâng cao trình độ lao động của nhà tư bản và yêu cầu cấp thiết phải nâng cao trình độ của mình của người công nhân đã diễn ra. Qua đó trình độ của người công nhân từng bước được nâng cao trình độ trở thành yêu cầu tất yếu của các nước phát triển và các nước đang phát triển. Do nhận biết được vai trò quan trọng của những lao động có tay nghề cao nên hiện nay đang diễn ra tình trạng mua chuộc, lôi kéo những nhà khoa học, những công nhân giỏi về phía mình bằng các biện pháp kinh tế, tinh thần. Điều này dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám ở các nước đang phát triển trở thành một tình trạng báo động cần ngăn chặn. 2. Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển Ta đã biết lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất chính vì lẽ đó lợi nhuận thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển thì ắt phải khiến cho quan hệ sản xuất phát triển theo. Do tác động của lợi nhuận, do sự phân chia lợi nhuận dưới hình thức nhiều hình thức khác nhau một cách hết sức chặt chẽ giữa các bên tham gia vào quá trìn phân chia đã làm cho chế độ sở hữu ngày càng được củng cố và phát triển. Quan hệ sở hữu từng bước được thắt chặt hơn, rõ ràng hơn giữa nhà tư bản và người lao động nói riêng, giữa các cá nhân trong xã hội nói chung. Bên cạnh đó mục đích lợi nhuận luôn đặt các nhà kinh tế, các tổ chức kinh tế trước yêu cầu "hiệu quả". Làm thế nào để chi phí ít nhất mà lợi nhuận thu về là lớn nhất. Điều đó đòi hỏi tính chuyên môn hoá cao và sự sắp xếp lại các tổ chức quản lý. Có thể giảm biên chế một số bộ phận không cần thiết, hoạt động không có hiệu quả. Tổ chức lại các bộ phận quản lý và thiết lập mối quan hệ giữa chúng để quá trình hoạt động được nhịp nhàng thông suốt tránh sự trì trệ không cần thiết trong một số khâu nào đó làm ảnh hưởng tới cả hệ thống quản lý. Hạn chế bớt một bộ phận quản lý cồng kềnh còn giúp cho các nhà kinh tế giảm bớt được một phần chi phí (tiền lương) đồng nghĩa với việc tăng lợi nhuận. Xuất phát từ mục tiêu ổn định và phát triển có kế hoạch phân bổ lực lượng lao động hợp lý, trong nền kinh tế phải cân đối tốt để khai thác tốt nguồn tài nguyên, kết hợp hặt chẽ và thích đáng lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân người lao động, giáo dục quan điểm thái độ và kỹ thuật cho người lao động. Tất cả những vấn đề đặt ra ở trên đều xuất phát từ lợi nhuận, chính nó đã thúc đẩy quá trình phân phối theo lao động diễn ra mạnh mẽ theo nguyên tắc làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. Nhưng cùng với sự phát triển của kinh tế thì ngoài phân phối theo lao động còn có sự phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội...Trong thời kỳ quá độ hiện nay ở nước ta còn xuất hiện hình thái phân phối theo vốn và tài sản dươí hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. 3. Vai trò của lợi nhuận đối với quá trình tái sản xuất Để biết được vai trò của lợi nhuận đối với quá trình tái sản xuất xã hội như thế nào, thì trước tiên ta hãy xét xem quá trình tái sản xuất diễn ra như thế nào. Như ta đã biết muốn tái sản xuất mở rộng ngày càng hiện đại hóa thì phải có nhiều vốn. Muốn có nhiều vốn phải tích luỹ vốn. Do vậy tích luỹ vốn gắn liền với tái sản xuất mở rộng và trở thành quy luật kinh tế chung của các hình thái kinh tế xã hội có tái sản xuất mở rộng. Tích luỹ vốn nói chung, xét về mặt thực chất là sự chuyển hoá một phần giá trị của sản phẩm thặng dư, do lao động thặng dư tạo ra thành vốn phụ thêm, để mở rộng sản xuất. Do vậy, nguồn tích luỹ vốn là giá trị của sản phẩm thặng dư do lao động thặng dư tạo ra trong quá trình sản xuất (nhờ năng suất lao động cao bảo đảm ngày lao động vượt quá phần giá trị của sản phẩm tất yếu) và được thực hiện trong quá trình lưu thông. Sự tích luỹ này do các chủ thể sở hữu về tư liệu sản xuất hoặc tư nhân Nhà nước tiến hành. Như vậy, dù ở trạng dạng nào thì vốn cũng là một phần lợi nhuận (thực hiện giá trị thăng dư) tạo thành. Và lợi nhuận đóng vai trò quyết định cho qúa trình tái sản xuất xã hội. 4. Vai trò của lợi nhuận đối với các mặt