Đề tài Vai trò kinh tế của Nhà nước Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Chúng ta hi vọng rằng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng - Nhà nước chúng ta sẽ gặt hái được những thành quả cao hơn trong tương lai. Việt Nam sẽ bắt kịp với sự phát triển của toàn thế giới, khắc phục những yếu kém lạc hậu về khoa học công nghệ và nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường. Khắc phục được những tiêu cực nhằm vươn lên phát triển nhanh, ổn định vững chắc và công bằng xã hội. Trong một tương lai không xa Việt Nam sẽ bắt kịp với sự phát triển của khu vực và toàn thế giới. Với phương châm “Hãy bắt tay vào hành động, thực tiễn sẽ cho câu trả lời” hi vọng rằng từng bước từng bước thực tiễn sẽ làm sáng tỏ được các vấn đề nêu trên, góp phần làm phong phú thêm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phù hợp với điều kiện Việt Nam trong thời đại ngày nay.

doc39 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1480 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò kinh tế của Nhà nước Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g, giá cả và tình trạng các hàng hóa khác. - Tương quan cung cầu có những chức năng sau: + Chỉ rõ sản xuất xã hội được phát triển cân đối đến mức độ nào. Bất kỳ một sự mất cân đối nào trong sản xuất đều được phản ánh vào trong tương quan giữa cung và cầu. + Điều chỉnh giá cả thị trường, chính xác hơn là điều chỉnh độ lệch giữa giá cả thị trường với giá trị thị trường. Sự biến đổi của tương quan cung và cầu sẽ dẫn đến sự lên xuống của giá cả thị trường, ngược lại giá cả cũng ảnh hưởng trở lại đối với cung và cầu. Cầu biến đổi ngược chiều với giá cả thị trường và cùng chiều với mức thu nhập còn cung biến đổi ngược chiều với giá cả đầu ra nhưng cũng biến đổi ngược chiều với giá cả đầu vào. + Khi hướng tới trạng thái cân bằng, cung và cầu tạo khả năng khôi phục những cân đối đã bị phá hoại trong nền kinh tế. Tuy nhiên sự cân bằng cung - cầu chỉ là tạm thời + Cung và cầu đảm bảo mối liên hệ giữa khâu đầu và khâu cuối của quá trình tái sản xuất, tức là mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng, đồng thời mối quan hệ cung cầu còn biểu hiện quan hệ về lợi ích giữa người sản xuất và người tiêu dùng, giữa người bán và người mua. * Cạnh tranh - Khái niệm Cạnh tranh là một khái niệm rộng, không những tồn tại trong lĩnh vực kinh tế mà còn tồn tại trong lĩnh vực xã hội. Trong kinh tế thị trường, các chủ thể hành vi kinh tế vì lợi ích riêng của bản thân mình mà tiến hành cạnh tranh với nhau. Cạnh tranh được hiểu là sự đấu tranh giữa các chủ thể hành vi kinh tế nhằm giành lợi ích tối đa cho mình. - Chức năng: + Cạnh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt sản xuất xã hội và do đó làm cho sự phân bổ các nguồn lực kinh tế của xã hội một cách tối ưu. + Kích thích tiến bộ kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất. Người sản xuất nào có kỹ thuật và công nghệ sản xuất tiên tiến sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch. Do đó cạnh tranh là áp lực đối với người sản xuất, buộc họ phải cải tiến kỹ thuật, nhờ đó kỹ thuật và công nghệ sản xuất của toàn xã hội được phát triển. + Góp phần tạo nên cơ sở cho sự phân phối thu nhập lần đầu. Người sản xuất nào có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao sẽ có thu nhập cao, đồng thời thông qua cạnh tranh nhu cầu của người tiêu dùng được đáp ứng. c. Ưu, khuyết điểm của cơ chế thị trường * Ưu điểm Cơ chế thị trường có những ưu điểm và tác dụng mà không có cơ chế nào hoàn toàn thay thế được Thứ nhất, cơ chế thị trường kích thích hoạt động của chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động, có hiệu quả. Thứ hai, sự tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất (tổng cung) với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội (tổng cầu). Nhờ đó ta có thể thỏa mãn tốt nhu cầu tiêu dùng cá nhân về hàng ngàn hàng vạn sản phẩm khác nhau. Nhiệm vụ này nếu để Nhà nước làm phải thực hiện một số công việc rất lớn, có khi không thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao trong quá trình ra quyết định. Thứ ba, cơ chế thị trường kích thích đổi mới kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất. Sức ép của cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm chi phí sản xuất cá biệt đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng phương pháp sản xuất tốt nhất như không ngừng đổi mới kỹ thuật và công nghệ sản xuất, đổi mới sản phẩm, đổi mới tổ chức tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh, nâng cao hiệu quả. Thứ tư, cơ chế thị trường thực hiện phân phối các nguồn lực kinh tế một cách tối ưu. Trong nền kinh tế thị trường, việc lưu động, di chuyển, phân phối các yếu tố sản xuất, vốn đều tuân theo nguyên tắc của thị trường, chúng sẽ chuyển đến nơi được sử dụng với hiệu quả cao nhất. Thứ năm, sự điều tiết của cơ chế thị trường mềm dẻo hơn sự điều chỉnh của cơ quan Nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn trước những điều kiện kinh tế biến đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất xã hội với nhu cầu xã hội. * Khuyết tật Thứ nhất, cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo. Khi xuất hiện cạnh tranh không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường bị giảm. Thứ hai, mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ra ô nhiễm môi trường sống của con người, do đó hiệu quả kinh tế - xã hội không được đảm bảo. Thứ ba, phân phối thu nhập không công bằng, có những mục tiêu xã hội dù cơ chế thị trường có hoạt động trôi chảy cũng không thể đạt được. Sự tác động của cơ chế thị trường sẽ dẫn đến sự phân hó giàu nghèo, sự phân cực về của cải, tác động xấu đến đạo đức và tình người. Thứ tư, một nền kinh tế do cơ chế thị trường thuần túy điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ và thất nghiệp. d. Vận dụng vào Việt Nam Do nhận thức còn đơn giản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội nên chúng ta đã thiết lập thể chế kinh tế kế hoạch và cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp. * Trước năm 1980: Do điều kiện lịch sử lúc đó nên cơ chế quản lý của nước ta sao chép gần như nguyên vẹn mô hình phát triển kinh tế xã hội và cơ chế quản lý kinh tế xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa, đó là đề cao kế hoạch hóa, bắt buộc mọi người, mọi ngành, mọi cấp phải tuân