Đề tài Vai trò giới trong đội ngũ cán bộ Đoàn/Hội/Lớp tại một số trường đại học hiện nay

MỤC LỤC Lời cảm ơn Phần mở đầu I. Tên đề tài II. Tính cấp thiết cảu đề tài III. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu IV. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phần nội dung I. Cơ sở lý luận của đề tài II. Các khái niệm công cụ III. Mô tả mẫu nghiên cứu IV. Kết quả nghiên cứu A. Thực trạng cơ cấu cán bộ Đoàn/Hội SVLớp B. Đánh giá của sinh viên về vai trò giới trong đội ngũ cán bộ Đoàn/HộiSV/Lớp 1. Đánh giá của sinh viên về tầm quan trọng của Lớp trưỏng/Bí thư chi đoàn/Chi hội trưởng 2. Vẻ ngoài bình yên của những quan điểm vĩ mô a. Quan điểm về ngành học b. Quan điểm về mô hình “Nam trưởng- nữ phó” c. Quan điểm về thiên chức của phụ nữ, nam giới và bình đẳng giới d. Quan điểm về sự thành đạt và bất hạnh của người phụ nữ 3. Định kiến giới trong tư duy cụ thể 3.1. So sánh phẩm chất, năng lực của cán bộ Đ/H/L là nữ sinh viên và nam sinh viên 3.2. Đánh giá về đội ngũ lãnh đạo đất nước bằng cách cho điểm hai đối tượng: nam giới và phụ nữ 3.3. Mong muốn của sinh viên về tỷ lệ nữ bộ trưởng hợp lý 3.4. Tiêu chí lựa chọn sinh viên vào Ban chấp hành Đ/H/L 4. Một số nguyên nhân nhìn từ góc độ lý thuyết học tập- xã hội C. Kết luận Tính cấp thiết của đề tài 1. Phụ nữ là một nửa của nhân loại. Do đó, từ trước đến nay vấn đề phụ nữ luôn được nhiều nhà khoa học quan tâm , nghiên cứu. Xã hội càng phát triển, vấn đề phụ nữ càng trở nên quan trọng. Địa vị của phụ nữ trong xã hội có thể xem như là thước đo trình độ văn minh của một đất nước. Nhà nước, các tổ chức xã hội và cộng đồng quốc tế đóng vai trò cơ bản trong việc đạt tới bình đẳng giới. Những năm qua xã hội đã thu được những kết quả to lớn trong vấn đề này. Các hội nghị của phụ nữ quốc tế như ở Mexico (1975), Nairobi (1985) và Bắc Kinh (1995) bản thân chúng là những thức đo về sự trao quyền cho phụ nữ. Tuy vậy vẫn còn một số thách thức quan trọng: ã Tác động về giới của các chính sách vĩ mô và chính sách ngành cụ thể là gì? Các phản ánh chi tiêu công cộng có thể thúc đẩy hay cản trở sự bình đẳng giới và hiệu quả kinh tế như thế nào? Làm thế nào để hiểu biết sâu sắc hơn mối quan hẹ bình đẳng giới để phản ánh mối quan hệ đó trong các quyết định chính sách ? Còn nhiều vấn đề chưa biết hoặc chưa hiểu rõ, đòi hỏi phải thu nhập thêm và tốt hơn các dữ liệu để phân tích ã Càng ngày người ta càng thấy rằng xem xét quan hệ giới trong xã hội không chỉ dừng ở chỗ xem các chính sách và chương trình tác động ra sao đến những yếu tố phát triển thông thường (giáo dục, sức khoẻ, lực lượng lao động) mà quan trọng hơn phải xem xét các hình thức can thiệp cụ thể đã nâng cao thế nào quyền tự chủ, khả năng lãnh đạo và tiếng nói của phụ nữ, kể cả trong gia đình và trong xã hội. Để hiểu rõ cách can thiệp nào là hiệu quả nhất nhằm đạt được điều này, cần sự phân tích giới sâu sắc hơn. Ở Việt Nam, về vị trí của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội có hai cách đánh giá trái ngược nhau: _Về cơ bản phụ nữ có địa vị bình đẳng với nam giới do đặc điểm của văn hoá Việt Nam – nền văn hoá Đông Nam Á, do nhu cầu cuộc sống và và hoạt động sản xuất của các gia đình trồng lúa nước, do hoàn chiến tranh kéo dài, người chồng luôn vắng nhà, công việc sản xuất và nuôi con, chăm sóc cha mẹ già giao cho người vợ đảm nhận. Vì thế người phụ nữ có vai trò, vị trí thật sự quan trọng trong gia đình (họ có quyền và được kính nể) _ Phụ nữ việt nam về cơ bản vẫn ở vào địa vị phụ thuộc người chồng và chịu sự bất bình đẳng trong cả gia đình và ngoài xã hội, do ảnh hưởng của Nho giáo kéo dài nhiều năm ở nước ta và chiếm vị trí quốc giáo. hiện nay kết quả các cuộc điều tra Xã hội học về sự bình đẳng giới trong gia đình vẫn chứng minh vị tí thấp kém của người phụ nữ so với nam giới (nam giới nắm quyền chủ hộ, quyết định những công việc quan trọng trong gia đình, bạo lực của người chồng với người vợ vẫn tồn tại khá phổ biến). Như vậy việc đánh giá mức độ ảnh hưởng của Văn hoá bản địa và ảnh hưởng của Khổng giáo đối với gia đình Việt nam hiện nay vẫn còn là vấn đề tranh cãi chưa thể kết luận được. (“Gia đình Việt Nam ngày nay”- T143- GS Lê Thi ) Bình đẳng giới là một nội dung của tiến bộ xã hội, là một nguyên tắc cơ bản của Đảng và Chính phủ Việt nam. Sự quan tâm của Đảng và nhà nước đối với vấn đề này trong vài thập niên vừa qua thể hiện qua nhiều chỉ thị nghị quyết riêng cho phụ nữ như:  Nghị quyết 176/ HĐBT về phát huy vai trò và năng lực của phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa – Hà nội 24/12/1984  Quyết định 163/ HĐBT về tăng cường vai trò của Hội LHPN trong tham gia quản lý nhà nước – Hà nội 1989  Nghị quyết 04/ NQ- TW của Bộ Chính Trị về “Đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”- Hà Nội 12/7/1993  Chỉ thị 37 –CT/ TW về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới – Hà nội 16/5/1994 Nghị quyết 04-NQ-TW đã khẳng định cần tăng số lượng nữ trên các vị trí quyền lực ở mọi lĩnh vực trong các ban của Đảng và trong Chính phủ. Nghị quyết cũng nói rằng cần tập trung nỗ lực đấu tranh với việc phân biệt đối xử và không tôn trọng phụ nữ đặc biệt là tại nơi làm việc. Đáp ứng đòi hỏi thực tiễn cuả đất nước là tăng trưởng kinh tế song song với tiến bộ xã hội, các hoạt động của Hội LHPNVN, các tổ chức đoàn thể trong nước và quốc tế ngày càng tăng về số lượng và chất lượng. Trong lĩnh vực xã hội học về giới, vấn đề phụ nữ đã được nghiên cứu ở nhiều khía cạnh như: Vấn đề công bằng xã hội và hội nhập xã hội của phụ nữ , vấn đề chính sách đối với phụ nữ, vấn đề dân số và phụ nữ, vấn đề xoá đói giảm nghèo và phụ nữ, vấn đề giáo dục, truyền thông đại chúng và phụ nữ . Trong đó vấn đề hội nhập xã hội của phụ nữ tỏ ra nổi bật trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá của đất nước. Rõ ràng việc chia sẻ trách nhiệm, quyền lợi của phụ nữ và nam giới trong công việc điều hành xã hội là xu thế tất yếu của xã hội hiện đại. 2. Giới và các nghiên cứu xã hội học về giới ở Việt Nam Trong các nghiên cứu trên thế giới cũng như ở Việt Nam, vấn đề phụ nữ và giới được xem xét lý giải từ nhiều góc độ khác nhau và rất khó tách bạch đâu là nghiên cứu thuần tuý phụ nữ học và đâu là nghiên cứu thuần tuý khoa học về giới. Khoa học về giới nói chung, XHH về giới nói riêng ở Việt Nam lấy lý luận và quan điểm Macxit về “giải phóng phụ nữ” và bình đẳng nam nữ làm cơ sở tư tưởng và phương pháp luận để xem xét và giải quyết những vấn đề nảy sinh. Trong lĩnh vực XHH về hội nhập xã hội của phụ nữ, một số tác giả uy tín có nhiều công trình nghiên cứa là Trần Thị Vân Anh, Lê Thi, Lê Thị Quý, Lê Ngọc Hùng, Hoàng Bá Thịnh .Một số công trình đáng chú ý là :  “Vấn đề đào tạo việc làm, tăng thu nhập nâng cao địa vị người phụ nữ hiện nay” ( Lê Thi –HN-1991)  “Phụ nữ, giới và phát triển” ( Trần Thị Vân Anh – Lê Ngọc Hùng. NXB Phụ nữ, Hà Nội 1996)  “ Đánh giá thực trạng vấn đề giới trong hệ thống tổ chức nhà nước ở Vụ tổ chức cán bộ các bộ ngành và ban tổ chức chính quyền tỉnh, thành phố “( Ban tổ chức cán bộ chính phủ- Hà Nội 3/1998)  “Thực trạng đội ngũ cán bộ nữ ở cơ sở “ –Trung tâm hỗ trợ giáo dục và nâng cao năng lực cho phụ nữ -Hà nôi, 6/1999  “Xã hội học về giới phát triển “ – Lê Ngọc Hùng – Nguyễn Thị Mỹ Lộc. NXB ĐHQG Hà nội 2000. Các công trình nghiên cứu trên đã chỉ ra thực trạng đời sống của phụ nữ và sự tham gia của phụ nữ trong quản lý, lãnh đạo đất nước qua nhiều giai đoạn khác nhau. Tuy nhiên hầu hết các nghiên cứu chưa khái quát lên thành những nhận định có tính lý luận để có thể kiểm chứng. Do đó các ý kiến đề xuất, các kiến nghị chưa được thuyết phục để vận dụng trong thực tiễn. Lý do của hạn chế này, theo tôi là :  Tính mới mẻ của ngành khoa học về giới ở Việt Nam. Khoa học về giới nói chung, xã hội học về giới nói riêng mới chỉ phát triển ở Việt Nam vài chục năm trở lại đây. Điều đó giải thích sự hạn chế nhất định về số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu.  