của đời sống xã hội Phân tích theo lao động và phân phối theo tài sản vốn đều là tất yếu khách quan trong quá độ hiện nay vì các hình thức đó đều nhằm mục đích thúc đẩy nền sản xuất phát triển cao và tạo lập sự công bằng xã hội giữa mọi thành viên trong xã hội. Nhưng ngoài những người có sức đang làm việc và được trả công theo lao động những người có vốn và tài sản đóng góp vào quá trình sản xuất để được nhận lợi tức, lợi nhuận, thì trong xã hội còn có những người vì lẽ này hay lẽ khác không thể tham gia lao động được trả công của xã hội. Đời sống số đông người này là do gia đình họ hoặc xã hội đảm bảo. Mặt khác ngay mức sống của cán bộ, công nhân viên chức Nhà nước và những người làm việc trong tất cả các thành phần kinh tế cũng không phải chỉ dựa vào tiền công cá nhân, mà còn dựa một phần vào các quỹ phúc lợi công cộng của Nhà nước, của các xí nghiệp và các tổ chức kinh tế xã hội khác, áp dụng các hình thức phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã hội. Đây không phải là phân phối theo lao động nhưng cũng chưa phải là phân phối theo nhu cầu như từng giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản mà C.Mác đã dự đoán. Đây là một hình thức phân phối quá độ phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội. Nó chẳng những bảo đảm cho tất cả mọi thành viên xã hội đều có mức sống bình thường tối thiểu mà còn có tác dụng kích thích lao động sản xuất, kích thích sự phát triển toàn diện của mọi thành viên trong xã hội. ở một số nước phát triển, Nhà nước có chú ý về tiền lương trợ cấp thất nghiệp, phúc lợi xã hội nhất là ở các nước Châu Âu mà điển hình là: Thuỵ Điển, Pháp, Anh...quy định mức lương tối thiểu. Khi cần nền kinh tế phát triển sẽ là nền tảng cho việc củng cố quốc phòng, an ninh giáo dục,...bởi vì với sự phát triển mạnh như vũ bão của Khoa học kỹ thuật hiện nay. Quốc phòng trang bị bằng những vũ khí hiện đại, tối tân (có nhiều nước có vũ khí hạt nhân). Yêu cầu đặt ra là chúng ta phải lắm bắt được Khoa học kỹ thuật và phải có một sự đầu tư để nhập các thiết bị phục vụ cho sử dụng, nghiên cứu trong quân sự và trong giáo dục. Khi lợi nhuận cao chúng ta sẽ có điều kiện đầu tư để phát triển nhân tố con người cả mặt lý luận và thực tiễn. Hiện nay hệ thống giáo dục nước ta chưa được trang bị đầy đủ điều này ảnh hưởng trực tiếp vấn đề thực hành và áp dụng ngoài thực tế dẫn đến tình trạng sinh viên ra trường thường kém năng động, không sử dụng được kiến thức của mình vào cuộc sống và công việc một cách sáng tạo. 5. Vai trò của lợi nhuận trong quan hệ kinh tế quốc tế Lợi nhuận là lý do làm phát sinh và phát triển nền kinh tế thị trường. Nó thúc đẩy quá trình mở rộng và trao đổi hàng hoá và Khoa học kỹ thuật. Mở cửa nền kinh tế nhằm thu hút nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về trình độ công nghệ trong nước, cấu thành ngành sản phẩm, mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh, liên kết hợp tác là cơ sở tăng cường tính độc lập và phụ thuộc lẫn nhau trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi. Để phát huy được sự tăng cường quan hệ kinh tế quốc tế thì đòi hỏi trong các mối quan hệ kinh tế đó phải có lợi nhuận, bởi vì trong cơ chế thị trường thì một vấn đề có liên quan tới hai chữ "kinh tế" thì không có lợi nhuận không làm. Do vậy trong mối quan hệ này đòi hỏi phải có lợi nhuận và nó đã thúc đẩy các mối quan hệ ngày càng tốt hơn. II. Vai trò của lợi nhuận với nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 1. Nền kinh tế Việt Nam trước năm 1986 Trước năm 1986 nền kinh tế Nhà nước là nền kinh tế chỉ huy, ở đó Nhà nước kiểm soát hầu hết các phương tiện sản xuất, để đảm bảo cho điều đó thực hiện được Nhà nước cần phải kiểm soát giá cả, tiền lương và sự phân phối hàng hoá và dịch vụ sao cho doanh nghiệp Nhà nước có thể chiếm đoạt được lợi nhuận độc quyền mà phần lớn nguồn lợi nhuận đó là được chuyển vào Ngân sách qua doanh thu như một thách thức thuế ẩn ngầm. Về phía mình, các doanh nghiệp và người lao động phải cống hiến sức lao động của họ vào việc tạo ra lợi nhuận