theo thông qua hệ thống chỉ tiêu kế hoạch để quyết định tất cả các vấn đề kinh tế xã hội. Trong thời kỳ chiến tranh nên cơ chế này đã động viên tích cực lực lượng tình nguyện lên đường chiến đấu, họ yên tâm, vững tin hơn vì người thân của họ ở địa phương vẫn được đảm bảo mức lương thực đầy đủ. Tuy nhiên do có sự bình quân về phân phối nên đã không khuyến khích được người sản xuất phát huy khả năng sáng tạo, sự năng động. Vì có sự bao cấp của Nhà nước, bao tiêu sản phẩm nên chất lượng kém, làm ăn lãng phí, chi phí đầu ra cao nhưng hiệu quả kinh tế thấp. * Giai đoạn 1980 - 1986 Đến những năm cuối của thập kỷ 70 của thế kỷ XX, người lao động và không ít cán bộ các cấp các ngành không chấp nhận cơ chế quản lý cũ. Đảng và Nhà nước cũng nhận thấy không thể điều khiển một cách có hiệu quả nền kinh tế bằng cơ chế cũ. Chính vì vậy mà Nghị quyết hội nghị Trung ương 6 khóa IV (9/1979) đã đề cập đến một số vấn đề cấp bách trong quản lý kinh tế. Sau nghị quyết 6, nhiều chủ trương chính sách được ban hành nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế và cải thiện đời sống của người lao động: thực hiện chế độ khoán sản phẩm đến nhóm lao động và từng lao động trong hợp tác xã nông nghiệp; cải tiến phân phối lưu thông, điều chỉnh mặt bằng giá… Do những đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế theo hướng chú trọng hơn đến hiệu quả kinh tế và từng bước khắc phục tính quan liêu, gò bó của cơ chế kế hoạch hóa làm cho người lao động, các doanh nghiệp… năng động hơn, sáng tạo hơn. Tuy nhiên mặc dù có những khởi sắc, nhưng do còn có nhiều sai lầm trong điều chỉnh nên nền kinh tế không thoát khỏi khủng hoảng, thậm chí có những mặt còn trầm trọng hơn. * Giai đoạn từ năm 1986 đến nay Trước tình hình trên đại hội Đảng VI (12/1986) đã quyết định chuyển hướng phát triển nền kinh tế nước ta. Đến đại hội Đảng lần thứ VII thì khẳng định rõ ràng: “Tiếp tục xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Như vậy với sự đổi mới về tư duy kinh tế, Đảng ta đã đề ra phương hướng đổi mới kinh tế là chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau đại hội VI của Đảng, Nhà nước đã tiến hành đồng bộ hơn, toàn diện hơn việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, gồm những nội dung cơ bản: - Thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần Nếu trước đây kinh tế tư nhân, cá thể không được thừa nhận thì nay được khuyến khích phát triển mạnh mẽ. Nhà nước đã ban hành luật công ty (12/1990), luật doanh nghiệp tư nhân (12/1990) nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh của các công dân Việt Nam theo đúng luật pháp. Trong nông nghiệp, theo nghị quyết 10 của Bộ chính trị đã thực hiện chính sách khoán và hợp đồng giao nộp sản phẩm. Nông dân được quyền sử dụng ruộng đất lâu dài và tự do bản sản phẩm trên thị trường… Tháng 10/1987, Nhà nước ban hành quyết định 217 - HĐBT về đổi mới quản lý doanh nghiệp Nhà nước… - Chuyển mạnh cơ chế thị trường với việc sử dụng mạnh mẽ các công cụ quản lý vĩ mô để điều tiết nền kinh tế. Nhà nước đã ban hành và tổ chức thực hiện hàng loạt chính sách và biện pháp quan trọng như: thực hiện cơ chế giá thị trường đối với hầu hết các loại hàng hóa dịch vụ (3/1989); thực hiện chính sách lãi suất và tín dụng như một công cụ huy động tiền thừa trong xã hội góp phần quan trọng kiềm chế và đẩy lùi lạm phát; cải cách hệ thống thuế (luật thuế xuât nhập khẩu-12/1991; luật thuế tiêu thụ đặc biệt-6/1990)… - Thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế Về xuất nhập khẩu: tự do hóa thương mại, giảm bớt một số thủ tục xuất, nhập không cần thiết. Thay đổi định hướng xuất nhập khẩu theo hướng mở rộng thị trường ra một số nước mới, nhất là các nước trong khu vực… Về hợp tác đầu tư nước ngoài: thành lập một số khu chế xuất với nhiều điều kiện ưu đãi; công bố luật đầu tư nước ngoài. - Cải cách một bước bộ máy quản lý kinh tế Tăng cường vai trò lập pháp, kiểm tra, giám sát của quốc hội. Sắp xếp bộ máy quản lý các cấp theo hướng thu gom đầu mối, tinh giảm biên chế, phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế và chức năng kinh doanh của các doanh nghiệp. Từng bước phân định tài sản Nhà nước và tài sản doanh nghiệp... Thực tế trải qua 15 năm đổi mới đã chứng tỏ quá trình chuyển sang kinh tế thị trường, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là bước đi tất yếu, tiến bộ, đúng đắn và đạt được những thành tựu quan trọng. III. Vai trò kinh tế của Nhà nước Việt Nam trong cơ chế mới 1. Nội dung của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa a. Cơ chế thị trường Nền kinh tế được xây dựng trên cơ sở tự do về kinh tế, có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Nền kinh tế vận động theo quy luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh tất yếu dẫn đến phân hóa những người sản xuất thành người giàu, kẻ nghèo. Cơ chế thị trường sẽ thúc đẩy sức sản xuất, xã hội hóa lao động, cải tiến kỹ thuật - công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều của cải, làm giàu cho xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Tuy nhiên do cạnh tranh khốc liệt, chạy theo lợi nhuận đơn thuần nên tạo ra sự bóc lột và phân hóa giàu nghèo quá đáng. Sự phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường tạo ra hệ thống thị trường phát triển đầy đủ, do đa dạng hóa sản phẩm, ngành nghề nên hệ thống thị trường trong nước và ngoài nước, xuất nhập khẩu phát triển đầy đủ, đồng bộ. b. Có sự quản lý của Nhà nước Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất… Sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước gồm có: tạo môi trường pháp lý thuận lợi, xây dựng hành lang pháp lý và bộ khung pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp; tạo môi trường kinh tế - xã hội ổn định, tạo lập công bằng xã hội; có các chính sách biện pháp thực hiện như chính sách thu nhập và phúc lợi xã hội, chính sách tài chính - tiền tệ; tiền lương… c. Theo định hướng xã hội chủ nghĩa Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế dựa trên những nguyên tắc của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Biện pháp của Nhà nước gồm có: Một là: phát triển kinh tế nhiều thành phần với sự đa dạng của các hình thức sở hữu toàn dân, của kinh tế Nhà nước. Hai là, thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Như vậy, nền kinh tế thị trường mà chúng ta đang xây dựng là nền kinh tế vận hành