Đề tài Vấn đề Bảo hiểm hoả hoạn và Gián đoạn kinh doanh

Trong những năm vừa qua, tuy bảo hiểm hoả hoạn và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh là nghiệp vụ còn non trẻ. Nhưng công ty Bảo hiểm Hà Nội đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Điều đó không chỉ thể hiện ở sự tăng trưởng của các chỉ tiêu trong hoạt động kinh doanh mà còn khẳng định được sự đóng góp của nghiệp vụ đối với nền kinh tế. Thông qua tác dụng là bảo toàn vốn, tạo ra một tâm lý an toàn, tin tưởng cho chủ doanh nghiệp cũng như toàn bộ công nhân. Loại hình nghiệp vụ này đã làm nổi bật được vai trò của mình trong công cuộc đổi mới đất nước. Bằng lợi thế về tầm quan trọng không thể phủ nhận, bảo hiểm hoả hoạn và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh tự tin hơn bao giờ hết, sẵn sàng bước vào giai đoạn mới, giai đoạn cạnh tranh. Thực tế đã chứng minh chúng ta cần đến bảo hiểm, thực sự cần đến sự hỗ trợ đắc lực của bảo hiểm trong sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Vượt qua mọi khó khăn thử thách, bằng sự vươn lên của chính mình, chúng ta hy vọng rằng công ty Bảo hiểm Hà Nội cùng với nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh sẽ tiếp tục lớn mạnh và không ngừng đi lên, xứng đáng là doanh nghiệp đầu đàn.

doc89 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1264 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề Bảo hiểm hoả hoạn và Gián đoạn kinh doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hương I, rủi ro cháy không chỉ gây thiệt hại trực tiếp cho con người và tài sản mà còn để lại những hậu quả, tổn thất khổng lồ cho người tham gia như: doanh nghiệp không thể phát triển theo kế hoạch kinh doanh đặt ra, các doanh nghiệp sẽ mất khoản lợi nhuận mà lẽ ra họ có thể nhận được nếu như không xảy ra rủi ro hoả hoạn. Không chỉ thế, khi xảy ra rủi ro hoả hoạn, các doanh nghiệp còn phải chi trả tiền lương cho cán bộ công nhân, thanh toán các khoản chi phí cố định như tiền thuê nhà xưởng, kho bãi, khấu hao, điện nước, lãi suất ngân hàng, chi cho việc thuê thêm nhân công làm việc thêm giờ để hoàn tất các đơn đặt hàng còn tồn đọng… mà những khoản chi này không được bồi thường theo Đơn bảo hiểm hoả hoạn. Để đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tham gia, bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh ra đời. Là một nghiệp vụ ra đời sau nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn, nhưng nó rất cần thiết để hỗ trợ thêm cho nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn. Mục đích triển khai của nghiệp vụ này là: Giúp người tham gia bảo hiểm khắc phục được hậu quả sau khi xảy ra hoả hoạn, ổn định sản xuất kinh doanh, bảo toàn được nguồn vốn, thu lại một phần lợi nhuận và bù đắp được các khoản chi phí khi không may đối tượng tham gia gặp phải rủi ro hoả hoạn ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh của công ty, doanh nghiệp. Giúp cho người tham gia bảo hiểm tạo dựng được mối quan hệ bền vững với các bạn hàng của mình khi không may đối tượng tham gia bảo hiểm của mình bị hoả hoạn làm ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh của các bạn hàng. Triển khai nghiệp vụ này còn giúp cho nhà bảo hiểm giảm bớt được những khiếu nại, tranh chấp không cần thiết bởi vì đại đa số khách hàng lúc đầu không biết được phạm vi bảo hiểm và phạm vi bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh. Trong điều kiện quan hệ kinh tế rộng, đa dạng đa chiều như hiện nay, việc triển khai nghiệp vụ này còn tạo ra được tâm lý ổn định, yên tâm tin tưởng vảo các doanh nghiệp từ những người lao động và từ phía những người có quan hệ khác đối với người tham gia bảo hiểm. Trong thực tế, bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh và bảo hiểm hoả hoạn có mối quan hệ mật thiết với nhau bởi vì nghiệp vụ này có những đặc điểm sau: + Đối tượng tham gia có mối quan hệ mật thiết với nhau. + Phạm vi của bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh cũng phần lớn nằm trong phạm vi bảo hiểm hoả hoạn. + Hợp đồng bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh chỉ ra đời sau khi có hợp đồng bảo hiểm hoả hoạn. + Việc đánh giá và thẩm định rủi ro trong bảo hiểm hoả hoạn cũng là việc đánh giá và thẩm định rủi ro trong bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh. Chính vì lý do đó mà các công ty bảo hiểm triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn đồng thời với việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh. Một số khái niệm có liên quan Mục đích của bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh là để bù đắp cho người tham gia bảo hiểm phần lợi nhuận bị mất đi khi đối tượng tham gia bảo hiểm của họ không may gặp rủi ro hoả hoạn. Do vậy, ngoài những đặc điểm chính như các loại bảo hiểm khác, nghiệp vụ bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh có một số nét riêng biệt như sau: Doanh thu Doanh thu được định nghĩa trong Đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh là số tiền đã được thanh toán hoặc sẽ được thanh toán cho việc bán hoặc cung cấp hàng hoá hay dịch vụ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh thu còn bao gồm các phần sau: Giá trị sản phẩm, hàng hoá đem biếu, tặng hoặc tiêu dùng trong nội bộ doanh nghiệp. Các khoản trị giá phụ thu theo qui định của Nhà nước để sử dụng cho doanh nghiệp đối với hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp tiêu thụ trong kỳ được Nhà nước cho phép. Doanh thu từ các hoạt động khác như các khoản đầu tư tài chính, thu từ hoạt động mua bán chứng khoán, hoàn nhập khoản dự phòng đã trích từ năm trước nhưng sử dụng chưa hết… Chi phí khả biến Chi phí khả biến là các loại chi phí biến đổi liên tục về số lượng tỷ lệ so với số lượng kinh doanh của doanh nghiệp, những chi phí liên quan trực tiếp đến quá trình sản xuất như chi phí mua nguyên vật liệu… Chi phí bất biến Chi phí bất biến là những chi phí được ấn định về mặt số lượng nhưng không phụ thuộc và khối lượng sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Loại chi phí này phải thanh toán ngay cả khi xí nghiệp ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh. Chi phí bất biến bao gồm: chi phí thuê nhà xưởng, trụ sở làm việc, tiền lương cán bộ công nhân viên chức, lãi suất ngân hàng… Lợi nhuận ròng Lợi nhuận ròng là lợi nhuận cơ bản đạt được trong hoạt động kinh doanh của người được bảo hiểm sau khi đã thực hiện các loại chi phí bất biến và chi phí khác. Lợi nhuận gộp Lợi nhuận gộp là tổng số lợi nhuận thu được và chi phí cố định được bảo hiểm. Lợi nhuận gộp bao gồm: doanh thu + giá trị hàng tồn kho + hàng hoá sản xuất ở cuối kỳ – hàng hoá tồn đầu kỳ – tổng chi phí sản xuất không được bảo hiểm. Rủi ro được bảo hiểm và rủi ro loại trừ Rủi ro được bảo hiểm Rủi ro được bảo hiểm