mà họ chỉ được hưởng một phần, thông qua hàng hoá và dịch vụ do Nhà nước cấp. Trong hệ thống "phân phối"- "phân phối lại" này sự phân phối thu nhập không dựa trên các nhân tố kích thích được xác định thông qua thị trường, mà dựa trên định mức,đánh giá sự công hiến của mỗi tập thể và cá nhân tương ứng với vị trí, quyền lực của nó trong hệ thống "phân phối - phân phối lại". Điều đáng nói là hệ thống "phân phối - phân phối lại" là đặc trưng cho mọi nền kinh tế chỉ huy nhưng mức độ "tập trung hoá" càng cao thì hệ thống đó càng phình ra, càng có nhiều doanh nghiệp khổng lồ, mà sản phẩm của nó không đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Vì vậy nền kinh tế đó sẽ gặp khó khăn lớn. Ngược lại trong nền kinh tế đang phát triển, nơi mà sự tồn tại của khu vực vô hình ngăn cản mọi nỗ lực gia tăng mức độ tập trung hoá quản lý kinh tế thì quan hệ thị trường có thể phát triển một cách tự phát. Quá trình cải cách tự phát như vậy thường nảy sinh khi những ảnh hưởng của hệ thống "phân phối - phân phối lại" làm cạn kiệt mọi nguồn lực hiện có để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân cư. Tuy nhiên, cải cách tự phát không thể khắc phục được một loạt các yếu điểm chẳng hạn như sự mở rộng các loại thị trường nơi mà giá cả cao hơn nhiều lần giá chính thức. Điều đó thúc đẩy gia tăng nạn tham nhũng, buôn lậu dẫn đến tình trạng thâm hụt ngân sách. Sự mất cân đối với vĩ mô càng nặng nề hơn vì các doanh nghiệp và hộ gia đình đổ xô vào đầu cơ vàng và ngoại tệ mạnh. Kết quả là tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư nội địa, với sự mất cân đối với nền kinh tế tự nó đi chệch khỏi trạng thái cân bằng và ngày càng lao sâu vào khủng hoảng. Đó chính là điều xảy ra với Việt Nam năm 1985, khi tình hình kinh tế xấu đi đã buộc Chính phủ phải tiến hành cuộc đổi mới nhằm ổn định lại nền kinh tế. Và sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường được bắt đầu. 2. Sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới Trong lúc nước ta đang bị suy thoái trầm trọng, nền kinh tế ngổn ngang thì trên thế giới nền kinh tế phát triển như vũ bão và họ đang trên đà đổi mới và cũng chuyển sang cơ chế thị trường. Ví dụ như Mexico, Chile và Thái Lan đã có mức tăng trưởng nhanh chóng về thu nhập nhờ việc đã chấp nhận chủ nghĩa tư bản và giảm bớt vai trò của Chính phủ trong nền kinh tế của họ. 3. Sự chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường và những thắng lợi bước đầu: Do những hậu quả mà cơ chế kế hoạch hoá tập trung để lại cho nền kinh tế Việt Nam, do xu hướng phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường trên thế giới, do tính năng động của cơ chế thị trường. Tất cả các yếu tố đó trở thành yếu tố khách quan của sự chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam. Cải cách kinh tế Việt Nam năm 1986 đã đem lại một số thành tựu đáng khích lệ như: Nâng cao đời sống nhân dân, tăng tính năng động của nền kinh tế, xoá bỏ tính bao cấp, trì trệ của cơ chế cũ, bước đầu phát huy nội lực, kiềm chế đẩy lùi lạm phát. Từng bước thực hiện quá trình mang tính quy luật của bước chuyển đổi nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Với sự tự do hoá thương mại và tự do hoá giá cả là nhân tố trung tâm đột phá từng bước tiến tới cơ chế thị trường đích thực. Cơ chế này phát huy vai trò điều tiết của thị trường hình thành bước đầu một thị trường cạnh tranh, làm cho hàng hoá được lưu thông thông suốt, cung cầu được cân đối, thoát khỏi tình trạng khủng hoảng thiếu, giá cả ổn định dần. Lạm phát được ngăn chặn. Cơ chế thị trường đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy tính tự chủ của hộ kinh tế và chủ doanh nghiệp. Ngay phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước cũng đã đạt được giải phóng khỏi các tiêu pháp lệnh để thích ứng theo nhu cầu thị trường. Cơ chế này cũng đã thúc đẩy việc phải sử lý những vấn đề mấu chốt làm đảo lộn cả hệ thống tư duy và quan điểm kinh tế cũ như vấn đề sở hữu. Với sự thừa nhận và đánh giá cao những thành tựu của kinh tế nhiều thành phần: Cơ chế thị trường