theo những quy luật khách quan nhưng có sự quản lý, sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước kiểu mới - Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhà nước cần sử dụng các biện pháp quản lý nhằm mục tiêu kinh tế đi đôi với tiến bộ và phúc lợi xã hội, với phát triển văn hóa và giáo dục, nâng cao dân trí, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước… 2. Mục tiêu và các chức năng của quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước Việt Nam a. Mục tiêu Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước, mục tiêu của nước ta là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, công bằng xã hội, giải quyết những vấn đề tiêu cực mà kinh tế thị trường gây ra. Cụ thể là: * Mục tiêu phân bổ nguồn lực có hiệu quả Cần tiến hành phân bổ nguồn lực thích hợp, tương ứng với từng khu vực phát triển sao cho phù hợp nhất để tạo ra hiệu quả kinh tế cao. Các chính sách phát triển kinh tế phải đồng đều với từng khu vực, đồng bộ, chú trọng những trọng điểm phát triển kinh tế. * Phân bổ công bằng sản phẩm làm ra và giải quyết tốt vấn đề xã hội. Giải quyết vấn đề công bằng về phân phối thu nhập xã hội. Để đảm bảo mức sống tối thiểu cho mọi thành viên trong xã hội, nhà nước ta sử dụng ba hình thức: phân phối theo lao động; theo quyền sở hữu đối với các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất; qua phúc lợi xã hội trong đó coi trọng hình thức phân phối theo lao động. * Mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế Mục tiêu ổn định kinh tế gồm: Một là duy trì sự ổn định cơ bản của mức vật giá, ngăn ngừa và kiềm chế lạm phát. Hai là duy trì sự ổn định cơ bản của công ăn việc làm trong xã hội hạn chế tỉ lệ thất nghiệp, tạo thêm công ăn việc làm để thu hút lao động. Ba là duy trì sự ổn định cơ bản của tăng trưởng kinh tế, làm cho kinh tế tăng trưởng ổn định hài hòa. Bốn là đảm bảo sự cân bằng cơ bản của thu - chi ngân sách Năm là bảo đảm cân bằng cơ cấu của tổng cung cấp xã hội và tổng nhu cầu xã hội. Về mục tiêu tăng trưởng kinh tế gồm: Một là tốc độ tăng trưởng của GDP của các ngành kinh tế chủ yế sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa. Hai là sự đóng gió của tiến bộ công nghệ vào tăng trưởng kinh tế. Ba là mức tăng trưởng của tỷ lệ vốn đầu tư trong nước trên GDP. Bốn là mức tăng trưởng của xuất khẩu và của vốn đầu tư nước ngoài. Năm là sự hoàn thiện của thể chế kinh tế và phương thức quản lý. * Củng cố và xây dựng kết cấu hạ tầng Xây dựng tiềm lực kinh tế và cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa bao gồm: kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, nền công nghiệp trong đó có công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng, tiềm lực khoa học công nghệ… Các công trình cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất cần được sửa chữa khôi phục sau chiến tranh và xây dựng mới với mục tiêu đưa nước ta trở thành nước công nghiệp, đa dạng hóa các ngành công nghiệp… Xây dựng đồng bộ và từng bước hiện đại hóa kết cấu hạ tầng. * Củng cố an ninh quốc phòng Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Quản lý Nhà nước về lĩnh vực quốc phòng và anh ninh; bảo đảm cơ sở vật chất cho quốc phòng an ninh. Tăng cường anh ninh quốc phòng là nhiệm vụ trọng yếu, là cơ sở nền tảng để đảm bảo nền kinh tế phát triển bền vững, chống thù trong giặc ngoài… b. Chức năng * Nhà nước đảm bảo định hướng phát triển kinh tế đất nước, phát triển kinh tế xã hội nói chung và phát triển kinh tế nói riêng là mục tiêu cơ bản của mỗi quốc gia. Phát triển kinh tế là sự lớn mạnh ở mức độ cao của nền kinh tế thỏa mãn ba điều kiện: - Tăng trưởng kinh tế: Thực hiện sự biến đổi cơ cấu kinh tế theo định hướng, tỉ trọng sản xuất công nghiệp tăng nhanh cả tương đối lẫn tuyệt đối và chiếm ưu thê trong GDP, lao động nông nghiệp giảm, lao động trong công nghiệp tăng nhanh và chiếm đại bộ phận trong tổng lao động xã hội. Mức thu nhập thực tế mà mỗi người dân được hưởng cao phản ánh mức công bằng dân chủ và chất lượng cuộc sống của dân chúng cùng với sự tham gia của chính học vào quá trình phát triển kinh tế xã hội. Quá trình phát triển kinh tế của nước ta chính là từng bước hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý phù hợp với điều kiện cụ thể trong từng giai đoạn và xu hướng thời đại. Để phát triển kinh tế vấn đề đầu tiên là phải xác định rõ phương hương đề ra các mục tiêu lớn và vạch chiến lược cho sự phát triển nhằm không ngừng hoàn thiện và chuyển đổi kinh tế theo các bước phát triển từ thấp đến cao xét dưới các góc độ khác nhau. Trong các chức năng quản lý thì chức năng định hướng phát triển kinh tế là chức năng cơ bản nhất bởi vì định hướng đúng giúp đất nước đối phó với sự không ổn định và thay đổi trong nội bộ đất nước cũng như các biến động bên ngoài. Nội dung của việc xác định hướng phát triển kinh tế của đất nước gồm xác định các nhiệm vụ, xác định các mục tiêu và các chiến lược phát triển dài hạn kinh tế đất nước. Hội nghị đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định nhiệm vụ cho đất nước giai đoạn từ nay đến năm 2000 là: - Phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa với các nội dung: + Công nghiệp hóa - hiện đại hóa công nghiệp và nông thôn. + Phát triển công nghiệp. + Xây dựng kết cấu hạ tầng. + Phát triển nhanh du lịch. + Phát triển nhanh, hợp lý các vùng lãnh thổ. + Mở rộng nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. - Thực hiện chính sách đối với các thành phần kinh tế với các nội dung: + Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo. + Phát triển kinh tế hợp tác với nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao, từ tổ nhóm hợp tác xã. + Phát triển kinh tế tư bản Nhà nước bao gồm các hình thức hợp tác và liên doanh giữa kinh tế Nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế Nhà nước với tư bản nước ngoài. - Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. - Phát triển khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo. * Lập kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế xã hội. Đây là tập hợp các mục tiêu ở cấp quốc gia hay khu vực và các giải pháp nhằm thực hiện các mục tiêu đó. Nhà nước phải xây dựng các kế hoạch phát triển quốc gia dài hạn và trung hạn. Cuối cùng các kế hoạch được cụ thể hóa bằng các kế hoạch hàng năm kết hợp với hệ thống ngân sách của chính phủ và có tính đến viện trợ của nước