Đề tài Vấn đề chủ nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Chính vì vậy việc nghiên cứu tìm hiểu sâu vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế không phải chỉ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước mà các cấp cấp, ngành, nhà quản lý và tầng lớp trí thức trẻ hôm nay. Tuỳ trình độ, khả năng và khía cạnh quan tâm mà mỗi chủ thết, tổ chức cá nhân có phương pháp tìm hiểu đánh giá riêng về vấn đề này. Đặc biệt với sinh viên kinh tế cần có kiến thức cập nhật, đầy đủ lý luận và bao quát về toàn cầu hoá và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Từ đó xác định nhiệm vụ, trách nhiệm của bản thân để phấn đấu học tập và rèn luyện.

doc42 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1533 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề chủ nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y quá trình mở cửa thị trường các quốc gia, tạo lập ra những khu vực thị trường rộng lớn, thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá tiên tiến... 3 - Những tổ chức kinh tế toàn cầu: Thứ nhất là các tổ chức kinh tế có tác dụng điều chỉnh các quan hệ kinh tế toàn cầu hiện có: Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), một số tổ chức kinh tế của Liên hiệp quốc: VNDP, G8 (G7 Nga), Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế DECD... Hoạt động nổi bật nhất hiện nay vẫn là WTO, IMF, WB. Tuy nhiên, cho đến nay mới chỉ có những cam kết quốc tế về thương mại hàng hoá là tương đối có hiệu lực, còn các lĩnh vực chính sách tiền tệ, đầu tư chu chuyển vốn, bảo vệ, tiêu chuẩn về lao động và di chuyển lao động quốc tế, chống tham nhũng.... vẫn cần có luật lệ toàn cầu hữu hiệu hơn. Ngay cả hoạt động của IMF và WB cũng chỉ kiểm soát một phần dòng vốn, tiền tệ chính thức của Nhà nước, còn việc buôn bán tiền tệ, và dòng vốn tư nhân vẫn vận động ngoài vòng kiểm soát. Do đó việc cải tổ thích hợp những tổ chức này là điều cần thiết trong thời gian tới. Thứ hai là các tổ chức kinh doanh toàn cầu: đó là các Công ty xuyên quốc gia với các con số đáng kể: 60.000 Công ty xuyên quốc gia với 500.000 chi nhánh, nắm 25% sản xuất thế giới, 50% mậu dịch quốc tế, 90% với đầu tư trực tiếp, trên 80% bản quyền kỹ thuật và công nghệ mới. Các đặc trưng mới hiện nay của các Công ty xuyên quốc gia là: (1) làn sóng sát nhập gia tăng, chứng tỏ sức cạnh tranh toàn cầu ngày càng mạnh, đòi hỏi vốn, công nghệ mạng lưới phân phối ngày càng cao; (2) các Công ty nhỏ và vừa cũng gia tăng hoạt động xuyên quốc gia, đặc biệt trong dịch vụ; (3) ở các nước đang phát triển xuất hiện các Công ty xuyên quốc gia của mình hoạt động ở nhiều nước; (4) các Công ty xuyên quốc gia ở các nước phát triển. Nếu không có các Công ty xuyên quốc gia thì sự hội nhập chỉ dừng lại hoạt động xuất nhập khẩu, thu hút nước ngoài vào nước mình. Do đó có thể dự báo: các Công ty xuyên quốc gia sẽ là hình thức doanh nghiệp cơ bản trong tương lai. 2.3. Một số lợi ích bước đầu nước ta đạt được trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Mặc dù vấp phải rất nhiều khó khăn, song nhìn lại những năm qua, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế vẫn không ngừng được mở rộng và bước đầu đã đưa lại những lợi ích đáng kể, không thể phủ nhận cho đất nước. Một là, thông qua các hiệp ước song phương và đa phương, cho đến nay, nước ta đã có quan hệ với 165 nước trên thế giới (tại thời điểm năm 2000 là 154 nước), kim ngạch xuất khẩu tăng từ 677,8 núp/USD năm 1986 lên 14,3 tỷ USD năm 