nước ta còn thiếu đồng bộ, mang nhiều yếu tố tự phát, rối loạn, sản phẩm của một nền kinh tế chưa thoát khỏi khủng khoảng và cơ bản là sản xuất nhỏ, sự yếu kém của bộ máy quản lý Nhà nước, tình trạng quan liêu, thiếu hiểu biết thậm trí trì trệ bảo thủ trước bước ngoặt chuyển đổi kinh tế. Trước hết cơ chế thị trường nước ta còn thiếu kinh nghiệm, còn chưa tạo môi trường ổn định và an toàn cho sản xuất kinh doanh đặc biệt những yếu kém trong thể chế tài chính tiền tệ, tín dụng đang là lực cản của quá trình chuyển đổi, cơ chế thị trường thiếu đồng bộ. Sự chuyển biến đã khá mạnh mẽ trên thị trường chấp nhận tự do kinh doanh theo pháp luật, nhưng lại chưa giải quyết đủ những tiền đề cơ bản cho sự tự do này đó là sự tự do về sở hữu. Sự hình thành và vận động của nền kinh tế thị trường còn mang nhiều yếu tố tự phát. Cơ chế vận hành thô sơ, thô thiển, tạo điều kiện cho kiểu làm ăn bất chính. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề hoàn toàn mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử và không có mô hình vạch sẵn. Do vậy không thể ngay từ đầu hình dung toàn bộ các chi tiết của mô hình thị trường, cũng không thể vạch ngay được một lịch trình cứng nhắc của biến chuyển mà phải thực hiện cơ chế thị trường cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và các điều kiện chính trị, kinh tế xã hội nước ta, không áp dụng các biện pháp xốc vừa là đặc điểm, vừa là quan điểm quan trọng của quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế. Xuất phát từ đặc điểm kinh tế trong nước và quan hệ kinh tế với bên ngoài, chúng ta đã áp dụng cơ chế thị trường từng bước. Điều quan trọng là cơ chế này được nhân dân đồng tình và đã phát huy được ứng dụng. 4. Vấn đề lợi nhuận trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao, là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội là toàn bộ quá trình sản xuất đến tiêu dùng gắn liền với thị trường. Kinh tế thị trường không chỉ là công nghệ, kỹ thuật mà còn là quan hệ xã hội, không chỉ bao hàm hai yếu tố là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Kinh tế thị trường phụ thuộc vào hình thức sở hữu mà trong đó nó phụ thuộc vào chế độ sở hữu thống trị. ở nước ta chế độ sở hữu là chế độ sở hữu toàn dân, cho nên mọi lợi ích nào đó được quyết định là phụ thuộc vào dân. Không có kinh tế thị trường chung chung, thuần tuý trừu tượng tách khỏi các hình thái kinh tế - xã hội. Tính tích cực và tiêu cực của kinh tế thị trường đến đâu còn phụ thuộc vào chế độ xã hội, vai trò Nhà nước, chính sách pháp luật Nhà nước. Mục đích của kinh tế thị trường ở nước ta cũng nhằm mục đích lợi nhuận nhưng không theo đuổi lợi nhuận một cách đơn thuần. Mà xuấtphát từ đặc điểm nước ta là nước xã hội chủ nghĩa. Ngay từ đầu chúng ta đã khẳng định "định hướng xã hội chủ nghĩa là không thay đổi. Vì vậy chúng ta theo đuổi lợi nhuận phải đảm bảo hai điều kiện: - Bảo đảm hiệu quả kinh tế, trong sản xuất kinh doanh nghĩa là sản xuất phải có lãi. - Kết hợp giải quyết các vấn đề về kinh tế xã hội để cho nó đảm bảo hiệu quả kinh tế nhưng các lợi ích xã hội vẫn được duy trì. Xét cho đến cùng thì kinh tế thị trường cũng như các hình thức tổ chức kinh tế khác đều nhằm mục đích sản xuất đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu của con người, tức sản xuất đạt hiệu quả cao nhất. Điều đó thể hiện bởi lợi nhuận thu về cao kinh tế thị trường tạo ra các thị trường là nơi gặp gỡ giữa người mua và người bán để xác định 3 yếu tố cơ bản của sản xuất đó là: sản xuất cái gì ?sản xuất như thế nào ? bán cho ai ? Qua đó nâng cao tính năng động của nền kinh tế. Việt Nam đang từng bước đi lên trong kinh tế, để có thể giàu có hơn nước ta phải tạo nhiều mối làm ăn, hợp tác với nước ngoài bởi vì chỉ có nội lực không vẫn chưa đủ, nó chỉ là một điều kiện làm tiền đề vững chắc cho quan hệ ngoại giao làm ăn với nước ngoài. Vậy chúng ta quan hệ làm ăn với họ để làm gì ? Để kiếm được lợi nhuận cao hơn so với trong nước, chính vì lẽ đó hiện nay chúng ta quan hệ làm ăn với rất nhiều nước ví dụ như Trung Quốc, các nước