ngoài đã được phê duyệt. Kế hoạch Nhà nước phải quán triệt đường lối chủ trương của Đảng để đưa ra một hệ thống các mục tieu vĩ mô xác định tốc độ phát triển, cơ cấu và các cân đối lớn của các chính sách, các giải pháp để dẫn dắt nền kinh tế theo chiều hướng kế hoạch. Kế hoạch Nhà nước phải bao quát các ngành các vùng, các lĩnh vực và các thành phần kinh tế. Chương trình là tổ hợp các mục tiêu các chính sách các thủ tục các quy tắc các nhiệm vụ các bước phải tiến hành, các nguồn lực cần sử dụng và các yếu tố cần thiết khác để thực hiện một ý đồ lớn, mục tiêu nhất định về phát triển kinh tế đất nước, vùng và ngành. Không có chương trình thì chính phủ dễ có khuynh hướng làm những điều mới thoạt nhìn thì có vẻ quan trọng nhưng chỉ là gạt bỏ những vấn đề lớn mà không bắt tay vào thực hiện ngay từ đầu thì khó có thể thực hiện xong. * Thiết lập khuôn khổ pháp luật về kinh tế. Theo chức năng này để quản lý nền kinh tế quốc dân Nhà nước phải tạo ra và thực hiện một hệ thống pháp luật nói chung và một hệ thống về kinh tế nói riêng. Bằng luật kinh tế Nhà nước xác định vị trí pháp lý cho các tổ chức và đơn vị kinh tế. Trên cơ sở pháp lý cho hoạt động và Nhà nước thực hiện sự quản lý của mình đối với các hoạt động đó. Bằng luật kinh tế Nhà nước điều chỉnh hành vi kinh doanh xác định hành vi nào là hành vi kinh doanh hợp pháp, hành vi nào là phi pháp. Nhà nước quy định cơ quan trong kinh doanh hoàn thành cơ chế giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh. * Xây dựng và thực hiện hệ thống các chính sách, các công cụ và đòn bẩy kinh tế. Chính sách kinh tế là một trong những công cụ chủ yếu để Nhà nước thực hiện vai trò quản lý kinh tế trong các giai đoạn phát triển nhất định. Chính sách kinh tế bao gồm các chính sách xử lý các mục tiêu và là một trong các mục tiêu và là một trong các chính sách quan trọng nhằm phát triển kinh tế xã hội. Để quản lý nền kinh tế quốc dân Nhà nước phải dựa vào các hệ thống chính sách kinh tế. Hệ thống này gồm nhiều chính sách cụ thể đi sâu vào từng mặt từng khâu của quá trình tái sản xuất của cải xã hội, bao gồm: + Chính sách cơ cấu kinh tế. + Chính sách tài chính. + Chính sách về chuyên ngành kinh tế. + Chính sách tiền tệ tác dụng. * Tổ chức và điều hành các hệ thống kinh tế trong nước hoạt động. Với chức năng này Nhà nước cần tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý cũng như điều hành kinh tế quốc dân theo định hướng kế hoạch nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội. Chức năng tổ chức sản xuất Nhà nước phải hình thành đơn vị kinh tế theo ngành theo vung, theo thành phần kinh tế. Hình thành nên các ngành kinh tế trong các vùng trong hệ thống kinh tế quốc dân. Nhà nước phải hình thành bộ máy kinh tế từ Trung ương đến địa phương với một cơ cấu hợp lý, đội ngũ cán bộ đủ kỹ năng cần thiết. Với chức năng điều hành Nhà nước cần phối hợp hành động giữa các cơ quan, đơn vị trong nền kinh tế quốc dân đã đảm bảo những mối quan hệ cần thiết cho sự phát triển, đảm bảo hoàn thành kế hoạch của toàn bộ nền kinh tế. * Kiểm tra kiểm soát nền kinh tế. Chức năng này đảm bảo cho nền kinh tế quốc dân phát triển theo đúng kế hoạch của Nhà nước. Với chức năng kiểm tra kiểm soát kinh tế Nhà nước có nhiệm vụ kịp thời phát hiện những sai sót ách tắc đổ vỡ của quá trình phát triển kinh tế, phát hiện các cơ hội cho sự phát triển nền kinh tế quốc dân trong tương lai. Nội dung của chức năng này là: Kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch của các ngành các cấp Kiểm tra kiểm soát việc sử dụng các nguồn lực của đất nước. Kiểm tra kiểm soát việc thực hiện chủ trương chính sách pháp luật của Nhà nước. Kiểm tra công cụ và chính sách quản lý. Kiểm tra việc thực hiện các chức năng của cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực quản lý kinh tế. * Điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế Đây là những tác động bổ sung của Nhà nước đến nền kinh tế thị trường nhằm sửa chữa những sai sót, khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường tạo cơ hội phát triển kinh tế. Mặt khác đối với nền kinh tế thị trường Nhà nước cần phải chú trọng hơn nữa vào các chức năng: + Định ra khuôn khổ pháp luật cho các hoạt động kinh tế cụ thể Nhà nước đặt ra pháp luật, quy tắc về hoạt động kinh tế cho các nhà doanh nghiệp, người tiêu dùng phải tuân theo. Các nguyên tắc đều phải đảm bảo tính dân chủ, sự cân bằng các hoạt động kinh tế mà người dân có thể tham gia vào thị trường Nhà nước cũng như mọi người không làm tổn hại đến các hoạt động của sản xuất kinh doanh. Chức năng này bao gồm các luật lệ xác định môi trường kinh doanh các quy tắc hợp đồng, các hoạt động kinh daonh, trách nhiệm của người quản lý đối với tính chất xã hội. ở Việt Nam chức năng này chưa được thực hiện đẩy đủ vì hệ thống hoạt động kinh tế của ta còn đơn sơ chưa tạo được môi trường kinh doanh lành mạnh. Trong thời gian tới chúng ta phải nghiên cứu và nỗ lực học hỏi thêm kinh nghiệm của các nước để xây dựng cho mình một bộ phận kinh tế hợp lý. + Nhà nước phải sửa chữa những thất bại của cơ chế thị trường để thị trường hoạt động hiệu quả. Điều đầu tiên những thất bại của thị trường trong các hoạt động kinh tế là do ảnh hưởng của độc quyền. Bởi vì lợi dụng ưu thế của mình các tổ chức độc quyền có thể quy định giá cả độc quyền để thu lợi nhuận, phá vỡ thế cạnh tranh hoàn hảo. Điều này buộc phải có sự can thiệp của Nhà nước để đảm bảo tính cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo được sự ganh đua của người sản xuất đảm bảo hiệu quả kinh tế. ở những nơi mà độc quyền tăng Nhà nước cần có những chính sách, những luật lệ chống độc quyền. Ngoài ra kinh tế thị trường gây ra ở nhiều nơi phân chia xã hội thành hai cực đối lập dẫn đến Nhà nước cần có những biện pháp giữ được cân bằng ổn định xã hội. + Nhà nước chú trọng đầu tư xã hội cơ sở hạ tầng xây dựng cơ sở tài nguyên quốc gia. Những công việc này đòi hỏi phải có một số vốn lớn thời gian đầu tư dài mới thu hồi được vốn mà lợi nhuận lại không cao nên không một tổ chức cá nhân nào hay doanh nghiệp nào có thể đứng ra thực hiện mà chỉ có Nhà nước mới có thể làm được. Vấn đề bảo vệ môi trường rất cần được chú ý quan tâm và cần phát động phong trào toàn dân tham gia bảo vệ môi trường và đi đôi với việc ban hành luật bảo vệ môi trường. Mặt khác cần tạo ra một sự ổn định về chính trị để các doanh nghiệp trong và ngoài nước yên tâm vào đầu tư sản xuất kinh doanh. 