2000, năm 2001 tăng 4,5%. Trong cùng thời gian kim ngạch nhập khẩu tăng tương ứng từ 1,83 tỷ núp/USD lên 15,2 tỷ USD. Từ chỗ nhập siêu tương đối lớn vào nửa những năm 80 đến nay cán cân xuất - nhập gần đạt cân bằng, từ cuối những năm 90, nước ta đã có những mặt hàng xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD như: dầu thô, gạo, hàng dệt may, giày dép, chế biến thuỷ sản... Cuối năm 2001, hiệp định thương mại Việt - Mỹ chính thức hiệu lực mở ra cho hàng hoá dịch vụ Việt Nam một thị trường rộng mở và đầy thách thức cùng thời gian này việc Trung Quốc gia nhập WTO, tạo điều kiện cho Việt Nam xâm nhập thị trường với 1,3 tỷ dân. và chắc chắn cơ hội mở rộng thị trường ra khu vực từng bước thế giới vẫn chưa dừng ở đó. Hai là, song song với việc xâm nhập thị trường quốc tế, Việt Nam đã tăng khả năng thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài. Kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được chính thức ban hành đầu năm 1988 và từng bước được điều chỉnh đến cuối năm 2000 đã có trên 700 Công ty thuộc 62 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào nước tă với hơn 3.000 dự án, có tổng số vốn đăng ký trên 36 tỷ USD trong đó vốn đã thực hiện 17 tỷ USD. Mặc dù do khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực và sự chậm đổi mới trong chính sách kinh tế, song sự đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vẫn có xu hướng gia tăng những năm gần đây, cụ thể là tỷ trọng của khu vực này trong GDP tăng lên, 6,3% năm 1995; 7,4% năm 1996; 9,1% năm 1997; 9,8% năm 1998; 10% năm 1999; trên 10% năm 2000 và đến hết ngày 30/10/2001 cả nước thêm 1,9 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài tăng 200% về vốn so với cùng kỳ năm 2000. Bên cạnh đó, ngoài thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, các dự án có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra khoảng 35 việc làm trực tiếp và hàng chục vạn việc làm gián tiếp. Hiện nay Việt Nam được đánh giá là đặc điểm an toàn nhất khu vực Châu á - Thái Bình Dương. Đây có phải là cơ hội cho dòng chảy vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng lên? Ba là, không chỉ các dòng vốn trực tiếp, nhiều tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới được đưa vào nước ta. Trong những dự án liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài thuộc các ngành bưu chính viễn thông, dầu khí, điện, điện tử, dệt may, da giày... các công nghệ được chuyển giao là tương đối hiện đại. Mặc dù vẫn có những công nghệ trung bình không còn phù hợp với các nước Mỹ, Nhật... nhưng vẫn có hiệu quả ở nước ta trong một số ngành sự khác do yêu cầu sử dụng lao động của các công nghệ đó cao, có khả năng tạo thêm nhiều việc làm mới. Quả thực thu hút vốn đầu tư trực tiếp đồng thời tiếp nhận chuyển giao công nghệ và sử dụng nó có hiệu quả là con đường thích hợp với trình độ Việt Nam hiện nay hơn cả, mặc dù nước ta vẫn có khả năng nhập khẩu công nghệ từ bên ngoài vào. Bốn là, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo điều kiện giao lưu các nguồn lực giữa nước ta và thế giới trong đó nguồn nhân lực trí tuệ và tay nghề cao có tầm quan trọng đặc biệt trong sự phát triển. Nguồn nhân lực Việt Nam khá dồi dào: song lại đang có những hạn chế nên đã đưa đến tình trạng hiện nay là: thừa nhiều lao động giản đơn chưa được đào tạo nhưng lại thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật biết kinh doanh. Trong tình hình này, thông qua con đường hội nhập kinh tế quốc tế, mối năm