khối Nics, Mỹ, Thái Lan, Nhật Bản, Anh, oxtraylia, ASEAN. Chương iii: khắc phục mặt tiêu cực của kinh tế thị trường ở việt nam. I - Hậu quả do theo đuổi lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường nói chung và ở Việt Nam nói chung: 1. Cạnh tranh không lành mạnh: Để thu được lợi nhuận cao các doanh nghiệp không ngừng cạnh tranh với nhau trên thị trường, bất kể trong nội bộ ngành hay giữa các ngành. Ngoài ra khi sự cạnh tranh tiến lên một mức cao hơn họ còn cạnh tranh trong khâu sản xuất công nghệ trong tiêu thụ. Về khái niệm cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành đã được trình bày phần tỷ suất lợi nhuận bình quân. ở đây chúng ta chỉ nêu ra biện pháp cạnh tranh của từng loại và kết quả được của nó. Đối với quá trình cạnh tranh trong nội bộ ngành nhằm thu được lợi nhuận siêu ngạch các nhà sản xuất đã phải cải tiến kỹ thuật, nâng cao cấu tạo hữu cơ tư bản, nâng cao năng suất lao động làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá xí nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội để thu lợi nhuận siêu ngạch. Kết quả của cạnh tranh là hình thành nên giá trị xã hội của từng loại hàng hoá. Cạnh tranh giữa các ngành sử dụng biện pháp tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác dẫn đến hình thành dần tỉ suất lợi nhuận bình quân và giá trị hàng hoá trở thành giá trị sản xuất. Trong sản xuất, các doanh nghiệp cạnh tranh với nahu bằng cách tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, áp dụng công nghệ và hình thức quản lí tiên tiến. Kết quả của quá trình cạnh tranh đó là làm cho lực lượng lao động phát triển. Trong tiêu thụ sản phẩm cũng tồn tại khái niệm cạnh tranh giữa các doanh nghiệp để tiêu thụ đuợc nhiều sản phẩm hơn nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch. Biện pháp mà các doanh nghiệp sử dụng là cải tiến mẫu mã, chất lượng sản phẩm, cải tiến phương pháp phục vụ,...Kết quả là hình thành nên giá thị trường của từng loại hàng hoá. Đó là tất cả những thủ đoạn để có thể kiếm được lợi nhuận cao. Việc sử dụng các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật đòi hỏi quy mô sản xuất tư bản phải lớn. Vì vậy đặt ra yêu cầu phải tích tụ và tập trung sản xuất do đó ra đời các xí nghiệp lớn. Do mục tiêu lợi nhuận dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt làm cho tư bản loại vừa và nhỏ phá sản còn tư bản lớn thì càng lớn. Khi sự tích tụ và tập trung sản xuất phát triển đến một mức độ cao sẽ dẫn tới sự hình thành các tổ chức độc quyền. Chủ nghĩa độc quyền càng phát triển lợi nhuận của tập đoàn độc quyền càng nhiều, nhưng hậu quả như lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng lại bị trút xuống đầu giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Mâu thuẫn giai cấp trở lên sâu sắc. 2. Các tiêu cực, tệ nạn xã hội nảy sinh: Đứng trên tầm vĩ mô của một quốc gia, vì lợi nhuận mà người ta dám làm tất cả mọi thứ để kiếm được nhiều tiền cho bản thân mình còn việc xã hội không liên quan gì tới cá nhân cả "đã có Nhà nước lo rồi". Tệ nạn xã hội nảy sinh, giáo dục xa sút, nhân tài của đất nước bị chảy máu chất xám, thanh niên đua đòi, ô nhiễm môi trường. Cũng vì lợi nhuận mà làm nảy sinh các hành vi tiêu cực khác của xã hội như tệ nạn buôn lậu, làm hàng giả, tệ nạn tham nhũng cũng ngày càng phát triển đối với tất cả các ngành, thậm trí ở Việt Nam nó còn đang là một quốc nạn. Các tệ nạn xã hội như mại dâm, ma tuý, bạo lực cũng mọc ở khắp nơi...Nhìn chung có rất nhiều vấn đề nảy sinh đòi hỏi sự sáng suốt của các nhà hoạch định chính sách làm sao cho phù hợp nhất. II - Biện pháp khắc phục 1. Tăng năng suất lao động, cải tiến kỹ thuật: "Tấm huy chương nào cũng có mặt trái của nó" và nền kinh tế thị trường cũng vậy, nó cũng có mặt trái của nó, nó làm cho nền kinh tế chậm phát triển, vậy muốn đất nước đó đi lên giàu mạnh, bền vững thì chúng ta phải tìm cách xây dựng nó, vậy việc đầu tiên trong quá trình sản xuất ta hãy tăng năng suất lao động, với mục đích để cho lực lượng sản xuất phát triển, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và