3. Các công cụ Nhà nước sử dụng trong quản lý kinh tế vĩ mô. a, Hệ thống luật pháp: Hệ thống luật pháp là một công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước, nó tạo ra khuôn khổ pháp luật cho các chủ thể kinh tế hoạt động, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống luật pháp bao trùm mọi hoạt động kinh tế - xã hội bao gồm những điều luật cơ bản về hoạt động của các doanh nghiệp (Luật doanh nghiệp) về hợp đồng kinh tế, bảo hộ lao động… Các luật đó điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh tế, bảo hộ lao động… Các luật đó điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh tế buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận sự điều tiết của Nhà nước. b, Kế hoạch hóa Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là kế hoạch kết hợp với thị trường. Kế hoạch và thị trường là hai công cụ quản lý của Nhà nước, chúng được kết hợp chặt chẽ với nhau. Sự điều tiết của thị trường là cơ sở phân phối các nguồn lực còn kế hoạch khắc phục tính tự phát của thị trường; làm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng của kế hoạch. c, Lực lượng kinh tế của Nhà nước Nhà nước quản lý nền kinh tế không chỉ bằng các công cụ pháp luật, kế hoạch mà còn bằng lực lượng kinh tế của tập thể để chúng dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Nhờ đó Nhà nước có sức mạnh vật chất để điều tiết, hướng dẫn nền kinh tế theo mục tiêu kinh tế - xã hội do kế hoạch đặt ra. d, Chính sách tài chính tiền tệ Chính sách tài chính, đặc biệt là ngân sách Nhà nước có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế và xã hội. Thông qua nó, Nhà nước điều chỉnh phân bố các nguồn lực kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng, đảm bảo công bằng trong phân phối… Chính sách tiền tệ là công cụ quản lý vĩ mô trọng yếu. Nó phải khống chế được lượng tiền phát hành và tổng quy mô cho tín dụng. e, Các công cụ điều tiết kinh tế đối ngoại Để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, Nhà nước sử dụng nhiều công cụ, trong đó chủ yếu là thuế xuất - nhập khẩu, bảo đảm tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu… Thông qua các công cụ đó Nhà nước có thể khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hóa của nước ta… 4. Thực trạng quản lý Nhà nước về kinh tế ở nước ta hiện nay. a, Ưu điểm Từ khi đổi mới nền kinh tế nước ta đã có những thay đổi căn bản. Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới kinh tế - xã hội. Đây thực sự là một cuộc cách mạng sâu sắc được tiến hành đồng thời trên ba lĩnh vực: Một là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai là chuyển từ nền kinh tế được xây dựng theo hướng có cơ cấu hoàn chỉnh, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Trên cơ sở đó vai trò quản lý của Nhà nước cũng chuyển từ quản lý trực tiếp sang quản lý vĩ mô nền kinh tế thực hiện bằng pháp luật và các chính sách kinh tế, các công cụ điều tiết có hiệu lực. Quá trình đổi mới nền kinh tế ở nước ta cho đến nay đã đạt được những thành tựu đáng kể: Thứ nhất là công cuộc đổi mới đã tạo ra một bước ngoặt lớn trong nền kinh tế: tốc độ tăng trưởng khá, tổng sản phẩm quốc nội (GNP) tăng nhanh, nền kinh tế có tích lũy nội bộ. Thành tựu nổi bật nhất là sản xuất nông nghiệp phát triển, khối lượng lớn và tỉ suất hàng hóa tương đối cao. Nước ta từ một nước thiếu lương thực, nhập khẩu đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Các hoạt động dịch vụ đã phát triển mạnh mẽ. Thứ hai là đời sống từng bước được cải thiện, nhân dân phấn khởi tin tưởng hơn vào đường lối đổi mới. Thứ ba là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đang được hình thành và phát huy tác động, việc chuyển dịch cơ cấu ngành đã đi theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước sau khi tổ chức đã được nâng lên. Thứ tư là lạm phát đã được hạn chế và ngày càng giảm, thâm hụt ngân sách được kiểm soát tốt hơn, xuất nhập khẩu gia tăng và đa dạng hơn. Thứ năm là đổi mới cơ chế quản lý bước đầu đã thu được những thành tựu đáng kể, hệ thống pháp luật được bổ sung, hoàn chỉnh, kế hoạch hóa được đổi mới… b, Nhược điểm Nền kinh tế thị trường ở nước ta mới chỉ sơ khai, chưa đầy đủ. Cụ thể là: Một là: sản xuất hàng hóa trong các lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp còn ở trình độ thấp, công nghệ sản xuất còn lạc hậu, chất lượng sản phẩm làm ra còn xấu. Vì thế thị trường tiêu thụ hết sức hạn chế. Nếu có thị trường thì sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường kém. Hai là tuy sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp là ngành sản xuất chiếm tỉ trọng lớn nhất, chiếm nhiều lao động xã hội trong cơ cấu kinh tế nhưng sản lượng vẫn chưa tối đa, phần lớn trong tình trạng sản xuất tự cung tự cấp. Ba là các hoạt động dịch vụ mới chỉ tập trung vào ăn uống, buôn bán nhỏ các hàng công nghiệp tiêu dùng… các ngành như du lịch, bảo hiểm, cung ứng kỹ thuật và công nghệ chưa tương ứng, chất lượng các hàng hóa dịch vụ nhìn chung còn thấp. Bốn là thị trường sơ khai, còn nhiều rối loạn và các yếu tố tự phát. Năm là cơ sở hạ tầng kém phát triển, lạc hậu, hệ thống giao thông xuống cấp, nền tài chính quốc gia còn yếu. Sáu là phân công lao động kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế châm, nền kinh tế nước ta chưa thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ. Bảy là hệ thống luật pháp còn buông lỏng, chưa rõ ràng, cụ thể, nhất quán. Tám là bộ máy Nhà nước ta tổ chức còn cồng kềnh, chưa gọn nhẹ, cải tổ bộ máy còn lúng túng, chậm chạp. Vẫn còn tệ quan liêu tham nhũng trong một bộ phận cán bộ Nhà nước. Chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý, bội chi ngân sách và nhập siêu còn lớn, lạm phát tuy được kiềm chế nhưng chưa vững chắc. 5. Giải pháp cơ bản để tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước Việt Nam Bài học kinh nghiệm quan trọng đầu tiên đối với nước ta trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là không phải hạ thấp mà là tăng cường hơn nữa, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước. Sau gần 20 năm đổi mới , nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam từng bước được hình thành. Quan đó sự quản lý của Nhà nước về kinh tế đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên tất cả mới chỉ là bước đầu, việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với