nước ta xuất khẩu từ 24 - 25 ngàn lao động đồng thời thực hiện hợp đồng gia công chế biến xuất khẩu. Do đó đã giảm bớt sức ép về việc làm trong nước lại vừa học hỏi những kinh nghiệm về quản lý điều hành công nghệ tiên tiến. Cả bốn thành quả bước đầu trong tiến trình chủ động hội nhập nói trên đều là những nhân tố mới của tăng trưởng kinh tế, đồng thời mang lại những lợi ích quan trọng cho nền kinh tế đất nước. Chúng lại tiếp tục khẳng định tư tưởng đúng đắn chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, Nhà nước, là nguồn cổ đông cho những bước đi tiếp theo trong tiến trình hội nhập, tham gia toàn cầu hoá. Chương II tiến trình thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 1. Tiến trình hội nhập trong thời gian vừa qua của Việt Nam Nghiên cứu vấn đề này ta mới nhận thấy rằng: chính sách mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển đất nước không phải là một điều hoàn toàn mới mẻ đối với Đảng và Nhà nước ta. Nó chính là sự kế thừa, phát triển và vận động sáng tạo và từng hoàn cảnh, từng giai đoạn của đất nước những luận điểm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vừa mới ra đời. Trong bài trả lời phỏng vấn của các nhà báo ngày 23 tháng 10 nă, 1945, Người đã nói: "Chúng ta hoan nghênh những người Pháp muốn đem tư bản xứ ta khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác.... Chúng ta sẽ mời những nàh chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu đến đây giúp việc cho chúng ta trong việc kiến thiết quốc gia..." cuối năm 1946 trong "Lời kêu gọi Liên hiệp quốc" Người lại viết "Trong chính sách đối ngoại của mình, nhân dân Việt Nam sẽ tuân thủ những nguyên tắc dưới đây": 1) Đối với Lào và Miên (Campuchia), nước Việt Nam luôn tôn trọng nền độc lập của hai nước đó và bày tỏ lòng mong muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối giữa các nước có chủ quyền. 2) Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực: Một là nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình. Hai là, nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường xá giao thông cho việc buôn bán quá cảnh quốc tế. Ba là, nước Việt Nam tham gia một tổ chức hợp tác quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hiệp quốc. Tuy nhiên trong thời gian đó, do hoàn cảnh lịch sử, quan hệ quốc tế của nước ta chỉ giới hạn trong Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) khối liên kết kinh tế xã hội chủ nghĩa. Có nghĩa là Việt Nam chỉ có quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa, mà chủ yếu là nước ta dựa vào sự giúp đỡ của họ, đặc biệt là Liên Bang Xô Viết. Tiếp theo đó là hai cuộc kháng chiến trường kỳ thần thánh chống Pháp và chống Mỹ của dân ta. Mọi nguồn lực, sức người, sức của đểu được tập trung tối đa cho chiến tranh, các vấn đề khác tạm thời gác lại. Đến khi đất nước hoàn toàn giải phóng, nước ta lại tập trung khôi phục nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung có sự giúp đỡ to lớn của xã hội chủ nghĩa trong Hợp đồng tương trợ kinh tế (SEV)? Đồng thời nhận thấy xu thế toàn cầu hoá đang ngày càng tăng lên, các quốc gia ở mức độ này hay mức độ khác đều tuỳ thuộc vào nhau, do đó nếu nước nào đóng cửa với thế giới là đi ngược xu thế của thời đại mà mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu tất yếu hướng tới sự phát triển. Đại hội VI của Đảng (12 - 1986), trong khi quyết định chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì cũng đồng thời chủ trương: Việt Nam phải tham gia ngày càng