bao gồm tất cả những rủi ro được bảo hiểm trong Đơn bảo hiểm hoả hoạn. Nếu có vấn đề gì cần bổ sung phải được thoả thuận của các bên. Tuy nhiên, Đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh phải cụ thể hoá thành hai phần như sau: + Tại thời điểm xảy ra tổn thất các thiệt hại về người được bảo hiểm phải được bảo vệ bởi một Đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất đó chính là bảo hiểm hoả hoạn. Nhà bảo hiểm chấp nhận bồi thường hoả hoạn phải thừa nhận thiệt hại gián đoạn kinh doanh do nguyên nhân hoả hoạn gây ra. Nhà bảo hiểm của Đơn bảo hiểm hoả hoạn đứng ra xác nhận trách nhiệm đã được thanh toán hoặc chưa thanh toán những thiệt hại vật chất trong Đơn bảo hiểm hoả hoạn, có nghĩa là nhà bảo hiểm của Đơn bảo hiểm hoả hoạn phải đứng ra thừa nhận thiệt hại trong Đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh. + Trách nhiệm của nhà bảo hiểm trong hợp đồng này sẽ không vượt quá số tiền bảo hiểm đối với những hạng mục tài sản tại thời điểm xảy ra tổn thất, số tiền bảo hiểm còn lại sau khi đã bồi thường cho bất cứ tổn thất nào là hậu quả của thiệt hại vật chất xảy ra trong thời hạn bảo hiểm trừ khi công ty đồng ý khôi phục lại số tiền bảo hiểm sau mỗi lần thanh toán bồi thường. Rủi ro loại trừ Đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh không bảo hiểm cho các tổn thất xảy ra bởi: + Thiệt hại do sai sót hoặc sơ suất trong thiết kế, khuyết tật vốn có của vật liệu hay hạn chế của tay nghề, khuyết tật ẩn, do sụp đổ, nứt các toà nhà, các hành động lừa đảo hoặc không trung thực. + Thiệt hại do bị mất, thiếu hụt trong kiểm kê, trong quá trình vận chuyển ngoài khu vực được đề cập trong Đơn bảo hiểm hoặc không rõ nguyên nhân. + Tổn thất do thông tin bị xoá hoặc bị sai lệch trên hệ thông máy tính hoặc trên các thiết bị ghi khác. + Tổn thất do bất cứ hành động cẩu thả hoặc cố ý của người được bảo hiểm hoặc bất cứ người nào nhân danh họ, sự ngừng trệ của công việc. + Thiệt hại vì bị xói lỡ do sông hoặc ở ven sông lún hay dịch chuyển, sạt lở đất. + Tổn thất đối với đường bộ dùng cho xe chạy, đối với vật nuôi cây trồng. + Tổn thất bắt nguồn trực tiếp hay gián tiếp từ hậu quả của chiến tranh xâm lược hay thù địch, nội chiến, cách mang, khởi nghĩa quần chúng. + Tổn thất bị phá huỷ do lệnh của bất cứ cơ quan quyền lực nào. + Tổn thất bắt nguồn trực tiếp hay gián tiếp từ hậu quả của nguyên vật liệu dùng cho vũ khí hạt nhân, sự phát xạ ion hoặc nhiễm phóng xạ bởi bất cứ nhiên liệu hạt nhân hay chất thải hạt nhân nào. + Tổn thất do các thiết bị bên trong nồi hơi, tuốc bin hoặc bình chứa bị nổ hay vỡ. + Những chi phí bất hợp pháp mà khi tính toán chi phí, doanh thu, lợi nhuận được cộng thêm vào. Những thiệt hại về hậu quả một cách chắc chắn không được bảo hiểm theo cả Đơn bảo hiểm hoả hoạn và Đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh là: + Thiệt hại do bảo hiểm dưới giá trị theo Đơn bảo hiểm hoả hoạn. + Khấu hao các kho không bị thiệt hại sau khi cháy. + Thiệt hại do sự khác biệt về giá trị kho tại thời điểm xảy ra cháy. + Khiếu nại của bên thứ ba có liên quan đến tổn thất. + Thiệt hại về uy tín. + Sai sót trong việc đòi nợ do hư hại về số liệu trừ khi có thoả thuận đặc biệt. + Chi phí kiện cáo. + Chi phí cho việc lập hồ sơ khiếu nại về cháy và mất thu nhập trừ khi có thoả thuận và ghi thành mục riêng trong Đơn bảo hiểm và chi phí của người được bảo hiểm. Đơn bảo hiểm Khi chấp nhận bảo hiểm, người bảo hiểm sẽ cấp cho người được bảo hiểm Đơn bảo hiểm. Đơn bảo hiểm thể hiện các điều kiện, điều khoản mà hai bên cam kết thực hiện và thường bao gồm các phần chính sau: các điều kiện, điều khoản; hiệu lực; phạm vi bảo hiểm; những điểm loại trừ, những điều khoản chung. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh, người bảo hiểm ít khi chỉ chấp nhận bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh không. Điều đó có nghĩa là người tham gia nếu không tham gia Bảo hiểm hoả hoạn thì không tham gia được tham gia bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh. Như vậy Đơn bảo hiểm gián đoạnn kinh doanh chỉ được cấp khi người tham gia bảo hiểm có Đơn bảo hiểm hoả hoạn. Nội dung chủ yếu của Đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh bao gồm: Tên địa chỉ của người được bảo hiểm. Ngành nghề sản xuất kinh doanh Những rủi ro được bảo hiểm Tổng lợi nhuận gộp ước tính. Số tiền bảo hiểm Thời hạn bồi thường. Mức miễn thường Phí bảo hiểm cả năm Ngoài ra còn kèm theo một bản kê khai để tính lợi nhuận gộp và đây là cơ sở để tính số tiền bảo hiểm. Yêu cầu của Đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh là tại thời điểm xảy ra thiệt hại, Đơn Bảo hiểm hoả hoạn đối với các khu vực được liệt kê của người được bảo hiểm cũng phải đang có hiêụ lực đồng thời các chi phí của phần bảo hiểm thiệt hại vật chất đã được nộp đầy đủ hoặc trách nhiệm đẫ được thừa nhận. Sở dĩ như vậy là vì hai lý do sau: Việc tính phí bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh dựa trên tỷ lệ phí Bảo hiểm hoả hoạn mà tỷ lệ đó lại bị chi phối bởi các điều kiện điều khoản được quy định trong hợp đồng bảo hiểm hoả hoạn. Nếu sự đảm bảo trong Đơn bảo hiểm hoả hoạn không còn nữa hoặc một trong những điều kiện, điều khoản trong Đơn bảo hiểm hoả hoạn không được đáp ứng thì Đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh sẽ không còn giá trị. Khi cấp Đơn bảo hiểm, người bảo hiểm thường phải xem xét mức độ giử lại riêng trong bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh. Có hai nguyên tắc cần chú ý khi xác định mức giử lại là “ Rủi ro ban đầu” và “ Rủi ro gián đoạn kinh doanh”. Rủi ro ban đầu là rủi ro xảy ra cháy, và nó có thể đánh giá căn cứ vào nguy cơ có thể xảy ra cháy. chúng bao gồm những nguy cơ của quá trình sản xuât như việc sử dụng các dung môi dể cháy, sơn phun hoặc máy móc chạy ở tốc độ cao, các nguồn sáng và nhiệt nhân tạo. Tổn thất sau cháy là phần cơ bản của trách nhiệm. Nếu rủi ro càng lớn thì trách nhiệm theo Đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh càng cao. Tính nhạy cảm của hoạt động kinh doanh được định nghĩa là rủi ro gián đoạn kinh doanh. Phí bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh. Phí bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh được xác định trên cơ sở xác suất rủi ro trong Đơn bảo hiểm hoả hoạn, vì có hoả hoạn thì mới có gián đoạn kinh doanh. Phí bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh có những đặc điểm khác với phí bảo hiểm hoả hoạn ở chỗ là phải dựa vào một loạt các chi phí, doanh thu, lợi nhuận thuộc đối tượng bảo hiểm để xác định. Khi tính phí bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh người ta phải chú ý đến ba vấn đề có liên quan trực tiếp sau là: lợi nhuận gộp, thời gian cần thiết để khôi phục kinh doanh lại như