kinh tế thị trường ở Việt Nam vẫn đang là một yêu cầu khách quan và cấp bách. Để thực hiện yêu cầu này cần thực hiện một số giải pháp sau: a, Xác định mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế xã hội phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội nước ta và bối cảnh quốc tế hiện nay. Bối cảnh quốc tế hiện nay đang đứng trước những diễn biến mới. Xu thế thương mại hóa toàn cầu cùng với xu thế hòa bình, ổn định, cải cách và chuyển dịch cơ cấu để phát triển đang là sự lựa chọn của các quốc gia để tồn tại và phát triển. Cạnh tranh kinh tế quốc tế ngày càng ác liệt, toàn diện để tìm kiếm thị trường, nguồn nguyên liệu, vốn đầu tư, khoa học công nghệ, chất xám… Quá trình cạnh tranh trên thị trường quốc tế đang làm nảy sinh những yêu cầu mới về hợp tác đồng thời cũng gây ra những xung đột vì lợi ích dân tộc và khu vực trên thế giới. Bối cảnh đó tác động sâu sắc đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội của nước ta, tạo ra những cơ hội và thách thức mới. Xuất phát từ tình hình thực hiện công cuộc đổi mới trong những năm qua cũng như những cơ hội và thách thức trong giai đoạn mới để thực hiện được những mục tiêu của “chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội”, trong những năm tới chúng ta phải: “phát huy những thành tựu đã đạt được, ra sức phấn đấu tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, đưa nước ta vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước công nghiệp hóa hiện đại hóa, tạo ra những cơ sở vật chất và nguồn lực cho bước phát triển nhanh và bền vững về kinh tế, chặn đứng, tiến tới đẩy lùi tiêu cực, bất công xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân,củng cố quốc phòng và an ninh, giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Phấn đấu thực hiện vượt mức các mục tiêu đã xác định, đưa đất nước cơ bản thoát khỏi tình trạng đói nghèo và lạc hậu, tạo đà mạnh mẽ để phát triển nhanh và bền vững vào những năm đầu thế kỷ XXI”. Để thực hiện điều đó cần phải chú trọng: thúc đẩy nhanh chóng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý và năng động. ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, tích cực huy động các nguồn vốn. Tiếp tục quá trình tự do hóa giá cả, thương mại hóa nền kinh tế một cách triệt để. Để có cơ sở đề ra các chính sách đúng và chỉ đạo có hiệu quả cần tiếp tục cụ thể hóa mô hình phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện mục đích tăng trưởng cao và bền vững trên một số lĩnh vực: Một là, quan hệ giữa các định hướng phát triển dựa vào việc xuất khẩu tài nguyên thô hoặc sơ chế, dựa vào các nguồn lực bên trong, tự lực gánh sinh và thay thế nhập khẩu với các yếu tố bên ngoài. Hai là quan hệ giữa tập trung vào những ngành và vùng trọng điểm đồng phát triển các vùng trong cả nước, trong giai đoạn trước mắt, cần ưu tiên ngành và vùng trọng điểm nhằm đạt hiệu quả đầu tư cao và thu hồi vốn nhanh. Ba là quan hệ giữa xây dựng các công trình quy mô lớn, quy mô vừa và nhỏ trong điều kiện tổng số vốn có hạn. Bốn là quan hệ giữa phát triển công nghệ tiên tiến và công nghệ trung gian, xử lý thỏa đáng những vấn đề sở hữu trí tuệ, vai trò của thông tin, quản lý và chất xám trong nền kinh tế hiện đại. Năm là trong chiến lược phát triển ngành cần tập trung chú ý đến nông nghiệp trong giai đoạn đầu của quá tình công nghiệp hóa đất nước. Sáu là đi đôi với việc xác định chiến lược lâu dài, Nhà nước phải xây dựng các chương trình kế hoạch cho từng thời kỳ. b, Tăng trưởng kinh tế và điều kiện đảm bảo tăng trưởng cao, bền vững. Trên cơ sở những mục tiêu chiến lược tổng quát trên đây, trong những năm trước mắt, vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu để chống tụt hậu xa là đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Để đạt một tốc độ cao trong thời gian dài như vậy là hết sức khó khăn. Tuy nhiên đó là con đường duy nhất để đưa đất nước ta tiến kịp các nước trong khu vực. Để thực hiện được nhiệm vụ này trước hết Việt Nam cần phải có một chiến lược tăng trưởng năng động sáng tạo hợp với điều kiện Việt Nam trong điều kiện phát triển sôi động của thế giới hiện nay. Vấn đề có ý nghĩa quyết định để có thể tăng trưởng kinh tế cao và ổn định là phải đảm bảo các điều kiện về giải quyết các mối liên hệ trong quá trình tăng trưởng. Những điều kiện và các mối liên hệ này là: Một là nguồn vốn: muốn có tốc độ tăng trưởng cao trong điều kiện nước ta đòi hỏi phải có một nguồn vốn lớn .Vấn đề có ý nghĩa quyết định ở đây là phải có những giải pháp hữu hiệu để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước .Đối với vốn đầu tư trong nước trước hết việc huy động vốn đầu tư phải gắn liền với chính sách thực hành tiết kiệm và sử dụng tiền tiết kiệm của dân cư và doanh nghiệp vào đầu tư. Để có vốn đầu tư trong nước cần phải: có chính sách tiết kiệm trong cả nước, coi tiết kiệm là quốc sách, tiết kiệm cả trong sản xuất và tiêu dùng; tạo môi trường đầu tư thuận lợi để thu hút vốn đầu tư trong nước; tăng cường các biện pháp kinh tế vĩ mô để kiềm chế lạm phát… Đối với vốn vay của nước ngoài cần: Kết hợp chặt chẽ các hình thức đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp khi xây dựng các dự án để thu hút vốn nước ngoài; cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài cho phù hợp với thông lệ quốc tế đồng thời đảm bảo thủ tục gọn nhẹ… Hai là về công nghệ: phải đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ của đất nước, rút ngắn khoảng cách lạc hậu giữa nước ta với các nước, phải gắn chặt quá trình chuyển giao công nghệ, quá trình phát triển khoa học công nghệ với sản xuất, kinh doanh. Thực hiện chuyển giao công nghệ với mọi thành phần kinh tế, đảm bảo có được những công nghệ vừa tiên tiến lại vừa phù hợp với yêu cầu trình độ phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Chuyển giao công nghệ phải gắn với bảo vệ môi trường, phải được Nhà nước quản lý chặt chẽ. Ba là về lao động: đảm bảo cho mọi lao động có việc làm; tăng cường đầu tư cho giáo dục, đào tạo, đặc biệt là đào tạo cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nâng cao kỷ luật lao động trong công nhân, truyền thống và tinh thần quyết tâm lao động sản xuất để đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn phải được thấm sâu vào từng người lao động. Bốn là giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát, giữa tăng trưởng với dân