như vậy quan hệ sản xuất cũng sẽ phát triển theo. Cải tiến xã hội cũng là việc làm cho lực lượng sản xuất phát triển cả về mặt chất và mặt lượng, cụ thể trong nền kinh tế của Việt Nam lực lượng sản xuất phát triển cũng chính là những người công nhân, người cán bộ có trình độ cao để khi có công nghệ mới họ có thể lắm bắt nhanh và sử dụng được nó một cách kịp thời và từ đó họ sẽ nâng cao để khi có công nghệ mới họ có thể lắm bắt nhanh và sử dụng được nó một cách kịp thời, và từ đó họ sẽ nâng cao được tay nghề trong quá trình sản xuất nếu không họ sẽ bị đào thải bởi quy luật phát triển. Còn về mặt nhà tư bản thì họ cũng hiểu rằng để đạt được hiệu qủa cao, tận dụng hết được các chức năng của công nghệ tiên tiến thì họ phải có một đội ngũ công nhân lành nghề với trình độ kỹ thuật cao. Vì vậy quá trìn đầu tư cho chiến lược nâng cao trình độ lao động của nhà tư bản và yêu cầu cấp thiết phải nâng cao trình độ của người công nhân ngày càng được nâng cao. Khi đó doanh nghiệp cũng sẽ kiếm được nhiều lợi nhuận, mọi người đều có ý thức, khi đó họ sẽ nghĩ rằng mình cần phải sống, và họ sẽ quay lại để bảo vệ môi trường để hành tinh không bị phá huỷ,...và còn nữa họ có ý thức hơn về cội nguồn và do đó truyền thống văn hoá được gìn giữ và bảo vệ. 2. Đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước: Muốn hạn chế được nhược điểm của nền kinh tế thị trường thì chúng ta chỉ còn cách là làm cho đất nước phát triển mà thôi. Như vậy, trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay để có thể phát triển được thì các doanh nghiệp phải mở rộng sản xuất, phải xây dựng các xí nghiệp lớn, muốn vậy phải hợp nhất nhiều tư bản cá nhân lại thành những công ty cổ phần. Đó là những xí nghiệp mà vốn của nó do những người tham gia gọi là cổ đông góp vào. Cổ đông là người mua cổ phiếu, căn cứ vào số tiền ghi trên cổ phiếu, cổ đông sẽ được lĩnh một phần thu nhập của xí nghiệp gọi là lợi tức cổ phần. Lợi tức cổ phần không cố định mà phụ thuộc vào tình hình kinh doanh của công ty. Cổ phiếu được mua bán trên thị trường gọi là thị giá cổ phiếu. Thị giá cổ phiếu không phải là số tiền ghi trên mặt phiếu, mà là một số tiền đem gửi ngân hàng sẽ thu được một số lợi tức bằng lợi tức cổ phần. Công ty cổ phần ngoài phát hành cổ phiếu còn phát hành trái khoán, người mua trái khoán được nhận lợi tức cố định nhưng không được dự đại hội cổ đông. Thị trường chứng khoán là nơi mua bán các chứng khoán có giá trị. Giao dịch theo hình thức tín dụng người mua chứng khoán chi trả một phần, phần còn lại do môi giới của số dịch vụ ứng trước và hưởng lợi tức về số tiền ứng trước cho người mua. Nước ta đang trên con đường đổi mới từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, với sự tham gia nhiều thànhphần kinh tế, nhu cầu xây dựng và phát triển đất nước đòi hỏi ngày càng nhiều vốn. Theo kinh nghiệm ở các nước phát triển, để huy động được vốn đầu tư nước ngoài và tận dụng được vốn nhàn rỗi trong nước, cần có thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán là một yếu tố, cấu thành đặc biệt quan trọng của nền kinh tế thị trường và nó cũng có đầy đủ đặc trưng của một thị trường. Nói cách khác, thị trường chứng khoán ra đời và tồn tại là một tất yếu trong nền kinh tế. Chỉ có như vậy thì nền kinh tế nước ta mới phát triển được và chỉ có như vậy lực lượng sản xuất trong nước ta mới phát triển được, và sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất trong nước ta mới phát triển được, và sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất trong nước ta sẽ làm cho nước ta tiến tới một nền kinh tế trí thức hoàn chỉnh, lúc đó những khuyết tật trong nền kinh tế thị trường sẽ dần dần được tan đi và biến mất. 3. Tăng cường sự quản lí của nhà nước bằng pháp luật, và các chính sách kinh tế hợp lí: Việt Nam ta đã chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường không thể nào giải quyết được những vấn đề do chính cơ chế đó và bản thân đời sống kinh tế - xã hội đặt ra. Đó là tình trạng thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng, phân hoá bất