cũ, thời gian thanh toán các khoản chi phí khác của người tham gia bảo hiểm. Lợi nhuận gộp bao gồm các khoản sau: + Lãi thuần của người tham gia bảo hiểm hoả hoạn. + Chi phí cố định: tuỳ theo sự thoả thuận của hai bên khi ký kết hợp đồng. + Chi phí biến đổi: bộ phận này khó xác định nhất bởi vì các khoản chi này luôn biến đổi theo thời gian và không gian, khi xác định phải căn cứ vào số liệu của các năm trước. Căn cứ vào ba yếu tố ảnh hưởng trực tiếp ở trên, các nhà bảo hiểm phải tính đến mức bình quân của từng yếu tố ảnh hưởng để đưa vào phần tính phí. Phí bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh tính toán rất phức tạp. Tuy nhiên, các nhà bảo hiểm Việt Nam đã vận dụng để tính toán và chia theo các bước như sau: Bước 1: Xác định tỷ lệ phí bảo hiểm Tỷ lệ phí bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh được xác định dựa trên cơ sở tài liệu thống kê các nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn và lời kê khai cuả người tham gia. Những thông tin này thường được thu thập trong nhiều năm để đảm bảo tính qui luật. Tỷ lệ phí được tính theo công thức sau: T = (Tổng số tiền bồi thường trong một số năm trước đó / Tổng số tiền bảo hiểm trong cùng những năm trước đó) x 100 Trong đó: T là tỷ lệ phí Bước 2: Xác định số tiền bảo hiểm Số tiền bảo hiểm được xác định theo nguyên tắc hai bên thoả thuận. Tuy vậy, khi xác định số tiền bảo hiểm, các công ty Bảo hiểm ở Việt Nam tiến hành như sau: + Xác định thu nhập kinh doanh của toàn bộ các đối tượng có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hoả hoạn + Xác định phần lãi gộp nếu có. + Xác định các khoản chi phí khác (thuê đất, thuê nhà…) Cách làm: Yêu cầu đối tượng tham gia kê khai quá trình thu nhập của mình theo từng loại thu nhập với từng đối tượng, đồng thời cũng yêu cầu các đối tượng có liên quan kê khai những khoản chi phí đã thanh toán và chưa thanh toán của người tham gia bảo hiểm hoả hoạn. Sau khi kê khai, công ty Bảo hiểm cử nhân viên đi xác minh lại, sau đó về thoả thuận một lần nữa với người tham gia bảo hiểm, lần thoả thuận này phải thống nhất được số tiền bảo hiềm. Cách khác, do mục đích của bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh không những bảo hiểm phần lợi nhuận mất đi so với cùng kỳ năm trước mà còn bồi thường thêm các phần lợi nhuận, họ sẽ thu được theo tỷ lệ tăng doanh thu bình quân một số năm kế tiếp. Để tránh sự đánh giá thấp số tiền cần bảo hiểm ta tính đến hệ số tăng bình quân doanh thu của hoạt động kinh doanh bằng cách so sánh nhiều năm tài chính dựa trên cơ sở kế toán tính trước khi ký kết hợp đồng bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh. Bằng cách này, ta có thể tính được số tiền bảo hiểm một cách chính xác nhất và là cơ sở để tính phí bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh. Như vậy: Số tiền bảo hiểm = Lợi nhuận gộp cả năm + (Hệ số tăng doanh thu bình quân x thời hạn bồi thường tính bằng tháng) Bước 3: Xác định phí bảo hiểm Dựa trên số tiền bảo hiểm và tỷ lệ phí đã được tính mà phí bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh được tính theo công thức sau: F = Số tiền bảo hiểm x T Bước 4: Điều chỉnh phí Sau khi xác định được phí bảo hiểm, người ta phải điều chỉnh lại phí bảo hiểm cho phù hợp với sự thoả thuận của hai bên. Sở dĩ phải điều chỉnh phí vì: + Do đối tượng được kê khai mang tính chất trung gian. Vì vậy, số tiền bảo hiểm rất khó xác định chính xác. + Do trong năm nghiệp vụ tình hình hoả hoạn xảy ra bất thường, các công ty Bảo hiểm không lường trước được (đây gọi là các yếu tố dự báo). + Thường biểu phí phải dựa vào biểu phí của nước ngoài, cho nên các công ty Bảo hiểm ở trong nước phải điều chỉnh lại cho phù hợp với thực tế ở Việt Nam. Thời hạn và cách thức bồi thường Vì nghiệp vụ này gắn chặt với nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn nên thời điểm xảy ra hoả hoạn cũng là thời điểm bắt đầu gián đoạn kinh doanh. Sau khi lập biên bản giám định hoả hoạn cũng phải tiến hành ngay giám định tổn thất trong nghiệp vụ này. Khi giám định có một số vấn đề phức tạp, mặc dù số tiền bảo hiểm và các đối tượng có liên quan đã được ghi trong hợp đồng. Vấn đề phức tạp nhất đó là xác định tỷ suất lợi nhuận gộp. Tỷ suất lợi nhuận gộp = (Lợi nhuận gộp / Tổng các khoản thu nhập có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp) x 100 Căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận gộp để xác định phần thiệt hại thu nhập kinh doanh. Vì thu nhập kinh doanh chịu ảnh hưởng trực tiếp của tỷ suất này. Bên cạnh thu nhập kinh doanh, các khoản chi phí khác cũng phải được liệt kê một cách chi tiết, căn cứ vào thời điểm xảy ra hoả hoạn để xác định các khoản chi này. Như vậy, thu nhập kinh doanh và các khoản chi phí khác sau khi hoả hoạn phải được nhiều bên tham gia thẩm định đánh giá nhưng trong đó có 3 bên không thể thiếu được là: Người bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm hoả hoạn, các đối tượng có liên quan đến người tham gia bảo hiểm hoả hoạn. Việc tiến hành bồi thường cũng dự trên biên bản giám định. Về nguyên tắc, số tiền bồi thường không bao giờ vượt quá số tiền bảo hiểm, tổn thất đến đâu bồi thường đến đó. Vì một lý do nào đó mà nhà bảo hiểm chưa thanh toán số tiền bồi thường phải xin phép chậm lại thì những khoản tiền thanh toán về sau phải tính đến lãi suất tiền gửi ngân hàng. Về nguyên tắc, để xác định số tiền bồi thường, đòi hỏi nhà bảo hiểm phải tuân thủ 3 vấn đề sau: + Giám định viên phải nhanh chóng xúc tiến bằng mọi cách rút ngắn thời gian giám định. Như vậy, không chỉ có lợi cho nhà bảo hiểm mà còn có lợi cho người tham gia bảo hiểm bởi lẽ bồi thường gián đoạn kinh doanh chỉ khống chế trong một thời gian nhất định. + Xác định tỷ suất lợi nhuận gộp. + Xác định được thiệt hại về mặt doanh thu của doanh nghiệp. Thiệt hại doanh thu của doanh nghiệp = Doanh thu lẽ ra thực hiện được – doanh thu thực tế thực hiện được Căn cứ vào hai chỉ tiên nói trên giám định viên phải xác định được thiệt hại lợi nhuận gộp: Thiệt hại lợi nhuận gộp = Thiệt hại doanh thu của doanh nghiệp x Tỷ suất lợi nhuận gộp. Thiệt hại lợi nhuận gộp thực chất là số tiền nhà bảo hiểm phải bồi thường. Mặc dù vậy, khi xác định số tiền bồi thường còn phải tính đến mức miễn thường nếu có. Cũng có thể nói thêm rằng, thời hạn bồi thường trong Đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh là thời hạn bắt đầu từ khi xảy ra sự cố bị thiệt hại và kết thúc không nhiều hơn số tháng được ghi cụ thể trong hợp đồng, mà trong thời gian đó kết quả hoạt động kinh doanh bị ảnh hưởng bởi hậu quả của thiệt hại. Yếu tố thời hạn được đưa vào Đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh hoàn toàn khác với Đơn bảo hiểm hoả hoạn. Thời hạn bồi thường được ghi rõ trong Đơn bảo hiểm và phải do người được bảo hiểm tự chọn với sự góp ý của người bảo hiểm. Các yếu tố về nguyên tắc có ảnh hưởng đến việc chọn thời hạn bồi thường là thời gian cần thiết để xây dựng lại nhà xưởng, lắp đặt máy móc và dự trữ hàng hoá. Thời hạn chọn bồi thường có thể là từ 1 - 24 tháng, nhưng việc chọn thời hạn dài hơn từ 3 – 6 tháng cũng không phải là trường hợp hữu hạn. Giải quyết khiếu nại trong bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh Về nguyên tắc khi nhận được đơn khiếu nại của người tham gia bảo hiểm thì nhà bảo hiểm phải chấp nhận và đàm phán lại với họ để tất cả các vấn đề có liên quan đến hợp đồng, đặc biệt là thời hạn và số tiền bồi thường. Nếu người bảo hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm không nhất trí, hai bên có thể mời luật sư hoặc hội đồng trọng tài kinh tế đứng ra giải quyết. Phí tổn do bên thua kiện phải chịu. Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại công ty bảo hiểm Hà Nội thời gian từ 1996-2000 Bảo hiểm cháy và Bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh là hai nghiệp vụ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh ra đời nhằm khắc phục những mặt còn thiếu, còn hạn chế của Bảo hiểm cháy. Như phần I chương I (Sự cần thiết của bảo hiểm cháy và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh), hai nghiệp vụ này có tác dụng rất to lớn đối với đời sống, kinh tế của mọi người dân, làm hạn chế đến mức tối thiểu những hậu quả ảnh hưởng của các rủi ro đến các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và quá trình phát triển của đất nước, nó có tác dụng đề phòng và hạn chế các rủi ro xảy ra, tránh gây thiệt hại lớn, góp phần vào việc bảo vệ trật tự an toàn xã hội và sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước Tuy vậy, trên thực tế nghiệp vụ Bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh được coi là nghiệp vụ mới tại Bảo Việt Hà Nội. Do đó, cho đến nay chưa có doanh nghiệp Nhà nước nào tham gia loại hình bảo hiểm này, chỉ có các doanh nghiệp liên doanh,doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và một số doanh nghiệp lớn chuyên kinh doanh về khách sạn mới tham gia nhưng còn rất ít. Vì thế, số đơn bảo hiểm và số phí thu được vẫn còn rất khiêm tốn, chưa đáp ứng được nguyên tắc số đông bù số ít và chưa phát huy hết được tác dụng cũng như sự cần thiết của nghiệp vụ này. Sở dĩ có tình trạng này là do trong thời gian qua công ty chưa coi nghiệp vụ này ngang hàng với nghiệp vụ bảo hiểm cháy nên chưa có sự tuyên truyền hay quảng cáo thích hợp để phát triển và triển khai nghiệp vụ này. Phần lớn các doanh nghiệp cũng như nhiều người dan chưa hiểu biết gì về nghiệp vụ bảo hiểm này thông thường số đơn bảo hiểm được cấp qua các năm là do khách hàng tự yêu cầu sau khi họ đã tham gia bảo hiểm cháy. Do đó, số lượng tham gia vẫn còn quá ít. Điều đó có thể thấy được qua bảng số liệu sau Bảng 8: Kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh tại Công ty Bảo hiểm Hà Nội thời gian từ 1996-2000 Năm Chỉ tiêu Đơn vị 1996 1997 1998 1999 2000 1.Số đơn vị tham gia bảo hiểm -Lượng tăng(giảm) tuyệt đối -Tỷ lệ tăng Đơn vị Đơn vị % 8 - - 12 4 150 40 28 333.33 62 22 155 89 27 145,97 2.Số tiền bảo hiểm -Lượng tăng(giảm) tuyệt đối - Tỷ lệ tăng Tr.đ Tr.đ % 128.342 - - 157.846 29.504 122,99 172.548 14.702 109,32 192.031 19.483 111,29 233.463 41.432 121,58 3.Doanh thu phí bảo hiểm -Lượng tăng(giảm) tuyệt đối - Tỷ lệ tăng Tr.đ Tr.đ % 330 - - 400 70 121,21 420 20 105 455 35 108,33 607 152 133,41 4.Số tiền bảo hiểm /1 đơn vị Tr.đ 16042,75 13153,8 4313,7 3097,27 2623,18 5.Doanh thu phí bảo hiểm /1 đơn vị Tr.đ 41,25 33,33 10,5 7,34 6,82 (Nguồn số liệu: phòng cháy ở Công ty Bảo hiểm Hà Nội) Qua số liệu của bảng trên cho thấy, số đơn bảo hiểm được cấp còn quá ít so với tiềm năng vô tận có thể khai thác nghiệp vụ này trên địa bàn Hà Nội. Tuy nhiên, qua số liệu của từng năm tổng hợp lại thì số đơn vị tham gia nghiệp vụ này ngày một tăng. Năm 1996 chỉ có 8 đơn vị tham gia, năm 1997 có 12 đơn vị tham gia, với tỷ lệ tăng là 150% con số này có tăng nhưng không đáng kể. Có lẽ do các doanh nghiệp, cơ quan ngày càng thấy rõ được tầm quan trọng của nghiệp vụ này nên số đơn vị tham gia tăng rất mạnh vào các năm 1998-2000. Năm 1998 số đơn vị tham gia là 40, với tỷ lệ tăng là 333,33%, năm 1999 số đơn vị tham gia là 62 đơn vị với tỷ lệ tăng là 155%, năm 2000 con số này đã lên đến 89 đơn vị, với tỷ lệ tăng là 145,97%. Mặt khác, nhìn vào tỷ lệ tăng về số đơn vị tham gia của các năm đều lớn hơn 100% chứng tỏ nghiệp vụ này ngày càng phát triển. Từ bảng trên cũng cho thấy, số tiền bảo hiểm của nghiệp vụ này cũng ngày một tăng, cụ thể năm 1996 số tiền bảo hiểm là 128.342 triệu đồng, năm 1997 tăng lên 157.846 triệu đồng tăng so với năm 1996 là 29.504 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 122,99%, đến năm 1998 só tiền bảo hiểm tăng lên 172.548 triệu đồng tăng so với năm 1997 là 14.702 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 109,32%, năm 1999 số tiền bảo hiểm là 192.031 triệu đồng tăng so với năm 1998 là 19.483 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 111,29%. Và tăng mạnh nhất là năm 2000, số tiền bảo hiểm là 233.463 triệu đồng tăng so với năm 1999 là 41.432 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 121,58%. Song song với việc tăng số tiền bảo hiểm thì doanh thu của nghiệp vụ này cũng tăng lên đáng kể. Năm 1996 doanh thu của nghiệp vụ này là 330 triệu đồng, năm 1997 doanh thu phí tăng lên 400 triệu đồng tăng so với năm 1996 là70 triệu, tương ứng với tỷ lệ tăng là 121,21%. Năm 1998 doanh thu phí là 420 triệu đồng tăng so với năm 1997 là 20 triệu tương ứng với tỷ lệ tăng là 105%. Năm 1999 doanh thu phí của nghiệp vụ này là 455 triệu đồng tăng so với năm 1998 là 35 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 108,33%. Đến năm 2000 con số này đã tăng lên là 600 triệu đồng tăng so với năm 1999 là 152 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 233,41%. Nhìn vào số liệu về doanh thu nghiệp vụ này có thể thấy, năm 2000 doanh thu tăng nhất, so với năm 1999 tăng 152 triệu chứng tỏ rằng khâu khai thác của công ty về nghiệp vụ này ngày một tiến bộ hơn và có tiển triển hơn, các doanh nghiêp kinh doanh , cơ quan, xí nghiệp, cũng như người dân ngày càng thấy rõ tầm quan trọng của nghiệp vụ này, điều này cũng chứng tõ nhiều người dân đã hiểu rõ hơn về nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh. Do đó, đã có nhiều người tham gia bảo hiểm như thể hiện trong bảng số đơn vị tham gia mỗi năm một tăng. Tuy số đơn vị tham gia mỗi năm một tăng, như nhìn vào số liệu Số tiền bảo hiểm trên một đơn vị và doanh thu phí trên một đơn vị cho thấy, cả hai số liệu này mỗi năm mỗi giảm xuống chứng tõ công ty chưa khai thác được nhiều nghiệp vụ có giá