Sự đầu tư chưa đủ lớn về công sức, tiền của cho những nghiên cứu lý thuyết cũng như nghiên cứu thực nghiệm. Đối với nghiên cứu thực nghiêm, sự hạn chế của số lượng công trình là một nguyên nhân ảnh hưởng đến sự yếu kém trong khái quát lý luận. Đặc biệt, đối với lĩnh vực XHH về giới trong lãnh đạo và quản lý, các nghiên cứu mới chỉ tập trung vào những đối tượng đã là cán bộ tham gia hệ thống quản lý xã hội chính thức mà chưa có những hướng phân tích toàn diện chẳng hạn như định hướng, thái độ, quan điểm giới trong lĩnh vực quản lý học sinh, sinh viên. Sinh viên là bộ phận trí thức trẻ tiên tiến nhất của thanh niên nên để phân tích và dự báo về vai trò giới trong đội ngũ lãnh đạo đất nước không thể bỏ qua lực lượng này. Điều đó cho phép các nghiên cứu thực nghiệm tiếp tục soi rọi vấn đề giới ở những góc độ mới.

doc70 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1891 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò giới trong đội ngũ cán bộ Đoàn/Hội/Lớp tại một số trường đại học hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ới được. Bạn có đồng ý không?”. Tôi nhận được kết quả trả lời như sau: Bảng : Ý kiến về nhận định “Phụ nữ và nam giới có thiên chức khác nhau nên không thể có bình đẳng giới được”. Tần số Tần suất Đồng ý 30 12,8% Không đồng ý 180 76,9% Phân vân 21 10% Không trả lời 3 1,3% Tổng 234 100% Sinh viên tỏ ra coi nhẹ yếu tố sinh học quy định “thiên chức” của phụ nữ và nam giới. Mặc dù ý kiến phủ nhận của nữ giới vẫn mạnh mẽ hơn nam giới (90,5% so với 62,8%) nhưng về cơ bản đa số sinh viên đều thống nhất với nhau về ý kiến “ không đồng ý”. So với nam sinh viên năm thứ I - II ; nam sinh viên năm thứ III- IV có mức độ phủ nhận cao hơn. Có 59,6% sinh viên nam năm I - II không đồng ý trong khí có tới 80% sinh viên nam năm thứ ba và thứ tư có cùng ý kiến . Nhưng kết quả kiểm định không cho phép kết luận quan hệ phụ thuộc giữa ý kiến này của nam sinh viên với giới tính của họ (c2quan sát =5.3< c2lý thuuyết =5.99). d. Quan điểm về sự thành đạt và bất hạnh của người phụ nữ. Từ nhận thức rằng lãnh đạo phong trào sinh viên cũng là một hình thức lãnh đạo xã hội, tôi tìm hiểu về 1 vấn đề khá tế nhị và nhạy cảm giới hiện nay, đó là việc giải quyết quan hệ “ gia đình - xã hội” của người phụ nữ. Hiểu được suy nghĩ của sinh viên đối với vấn đề này cũng là một cách soi sáng đánh giá của họ về vai trò giới từ góc độ vĩ mô. Liệu người phụ nữ thành đạt ngoài xã hội có thường bất hạnh trong đời sống gia đình và ngược lại”. Sau đây là tổng hợp ý kiến của sinh viên Phụ nữ thành đạt trong xã hội có bất hạnh trong đời sống gia định và ngược lại? Tần số Tần suất Có 30 12,8% Không 138 59,4% Phân vân 65 27,8% Tổng 234 100% Tỷ lệ sinh viên “ phân vân” đáng phải lưu ý (27,8%) vì quả thực đây là câu hỏi không dễ trả lời chút nào. Song cũng đã có tới 59% sinh viên bày tỏ sự không đồng ý. Giữa nam và nữ sinh viên không có sự khác biệt lớn hơn về vấn đề này. Tỷ lệ không đồng ý ở nữ là 64,8% và ở nam là 53,3 %. Tỷ lệ “ phân vân” ở nữ là 24,8% và ở nam là 31,8%.Bài toán kiểm định cho két quả c2quan sát =4.67 <c2lý thuuyết =5.99:Không có mối liên hệ phụ thuộc giữa quan điểm trên của sinh viên với giới tính của họ Trên đây là kết quả phân tích từ các biến số, có tính chất khái quát vĩ mô. Dường như những dấu vết của chế độ gia trưởng tồn tại trong xã hội Việt Nam hàng nghìn năm đã phai nhạt? Dường như vị trí của phụ nữ và nam giới nói chung, cán bộ sinh viên nam và nữ nói riêng khá bình đẳng?. Nhưng rõ ràng để tìm hiểu một vấn đề giới không thể chỉ dừng ở góc độ vĩ mô mà phải xét cả ở cấp độ vi mô, không chỉ giới hạn ở sự quan niệm mà phải xem xét cả ứng xử cụ thể của sinh viên đối với vấn đề nghiên cứu. 3. Định kiến giới trong tư duy cụ thể Có thể khi được hỏi, không một ai tự nhận mình là người có thiên kiến giới hay định kiến giới. Bởi đó là câu hỏi định tính. Vì thế, những quan điểm vĩ mô coi phụ nữ và nam giới bình đẳng chưa phải là bằng chứng đích thực của thực tiễn. Người nghiên cứu đã cố gắng lượng hoá vai trò giới thành những khía cạnh cụ thể và kết quả cho thấy: Cái cụ thể không chứng minh cho điều mà cái vĩ mô đã mở ra. 3.1.So sánh phẩm chất năng lực của cán bộ Đ/H/L là nữ sinh viên và nam sinh viên. Những phẩm chất đưa ra gồm: Tính sáng tạo(1), Sức khoẻ(2) . Bản lĩnh 93) , Khả năng thu hút sinh viên (4), Khả năng tư duy (5), Ý thức trách nhiệm (6), Tính kiến trì vượt khó (7), Tầm nhìn xa rộng (8). Với 234 sinh viên trong mẫu điều tra, kết quả nghiên cứu cho thấy những phẩm chất được đánh giá cao ở cán bộ sinh viên nữ là “ý thức trách nhiệm”, “tính kiên trì vượt khó”, “khả năng thu hút sinh viên” ; còn những phẩm chất được đánh giá cao ở cán bộ nam là tính sáng tạo, sức khoẻ, bản lĩnh, khả năng tư duy và tầm nhìn xa rộng. Ở đây xin đi sâu phân tích một số phẩm chất tiêu biểu. a.Khả năng tư duy: Đây là biến số thể hiện trí tuệ của con người, và nó có ý nghĩa quan trọng nhất đối với những người làm cán bộ /lãnh đạo. Ai có khả năng tư duy tốt thì cũng có khả năng lãnh đạo tốt và ngược lại. Đánh giá về khả năng tư duy của cán bộ Đ/H/L là nữ và nam, sinh viên trong mẫu điều tra cho rằng: Tần số Tần suất Khả năng tư duy của cán bộ nữ lớn hơn nam 17 7.2% Khả năng tư duy của cán bộ nữ nhỏ hơn nam 108 46,2% Khả năng tư duy của cán bộ nữ bằng nam 106 45,3% Không trả lời 3 1,3% Tổng 234 100% Còn tới 46,2% sinh viên khẳng định rằng khả năng tư duy của cán bộ sinh viên nữ kém hơn so với nam. Điều này cho thấy định kiến giới thật rõ ràng. Trong xã hội Việt Nam phong kiến hầu như việc tiếp thu tri thức và lãnh đạo trong xã hội là của nam giới, vì thế từ học hành, thi cử, trau dồi tài năng là lĩnh vực của nam giới. Thậm chí tư tưởng “ nữ nhân nan hoá” ( Đàn bà là giống khó dạy) còn trở nên phổ biến trong xã hội. Ngày nay, phụ nữ cũng được học hành như nam giới, các thành tựu khoa học cũng chứng minh rằng chỉ số IQ của nữ giới không thua kém gì nam giới. Vậy mà vẫn còn một số lượng lớn sinh viên coi thường khả năng tư duy của nữ giới. Đây là một cách phủ nhận khả năng lãnh đạo của nữ sinh viên. Giữa sinh viên nam và sinh viên nữ có quan điểm khác nhau hay không? Câu trả lời là có. Chúng ta cũng quan sát bảng tương quan Giới tính và Nhận xét về sinh viên về khẳ năng tư duy của cán bộ Đ/H/L Bảng :Nhận xét của sinh viên về khả năng tư duy của cán bộĐ/H/L Nam Nữ Khả năng tư duy của cán bộ nữ lớn hơn nam 5,7% 8,8% Khả năng tư duy của cán bộ nữ nhỏ hơn nam 57,1% 38,4% Khả năng tư duy của cán bộ nữ bằng nam 37,2% 52,8% Tổng 100% !00% Qua bảng trên, có thể thấy ý kiến nổi trội ở nhóm sinh viên nam là “ Khả năng tư duy của nữ kém hơn nam” còn ý kiến phổ biến ở nhóm sinh viên nữ là “ Khả năng tư duy của nữ bằng nam” . Kết quả của bài toán kiểm định là c2quan sát =9.2> c2lý thuuyết =5.99.Có thể khẳng định tồn tại mối quan hệ nào đó giữa giới tính của sinh viên