bình đẳng, ô nhiễm môi trường, sự bùng nổ dân số cũng như những hiện tượng xã hội khác. Những tình trạng và hiện tượng trên ở những mức độ khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp đều có tác động ngược trở lại, làm cản trở sự phát triển "bình thường" của một xã hội nói chung và của nền kinh tế hàng hoá nói riêng. Vì vậy sự tác động của Nhà nước - một chủ thể có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan- vào nền kinh tế là một tất yếu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Thiếu sự "can thiệp của Nhà nước vào kinh tế để cho nền kinh tế thị trường tự do hoạt động, thì việc điều hành nền kinh tế nước ta sẽ không thể có hiệu qủa, cũng giống như người ta vỗ tay mà chỉ dùng một "bàn tay". Sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế hàng hoá ở nước ta được thực hiện bằng luật pháp và các công cụ chính sách vĩ mô khác. Nhà nước sử dụng những công cụ đó để quản lý các hoạt động kinh tế làm cho nền kinh tế "lành mạnh" hơn, giảm bớt những thăng trầm, đột biến xấu trên con đường phát triển của nó, khắc phục được tình trạng phân hoá bất bình đẳng, bảo vệ được tài nguyên môi trường của đất nước. Nhưng như vậy, sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ở nước ta là một sựvận động được điều tiết bởi sự thống nhất giữa cơ chế thị trường - "bàn tay vô hình", và sự quản lý của Nhà nước - "bàn tay hữu hình" PHầN III: KếT LUậN Qua quá trình nghiên cứu ta thấy lợi nhuận là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp là cơ sở cho mọi hình thức kinh tế và cùng với những hiểu biết về vai trò cũng như hạn chế của lợi nhuận áp dụng vào đặc điểm của cơ chế kinh tế cũng như đặc điểm về chính trị xã hội nói lên sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể dừng lại ở các tốc độ tăng trưởng mà đi kèm với nó phải không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống với tiền lương và thu nhập kinh tế tăng trưởng mạnh, y tế giáo dục phát triển, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo, không làm phương hại tới phúc lợi xã hội hay làm đảo lộn vị trí xã hội tương đối của đa số dân chúng. Ngăn chặn sự xuống cấp thậm trí tha hoá trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội, các quan hệ và đạo đức truyền thống trong xã hội. Lợi nhuận đó là nhân tố gần như là số một của nền kinh tế thị trường mà chúng ta phải đạt được nó, càng nhiều càng tốt. ở nước ta sau hơn một thập kỷ đổi mới. Đảng ta đã khẳng định: Cần phải đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, để đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp. Một nước công nghiệp mà ở đó có: GDP tăng gấp khoảng 7 - 8 lần so với năm 1995. GDP bình quân đầu người đạt khoảng 5000 USD, cơ cấu GDP: Công nghiệp khoảng 40%, dịch vụ khoảng 50%, nông nghiệp khoảng 10%: Cơ cấu nông nghiệp là vậy còn riêng trong lĩnh vực công nghiệp phải đạt 2/3 cả dịch vụ trong đó nửa còn lại là nông nghiệp. Tương ứng, mức độ đô thị hoá đạt khoảng 60 - 70% (tính theo dân số). Hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại trên phần lớn các vùng đất nước, với nhiều đầu mối giao lưu và hành lang liên kết với các nước trong khu vực và trên thế giới. Thực hiện điện khí hoá trong cả nước với mạng điện quốc gia phủ khắp lãnh thổ. Trình độ áp dụng tin học hoá chiếm phần lớn các công việc sản xuất, kinh doanh, quản lý. Cuộc sống vật chất trên 90% nhân dân đạt mức sung túc, không còn người nghèo khổ như hiện nay: Mức ăn bình quân 3000 Kalo/Người/Ngày. Tuổi thọ trên 70 khoảng cách giàu nghèo (so 20% số giàu nhất và so với 20% số người nghèo nhất), chênh lệch nhau khoảng 5 - 6lần. Thanh niên được đi học phổ cập cấp II, trung học và cố đủ kiến thức nghề nghiệp để làm một việc nhất định. Một phần lớn, chủ yếu là ở đô thị đạt mức phổ cập cấp III trung học. Môi trường sinh thái được giữ gìn và cải thiện (xanh, sạch, đẹp). Tỷ lệ che phủ của rừng đạt trên 50% diện tích lãnh thổ. Về cơ bản đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Đây cũng là lý tưởng về CNXH ở Việt Nam giai đoạn ban đầu. Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. * ý kiến cá nhân - Như đã biết, nước ta mới bắt đầu đổi mới mở cửa đất nước từ năm1986, từ đó đến nay là quãng thời gian chưa phải là dài, nhưng đất nước ta đã đạt được một số thành tựu bước đầu, điều đó đã khẳng định sự đúng đắn trong đường lối, chính sách của đảng và nhà nước ta. Mở cửa nền kinh tế thực chất là cởi trói nền kinh tế, hạn chế sự can thiệp của nhà nước vào các quá trình kinh tế, làm cho các hoạt động kinh tế đi theo đúng quy luật của nó. Nước ta tiến hành đổi mới muộn hơn so với các nước, tuy có đạt được một số thành tựu nhất định nhưng so với yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, so với các nền kinh tế phát triển, đặc biệt là trước quá trình toàn cầu hoá hiện nay thì chúng ta còn phải cố gắng rất nhiều. Đóng góp vào công cuộc chung của đất nước em xin có một số ý kiến như sau: - Để phát triển thì yếu tố cơ bản đầu tiên đó là vấn đề con người, tức là nguồn nhân lực, lực lượng lao động của chúng ta là rất dồi dào, tuy nhiên chất lượng của đội ngũ lao động không cao, phần lớn mới chỉ là lao động thủ công, trình độ thấp, năng xuất lao động thấp. Vì vậy nhà nước phải chú trọng đầu tư cho việc nâng cao trình độ, kĩ năng cho người lao động đồng thời với việc phân bổ đào tạo tương ứng với kết cấu của các ngành kinh tế - Vốn là yếu tố quan trọng trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại, hiện nay vốn trong nước không đủ để đầu tư cho các ngành kinh tế, vì vậy chúng ta phải tích cực kêu gọi đầu tư nước ngoài, thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư , đồng thời với việc cải cách thủ tục hành chính để xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế đất nước. - Tăng cường học hỏi kinh nghiệm của các nước đã thành công trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là các nước có hoàn cảnh kinh tế chính trị giống như nước ta. - Nâng cao năng xuất lao động, hạ giá thành sản phẩm, tăng cường khả năng cạnh tranh cho hàng hoá của ta... - Để thu được nhiều lợi nhuận, để tăng trưởng thì ta phải nâng cao trình độ của cán bộ quản lý kinh tế của nước ta bằng cách bồi dưỡng và khích lệ nhân tài phát triển. Bên cạnh đó phải đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học thông minh, năng động để nắm bắt được khoa học, công nghệ một cách nhanh nhất, muốn vậy Nhà nước ta phải thực hiện theo Đại hội VIII và IX của Đảng như sau: - Giữ vững độc lập chủ quyền đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế. - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo. - Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. - Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản. - Kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh. Như vậy ta phải tăng trưởng đi đôi với phát triển đó là xu thế phát triển của thời đại và cũng là con đường ngắn nhất đi lên CNXH ở nước ta. Cần đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá sở hữu, tạo điều kiện phát triển mạnh nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta. Đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xã hội ở nước ta nó cũng đồng nghĩa với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường: Dịch vụ, yếu tố sản xuất. Tiếp tục đổi mới và nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước. Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách nền hành chính quốc gia. Đẩy mạnh việc mở cửa, hợp tác với nước ngoài. Chúng ta mong đợi và tin tưởng rằng quá trình phát triển kinh tế đất nước sẽ đi đến thắng lợi. Tài liệu tham khảo 1- Berg David...kinh tế học tập I, II 2 - Giáo trình kinh tế chính trị Mac - Lênin 3 - Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế. 4 - Kinh tế và dự báo số 2. 5 - Kinh tế thế giới số 4. 6 - CacMác: Tư bản quyển I 7 - Mác Các: Tư bản quyển III. 8 - Nghiên cứu kinh tế số 224 - 1/97 9 - Nghiên cứu kinh tế số 254 - 7/99. 10 - Phát triển kinh tế số 76/97 11 - Samuellson A.Paul...Kinh tế học tập I, II. 12 - Thương mại số 9/98 13 - Thương mại số 14/99 Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35420.doc
Tài liệu liên quan