trị lớn. Đây cũng là một hạn chế mà công ty cần phải có biện pháp khắc phục, cần phải chú trọng hơn trong khâu khai thác, cần phải có phương pháp tuyên truyền, quảng cáo thích hợp để mở rộng thị trường, khai thác được nhiều hơn nữa nhằm tăng doanh thu của nghiệp vụ này góp phần tăng doanh thu cho công ty giúp cho công ty thắng thế cạnh tranh trên thị trường, khẳng định được mình là một công ty hàng đầu trong lĩnh vực bảo hiểm. ChươngIV Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh Bảo hiểm hoả hoạn và bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại công ty bảo hiểm hà nội I. Những thuận lợi và khó khăn khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn và bảo hiểm gián đoạn kinh doanh Những thuận lợi Đường lối Đại hội Đảng toàn quốc lần thư VI (tháng 12/1986), thực hiện mở cửa giao lưu kinh tế với bên ngoài trên nguên tắc: “ Tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào nội bộ của nhau và đảm bảo hai bên cùng có lợi”, cùng với việc cả nước thực hiện CNH-HĐH đất nước, nền kinh tế chuyển dịch từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu bị sụp đổ. Nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến tích cực, hệ thống xã hội chủ nghĩa ở nước ta vẫn được giữ vững, cùng với việc Mỹ bỏ cấm vận Việt Nam và Việt Nam tham gia khối ASEAN đã tạo cho chúng ta nhiều cơ hội để hội nhập vào nền kinh tế trong khu vực và thế giới, khẳng định đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam. Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, đặc biệt là ở Hà Nội có tốc độ tăng trưởng trên 10%, với sự tham gia tích cực của các thành phần kinh tế, tốc đọ đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đã có nhiều công trình dự án đầu tư vào Việt Nam dưới nhiều hình thức. Nhiều tập đoàn cũng như các công ty xuyên quốc gia xuất hiệ góp phần vào sự phát triển kinh tế đáat nước nói chung và Hà Nội nói riêng. Hoạt động kinh doanh ngày càng lớn, đa dạng về chủng loại, tốc độ đo thị hoá ngày càng nhanh, Hà Nội đã ,đang và sẽ xây dựng nhiều trụ sở thương mại, khu biệt thự, khách sạn, siêu thị và các khu chợ lớn... Mặt khác, tình hình giá cả tương đối ổn định, lạm phát được kiểm soát đời sống nhân dân được nâng cao rõ rệt cả về vật chất lẫn tinh thần. Đây là môi trường thuận lợi cho ngành bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm cháy và gián đoạn kinh doanh nói riêng phát triển. Bên cạnh đó, việc đổi mới cơ chế quản lý, thực hiện giao vốn cho các doanh nghiệp cho nên công tác bảo toàn vốn và phát triển vốn trở thành gánh nặng cho mỗi công ty, doanh nghiệp. Để làm tốt công tác này, theo thông tư số 82/ TCCN ngày 31/12/1991 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện chỉ thị 332/HĐBT về bảo toàn vốn kinh doanh đối với các doanh nghiệp Nhà nước ghi rõ: “ các doanh nghiệp cần phải mua bảo hiểm tài sản để tạo nguồn bù đắp cho những thiệt hại. Khoản chi phí bảo hiểm được hạch toán vào giá thành sản phẩm hoặc chi phí lưu thông của doanh nghiệp. Nhà nước sẽ không ghi giảm vốn trong trường hợp tài sản bị tổn thất do những rủi ro mà công ty bảo hiểm trong nước đã triển khai những loại hình tương tự...”. Mặt khác, năm 2000 đã có luật kinh doanh bảo hiểm tạo môi trường pháp lý cho việc kinh doanh bảo hiểm cũng như việc tham gia bảo hiểm. Đây là những yếu tố giúp cho việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh ngày càng thuận lợi hơn. Mặt khác, trong kinh doanh các doanh nghiệp vừa phải tạo đủ điều kiện như nguồn vốn, nguyên vật liệu, sức lao động... để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Đồng thời họ còn phải tính đến những rủi ro mà họ có thể gặp phải để có những biện pháp phòng ngừa, hạn chế và khắc phục khó khăn khi không may gặp những rủi ro đó. Trong số những rủi ro mà họ thường gặp có rủi ro cháy và gián đoạn kinh doanh là một rủi ro mà gây thiệt hại rất lớn cho công ty, doanh nghiệp. Do đó, biện pháp tốt nhất và hữu hiệu nhất để khắc phục những rủi ro đó là tham gia bảo hiểm. Công try bảo hiểm sẽ bù đắp, hỗ trợ đắc lực về tài chính cũng như tâm lý cho người tham gia bảo hiểm khi không may gặp phải những rủi ro được bảo hiểm. Từ những vấn đề nêu trên có thể nói, thị trường bảo hiểm Việt Nam có rất nhiều tiềm năng để khai thác. Vì vậy, đây là cơ hội tốt nhất để triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm Cháy và Bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh cũng như các nghiệp vụ khác của công ty Bảo hiểm Hà Nội. Những khó khăn Nước ta là một nước đang phát triển, trình độ dân trí cũng như đới sống của người dân chưa cao. Sự chuyển đổi cơ chế từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường đã làm cho nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước là ăn không có hiệu quả. Do đó, dù biết được tác dụng và sự cần thiết của bảo hiểm nhưng do không có khả năng chi trả nên nhiều doanh nghiệp, công ty cũng như nhiều người dân không có khả năng tham gia bảo hiểm mà như ta đã biết tính quy luật của bảo hiểm là đời sống của người dân va trình độ dân trí càng cao thì càng nhiều người tham gia bảo hiểm. Bên cạnh đó, do duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã làm cho nhiều doanh nghiệp có thói quen trông chờ vào sự nâng đở của Nhà nước nên mặc dù họ thấy được những rủi ro có thể đến với họ và họ có khả năng chi trả bảo hiểm nhưng họ vẫn không chịu tham gia vì họ hy vọng khi xảy ra rủi ro tổn thất Nhà nước sẽ hỗ trợ cho họ. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, lãnh đạo một số đơn vị công ty mang nặng tư tưởng bao cấp cũ, họ chưa thấy được trách nhiệm phải bảo toàn đồng vốn tốt nhất bằng con đường tham gia bảo hiểm, hoặc họ có thấy đựoc tác dụng ý nghĩa và sự cần thiết của việc tham gia bảo hiểm nhưng họ không có sự hiểu biết nhất định về bảo hiểm, chưa tin tưởng vào sự hoạt động của công ty bảo hiểm nên họ chỉ mới tham gia một cách dè dặt họ không dám tham gia vào những nghiệp vụ mới triển khai. Mặt khác, chuyển sang cơ chế thị trường thì sự cạnh tranh giữa các công ty cũng ngày càng mạnh mẽ hơn và công ty Bảo Việt không còn độc quyền như trước nữa nên việc kinh doanh bảo hiểm của công ty Bảo hểm Hà Nội cũng khó khăn và phức tạp hơn nhiều. Nhiều cong ty bảo hiểm song song tồn tại cùng với Công ty Bảo hiểm Hà Nội đã làm cho thị trường bảo hiểm bị chia cắt do đó việc khai thác của Công ty Bảo hiểm Hà Nội cũng trở nên khó khăn hơn. Hơn nữa, sản phẩm bảo hiểm là một sản phẩm trừu tượng nên khó có thể xác định được giá trị của sản phẩm này, người tham gia không biết được chất lượng của sản phẩm bảo hiểm như thế nào trừ khi có xảy ra rủi ro tổn thất và được bồi thường. Do đó, việc triển khai và khai thác một sản phẩm mới cực kì khó khăn mà nghiệp vụ bảo hiểm Cháy và Bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh là một nghiệp vụ mới của Công ty Bảo hiểm Hà Nôi nên việc triển khai và khai thác tốt nghiẹp vụ này là một vấn đề khá nan giãi. Cũng do nghiệp vụ Bảo hiểm Cháy và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh là nghiệp vụ mới của Công ty Bảo hiểm Hà Nội nên số cán bộ làm tốt từ khâu cấp đơn đến khâu giám định chính xác để bồi thường chưa có nhiều, việc xác định số tiền bảo hiểm, giá trị bảo hiểm, mức độ thiệt hại, lợi nhuận gộp cũng tương đối khó khăn phức tạp, khó có thể xác định chính xác được làm cho công tác bồi thường cũng thiếu chính xác và không thoả đáng không đáp ứng được yêu cầu của người tham gia, chưa thu hút được lòng tin của họ đối với nghiệp vụ này cho nên việc thuyết phục họ tham gia đã khó lại càng khó khăn hơn. Tuy công ty Bảo hiểm Hà Nội là một công ty bảo hiểm ra đời khá lâu, có đội ngũ cán bộ khá đông đảo nhưng lại có nhiều cán bộ chưa đáp ứng được trình độ chuyên môn cũng như kinh nghiệm nghề nghiệp, số cán bộ chủ chốt còn ít trong khi đó lại tuyển dụng sai nguyên tắc nên chất lượng phục vụ còn rất nhiều hạn chế, việc tư vấn cho khách hàng chưa đáp ứng được yêu cầu, khi khách hàng thắc mắc thì chưa giải thích có lý có tình, thái độ chưa được hoà nhã gây nhiều bất bình cho khách hàng, làm mất lòng tin của khách hàng đối với công ty. Mặt khác, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam á làm cho nền kinh tế các nước trong khu vực bị khủng hoảng dẫn đến một số liên doanh của họ hoạt động tại Việt Nam cũng bị phá sản hoặc hoạt động kém hiệu quả. Nền kinh tế của Việt Nam ít nhiều bị ảnh hưởng, tốc độ phát triển kinh tế bị chững lại gây khó khăn tài chính cho các doanh nghiệp cũng như các doanh nghiệp nước ngoài khi tham gia bảo hiểm. Bên cạnh đó, theo điều 9 chương II luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có quy định: “ Tài sản của các công ty, xí nghiệp liên doanh được bảo hiểm tại các ông ty bảo hiểm Việt Nam hoặc các công ty bảo hiểm khác do hai bên thoả thuận”, do đó nhièu nhà đầu tư nước ngoài tham gia bảo hiểm tài sản tại các công ty bảo hiểm nước khác mà họ tin tưởng và có lợi hơn. Điều này đã tạo cho các công ty bảo hiểm nước ngoài không phải vào Việt Nam mà họ vẫn kinh doanh và thu phí bảo hiểm được trên thị trường Việt Nam, đã gây khó khăn cho các công ty bảo hiểm trong nước nói chung và công ty Bảo hiểm Hà Nội nói riêng bị thất thu ngay trên đất nước của mình trong đó có cả bảo hiểm Cháy và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh của công ty Bảo hiểm Hà Nội. Để giải quyết vấn đề này thì cần phải có sự giúp đở của Nhà nước bằng luật đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, cũng nên cho các công ty, các văn phòng bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam theo luật pháp của Việt Nam để tạo sự cạnh tranh giữa các công ty này với các công ty bảo hiểm trong nước nhằm làm cho các công ty bảo hiểm trong nước đổi mới tư duy, cung cách phục vụ khách hàng và phấn đấu, năng động hơn nữa để thắng thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường, xoá bõ hoàn toàn tính trông chờ ỷ lại vào sự hậu thuẫn của Nhà nước. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm Cháy và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh của công ty Bảo hiểm Hà Nội chưa được nhiều người biết đến. Nhận thức của các doanh nghiệp trong nước còn rất mơ hồ, chưa ý thức được tầm quan trọng và sự cần thiết phải tham gia bảo hiểm đối với nghiệp vụ này. Việc tuyên truyền quảng cáo chưa phong phú, hấp dẫn chưa thuyết phục được khách hàng. Thực tế ở Việt Nam hiện nay chỉ có các doanh nghiệp liên doanh, các văn phòng nước ngoài tham gia bảo hiểm tại Việt nam về nghiệp vụ bảo hiểm Cháy và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh là chủ yếu, còn các doanh nghiệp trong nước có tham gia nhưng còn rất hạn chế. Nhiều công trình như: khách sạn, nhà hàng, chợ, khu vực triển lãm, rạp chiếu bóng... có khả năng cháy rất cao nhưng vẫn chưa tham gia bảo hiểm cháy và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh. Hiện nay chỉ có Ban quản lý chợ Đồng Xuân và chợ Hàng Da, khách sạn Melid, câu lạc bộ Hà Nội và một số ít nhà hàng khác tham gia loại bảo hiểm này. Nguyên nhân của các hạn chế nói trên là do: Nghiệp vụ bảo hiểm Hảo hoạn và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh là nghiệp vụ còn rất mới nên đội ngũ cán bộ lâu năm và giỏi về nghiệp vụ còn rất hạn chế, trình độ tiếng Anh và khả năng sử dụng máy vi tính của cán bộ công nhân viên chưa cao, phong cách làm việc chưa phù hợp với cơ chế thị trường, khâu khai thác chưa đạt hiệu quả, chưa đi sâu vào được người dân, chưa làm cho họ hiểu biết một cách tường tận về nghiệp vụ này. Một nguyên nhân khác nữa là do công tác bồi thường còn quá phức tạp không như mong muốn của khách hàng. Đặc biệt, đối với nghiệp vụ bảo hiểm Cháy và Gián doạn kinh doanh khi có những rủi ro người tham gia rất hoang mang, lo sợ, nếu như công tác bồi thường tốt, giải quyết nhanh chóng cho khách hàng sẽ giúp họ rất lớn trong việc khắc phục hậu quả từ đó có thể tạo được lòng tin của khách hàng đối với công ty, đây cũng là một cách tốt để khai thác nghiệp vụ bảo hiểm Cháy và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh cũng như các nghiệp vụ khác. Tóm lại, việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm Cháy và Gián đoạn kinh doanh ở công ty Bảo hiểm Hà Nội còn nhiều hạn chế. Công ty cần phải có các biện pháp hữu hiệu để khắc phục các mặt hạn chế, phát huy những mặt tích cực, tận dụng được những lợi thế của mình để phát triển nhanh chóng nghiệp vụ này làm cho nghiệp vụ bảo hiểm Cháy và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh trở thành nghiệp vụ chủ chốt, đóng góp quan trọng vào doanh thu của công ty Bảo hiểm Hà Nội nói riêng và Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam nói chung. II. Một số giải pháp Bước sang năm 2000, năm bản lề của thế kỷ XXI, kinh tế thủ đô tiếp tục phát triển. Cùng với sự phát triển về kinh tế, hoạt động bảo hiểm ngày càng phát triển. Song do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực nên trong một vài lĩnh vực như đầu tư, liên doanh có tốc độ tăng trưởng chậm lại. Sức mua bảo hiểm còn hạn chế và chưa đều. Với sự ra đời không ngừng của một số công ty bảo hiểm trong nước và văn phòng đại diện nước ngoài, thị trường bảo hiểm tiếp tục được sắp và phân chia lại. Trên địa bàn Hà Nội- thủ đô, trung tâm kinh tế, chính trị xã hội của cả nước, hoạt động cạnh tranh bảo hiểm xảy ra gay gắt, đầy sôi động. Do vậy, để tồn tại lâu dài thì cần phải nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh. Cần làm gì để nâng cao hoạt động nghiệp này? Sau một thời gian thực tập tại công ty bảo hiểm Hà Nội, đươc sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ phòng cháy, từ những kết quả đạt đươc những thành tựu và hạn chế cũng như triển vọng trong thời gian tới, em xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp và kiến nghị với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng của nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn để nâng cao hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ này ngày một tốt hơn: Công ty nên thực hiện công tác tuyên truyền một cách nghiêm túc và sâu rộng hơn trong các tầng lớp nhân dân và nhất là các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh để họ biết về lợi ích của việc tham gia các loại hình bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hoả hoạn nói riêng thông qua đó đẩy mạnh công tác khai thác. Tuyên truyền quảng cáo là một loại hoạt động không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Với nhiều nước trên thế giới bảo hiểm là một nhu cầu và đã trở thành tập quán trong đời sống, nhưng ở nước ta và tất nhiên kể cả Hà Nội, tất cả hầu như mới bắt đầu. Do vậy, tuyên truyền quảng cáo lại càng hết sức quan trọng với nhiều mục đích: giới thiệu các loại hình bảo hiểm, gây uy tính chi công ty, cạnh tranh… và hiện nay dù có hay không sự bùng nổ các văn phòng đại diện của các công ty bảo hiểm nước ngoài, sự ra đời của một số công ty bảo hiểm khác thì một câu hỏi luôn được đặt ra với công ty là: làm thế nào để giành được dịch vụ ? Từ trước tới nay, công ty luôn quan tâm đến hoạt động tuyên truyền quảng cáo. Nhưng để đạt được kết quả cao hơn, bên cạnh làm cho mọi người, mọi doanh nghiệp hiểu được về bảo hiểm, các loại hình bảo hiểm có thể tham gia và quyền lợi của họ được hưởng khi tham gia thì công ty cân đi sâu quảng cáo từng nghiệp vụ có thể theo từng hình thức thích hợp, hấp dẫn và đầy tính thuyết phục. Do có điều kiện khá thuận lợi cho công ty là Hà Nội là một thành phố đông dân cư, kinh tế phát triển, trình độ dân trí cao(nhất là khu vực nội thành). Do đó, công ty có thể quảng cáo dưới nhiều hình thức như: sách, báo, đài phát thanh, đài truyền hình, qua các áp phích, biển quảng cáo, panô… hoặc quảng cáo thông qua chính sách khách hàng, qua công tác phục vụ và giải quyết bồi thường nhanh chóng, chính xác, kịp thời và công bằng. Với nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn, qua hình thức tuyên truyền phong phú như trên, công ty có thể đưa ra những thông số cũng như các hình ảnh, mức độ nguy hại và hậu quả của các vụ cháy để lại. Sau đó nói rõ tác dụng và sự cần thiết phải tham gia loại hình này. Nếu hoạt động tuyên truyền quảng cáo thì đây là một bước mở đường cho công tác khai thác đạt hiệu quả cao. Mặc dù công ty đã có sự nỗ lực lớn nhưng nhận thức của người đân về bảo hiểm hoả hoạn còn hạn chế. Ngoài ra, để thu hút nhiều khách hàng qua các thành phần trung gian cũng là một điều đáng quan tâm. Công ty cũng cần đẩy mạnh và mở rộng hơn nữa mối quan hệ với các cơ quan trong và ngoài ngành trên địa bàn thành phố Hà Nội và địa bàn cả nước. Như vậy, việc quan hệ với đội ngũ cộng tác viên chủ yếu của công ty như: Cục cảnh sát Phòng cháy chữa cháy – Bộ công an, hệ thống ngân hàng từ Trung ương đến các ngân hàng trên địa bàn Hà Nội, UBND thành phố Hà Nội, Sở kế hoạch và đầu tư, Cục thuế Hà nội, Sở địa chính nhà đất… và chính họ là người đem lại dịch vụ lớn cho công ty. Ngoài ra, công ty cần phải quan hệ rộng rãi, chặt chẽ với các công ty bảo hiểm nước ngoài, những cộng tác viên và cá nhân hoặc người đứng ra mua bảo hiểm bằng cách thông qua chính sách hoa hồng thoả đáng cho họ. Trong cạnh tranh, hai doanh nghiệp bảo hiểm có điều kiện như nhau người mua bảo hiểm và các môi giới sẽ đến với các doanh nghiệp hay công ty có tỷ lệ hoa hồng hấp dẫn hơn. Vì vậy, chính sách hoa hồng phải hết sức linh hoạt và hấp dẫn hơn, phải căn cứ vào hiệu quả kinh doanh mà quyết định hoa hồng cho thoả đáng. Công ty cần phải gắn bó trách nhiệm với khách hàng của mình bằng hành động cụ thể. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm mang tính chất kinh doanh dịch vụ. Do vậy, để phục vụ tốt khách hàng, công ty phải luôn quan tâm đến khách hàng, gắn chặt trách nhiệm của mình bằng cách đôn đốc khách hàng thực hiện tốt công tác an toàn đề phòng và hạn chế tổn thất, đề xuất các biện pháp phòng cháy chữa cháy đối với các xí nghiệp, nhà máy và các công trình từ lúc bắt đầu xây dựng cho đến lúc bàn giao công trình. Bên cạnh đó, công ty còn thường xuyên cử cán bộ công ty xuống cơ sở để kiểm tra đôn đốc khách hàng và thường xuyên góp ý với họ thực hiện tốt công tác đề phòng và hạn chế tổn thất, từ đó khách hàng cảm thấy thực sự được quan tâm, yên tâm sản xuất kinh doanh. Có thể nói, sự tin cậy của khách hàng đối với công ty Bảo hiểm Hà Nội nói riêng và Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam nói chung là thể hiện qua công tác bồi thường khi đơn vị tham gia gặp hoả hoạn. Vì vậy, việc bồi thường một cách nhanh chóng, chính xác kịp thời, phục vụ khách hàng tận tình chu đáo với thái độ cởi mở là biện pháp thu hút khách hàng và để quảng cáo cho nghiệp vụ có hiệu quả nhất. Mặt khác số vụ tổn thất được bồi thường trong mấy năm qua chưa nhiều. Công ty đã giải quyết nhanh chóng công tác giám định và bồi thường. Tuy nhiên, mỗi cán bộ bồi thường cũng cần luôn luôn nắm chắc hiểu rõ mục đích, ý nghĩa, nhiệm vụ của mình, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác giám định và bồi thường. Sau khi xảy ra hoả hoạn thì người tham gia bảo hiểm thường hay lúng túng, tiếc của, không biết xử trí ra sao. Vì vậy, công ty phải biết thực sự cảm thông, quan tâm và chia sẻ sâu sắc cũng như đưa ra các biện pháp khắc phục hậu quả và bồi thường nhanh chóng cho khách hàng để họ có thể ổn định và khôi phục nhanh chóng tình hình sản xuất kinh doanh. Nói tóm lại, nếu như công ty gắn trách nhiệm của mình với khách hàng bằng hành động cụ thể thì không những nâng cao được hiệu quả hoạt động và doanh thu của nghiệp vụ mà còn giữ được vị trí của doanh nghiệp trên thương trường, điều này mới thực sự là khó trong điều kiện nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất cần được tăng cường cả về chiều rông lẫn chiều sâu. Công tác phòng cháy chữa cháy không tốt là nguyên nhân làm cho hoạt động kinh doanh của công ty không đạt hiệu quả tối ưu. Qua bảng số liệu thống kê một số vụ cháy của công ty bảo hiểm Hà Nội có thể thấy rằng, hầu hết các vụ cháy và số tiền bồi thường ngày càng cao. Điều này đòi hỏi công ty cần phải tăng cường hơn nữa công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Để không gây khó khăn cho công tác này thì cán bộ khai thác bảo hiểm cần phải quán triệt các nguyên tắc sau: Không nhận bảo hiểm theo kiểu chọn điểm mà chỉ nhận bảo hiểm cho toàn bộ tài sản hoặc bảo hiểm 50% giá trị của toàn bộ tài sản trở lên. Chỉ nhận bảo hiểm cho các