với đánh giá của họ về khả năng tư duy cuả cán bộ Đ/H/LĐiều đáng nói ở đây là ngay bản thân nữ sinh viên cũng thừa nhận chưa mạnh mẽ lắm về khẳ năng tư duy của cán bộ Đ/H/L là nữ, nghĩa là chưa ý thức rõ lắm về tri tuệ của giới mình. Còn nam giới thì thể hiện 1 thiên kiến rõ ràng đối với nữ giới. Đây là 1 cản trở đối với quá trình nâng cao tiếng nói của nữ sinh viên nói riêng, của phụ nữ nói chung trong cuộc sống và trong xã hội. Giữa các trường ĐH sắc thái ý kiến cũng khác nhau. Qua điều tra tôi thấy rằng nhóm nam sinh viên trường KTQD và nhóm nữ sinh viên trường ĐHKHXH&NV có ý kiến tích cực hơn cả. Bảng: So sánh khả năng tư duy của cán bộ Đ/H/L là nữ và nam ( của nhóm sinh viên nữ) ĐHKHXH&NV ĐHKTN ĐHKTQD Khả năng tư duy của cán bộ nữ lớn hơn nam 8.5% 4,3% 11,6% Khả năng tư duy của cán bộ nữ nhỏ hơn nam 33,9% 39,1% 44,2% Khả năng tư duy của cán bộ nữ bằng nam 57,6% 56,5% 44,2% Tổng 100% 100% 100% Khi kiểm định giả thiết “Nữ sinh viên đánh giá khả năng tư duy của cán bộ Đ/H/L không phụ thuộc vào trường học của họ” tôi nhận dược kết quả c2quan sát =1.75<c2lý thuuyết =9.19:Chấp nhận giả thuyết đúng. Bảng so sánh khả năng tư duy của cán bộ Đ/H/L là nữ và nam (của nhom sinh viên nam) ĐHKHXH&NV ĐHKTN ĐHKTQD Khả năng tư duy của cán bộ nữ > nam 8,3% 2,6% 7% Khả năng tư duy của cán bộ nữ <nam 75% 60,5% 44,2% Khả năng tư duy của cán bộ nữ = nam 16,7% 36,8% 48,8% Đối chiếu giữa nhóm nam và nhóm nữ của cả 3 trường thấy rằng ở trường ĐHKTQD quan điểm của 2 nhóm là khá thống nhất. Ở cả nam sinh viên và nữ sinh viên đều có 44,2% người cho rằng khả năng tư duy của nữ kém nam, 2 chỉ số còn lại cũng khá tương ứng. Chúng dều nói lên cán bộ Đ/H/L nữ ở đây được coi trọng ở mức khá hơn so với mặt bằng chung của mẫu điều tra. Ở trường ĐHKHXH và NV và trường ĐHKHTN độ chênh trong quan điểm của nhóm nam và nữ là cực lớn. Đặc biệt nhóm nam sinh viên trường ĐHKHXH &NV rất coi nhẹ khả năng tư duy của cán bộ Đ.H.L là nữ ( có tới 75% nam sinh viên cho rằng khả năng tư duy của cán bộ nữ kém hơn cán bộ nam. Kết quả này phù hợp với kết quả điều tra ý kiến về mô hình “nam trưởng - nữ phó” ở phần tóc (41,7% sinh viên nam trường ĐHKHXH & NV đồng ý với mô hình này cao nhất trong các nhóm sinh viên). Nếu lấy số lượng nam - nữ sinh viên ở mỗi trường làm tiêu chí thì ở trường KTQD số nam và nữ gần ngang bằng nhau nên không khí dân chủ có vẻ rõ ràng hơn. Ở trường ĐHKHTN đa số sinh viên là nam nên phái nữ tỏ ra yếu thế hơn. Còn ở trường ĐHKHXH & NV? Tư tưởng bình đẳng về trí tuệ ở nhóm nữ rất mạnh nhưng ở nhóm nam lại rất yếu mặc dù số sinh viên nữ trong trường chiếm 2/3 và có nhiều điều kiện để phát huy năng lực của mình.( số cán bộ Đ/H/L là nữ nhiều hơn nam ). Điều này cho thấy số lượng nữ đông chưa phải là tiền đề cho sự nhận thức vai trò giới một cách bình đẳng. Bởi bình đẳng giới không thể thực hiện được nêú chỉ có một giới nhận thức và hành động. Nếu lấy nhóm ngành làm tiêu chí thì khối kinh tế tỏ ra coi trọng khả năng tư duy của nữ hơn. Khối xã hội vốn là “số đông” là “đất” của phái nữ thì lại là nơi nữ cán bộ Đ/H/L chưa được thừa nhận nhất từ phía nam sinh viên. Điều này cho thấy mâu thuẫn giới tiềm ẩn ở nơi nào ý thức bình đẳng ở phía nữ phát triển cao hơn mặt bằng chung của xã hội? Khi so sánh giữa các nhóm sinh viên có mức độ tham gia phong trào sinh viên khác nhau tôi nhận được kết quả thú vị: chính những sinh viên thường xuyen tham gia phong trào lại đánh giá thấp khả năng tư duy của nữ cán bộ Đ/H/L hơn so với những sinh viên ít tham gia. Có tới 53.1% sinh viên thường xuyên tham gia phong trào sinh viên cho rằng khả năng tư duy của cán bộ Đ/H/L nữ kém hơn cán bộ nam, trong khi tỷ lệ này ở nhóm “thỉnh thoảng tham gia” là 44.3%, và ở nhóm “không bao giờ tham gia” là 45.5 %.Để lý giải điều này cần những nghiên cứu phân tích sâu hơn nữa. Đi xuyên qua vẻ bình yên của những quan điểm vĩ mô, ta thấy xuất hiện một sự đối nghịch. Trong khi đa số sinh viên cho rằng những phụ nữ thành đạt trong xã hội không bất hạnh trong đời sống gia đình thì lại có gần một nửa cho rằng khả năng tư duy của nữ kém nam, nghĩa là gián tiếp không thừa nhận họ thành đạt trong công việc xã hội như nam giới là một việc bình thường. Khi dư luận chung chưa thể hợp lý hoá trí tuệ của người phụ nữ từ lĩnh vực gia đình sang lĩnh vực quản lý lãnh đạo thì liệu người phụ nữ có thể hài hoà cả sự thành đạt xã hội và hạnh phúc gia đình không? Mâu thuẫn rõ ràng hơn trong quan điểm của nhóm sinh viên nam. Có 53,3% sinh viên nam không đồng ý rằng phụ nữ thành đạt trong xã hội thì bất hạnh trong đời sống gia đình, nhưng lại có 57,1% sinh viên nam khẳng định khả năng tư duy của cán bộ Đ/H/L nữ là kém hơn so với nam Như vậy, dù trong nhận thức chung nam sinh viên luôn mong muốn bình đẳng giới nhưng trong tư duy cụ thể thì họ lại chưa sẵn sàng thừa nhận một nền tảng của sự bình đẳng, đó là thừa nhận trí tuệ của nữ sinh viên. Ngay bản thân họ cũng không tự nhận thấy điều đó. Sau đây là ý kiến của bạn N.V.T chủ tịch hội sinh viên trường ĐHKTQD: “Tôi nghĩ mãi nhưng cũng chưa nghĩ ra tại sao những người phụ nữ thành đạt thì lại bất hạnh trong đời sống gia đình.Có lẽ là do “chi phí cơ hội” Khi người phụ nữ phấn đấu thành đạt ở một mức độ nào đó thì tiêu chí về người chồng của họ lại càng cao, cho nên cơ hội lựa chọn chồng ít đi . Về khả năng lãnh đạo của phụ nữ thì tôi xin không phát biểu ý kiến..”. Đối với nữ sinh viên dường như sự e ngại trong vấn đề đó cũng còn khá lớn, bởi vì tương lai họ cũng sẽ là những người vợ, người mẹ và họ không thể không bị ảnh hưởng bởi quan điểm của nam giới. Bạn N.H.M, cán bộ Đoàn trường ĐHKHXH&NV tâm sự: “ Mình có thể lấy ví dụ ngay ở gia đình mình về quan niệm của nam và nữ trong sự nghiệp. Bố mình đã về hưu còn mẹ mình vẫn đang giữ vị trí lãnh đạo ở một cơ quan lớn ở tỉnh”. Chính điều đó gây ra một số mâu thuẫn lớn trong gia đình mình, vì hầu như những việc lớn do mẹ quyết định và bố mình luôn có thái độ tự ti vì thua kém vợ, xấu hổ trước mặt con cái. Mẹ mìmh rất trăn trở và hay tâm sự với mình về chuyện đó. Nói chung là rất khó nhưng phải cố gắng thì làm được... Mình cũng thấy sợ và thường nói với mẹ rằng sau này ít nhất con cũng phải lấy người hơn con về trình độ.” b. Tầm nhìn xa rộng: Đây cũng là một biến số bổ sung cho ‘khả năng tư duy, nhưng ở mức độ cao hơn xét từ khía cạnh quản lý. Ý kiến của sinh viên cũng mạnh mẽ, rõ rệt hơn so với biến “khả năng tư duy”. Kết quả thống kê như sau: Bảng: Đánh giá Tầm nhìn xa rộng của cán bộ Đ/H/L Tần số Tần suất Tầm nhìn xa rộng của cán bộ nữ lớn hơn nam 18 7,7% Tầm nhìn xa rộng của nữ nhỏ hơn nam 128 54,7% Tầm nhìn xa rộng của nữ bằng nam 84 35,9% Không trả lời 4 4,7% Tổng 234 100% Tầm nhìn xa rộng, là tiêu chí đánh giá về tài năng lãnh đạo. Đến đây thì cánh cửa dường như khép lại hẹp hơn đối với cán bộ Đ/H/L là nữ. Sự dè dặt thể hiện trong việc đánh giá trí tuệ nữ giới cũng bộc lộ rõ hơn. Quan sát trong tương quan giới tính ta sẽ thấy sự khác biệt càng trở nên gay gắt . Bảng: So sánh tầm nhìn xa rộng của cán bộ Đ/H/L nữ và nam theo quan giới tính Nam Nữ Tầm nhìn xa rộng của nữ >nam 2,8% 12,1% Tầm nhìn xa rộng của nữ <nam 72,4% 41,1% Tầm nhìn xa rộng của nữ = nam 24,8% 46,8% Tổng 100% 100% Như vậy đa số sinh viên nam (72,4%) không thừa nhận tầm nhìn xa rộng của cán bộ nữ là ngang bằng với nam giới, trong khi chỉ có 41,1% nữ thừa nhận. Đây là một tương quan rất ý nghĩa nó càng khẳng