số, tăng trưởng với phân phối thu nhập, với thị trường … c, Đổi mới cơ chế quản lý và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước Để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và lâu bền trong điều kiện kinh tế tư nhân ở nước ta còn rất nhỏ bé, biện pháp quan trọng của Nhà nước là phải đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước. Các biện pháp cụ thể là: Một là cung cấp cơ sở hạ tầng, giao thông, thông tin liên lạc và các dịch vụ công cộng khác. Hai là Nhà nước đảm nhận vai trò mở đường bằng việc thành lập các doanh nghiệp thuộc các ngành mũi nhọn mà vì nhiều lý do tư nhân chưa sẵn sàng đầu tư. Việc tổ chức lại du lịch Nhà nước trước hết cần dựa trên hai tiêu thức cơ bản là: tính chiến lược và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó xác định cụ thể các ngành, các lĩnh vực doanh nghiệp Nhà nước cần tập trung vốn đầu tư phát triển, tiến hành cơ cấu lại và cổ phần hóa với các mức độ và phương thức khác nhau. Ba là cơ chế quản lý và chính sách: cần xác định các quyền đại diện sở hữu hợp pháp và địa vị pháp lý của doanh nghiệp Nhà nước, làm rõ mối quan hệ giữa doanh nghiệp và các đối tác trong hoạt động kinh doanh. Bốn là tổ chức lại cơ cấu quản lý nội bộ doanh nghiệp Nhà nước, cải cách doanh nghiệp Nhà nước. Trong quá trình đổi mới cần tránh hai khuynh hướng là: thứ nhất là quan niệm vai trò chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nước một cách máy móc, muốn duy trì và phát triển doanh nghiệp Nhà nước một cách tràn lan, không tính đến hiệu quả. Thứ hai là coi hình thức sở hữu là nhân tố chủ yếu hoặc duy nhất quyết định hiệu quả của mọi loại kinh doanh, cho kinh tế tư nhân mới có hiệu quả cần tư nhân hóa các doanh nghiệp Nhà nước. d, Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh tế để tạo ra khuôn khổ pháp lý thống nhất và đồng bộ trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm phát huy cao nhất mặt tích cực và hạn chế tối đa những khuyết tật của kinh tế thị trường. Hệ thống pháp luật này là công cụ chủ yếu để Nhà nước quản lý nền kinh tế . Cần tiếp tục rà soát, sửa đổi bổ sung và xây dựng mới các văn bản pháp luật cho phù hợp với thực tiễn, đáp ứng nhu cầu của công cuộc đổi mới. Phấn đấu trong vài năm tới có đủ các đạo luật để điều chỉnh các lĩnh vực về hoạt động kinh tế và quản lý kinh tế, về quản lý hành chính Nhà nước. Hệ thống pháp luật cần được bổ sung và hoàn thiện trên các lĩnh vực sau: Một là trong việc sử dụng, chuyển nhượng, cho thuê đất, thị trường bất động sản… Hai là bổ sung điều chỉnh bộ luật thuế, tránh chồng chéo phân tán theo hướng mở rộng diện thu thuế nhưng giảm mức thu nhằm khuyến khích tính tích cực, tự giác đóng góp của người sản xuất kinh doanh. Ba là khuyến khích đầu tư trong nước, nhất là khu vực sản xuất nhỏ rộng lớn, sửa đổi bổ sung luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân, luật kiểm soát độc quyền và cạnh tranh. Bốn là xây dựng bộ luật thương mại, luật ngân sách…nhằm bảo vệ lợi ích của quốc gia và doanh nhân Việt Nam trong quan hệ hợp tác quốc tế. Năm là nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật, hoàn thiện hệ thống các cơ quan thi hành pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền và quản lý nhà nước bằng kinh tế. Sáu là xác định rõ thẩm quyền trách nhiệm cá nhân nhất là những người lãnh đạo chủ chốt trong mỗi cơ quan, tổ chức đối với việc thực hiện pháp luật trong phạm vi cơ quan, tổ chức của mình. e, Hoàn thiện và đổi mới quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng Về chính sách tiền tệ: Cần điều chỉnh khối lượng tiền cung ứng. Nhà nước quản lý về ngoại hối, điều tiết tỷ giá hối đoái. Việc quản lý Nhà nước của Ngân hàng Nhà nước đối với các Ngân hàng thương mại, công ty tài chính được thể hiện: ban hành các văn bản pháp quy thuộc thẩm quyền của mình về tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối…; thực hiện vai trò ngân hàng đối với các tổ chức tín dụng, áp dụng các biện pháp quản lý nhằm đảm bảo sự tôn trọng các nguyên tắc hoạt động nghiệp vụ của các tổ chức tín dụng; thanh tra các tổ chức tín dụng trong việc chấp hành luật pháp về tiền tệ, tín dụng, thanh toán ngoại hối và ngân hàng… f, Cải cách hành chính gắn liền với đổi mới kinh tế Đây là một nhân tố quyết định bảo đảm kinh tế tăng trưởng nhanh, ổn định và bền vững ở nước ta. Nhà nước muốn phát huy thành công vai trò của mình trong phát triển kinh tế cần có những điều kiện nhất định trong đó then chốt là phải có một hệ thống hành chính hoạt động có hiệu quả, có đủ năng lực để chế định và thực hiện chính sách trên cơ sở những căn cứ khoa học. Về cải cách thể chế hành chính: tập trung vào việc rà soát, xây dựng, hoàn thiện về thể chế để quản lý xã hội theo pháp luật, phục vụ lợi ích của nhân dân, đề cao nghĩa vụ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời đảm bảo cho thể chế quản lý phù hợp với sự chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường, tạo sự thích ứng trong quan hệ đối ngoại, phù hợp với luật pháp, tập quán và thông lệ quốc tế. Về tổ chức bộ máy: chấn chỉnh cơ cấu tổ chức, quy chế hoạt động và cơ chế vận hành của tổ chức bộ máy các cấp. Định rõ kế hoạch và mối quan hệ thứ bậc trong bộ máy hành chính. Vận dụng đúng nguyên tắc tập trung dân chủ phù hợp với đặc điểm hệ thống hành chính gắn với kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ nhằm đảm bảo sự điều hành tập trung thống nhất có kỷ luật cao từ Chính phủ tới chính quyền địa phương. Bộ máy của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường cần được tổ chức lại theo xu hướng bỏ dần cán bộ chuyên sâu, tổ chức cán bộ thực hiện chức năng quản lý đa ngành. Đối với cán bộ cần xác định rõ chức năng của mình trong chính phủ. Thiết lập đồng bộ hệ thống tài phán hành chính nhằm nâng cao năng lực bảo đảm quyền với lợi ích hợp pháp của nhân dân… Về đội ngũ công chức hành chính: phải sớm xây dựng chế độ công vụ mới nhằm quản lý và phát triển nguồn nhân lực thuộc bộ máy Nhà nước. Chế độ công vụ mới phải bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân để mọi công dân có đủ điều kiện đều có cơ hội được tuyển vào làm việc trong cơ quan Nhà nước. Để quản lý nguồn nhân lực phải phân cấp quản lý công chức, định rõ trách nhiệm, quyền hạn của chính phủ, bộ trưởng, các cấp hành chính… Tóm lại chiến lược cải cách hành chính, lấy sự phát triển liên tục tốc độ cao của