công trình có hệ thống phòng cháy chữa cháy tốt, bậc chịu lửa của công trình không cháy hoặc khó cháy. Có thể bảo hiểm nhưng cần phải xem xét, thận trọng khi chấp nhận bảo hiểm cho bất kỳ đối tượng nào. Việc hướng dẫn người tham gia bảo hiểm thực hiện công tác phòng cháy chữa cháy cần phải nâng cao hơn nữa. Cần phải phối hợp chặt chẽ với các Cục Cảnh sát phòng cháy chữa cháy, các cấp, các ngành và chính quyền địa phương. Phải thường xuyên tuyên truyền, quảng cáo, hội nghị khách hàng để qua đó tìm ra các mô hình đề phòng và hạn chế tổn thất có hiệu quả nhất. Công ty phải thường xuyên cử cán bộ theo dõi việc thực hiện công tác phòng cháy chữa cháy của người tham gia, phải thu thập được các thông tin thực tế và kịp thời ở cơ sở để có kế hoạch đề phòng hạn chế hợp lý. Nếu làm tốt công tác này khách hàng sẽ yên tâm, phấn khởi tin tưởng vào công ty đồng thời nâng cao được ý thức phòng cháy và chữa cháy cho mọi người. Mở rộng quan hệ với các cấp, các ngành nắm bắt được các dự án thuộc nguồn vốn trong nước và nước ngoài để kịp thời bảo hiểm cho các dự án này. Ngoài việc tuyên truyền, quảng cáo và nâng cao uy tín của công ty băng mọi cách phải giử được và thắt chặt hơn nữa mối quan hệ vốn có của công ty với các cơ quan khác như: Ngân hàng, Bộ công nghiệp… với các cấp chính quyền địa phương để có những quy định cụ thể hơn, có biện pháp kiên quyết hơn trong việc đôn đốc các doanh nghiêp các đơn vị xí nghiệp trực thuộc tham gia bảo hiểm. Đồng thời công ty phải mở rộng mối quan hệ với các công ty bảo hiểm, môi giới bảo hiểm khác để tranh thủ các nghiệp vụ thông qua sự giới thiệu của họ. Tăng cường mở rộng mối quan hệ với các ngành các cấp, nắm bắt các dự án thuộc vốn trong nước và nước ngoài để kịp thời bảo hiểm cho các dự án đó. Tổ chức đào tạo lại cán bộ, nâng cao trình độ nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ để tiếp cận được các dự án, thông qua các điều khoản, điều kiện, phí bảo hiểm phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Công tác phí. Hoạt đông kinh doanh bảo hiểm hoả hoạn là một hoạt động kinh doanh dịch vụ, quỹ dùng để chi trả bồi thường được hình thành từ việc đóng góp của người được bảo hiểm dưới dạng phí bảo hiểm. Vì vậy, việc tính toán đúng mức phí phải đảm bảo đủ để chi trả bồi thường, đảm bảo kinh doanh có lãi, đồng thời phải tạo được mức phí có thể cạnh tranh được với các công ty bảo hiểm khác ở trong và ngoài nước. Sự biến đổi của thị trường, hoạt động của đối thủ cạnh tranh sẽ có thể làm thay đổi phí bảo hiểm. Vì vậy, khi đưa ra mức phí cần phải thường xuyên xem xét, giám sát theo dõi tỷ lệ phí của đối thủ cạnh tranh đồng thời phải theo sát sự biến động của các rủi ro, tỷ lệ lạm phát. Nên tìm cách hạ phí xuống vì đây là cách cạnh tranh có hiệu quả nhất tuy nhiên phải đảm bảo cho hoạt động kinh doanh có lãi. Đào tạo cán bộ. Đào tạo cán bộ giỏi cho nghiệp vụ là một vấn đề mà bảo hiểm cần quan tâm. Bảo hiểm hoả hoạn là một nghiệp vụ có nhiều mối giao dịch với các đối tác nước ngoài, khách hàng của các công ty môi giới bảo hiểm. Nhưng do hiện nay cán bộ giỏi còn hạn chế, lại thêm trình độ tiếng Anh và vi tính chưa thành thạo, cho nên việc giao dịch với khách hàng còn gặp nhiều khó khăn. Cũng thấy rằng, cán bộ giỏi nghiệp vụ thì không những thực hiện công việc một cách nhanh gọn và trôi chảy mà còn khi khách hàng thắc mắc hoặc yêu cầu giải thích thì cán bộ có thể giải đáp được rõ ràng, dễ hiểu tạo niềm tin cho khách hàng. Một mặt nữa có cán bộ giỏi nghiệp vụ có trình độ tiếng Anh, vi tính thành thạo, công ty có thể thâm nhập thị trường một cách nhanh chóng và trực tiếp, giảm được chi phí cho môi giới. Cần phải có các đợt tập huấn, đào tạo, hướng dẫn cho cán bộ để nâng cao trình độ nghiệp vụ. Phát hiện và nhìn nhận đúng năng lực của từng cán bộ để có chính sách ưu đãi, có ưu tiên thích đáng, như thế công ty mới giữ được cán bộ giỏi. Ngoài ra cũng phải có những yêu cầu rõ ràng đối với mỗi cán bộ cho phù hợp với cơ chế thị trường hiện nay. Công tác bồi thường Bồi thường là trách nhiệm của người bảo hiểm khi xảy ra rủi ro được bảo hiểm và đây cũng chính là quyền lợi của người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm mong muốn được bồi thường nhanh chóng để khắc phục rủi ro tổn thất khôi phục kinh doanh của mình. Bồi thường cũng thể hiện chất lượng của sản phẩm bảo hiểm do đó người bảo hiểm muốn cạnh tranh tốt với các công ty khác thì phải chú ý đến khâu bồi thường sao cho nhanh chóng, thoả mãn với yêu cầu của khách hàng nhưng phải đãm bảo được kinh doanh có lợi cho công ty. Công ty cần phải có những chính sách đào tạo và đào tạo lại các cán bộ thuộc lĩnh vực bồi thường nhằm nâng cao trình độ cho các cán bộ cũng như giúp cho công tác bồi thường được nhanh chóng, chính xác thoã mãn được mong muốn của khách hàng tạo được uy tín cho công ty, giúp cho Công ty Bảo hiểm Hà Nội hoạt động có hiệu quả và ngày một lớn mạnh. Kết luận Trong những năm vừa qua, tuy bảo hiểm hoả hoạn và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh là nghiệp vụ còn non trẻ. Nhưng công ty Bảo hiểm Hà Nội đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Điều đó không chỉ thể hiện ở sự tăng trưởng của các chỉ tiêu trong hoạt động kinh doanh mà còn khẳng định được sự đóng góp của nghiệp vụ đối với nền kinh tế. Thông qua tác dụng là bảo toàn vốn, tạo ra một tâm lý an toàn, tin tưởng cho chủ doanh nghiệp cũng như toàn bộ công nhân. Loại hình nghiệp vụ này đã làm nổi bật được vai trò của mình trong công cuộc đổi mới đất nước. Bằng lợi thế về tầm quan trọng không thể phủ nhận, bảo hiểm hoả hoạn và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh tự tin hơn bao giờ hết, sẵn sàng bước vào giai đoạn mới, giai đoạn cạnh tranh. Thực tế đã chứng minh chúng ta cần đến bảo hiểm, thực sự cần đến sự hỗ trợ đắc lực của bảo hiểm trong sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Vượt qua mọi khó khăn thử thách, bằng sự vươn lên của chính mình, chúng ta hy vọng rằng công ty Bảo hiểm Hà Nội cùng với nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh sẽ tiếp tục lớn mạnh và không ngừng đi lên, xứng đáng là doanh nghiệp đầu đàn. Tài liệu tham khảo. Giáo trình Bảo hiểm trường Đại học Kinh tế quốc dân. Các văn bản pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm – NXB Thống kê. Luật kinh doanh bảo hiểm – NXB Chính trị Quốc gia. Một số điều cần biết về pháp lý trong kinh doanh bảo hiểm – NXB Thống kê. Những nguyên tắc cơ bản của Bảo hiểm hoả hoạn – NXB Thống kê. Nguyên tắc và thực hành. Tạp chí bảo hiểm các số. Báo cáo tổng kết 1999 – 2000 (Công ty Bảo Việt Hà Nội). Chuyên đề bàn về nghiệp vụ hoả hoạn trong điều kiện kinh tế thị trường – Nguyễn Việt Hoàng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docD0023.doc
Tài liệu liên quan