định rằng. Cán bộ Đ.H/L là nữ chịu rất nhiều sức ép về định kiến giới, trong khi chính bản thân họ cũng chưa phải đã nhận thức rõ ràng về khả năng của mình.Kết quả kiểm định đã khẳng định mối quan hệ phụ thuộc giữa giới tính của sinh viên với đánh giá của họ về tầm nhìn xa rộng của cán bộ Đ/H/L (c2quan sát =24.05>c2lý thuuyết =5.99). Để thấy rõ hơn các sắc thái ý kiến , chúng ta cùng quan sát biểu đồ: Trong vấn đề này, ý kiến của nhóm nữ và nhóm nam các trường không khác biệt nhiều lắm ( các chỉ số tương ứng của nhóm nữ sinh viên trường ĐHKHXH &NV là 17,2% - 37,9%; trường ĐHKHTN 8,7% - 43,3% - 4,8%; trường ĐHKTQD là 12,1% - 48,2% - 44,7%. Các chỉ số tương ứng của nhóm nam sinh viên trường ĐHKHXH&NV là 0% - 70,8% - 29,2%; trường ĐHKHTN là 2,6% - 71,1% - 26,3% ; trường ĐHKTQD là 4,7% - 74,4% - 20,9%) c. Ýthức trách nhiệm: Đây cũng là một phẩm chất quan trọng cảu người cán bộ Đ/H/L song cũng là một biến số nói lên tính nhạy cảm giới. Vì thế người ngoài cuộc muốn được đo lường sự đánh giá vai trò giới của sinh viên thông qua ý thưcs trách nhiệm của người đó với công việc. Kết quả cho thấy giả thiết về định kiến giới là có cơ sở. Bảng: So sánh về ý thức trách nhiệm của cán bộ Đ.H/L nữ và nam Tần số Tần suất Ý thức trách nhiệm của CB nữ >nam 116 49,6% Ý thức trách nhiệm của CB nữ <nam 22 9,4% Ý thức trách nhiệm của CBnữ =nam 92 39,3% Không trả lời 4 1,7% Tổng 234 100% Ngược lại với “ khả năng tư duy” và tầm nhìn xa rộng, phẩm chất ý thức trách nhiệm rất được đánh giá cao ở cán bộ nữ (49,6%). Phải chăng đây là ảnh hưởng của định kiến giới từ xã hội truyền thốngViệt Nam với sắc thái Nho giáo đậm nét? Người phụ nữ Việt Nam xưa dường như cả cuộc đời chỉ hy sinh cho chồng con, hầu như tan biến vào cuộc đời của chồng của con, vì thế mà hình ảnh của họ gắn liền với sự chịu đựng, sự vun vén cho gia đình. Trong sinh viên, đó vẫn còn là một giá trị,cũng như đa số sinh viên không coi trọng phẩm chất này ở cán bộ Đ.H/L là nam giống như trong xã hội phong kiến ngày xưa. Vấn đề là ở chỗ , chính sinh viên nữ đánh giá rất cao yêu cầu này của giới mình và đi kèm với nó là xem thường ý thức trách nhiệm của nam giới. Bảng : So sánh về ý thức trách nhiệm cuả cán bộ Đ.H.L là nữ và nam (nhóm sinh viên nữ) Trường ĐHKHXH&NV Trường ĐHKHTN Trường ĐHKTQD ý thức trách nhiệm của CB nữ >nam 49,2% 52,2% 69% ý thức trách nhiệm của CB nữ <nam 5,1% 13% 2,4% ý thức trách nhiệm của CB nữ =nam 45,7% 34,8% 28,6% Tổng 100% 100% 100% Nhóm nữ sinh viên trường ĐHKTQD đặc biệt đề cao phẩm chất này của cán bộ Đ?H/L là nữ với 69% ý kiến khẳng định ý thức cảu cán bộ ĐH.L nữ lớn hơn cán bộ Đ?H/L nam. Tình hình có vẻ tương tự trong nhóm nam sinh viên: Bảng: So sánh về ý thức trách nhiệm của cán bộ Đ/H/L là nữ và nam (nhóm Sinh viên nam) Trường ĐHKHXH&NV Trường ĐHKHTN Trường ĐHKTQT Ý thức trách nhiệm của nữ >nam 50% 57,9% 27,9% Ý thức trách nhiệm của nữ <nam 16,7% 10,5% 16,3% Ý thức trách nhiệm của nữ =nam 33,3% 31,6% 55,8% Tổng 100% 100% 100% Đến đây chúng tôi lại thấy nhóm sinh viên nữ trường ĐHKHXH &NV và nhóm sinh viên nam trường ĐHKQD lựa chọn phương án “ ý thức trách nhiệm của cán bộ Đ/H/L nữ bằng cán bộ Đ/H/L nam, cao hơn cả. Nhưng xét trên tổng thể thì cả nữ sinh viên và nam sinh viên đều đề cao phẩm chất ý thức trách nhiệm của cán bộ Đ/H/L là nữ, đặc biệt ở trường ĐHKHXH &NV và trường ĐHKHTN nam sinh viên thậm chí còn đề cao hơn cả nữ sinh viên. Như vậy định kiến vai giới được chấp nhận cả ở sinh viên nam và sinh viên nữ. Mặc dù nữ sinh viên có ý thức đề cao những phẩm chất vốn bị xem nhẹ ở nữ giới (khả năng tư duy, tầm nhìn xa rông) nhưng chính họ lại không nhận thức rõ khả năng của nam giới ở những phẩm chất vốn được đề cao ở phụ nữ. Chính nữ sinh viên cũng có thiên kiến giới, họ tự buộc mình vào hình ảnh đối lập với nam giới. Ở điểm này nam và nữ sinh viên đều có quan điểm nhất quán dù giới tính vẫn chi phối ý kiến sinh viên (Kết quả kiểm định:c2quan sát =6.87>c2lý thuuyết =5.99) d.Tính kiên trì vượt khó: Trong xã hội truyền thống những người phụ nữ được xã hội coi trọng tôn vinh là những người chăm chỉ tảo tần lo toan việc nhà việc cửa, để đấng nam nhi tung hoành bốn phương, đặc biệt là những người phụ nữ biết gánh chịu vất vả khó khăn vì sự nghiệp của chồng con. Bao đời nay người phụ nữ được ví như “thân cò lặn lội”. Còn trong suy nghĩ của tầng lớp trí thức, cụ thể là sinh viên hiện nay thì sao? Họ đánh giá như thế nào về tính kiên trì vượt khó của cán bộ Đ/H/l là nam và nữ? Sau đây là kết quả điều tra: Bảng: So sánh tính kiên trì vượt khó của cán bộ Đ/H/L là nữ và nam sinh viên Tần số Tần suất Tính Kiên trì vượt khó của nữ > nam 139 59,4 Tính Kiên trì vượt khó của nữ < nam 32 13,7 Tính Kiên trì vượt khó của nữ = nam 60 25,6 Không trả lời 3 1,3 Tổng 234 100% Kết quả trên chứng tỏ: tính kiên trì vượt khó dường như là thế mạnh hoàn toàn của nữ cán bộ Đ/H/L. Điều này càng làm sáng tỏ phân tích đối với phẩm chất “ ý thức trách nhiệm” ở trên Người nữ cán bộ sinh viên được coi trọng là người chịu thương chịu khó tận tuỵ với công việc, còn cán bộ nam sinh viên lại được đánh giá cao ở sự sáng tạo, khả năng trí tuệ. So sánh nhóm sinh viên nam và nữ trong mẫu điều tra ta cũng thấy sự khác biệt nhưg không lớn lắm; Nữ sinh viên Nam sinh viên Tính Kiên trì vượt khó của CB nữ > nam 67,2% 51,4% Tính Kiên trì vượt khó của CB nữ < nam 8,8% 20% Tính Kiên trì vượt khó của CBnữ = nam 24% 28,6% Tổng 100% 100% Vấn đề là ở chỗ Sinh viên nữ tự cho rằng tình kiên trì của giới mình lớn hơn tính kiên trì vượt khó của nam giới.Khi so sánh trong nội bộ nhóm nam sinh viên thì ý kiến giữa các trường là khác nhau. Ở trường ĐHKHXH &NV tỷ lệ nam sinh viên chọn phương án “Tính kiên trì vượt khó của nữ cán bộ lớn hơn nam rất cao (66,7%) trong khi ở trường ĐHKHTN là 57,9% và trường ĐHKTQD là 37,2% Thêm một bằng chứng cho thấy: Sự phân biệt vai trò giới ở nhóm nam sinh viên trường KHXH &NV gay gắt nhất, còn ở nhóm nam sinh viên trường KTQD đỡ gay gắt nhất . Còn đối với nhóm nữ thì sao? Xâu chuỗi lại các phương án phản ánh định kiến giới ta có Bảng: So sánh phẩm chất của cán bộ Đ/H/L là nữ và nam (nhóm sinh viên nữ) Trường ĐHKHXH &NV Trường ĐHKHTN Trường ĐHKTQD Khả năng tư duy của CB nữ < nam 33,9% 39,1% 44,2% Tầm nhìn xa của CB nữ < nam 37,9% 43,3% 44,2% Y thức trách nhiệm của CB nữ >nam 49,2% 32,2% 57,9% Tinh thần vượt khó của CB nữ > nam 61% 47,8% 86% Ở hai phương án đầu tỷ lệ chọ của nữ sinh viên ĐHKTQD thống nhất trong khi hai phương án sau lại có tỷ lệ chọn của nữ sinh viên ĐHKTQD lại cao nhất trong ba trường. Có thể kết luận: Nữ sinh viên ĐHKTQD có định kiến giới rõ ràng hơn cả trong nhóm nữ mặc dù trong tương quan với nam sinh viên thì trường ĐHKTQD có không khí bình đẳng giới cao hơn. Có thể dự đoán điều gì qua kết luận trên? + Thứ nhất, trong khối KHXH mặc dù ý thức bình đẳng vai trò của nữ giới rất cao nhưng sự phản ứng của nam giới cũng mạnh hơn các nhóm ngành khác. Phải chăng đây là quan hệ nhân quả ? Bởi nam giới không dễ gì thay đổi lập trrường quan điểm lối mòn tư duy đã đem lại cho họ sức mạnh và quyền lực trong xã hội từ xưa đến này. Dù cả nam và nữ đều quan niệm cần bình đẳng nhưng khi nữ giới bé nhanh hơn thì nam giới lại muốn kéo chậm lại quá trình đi tới các đích bình đẳng ấy? + Thứ hai khi bình đẳng giới mạnh hơn ở khối ngành kinh tế chứ không phải khối ngành KHTN. Đặc biệt quan điểm của nhóm nam ngành kinh tế vất tính cực trong