kinh tế làm định hướng chiến lược và mục tiêu. Việc thực hiện cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả nền hành chính quốc gia phải được xem là nhân tố quyết định cho sự tăng trưởng kinh tế. g. Tăng cường phối hợp các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát. Sức mạnh của quản lý Nhà nước chính là ở phương hướng hoạt động đúng đắn và nghệ thuật phối hợp các hoạt động toàn xã hội theo trật tự và phương hướng đã đề ra. Vì vậy cần: Một là tổ chức một bộ phận cán bộ đủ mạnh để nghiên cứu hình thành hệ thống mô hình phù hợp với điều kiện kinh tế nước ta hiện nay và giám sát hoạt động của các cơ quan chức năng trong việc phối hợp các công cụ quản lý vĩ mô, hạn chế những mâu thuẫn trong sử dụng các công cụ quản lý kinh tế - xã hội. Hai là tăng cường điều hành, hướng dẫn, giảm mạnh vai trò điều hành trực tiếp của Nhà nước. Ba là tăng cường hoàn thiện hệ thống ngân hàng các cấp đủ sức thực hiện chức năng trung tâm tiền tệ, thanh toán và tín dụng… Để hạn chế lạm phát, Nhà nước cần thi hành chính sách tỉ giá linh hoạt đồng thời can thiệp vào tỉ giá bằng biện pháp kinh tế; điều chỉnh cơ cấu sản xuất và cơ cấu tiêu dùng; giảm mức thâm hụt ngân sách; sửa đổi hệ thống ngân hàng, chấn chỉnh hệ thống tài chính, giá cả, xuất nhập khẩu; cải cách chế độ tiền lương; xây dựng, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống luật và các văn bản dưới luật; tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, cải cách bộ máy hành chính… Kết luận Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước là mô hình kinh tế tổng quát mà nước ta lựa chọn trong thời kỳ đổi mới. Trải qua sự vận động của lịch sử, cho đến nay nước ta đã phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần do Đảng Cộng sản lãnh đạo, chịu sự quản lý của Nhà nước. Vai trò kinh tế của Nhà nước đã thể hiện rõ trong những thành quả đạt được sau hơn 15 năm đổi mới. Nền kinh tế thị trường mà chúng ta đang xây dựng là nền kinh tế vận hành theo những quy luật khách quan của quá trình kinh tế nhưng có sự quản lý, sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước kiểu mới - Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, nền kinh tế nước ta phát triển mạnh, đời sống nhân dân được nâng cao, bộ mặt xã hội có sự đổi mới rõ rệt. ở đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta đã chủ trương chuyển sang kinh tế thị trường, không phải là một thị trường bất kỳ mà là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa kế thừa những thành tựu của loài người vừa gắn liền với mục tiêu chính trị. Đó là sư kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Định hướng xã hội chủ nghĩa trước hết phải là định hướng về chế độ kinh tế, vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Có thể nói ở Việt Nam hiện nay nền kinh tế đang ở trong thời kỳ chuyển tiếp từ cơ chế cũ sang cơ chế mới, những yếu tố tiêu cực, nằm ngoài sự quản lý, kiểm soát đôi khi còn mạnh hơn những yếu tố tích cực. Điều đó đòi hỏi Nhà nước can thiệp có mức độ, có giới hạn vào nền kinh tế nhằm hạn chế những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, thúc đẩy các hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển. Vì vậy vấn đề “Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng giúp chúng ta nhận thức vai trò này của Nhà nước. Để từ đó có những biện pháp, những chính sách cụ thể đúng đắn đưa nước ta phát triển mạnh về kinh tế tạo tiền đề vững chắc cho quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ tột bậc thì nền kinh tế thị trường còn có nhiều mặt tiêu cực: tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường… nên Nhà nước cần có những biện pháp quản lý công bằng hơn nữa để hạn chế sự phân hóa giàu nghèo, đào tạo đội ngũ cán bộ để hoàn thiện bộ máy quản lý của Nhà nước. Là một sinh viên kinh tế thấy rõ được vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước, chúng ta cần phải học tập, rèn luyện để sau này trở thành một cán bộ kinh tế tốt, góp một phần nhỏ sức lực của mình vào xây dựng đất nước ta giàu mạnh công bằng dân chủ văn minh. Chúng ta hi vọng rằng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng - Nhà nước chúng ta sẽ gặt hái được những thành quả cao hơn trong tương lai. Việt Nam sẽ bắt kịp với sự phát triển của toàn thế giới, khắc phục những yếu kém lạc hậu về khoa học công nghệ và nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường. Khắc phục được những tiêu cực nhằm vươn lên phát triển nhanh, ổn định vững chắc và công bằng xã hội. Trong một tương lai không xa Việt Nam sẽ bắt kịp với sự phát triển của khu vực và toàn thế giới. Với phương châm “Hãy bắt tay vào hành động, thực tiễn sẽ cho câu trả lời” hi vọng rằng từng bước từng bước thực tiễn sẽ làm sáng tỏ được các vấn đề nêu trên, góp phần làm phong phú thêm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phù hợp với điều kiện Việt Nam trong thời đại ngày nay. Tài liệu tham khảo: Cơ chế thị trường và vai trò Nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam (Lương Xuân Quỳ, 4/1995) Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ( Nguyễn Sinh Cúc 1995) Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX Tạp chí nghiên cứu lý luận (số 9 - 2000) Tạp chí cộng sản (số 31/11-2003) Tạp chí triết học (số 9/9-2003) Thông tin chính trị học (số 1/2000) Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin Giáo trình quản lý Nhà nước về kinh tế Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế Lời nói đầu Tr 1 Nội dung 3 I. Sự cần thiết khách quan của vai trò kinh tế của Nhà nước 3 1. Lịch sử ra đời và vai trò của nhà nước 3 2. Tính tất yếu khách quan của việc xuất hiện vai trò kinh tế của Nhà nước 7 II. Sự hình thành cơ chế quản lý kinh tế mới ở Việt Nam 9 1. Cơ chế quản lý cũ của Việt Nam 9 2. Cơ chế thị trường và việc tận dụng vào Việt Nam 10 III. Vai trò kinh tế của Nhà nước Việt Nam trong cơ chế mới 15 1. Nội dung của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa 15 2. Mục tiêu và các chức năng của quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước Việt Nam 16 3. Các công cụ Nhà nước sử dụng trong quản lí kinh tế vĩ mô. 20 4. Thực trạng quản lí Nhà nước về kinh tế ở nước ta hiện nay. 21 5. Giải pháp cơ bản để tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước Việt Nam 22 Kết luận 28 Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33678.doc
Tài liệu liên quan