khi chính nhóm nữ sinh viên lại không tích cực bằng. Để hiểu sâu hơn về hình tượng này có lẽ cần nhiều nghiên cứu tiếp theo nữa. 3.2. Đánh giá về đội ngũ lãnh đạo đất nước bằng cách cho hai đối tượng nam giới , phụ nữ Việc nghiên cứu đánh giá của sinh viên về lao động đất nước cũng là một cách tìm hiểu sâu sắc hơn ý kiến của sinh viên về vai trò giới trong quản lý, nghĩa là thấy chắc chắn hơn cơ sơ thực tiễn của thiên kiến giới. Người nghiên cứu yêu cầu sinh viên cho điểm 4 yếu tố sau của người lao động theo thang điểm 10: - Trình độ quản lý - Tầm nhìn chiến lược - Đạo đức, nhân cách - Bản sắc văn hoá Kết quả thống kê cho thấy Bảng : Đánh giá lãnh đạo đất nước theo thang điểm 10 Lãnh đạo nam Lãnh đạo nữ Trình độ quản lý 8,26 điểm 7,42 điểm Tầm nhìn dân chủ 8,40 điểm 6,91 điểm Đạo đức, nhân cách 7,60 điểm 8,53 điểm Bản sắc văn hoá 7,50 điểm 8,53 điểm Tầm nhìn chiến lược của lãnh đạo nữ được đánh giá thấp nhất, đối lập với đánh giá về nam giới. Đạo đức, nhân cách của nữ lao động lại được đánh giá rất cao (8,53 điểm). Rõ ràng trong suy nghĩ của sinh viên tài năng của nữ giới chưa được khẳng định trong khi nam giới lại bị đánh gía thấp về đạo đức, nhân cách. Phải chăng đây là một nguyên nhân tạo nên định kiến sinh viên đối với vai trò giới trong đội ngũ cán bộ Đ/H/L? Sinh viên không thể học tập, lao động ngoài môi trường Xã hội, vì thế tư tưởng tình cảm của họ chịu ảnh hưởng rõ nét của thực tiễn đời sống trong xã hội ta, tỉ lệ phụ nữ làm lãnh đạo còn nhỏ bé so với nam giới nên ít có cơ hội bộc lộ tài năng và phát triển tài năng hơn nam giới. Ngược lại, nam giới vì chiếm đa số trong hệ thống lãnh đạo nên thường gắn liền với đánh giá của xã hội về nhiều tệ nam như quan liêu, tham nhũng hiện nay. Mặc dù vậy, theo điểm đánh giá trung bình từng đối tượng thì nam giới vẫn ở vị trí cao hơn với 7,94 điểm, còn lãnh đạo nữ đạt 7,85 điểm. 3.3. Mong muốn của sinh viên về tỷ lệ nữ bộ trưởng hợp lý. Đây là câu hỏi thăm dò song tôi cho rằng nó cũng phản ánh đánh giá của sinh viên về khả năng lãnh đạo xã hội của phụ nữ. Kết quả cho thấy: 9% sinh viên trả lời cho rằng tỉ lệ nữ bộ trưởng hợp lý 50% bỏ trường nữ là hợp lý. Dù ý kiến sinh viên rất phân tán những nhìn chung tập trung trong khoảng 15-50%; nghĩa là cao hơn con số thực tại. Điều đó phản ánh khát vọng của sinh viên có sự bình đẳng giới hơn, nhưng cũng có 67% sinh viên trả lời tỉ lệ nữ bộ trưởng hợp lý <35%. Đây chỉ là “mong muốn” nhưng sinh viên cũng tỏ ra dè dặt và chưa tin tưởng vào phụ nữ. Có lẽ đây cũng là vấn đề rất khó phát biểu nên chỉ có 161 sinh viên =68,8 trả lời câu hỏi này. 3.4. Tiêu chí lựa chọn sinh viên vào ban chấp hành Đ/H/L. Câu hỏi này đưa ra nhằm đo mức độ tự giác về giới trong sinh viên: “Trong Đại hộ Đ/H/L nếu phải chọn 1 bạn nam và 1 bạn nữ có năng lực hoạt động như nhau vào BCH bạn sẽ căn cứ vào tiêu chí nào khác? Sau đây là câu trả lời. Tần số Tần suất - Mứac độ thân thiết 17 7,3% - Vị thế xã hội của gia đình người đó 3 1,3% - Cơ cấu giới hài hoà 50 21,4% - Học lực người đó 59 25,2% - Tiêu chí khác 78 33,3% - Không trả lời 27 11,5% 234 100% Ta thấy chỉ có 21,4% sinh viên chú ý đến cơ cấu giới khi bầu ban chấp hành. Tỷ lệ này nói lên ý thức bình đẳng giới trong sinh viên khá mờ nhạt. Có lẽ họ ít khi suy nghĩ đến điều này hoặc cho rằng điều này chẳng có gì quan trọng. 4. Một số nguyên nhân nhìn từ góc độ lý thuyết học tập - xã hội. Chúng ta đã cùng khảo sát các khía cạnh phản ánh vai trò giới trong đội ngũ cán bộ Đ/H/L và có thể thấy rõ vai trò của cán bộ nữ còn khá thấp kém so với nam giới, mặc dù về mặt tư tưởng sinh viên luôn có ý thức còn nam và nữ bình đẳng với nhau. Dưới góc độ lý thuyết học tập - xã hội, dường như chúng ta có lời giải đáp thoả đáng cho vấn đề này. Nguyên nhân của định kiến giới trong sinh viên là do chịu sự tác động trực tiếp của môi trường xã hội, gần nhất là môi trường gia đình. Gia đình Việt Nam từ rất lâu đã mang đặc trưng của mô hình gia trưởng với vị trí trụ cột của người đàn ông. Ngày nay, Đảng và nhà nước đã chủ trương bình đẳng nam - nữ, coi đó là một đặc trưng của hôn nhân dưới chế độ XHCN, nhưng những tồn dư của tư tưởng phong kiến vẫn không phải là nhỏ ngay trong lực lượng trí thức trẻ tiên tiến nhất của đất nước. Tồn dư này không dễ thấy, bởi nó lẩn khuất vào trong lối suy nghĩ trong hoạt động của sinh viên chứ không rõ ràng thành 1 hệ tư tưởng. Trong quá trình tương tác với xã hội, học tập các giá trị xã hội, sinh viên dần dần nhận vào mo những tình cảm, suy nghĩ, cách đánh giá của xã hội về các hiện tượng trong đời sống. Ở đây chúng ta cùng xem xét ảnh hưởng của gia đình tới suy nghĩ của sinh viên. Khi được hỏi “Trong gia đình bạn ai là người quyết định những công việc lớn?” có tới 72,5% sinh viên trả lời “cả bố và mẹ” chỉ có 19,3% sinh viên trả lời “bố quyết định” và 8,2% sinh viên trả lời “mẹ quyết định”. Kết quả có vẻ khả quan nhưng khi đi sâu hơn nữa để tìm hiểu tôi thấy có nhiều vấn đề. Người nghiên cứu có yếu cầu sinh viên đánh dấu vào những nhận định nào phản ánh đúng mong muốn của họ về mẹ mình trong các nhận định sau: “ Tôi muốn mẹ có nhiều sở thích riêng hơn nữa” “Tôi muốn mẹ độc lập về kinh tế” “Tôi muốn mẹ quan tâm hơn về xã hội” Có tới 52,1% sinh viên mong muốn mẹ mình quan tâm hơn về các vấn đề xã hội; 30,8% sinh viên mong muốn mẹ có nhiểu sở thích riêng hơn nữa. Điều này cho phép dự đoán còn nhiều phụ nữ trong gia đình thiên về hướng nội, coi gia đình là nguồn vui lớn nhất và duy nhất của mình. Họ vẫn giữ hình ảnh thường thấy của người phụ nữ và chính họ trao lại cho con cái mình lối suynghĩ ấy. Chỉ có 9% sinh viên mong muốn mẹ độc lập về kinh tế. Có lẽ nhận định này không phù hợp với văn hoá Việt Nam vốn “trọng nghĩa khinh tài” và gia đình là 1 cộng đồng kinh tế đặc biệt vững chắc. Ảnh hưởng của gia đình lên suy nghĩa của sinh viên còn được phản ánh qua tương quan giữa những người mong muốn mẹ quan tâm hơn về xã hội với những người cho rằng phụ nữ thành đạt trong xã hội thì bất hạnh trong đời sống gia đình và ngược lại. Theo kết quả thống kê, trong số những người phủ định ý kiến cho rằng “Phụ nữ thành đạt trong xã hội thì bất hạnh trong đời sống gia đình và ngược lại” có tới 56,5% mong muốn mẹ quan tâm hơn về các vấn đề xã hội; còn trong số những người thừa nhận ý kiến đó chỉ có 40% mong muốn mẹ quan tâm hơn về các vấn đề xã hội. Những sinh viên nào có người mẹ hướng chủ yếu vào gia đình thì e ngại phấn đấu trong lĩnh vực xã hội bởi sợ rằng thành đạt trong xã hội thường đi kèm với bất hạnh trong đời sống gia đình. Ngoài gia đình là môi trường xã hội hoá đầu tiên và bền vững nhất của con người phải kể đến sức mạnh của chuẩn xã hội, không khí xã hội đối với suy nghĩ của sinh viên xã hội và gia đình có mối quan hệ chặt chẽ với nhau song có những bước phát triển độc lập tương đối, vì thế cần lưu ý sự tác động đa chiều của chúng tới sinh viên. So với các nước khác trong khu vực, Việt Nam thuộc vào nước có sự bình đẳng nam - nữ khá cao nhưng xét 1 cách thực tế thì về cơ bản xã hội ta vẫn là xã hội trọng nam “Những suy nghĩ của 1 chủ tịch HSV” “Do thời gian hạn chế, một phần do khả năng và tính chất công việc mà có những công việc ban gái không có cương vị chủ chốt và ngược lại. Con trai vốn ăn to nói lớnm đao búa hơn thì nên tập hợp. Tôi nghĩ mãi mà chưa nghĩa ra tại sao những phụ nữ thành đạt trong xã hội thì bất hạnh trong đơì sống gia đình... Mỗi thời kỳ những tiêu chí đánh giá phụ nữ khác nhau. Ngày nay, 1 phụ nữ không phải suốt ngày lặn lội nội trợ nhưng đó là nền tảng hạnh phúc. Đức hạnh của người con gái là cái tôi đánh giá cao nhất. Còn về lãnh đạo thì có sự bình đẳng nam - nữ, nhiều phụ nữ tham gia hệ thống lãnh đạo không phải vì cơ cấu mà do khả năng của mình. Nhưng do thượng đế ban cho họ là phái yếu nên họ phải có 1 nhiệm vụ cao cả hơn việc xã hội, đó là việc sinh con. Trong gia đình, vợ chồng phải có sự độc lập tương đối nhưng tất nhiên, trụ cột gia đình vẫn phải là con trai. Cả về vật chất và tinh thần người chồng phải là chỗ dựa cho vợ. Tôi nghĩa 1 gia đình mà vợ thành đạt hơn chồng thì vẫn có 1 cái gì đó không hay” (N-V-T - Chủ tịch HSV trường ĐHKTQD) C- Kết luận và khuyến nghị. I. Kết luận. Vấn đề giới trong sinh viên còn ít được bàn tới nhưng rất cần được lưu tâm bởi thực tế điều tra đã làm sáng tỏ rằng đây là vấn đề không nhỏ chút nào. Định kiến giới trong sinh viên thể hiện qua đánh giá của họ về vai trò cán bộ Đoàn/Hội/ Lớp là rõ ràng. Nữ cán bộ Đoàn/Hội/ Lớp vẫn không được đánh giá cao như nam giới, đặc biệt từ phía nam giới. Sinh viên vẫn nhìn nhận vai trò nam - nữ theo cách nhìn trang định kiến giới truyền thống. Đáng chú ý là chính nữ sinh viên cũng chưa sẵn sàng thực sự cho vị trí bình đẳng với nam giới. Tư duy của nữ sinh viên co9nf quẩn quanh mâu thẫn ở chỗ: một mặt họ đã tự đề cao một số khả năng mà trước đây thường chỉ được đề cao ở nam giới, nhưng mặt khác lại tiếp tục coi những phẩm chất truyền thống của phái nữ là thế mạnh của mình. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự “căng thẳng vai trò” của người phụ nữ khi họ dần dần hoà nhập rộng rãi vào các hoạt động xã hội. Các sinh viên nam tỏ ra chưa có nhiều cởi mở và tiêu cực trong quan điểm giới, bằng cớ là đa số họ chưa thừa nhận tố chất lãnh đạo của cán bộ Đoàn/Hội/ Lớp nữ nói riêng, của cán bộ lãnh đạo nữ hiện nay nói chung. Trong 3 trường ĐH đại diện cho 3 lĩnh vực được người nghiên cứu lựa chọn thì trường ĐH KTQD có không khí bình đẳng giới có vẻ cao hơn cả. Trường ĐHKHXH & NV có sự chênh lệch nhận thức vai trò giới giữa nam sinh viên và nữ sinh viên lớn nhất. Để lý giải thấu đáo hơn hiện tượng này cần nhiều nghiên cứu sâu hơn. Ở đây tôi chỉ đề cập mang tính chất gợi mở. Gia đình và không khí văn hoá - xã hội được xem là biến số độc lập tác động mạnh đến nhận thức sinh viên. Ngoài ra, trong phạm vi báo cáo này người nghiên cứu chưa kiểm soát được tương quan rõ ràng giữa đánh giá vai rò giới của sinh viên với 1 số yếu tố khác như trình độ học vấn, mức độ thường xuyên tham gia phong trào của sinh viên... II. Khuyến nghị Từ kết quả nghiên cứu của mình tôi đề ra một số khuyến nghị như sau: 1. Ban giám hiệu các trường ĐH, các tổ chức chính trị, xã hội gắn liền với sinh viên như đoàn thanh niên, hội sinh viên cần quan tâm hơn nữa tới vấn đề giới trong trường đại học, lồng ghép giáo dục bình đẳng giới trong chương trình đào tạo và trong các hoạt động cộng đồng, hoạt động xã hội. 2. Nhà trường, tổ chức ĐTN và HSV cần chú trọng đào tạo và nâng cao khả năng lãnh đạo của cán bộ nữ theo những phương pháp riêng có tính đến đặc thù giới, chủ động tổ chức các hình thức hoạt động nhằm thay đổi định kiến giới trong sinh viên. 3. Cần có những chính sách xã hội tác động mạnh và hiệu quả hơn vào thiết chế gia đình, nâng cao dân chủ trong gia đình không phải ở tư tưởng chung chung mà từ những lĩnh vực rất cụ thể, bởi vì đó là cái “nôi” hình thành nhân cách cho thanh niên và những thế hệ trẻ sau này. 4. Các nghiên cứu xã hội học về giới cần tập trung tìm hiểu không chỉ ở khu vực nông thôn mà cả ở đô thị với những diễn biến phức tạp, không chỉ ở nông dân mà ở các tầng lớp khác để có thể có cái nhìn toàn cục và chính xác về vấn đề giới ở Việt Nam. BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU Phỏng vấn Nguyễn Thuỳ Trang - sinh viên năm thứ 3 - Uỷ viên ban chấp hành Đoàn trường , ủy viên ban chấp hành LCĐ khoa Bảo hiểm Phỏng vấn: Bạn cho biết những khó khăn nhất đối với một cán bộ nữ khi tham gia hoạt động đoàn là gì? Trả lời: Theo mình chỉ hạn chế về sức khoẻ, chẳng hạn những công việc phải đi qua đêm thì con gái không thể làm được. Chẳng hạn lễ Noel năm kia bọn mình đi giao lưu qua đêm thì con gái chỉ thức được một lúc còn sau đó phải đi ngủ hết. P/V: Theo bạn khó khăn đó có khắc phục được không ? TL: Cũng không khó lắm. Nó tuỳ thuộc vào ý thức của mỗi người và tập thể mà sinh hoạt. Nếu đó là tập thể tốt thì cũng không có ảnh hưởng gì nhiều. P/V: Thế trong việc thiết kế phong trào hoạt động thì nam giới có tỏ ra nhanh nhẹn sáng tạo hơn không? TL: Có lẽ đúng thế: Trong việc đề ra mô hình và tổ chức hoạt động thì nam giới vẫn tốt hơn PV: - Vậy đâu là thế mạnh của cán bộ nữ? TL: Nữ có vai trò như “cái xe cứu sinh” nghĩa là nội trợ, hậu cần. Đi tình nguyện thì làm nội trợ và bình thường thì làm công tác hậu cần. Ví dụ, tổ chức một buổi gì đó thì nam giới là người đưa ra cách tổ chức, còn bọn mình làm dẫn chương trình, văn nghệ... P/V: Bạn thấy làm việc như thế có ăn ý không? TL: Nói chung là ăn ý. Ba năm nay mình thấy thế, thường thì cơ cấu con gái đưa ra - con trai thực hiện không hiệu quả bằng con trai đưa ra - con gái thực hiện P/V: Bạn ở trọ hay không? TL: Mình ở trọ với hai người bạn gái T/V: Bạn cứ hoạt động suốt ngày thế, những người xung quanh có cho bạn là “dở hơi” không? TL: Cũng có, gần như hai người bạn ở cùng phòng đến đêm mới có thể gặp mình, thậm chí chỉ khi có việc còn phải bỏ học. Mọi người nói mình bớt nhiệt tình đi một chút thì cũng có làm sao P/V: Bạn có bạn trai chưa? TL: Mình có rồi. P/V: Bạn trai bạn nói thế nào, nhất là những hôm thứ sáu chẳng hạn mà bạn lại đi họp? TL: Không nói gì, bọn mình cũng học và cùng sinh hoạt Đoàn với nhau - Từ khi quen mình bạn trai mình cũng tham gia cùng mình và luôn đi cùng mình trong các hoạt động. P/V: Bạn may mắn thật đấy! TL: Ừ, trước đây mình không dám đi về muộn nhưng bây giờ thì về muộn thì mình có người đưa về. p/v: Giữa công việc xã hội và việc nội trợ gia đình bạn thích theo thiên hướng nào hơn? TL: Thực ra câu này rất khó. Khi mình nghĩ đến tương lai và mong muốn gia đình hạnh phúc thì mình nghĩ tốt nhất là người phụ nữ nên là người nội trợ tốt. Làm việc xã hội thì vẫn làm những vừa phải , chứ bây giờ nếu người vợ suốt ngày đi họp xa thì người chồng sẽ không thể nào chịu được hay ngươì vợ làm công tác xã hội nhiều thì không thể giữ được gia định hạnh phúc. P/V: Nhưng nếu phụ nữ không tham gia hoạt động xã hội mà để nam giới làm thì những chính sách xã hội không quan tâm hết được đến phụ nữ? Bạn có thấy đó là thiệt thòi không? TL : Mình thấy cũng khá thiệt thòi. Trong cuộc sống hiện nay phụ nữ đóng vai trò rất quan trọng nên mình rất muốn có sự bình đẳng. Nhưng mình còn trẻ thì mình nghĩ thế chứ mình không dám chắc tương lai sẽ như thế nào. Bây giờ thì mình rất nhiệt tình những không biết khi có chồng có con rồi mình có được như thế không vì lúc đấy mình chịu ảnh hưởng từ nhiều phía, có thể là gia đình mình hay gia đình chồng, rồi còn con cái. Tóm lại thì mình vẫn thích một phụ nữ năng động nhiệt tình và làm những gì mình muốn chứ mình không thích mẫu người phụ nữ cam chịu hy sinh công việc của mình một cách quá đáng quá. Nếu người chồng ép mình chỉ làm nội trợ thì mình không đồng ý với quan điểm như thế. Mình sẽ hạn chế một số muốn của mình nhưng trên cơ sở sự cảm thông của phía bên kia để đạt được một cái gì đó tốt đẹp. P/V: Nhưng người chồng sẽ thể hiện sự cảm thông của mình bằng việc nấu cơm giặt giũ ? Bạn có thấy điều đó là rất khó không? TL : Nói chung là tuỳ. P/V: Thế bạn có cho rằng người chồng là trụ cột gia đình, đảm bảo về tài chính cho gia đinh là phù hợp không? TL: Xã hội bây giờ thì khả năng mức lương của nữ đôi khi còn cao hơn, ví dụ làm liên doanh chẳng hạn chứ không nhất thiết nam giới phải lương cao hơn. P/V: Theo bạn thì người con trai ngày nay thích kiểu phụ nữ nào? TL: Con trai bao giờ khi yêu thì thích những người con gái năng động, nhiệt tình và ham mê công việc nhưng để chọn làm vợ thì chưa chắc, vì nếu họ là người suy nghĩ chín chắn và có tính toán cho tương lai của mình thì họ cần yếu tố khác. Mình cũng không rõ . Cái đó tuỳ người con trai. P/V: Bạn có thể cho biết trong gia đình thì sao? Những công việc lớn như xây nhà xây cửa… Bố hay mẹ bạn quyết định hơn? TL: Bố mẹ mình đều là công nhân viên chức nhà nước. Hai người điều rất ổn định. Cả bố và mẹ mình đều năng động và nể trọng nhau. Mình rất phục ở chỗ bố mình rất khéo, hầu như mẹ mình chẳng phải nấu cơm. Những công việc lớn thì đưa ra cả nhà nhưng quyết định thì mẹ mình quyết định nhiều hơn. Đấy là mình nghĩ thế. P/V: Gia đình bạn như thế là rất tuyệt đúng không? TL: Cũng chưa biết được vì nhiều khi nên để cho người con trai, để cho người đàn ông chịu trách nhiều đưa ra ý kiến chỉ đạo hơn, để cho người ta quyết định. Có thể mình khéo léo ngẩm quyết định nhưng vẫn để cho người ta quyết định thì hay hơn mình định đoạt quá thì không tốt. P/V: Người ta thường nói bi kịch nhất của người phụ nữ là thông minh và người thành đạt trong xã hội thì thường bất hạn trọng đời sống gia đình . Bạn có thấy thế không? TL: Mình nghĩ thế. Mình rất nhớ ai đó nói với mình là “Con gái biết ít thôi không nên biết nhiều sau này chồng nó ghét đấy”, tức là biết nhiều hơn chồng thì sẽ gây cho chồng sự nhụt chí và trong gia đình không thoải mái. P/V: Chẳng hạn mai sau bạn lấy một người chồng mà địa vị của bạn cao hơn người đấy thì... TL: Cái chính là cách cư xử của mình. Mình phải khéo léo, nếu mình không khéo thì phải tuỳ thuộc vào lòng thành của người chồng. P/V: Bạn đánh giá thế naò về vai trò của những người phụ nữ lãnh đạo đất nước hiện nay so với nam? TL: Thực ra mình không nắm rõ về chuyện đấy. Về số lượng và khả năng thì nữ vẫn thấp hơn nam, chẳng hạn trong ban chấp hành đoàn trường hay ban chấp hành đoàn thành phố, Trung ương và Quốc hội,và thường thì phụ nữ chỉ làm về chăm sóc phụ nữ và trẻ em. Còn những hoạt động lớn chưa nắm được vai trò. P/V: Đến một ngày nào đó tỷ lệ lãnh đạo nữ và nam có thể tương đương không? TL: Mình nghĩ trong tương lai gần thì chưa còn mình sống mong muốn nó cân bằng với nhau . Chưa chắc người con trai đã giỏi hơn người con gái đâu nhưng xưa nay định kiến nó vẫn tiếp tục như vậy. P/V: Bạn thấy sự bình đẳng nam - nữ ngày nay so với ngày xưa thế nào? TL: Rất tốt và mọi người đều khuyến khích để tỷ lệ nữ lãnh đạo tăng dần. Chẳng hạn trong BCH Đoàn trường mình có 27 người thì cũng khuyến khích phải có hơn 10 người là nữ. P/V: Nhưng phụ nữ vẫn có thiên chức riêng, ví dụ như họ yếu hơn, họ phải sinh con… Bạn có nghĩ vì những đặc điểm tự nhiên ấy mà không thể có phân công lao động bình đẳng được trong xã hội không ? TL: Có thể là thế. Từ trước đến giờ phụ nữ vẫn thuộc về gia đình hơn. Mình có thiên chức của mình. Mình muốn gia đình tốt thì mình phải dạy bảo con cái, nếu không thì không thể làm mọi thứ tốt hơn. P/V: Bạn đánh giá thế nào về vấn đề giới trong tình yêu sinh viên hiện nay? TL: Người ta vẫn thường nói nam giới chủ động hơn trong tình yêu , nhưng yêu thì cọc đi tìm trâu cũng bình thường . Con gái bây giờ khác xưa rồi. P/V: Thế bạn đánh gia cao đức tính nào nhất ở người đàn ông? TL: Mình thích nhất người bản lĩnh và biết chia sẻ. P/V: Thế yếu đuối có phải vẻ đẹp của người phụ nữ không? TL: Yếu đuối theo kiểu nhõng nhẽo thì mình không thích nhưng yếu đuối mà vẫn thể hiện mình là mình thì cũng được. P/V: Trong vấn đề giới thì bạn thấy ở nông thôn hay thành thị bình đẳng hơn TL: Có lẽ ở thành thị vẫn bình đẳng hơn vì thành thị hiện đại hơn và điều kiện sống tốt hơn còn ở nông thôn thì chắc chắn phụ nữ thiệt thòi hơn. P/V: Nếu đánh giá chung vấn đề giới ở Việt Nam thì sao? Nếu lấy thang điểm 10 thì bình đẳng giới ở Việt Nam đạt mấy điểm rồi? TL: 7 điểm. Đấy là xét chung chung thế chứ xét cụ thể ra thì cũng chỉ 6 điểm vì ở nông thôn người nghèo vẫn nhiều, và phụ nữ vẫn hay bị đánh đập. P/V: Bạn rất mong muốn phụ nữ bình đẳng với nam giới. Thế bạn có cách gì thực hiện không? TL: Dù mình hoạt động Đoàn nhưng mình không mong muốn sẽ hoạch định cái này cái kia, mình cũng mỉ mong sẽ được như thế chứ không nghĩ sẽ tìm được một cách nào cho họ. P/V: Không cứ gì phải biện pháp to lớn đâu, chẳng hạn ngay việc nội trợ tự gia đình. Bạn nghĩ người chồng nên làm giúp vợ hay thuê người? TL: Cách tốt nhất là chia sẻ giữa vợ với chồng. P/V: Những người đàn ông mà cứ cơm nước giặt giũ thì có vẻ trở nên tủn mủn? TL: Nhưng cũng không phải giúp nhiều. Việc mình mình vẫn phải làm. Mọi việc cũng đơn giản đúng không? Bếp ga bật lên, thức ăn mua sẵn từ chợ. Người chồng chỉ giúp mình thôi chứ suốt ngày chui vào bếp, mình đi làm thì cũng không hay P/V: Nhưng máy móc của mình cũng chưa nhiều, chẳng hạn để giặt giũ, lau nhà, con cái…Những việc ấy thì sao? TL: Tớ nghĩ người chồng vẫn có thể giúp việc ấy, chỉ là đôi khi thôi. Nó tuỳ vào sự khéo léo của người phụ nữ. P/V: Theo bạn để đạt được bình đẳng giới nên dùng chính sách của nhà nước hay tuỳ vào sự khéo léo của người phụ nữ ? TL: Mình nghĩ trước mắt cần có chính sách ưu tiên của Nhà nước cùng với sự giáo dục của gia đình dần dần sẽ bình đẳng hơn. Lúc đấy việc người con trai làm việc nhà không còn tủn mủn nữa P/V: Trong lớp học của bạn có bao nhiêu nam bao nhiêu nữ? TL: Mình làm bên bảo hiểm nên nam có nhiều hơn nữ một chút. P/V: Bạn thấy lãnh đạo có khó không? TL: Có. Trong lớp mà nhiều con trai thì phong trào tốt hơn. Con gái thường lắm chuyện. Con gái bảo con gái khó hơn. Đấy là so với con trai. Còn ngày xưa mình định học trường giao thông, bố mình vẫn bảo con mà học ngành đấy sau này chỉ làm phó cho người ta thôi vì con trai không thích một người con gái chưa giỏi lắm lãnh đạo mình. Phải là một người con gái phi thường cơ. Mình vẫn nghĩ lớp mình nhiều nam hơn thì tốt hơn. P/V: Tốt hơn cho ai? TL: Cho người bí thư nữ. P/V: Thế lớp nhiều phụ nữ thì bí thư nên là nam à? TL:Ừ. Mình cũng không giải thích được vì giữa 2 giới khác nhau nói chuyện với nhau vẫn dễ hơn. P/V: Khi phải phê bình cứng rắn 1 bạn nào đó trước lớp bạn có ngại không? TL: Quen rồi thì không ngại. P/V: Nhưng nhiều lúc ấy bạn có thấy hình như mình đánh mất vẻ đẹp gì đó? TL:Nhưng phải chấp nhận. P/V: Từ khi làm cán bộ Đoàn bạn có thấy tính cách mình khác không? TL: Chắc chắn là mình vững vàng hơn. Hồi phổ thông mình chỉ học thôi nhưng từ khi làm phó chủ nhiệm CLB phòng chống TNXH, mình thấy chủ động và trách nhiệm hơn. P/V: Thế còn trong tình yêu? Bạn có “áp đảo” người yêu mình không ? TL: Có lẽ vậy. P/V: Đấy có phải là một trong những lý do các bạn giận nhau không? TL:Đấy là lí do duy nhất! Cũng may là bạn trai mình hiểu. P/V: Bạn có sợ những giận dỗi ấy cứ tích tụ dần? TL: Mình cũng sợ một ngày nào đó có chuyện xảy ra. Có lúc đang ngồi nói chuyện mình lại chợt nghĩ ra “ thôi chết mai họp mà mình chưa sửa soạn gì”, thế là là lại đi chuẩn bị...và thế là gây phật lòng. Sau đó do mình khéo léo nên mọi chuyện qua đi. P/V : Những phải có cách nào đó khác chứ? TL: Hướng của mình là mình đã năm thứ ba, không hoạt động được nhiều . Mình sẽ bớt việc và định hướng vào học hành. Mình quan niệm cho mình là: Vừa qua mình nhiệt tình quá. Sắp tới mình chỉ làm những viẹc nhẹ nhàng. Mình tự an ủi là rồi mọi việc bớt căng đi. Nhưng thực ra mình cũng vẫn đi suốt. P/V: Sau này khi đi làm bạn có nghĩ sẽ tiếp tục làm phong trào không? TL: Mình vẫn sẽ nhiệt tình với phong trào chính vì đó là tính cách sống của mình. P/V: Người ta thường nói nam thì phù hợp cương vị trường nữ giới, nữ giới phù hợp với cương vị phó. Bạn thấy có phù hợp không? TL: Mình cũng đã nói, theo mình thế là phù hợp. Người con gái đừng nên làm những việc nặng quá để phải căng lên. Nên làm những việc nhẹ nhàng thì thoải mái cho cả phía kia và phía mình. Như thế tốt hơn TRƯỜNG ĐH KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Khoa xã hội học PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN Các bạn sinh viên thân mến! Chất lượng đội ngũ cán bộ Lớp/Đoàn TN/Hội SV có ý nghĩa rất lớn đối với phong trào sinh viên của chúng ta. Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ này, chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu về vai trò giới trong hệ thống cán bộ Lớp/Đoàn TN/Hội SV. Chúng tôi hy vọng các bạn sẽ trả lời đầy đủ các câu hỏi dưới đây. Chúng tôi xin cam đoan những thông tin các bạn cung cấp sẽ chỉ được sử dụng vào mục đích khoa học! Câu 1 : Xin bạn đánh giá tầm quan trọng của những người giữ các chức vụ sau đây trong lớp : Rất quan trọng Quan trọng ít quan trọng Không quan trọng Lớp trưởng Bí thư chi đoàn Chi hội trưởng hội SV Câu 2 : Ngoài đội ngũ cán bộ Đoàn/Hội/Lớp, trong lớp bạn có người nào ảnh hưởng lớn đến tập thể không ? Có Không Nếu có, vui lòng cho biết : - Người đó là nữ hay nam ?_______ - Vì sao người đó có ảnh hưởng lớn ? Học giỏi Đạo đức tốt Giàu có Lý do khác Câu 3: Theo bạn, để giữ các chức vụ sau đây thì nên là nam hay nữ ? Vì sao? 3.1Bí thư chi đoàn nên là a. nam b.nữ 3.2Lớp trưởng nên là a. nam b. nữ 3.3Chi hội trưởng nên là a.nam b.nữ Câu 4 : Có ý kiến cho rằng nam giới phù hợp với cương vị “trưởng”, nữ giới phù hợp với cương vị “phó”. Ý kiến của bạn ? 4.1Đồng ý 4.2 Không đồng ý 4.3 Khó nói Câu 5 : Bạn nghĩ rằng ngành học bạn đang theo đuổi phù hợp với nam hay nữ hơn? 5.1 Phù hợp với nam hơn 5.2 Phù hợp với nữ hơn 5.3Phùhợpcả2 Câu 6 : Trong đại hội chi đoàn/chi hội/lớp, nếu phải chọn giữa một bạn nam và một bạn nữ có phẩm chất năng lực hoạt động như nhau vào Ban chấp hành, bạn sẽ căn cứ vào tiêu chí nào khác? (chọn 1) 6.1 Mức độ thÂn thiết với người đó 6.2 Vị thế xã hội của gia đình người đó 6.3Cơ cấu giới của của BCH sao cho hài hoà 6.4Học lực của người đó 6.5Tiêu chí khác Câu 7 : Tỷ lệ nữ Bộ trưởng hiện nay là 11%. Theo bạn, tỷ lệ nữ hợp lý nên là bao nhiêu %? CÂu 8: Bạn hãy đánh dấu “>”, “<”hoặc “=” để so sánh những phẩm chất sau đây giữa cán bộ Đoàn/Hội/Lớp là nữ sinh viên và nam sinh viên: Nữ So sánh Nam 8.1Tính sáng tao 8.1Tính sáng tạo 8.2 Sức khoẻ 8.2 Sức khoẻ 8.3Bản lĩnh 8.3Bản lĩnh 8.4Khả năng thu hút sinh viên 8.4Khả năng thu hút sinh viên 8.5Khả năng tư duy 8.5Khả năng tư duy 8.6Ý thức trách nhiệm 8.6 Ý thức trách nhiệm 8.7Tính kiên trì vượt khó 8.7Tính kiên trì vượt khó 8.8Tầm nhìn xa rộng 8.8Tầm nhìn xa rộng CÂu 9: Có ý kiến cho rằng: Lãnh đạo phong trào sinh viên có nhiều khả năng trở thành những người lãnh đạo đất nước. ý kiến của bạn? 9.1Đồng ý 9.2Không đồng ý 9.3Không ý kiến CÂu 10: Bạn có cho rằng những người phụ nữ thành đạt ngoài xã hội thì thường bất hạnh trong đời sống gia đình và ngược lại không? 10.1Có 10.2Không 10.3 Phân vân CÂu 11: Có ý kiến cho rằng phụ nữ và đàn ông có những thiên chức khác nhau (phụ nữ sinh con, đàn khoẻ để sản xuất của cải vật chất....) nên không thể có bình đẳng giới được. Bạn có đồng ý không? 11.1Đồng ý 11.2Không đồng ý 11.3Phân vân Câu 12: Bạn hãy đánh giá về đội ngũ những người lãnh đạo đất nước hiện nay bằng cách cho điểm với 2 đối tượng: lãnh đạo nữ và lãnh đạo nam (Hoàn tốt: 10 điểm; Hoàn toàn không tốt: 0 điểm) Lãnh đạo nữ Lãnh đạo nam 12.1 Trình độ quản lý ……………điểm ……………...điểm 12.2Tầm nhìn chiến lược …………….điểm ………………điểm 12.3Đạo đức, nhân cách …………….điểm ………………điểm 12.4Bản sắc văn hoá …………….điểm ………………điểm Câu 13 : Bạn hãy cho biét mức độ hài lòng của bạn với phong trào sinh viên hiện nay của lớp mình ? (đánh dấu X vào phương án lựa chọn) Hài lòng Không hài lòng lắm Không hài lòng 13.1Phong trào Đoàn 13.2Phong trào HSV 13.3Phong trào Lớp Câu 14 : Bạn hãy đánh dấu (X) vào những nhận định nào phù hợp với ý kiến của bạn trong các nhận định sau : 14.1Ở những lớp nhiều sinh viên nữ thì cán bộ Đoàn/Hội/Lớp nên là nam và ngược lại 14.2 Dù sao, nữ cán bộ Đoàn/Hội/Lớp vẫn không nhanh nhẹn, sáng tạo và làm việc hiệu quả bằng nam giới 14.3 Vấn đề giới không ảnh hưởng đến hiệu quả công việc mà tuỳ thuộc vào năng lực người cán bộ 14.4 Cán bộ Đoàn/Hội/Lớp là nữ tỏ ra nhiệt tình, bền bỉ và hoạt động tốt hơn nam giới CÂu 15: Trong gia đình bạn ai là người quyết định những việc lớn (mua đồ đạc giá trị, xây sửa nhà cửa, định hướng kinh doanh....) 15.1Bố 15.2Mẹ 5.3Cả bố và mẹ CÂu 16:Nếu mệnh đề nào dưới đây phản ánh đúng mọng muốn của bạn về mẹ mình, hãy đánh dấu (x) 16.1 Tôi muốn mẹ tôi có nhiều sở thích riêng hơn nữa 16.2 Tôi muốn mẹ tôi là một phụ nữ độc lập về kinh tế 16.3 Tôi muón mẹ tôi quan tâm hơn nữa về các vấn đề xã hội như văn hoá, nghệ thuật, chính trị Câu 17 : Bạn vui lòng cho biết một số thông tin về bản thân: 17.1Giới tính : Nam Nữ 17.2Bạn là SV năm thứ .............trường………..................................................... 17.3Bố mẹ bạn đang sống ở : Đô thị Nông thôn 17.4Bạn có hay tham gia phong trào sinh viên không ? a.Thường xuyên b.Thỉnh thoảng c.Không bao giờ 17.5Bạn đã từng là cán bộ Đoàn/Hội/Lớp chưa? a.Đã từng b.Chưa từng c.Đang là Xin cảm ơn sự hợp tác của bạn Tài liệu tham khảo 1.Lê Ngọc Hùng - Nguyễn Thị Mỹ Lộc.2000.Xã hội học về giới và phát triển.NXB Đại học Quóc gia Hà Nội 2.Vũ Quang Hà.2001.Các lý thuyết xã hội học.NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 3.Đào Hứu Hồ.2000.Thống kê xã hội học.NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 4.Viện Xã hội học.1991. Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam.NXB Khoa học xã hội 5.Tạp chí Xã hội học.Số 4/2000 6.Ngân hàng thế giới.2001.Đưa vấn đề giới vào phát triển 7.Phạm Văn Quyết - Nguyễn Quý Thanh.2001.Phương pháp nghiên cứu xã hội học 8.Vũ Hào Quang.2001.Định hướng giá trị của sinh viên - Con em cán bộ khoa học.NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 9.Thái Duy Tuyên (chủ biên).1995.Nghiên cứu con người Việt Nam trong kinh tế thị trường- Các quan điẻm và phương pháp tiếp cận.Đề tài KX-07-10 10.Trần Ngọc Thêm.1997.Cơ sở văn hoá Việt Nam.NXB Giáo dục 11.Uỷ ban Quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ.2000.Phân tích tình hình và đề xuất chính sách nhằm tăng cường tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới ở Việt Nam 12.Emili Durkheim.Các quy tắc của phương pháp xã hội học.Người dịch: Nguyễn Gia Lộc.NXB Khoa học xã hội .1993 13.G.Endrweit & G.Trommsdroff.2002.Từ điển xã hội học.NXB Thế giới

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docXHH08.doc