rộng rãi vào sự phân công lao động quốc tế, tích cực phát triển quan hệ kinh tế và khoa học, kỹ thuật với các nước, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. Tuy nhiên trong tình hình cuộc chiến tranh lạnh lúc đó tiếp diễn, Mỹ vẫn ngoan cố kéo dàu việc bao vây, cấm vận chống lại nước ta thì việc thực hiện chính sách mở cửa và hội nhậ kinh tế quốc tế của Việt Nam những năm tiếp theo đó chủ yếu nghiêng về một phía - Liên Xô và các nước chủ nghĩa xã hội trong Hội đồng tương trợ kinh tế (SEU). Phải trải qua gần 5 năm đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta bắt đầu vận hành có kết quả, đồng thời đứng trước thực tế của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã sụp đổ, Liên Xô cũng đang trượt dài tới bờ vực của sự tan rã, đại hội VII của Đảng (6 - 1991) mới đề ra các luận điểm có ý nghĩa phương châm chỉ đạo, tổng quát cho việc thị trường chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế rộng rãi ở nước ta. "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển"; "Đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền bình đẳng và cùng có lợi". Đại hội Đảng lần thứ VIII ( 6- 1996) tiếp tục cụ thể hoá các luận điểm trên và quyết định "đẩy nhanh quá trình hội nhậ kinh tế khu vực và thế giới" Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ IV khoá VIII (12 - 1997) cũng đã đưa ra nguyên tắc hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Một là, trên vấn đề phát huy nội lực, thực hiện nhất quán lâu dài chính sách thu hút nguồn lực bên ngoài. Hai là, tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ, gia nhập APEC và WTO. Ba là, có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khu vực AFTA. Gần đây nhất, Đại hội IX của Đảng (4 - 2001) tiếp tục vạch ra phương châm cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian 10 năm tới 2001 - 2010: "... nâng lên một bước mới gắn với việc thực hiện các cam keets quốc tế đòi hỏi chúng ta phải ra sức nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế". Nghị quyết Đại hội Đảng lần này lại nhấn mạnh thêm: "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường". Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và những luận điểm có ý nghĩa phương châm chỉ đạo hành động của Đảng, 15b năm qua cùng với việc đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, Nhà nước ta lần lượt thi hành một loạt biện pháp để thúc đẩy tiến trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Tháng 12 - 1987, Quốc hội nước ta thông qua Luật đầu tư nước ngoài Việt Nam và cho đến nay vẫn liên tục được bổ sung, sửa đổi để phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế từng giai đoạn. Năm 1989, Việt Nam đã mở các cuộc đàm phán để nối lại quan hệ quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB) và đến tháng 10 - 1993 đã bình thường hoá quan hệ tín dụng với hai tổ chức tài chính, tiền tệ lớn nhất thế giới này. Tháng 7/1995, Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN, và từ ngày 01/01/1999 bắt đầu thực hiện cam kết trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do ASEAN tức AFTA, cũng tháng 7 này, Việt Nam đã ký kết Hiệp định chung về hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật, và một số lĩnh vực khác với cộng đồng Châu Âu (nay là Liên minh Châu Âu EU), đồng thời bình thường hoá quan hệ với Mỹ. Tháng 3/1996 Việt Nam tham gia với tư cách thành viên sáng lập diễn đàn hợp tác kinh tế á - Âu (ASEM). Tháng 11/1998, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã được ký kết và sau bao nhiêu nỗ lực, Hiệp định chính thức có hiệu lực vào ngày 10/12/2001 mà không kèm theo cái gọi là Đạo luật nhân quyền nghị viện và tổng thống Mỹ đưa ra. Đây là bước tiến thuận lợi trong quá trình gia nhập WTO của nước ta. Mà trước đó, cuối năm 1994, Nhà nước ta đã gửi đơn xin gia nhập vào tổ chức này, hiện đang trong quá trình đàm phán để được kết nạp. Tháng 9 /2001, tại Hà Nội đã diễn ra hội nghị Bộ trưởng kinh tế các nước á - Âu lần thứ 3 (EMM - 3) và Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN lần thứ 33 và điều phối viện Châu á của EMM - 3 và đã hoàn thành một cách tốt đẹp bạn bè đã biết đến một Việt Nam đang cố gắng bứt lên, một Việt Nam có tiềm năng và nội lực dồi dào, đón nhận đầu tư của các nước trong khu vực và quốc tế, một Việt Nam sẵn sàng hội nhập kinh tế quốc tế. 2. Thực trạng hội nhập kinh tế của Việt Nam hiện nay. Cho đến thời điểm hiện nay thì không thể nói rằng Việt Nam mới bắt đầu hội nhập kinh tế quốc tế. Thực tế Việt Nam đã tham gia vào hầu hết các hình thức hội nhập, đặc biệt là ba hình thức cơ bản đã trình bày ở đây chỉ có thể xem như là một lát cắt ngang thực trạng quan hệ Việt Nam với các tổ chức các nước mà có tác động lớn tới nền kinh tế nước ta. 2.1. Việt Nam trong lộ trình AFTA. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) được ký hiệp định thành lập năm 1992 giữa các nước ASEAN nhằm tạo ra bước ngoặt phát triển kinh tế của các nước 6 thành viên. Mục tiêu của AFTA là giảm dẫn thuế quan hầu hết các mặt hàng, trước hết là giảm dần hàng công nghiệp chế biến. Theo sự điều chỉnh được cam kết gần đây nhất, Việt Nam sẽ thực hiện đầy đủ các quy định AFTA vào năm 2006, trong khi đối với các thành viên khác, thời hạn đó là 2003. Ví dụ, đối với danh mục hàng hoá cắt giảm bình thường thì: các loại sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ giảm xuống dưới 20% vào ngày 01/11/.2001 (nước khác là 1998) và sau đó xuống dưới 5% vào ngày 01/01/2006 (với các nước là 2003) còn các loại sản phẩm có thuế suất 20% hoặc dưới mức 20% sẽ được giảm xuống đến 0- 5% vào 1/1/2002 (nước khác là 2000). Quả thực nước ta định hướng vượt ưu đãi khi áp lực về thời gian được nới ra so với các nước khác đầu năm 1998, ta đã công bố lịch trình giảm thuế để thực hiện AFTA vào năm 2006. Tiếp đó, luật thuế xuất nhập khẩu được sửa đổi nhằm tạo điều kiện để xây dựng hệ thống thuế nhập khẩu 3 cột (phổ thông, ưu đãi chung theo Quy chế trí tuệ quốc - MFN và ưu đãi đặc biệt) cũng như các quy định về thuế chống phá giá và thuế đối kháng, Việt Nam cũng đã cam kết tăng số dòng thuế sản phẩm có thuế suất dưới 5% vào năm 2006. Nhìn chung cho đến nay, Việt Nam đã đáp ứng cơ bản những đòi hỏi về lộ trình của CFPT/AFTA. Hết năm 2001 tiến trình cắt giảm thuế quan CEPT/AFTA được chuẩn bị và bước đầu đạt được những kết quả đáng kích lệ. Tuy nhiên cũng có rất nhiều vấn đề đặt ra cần quan tâm, xử lý đó là: không ít các kết quả đã có chỉ mang tính thủ tục, tiến bộ giảm thuế suất xuống 5% và dưới 5% thực tế vẫn diễn ra chậm. Mặc dù đến 2006 Việt Nam mới thực hiện đầy đủ AFTA, song sự chậm chạp đó có nghĩa là việc cắt giảm thuế sẽ dồn vào những năm sau này. Đó là ngay bây giờ chúng ta phải xét đến tình hình hiện nay. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã có hiệu lực, Trung Quốc đã gia nhập WTO.v.v... Cũng cần nhìn nhận rằng đối với Việt Nam, trong quan hệ so sánh với các thành viên ASEAN khác thực hiện đầy đủ AFTA chủ yếu có nghĩa là phải chấp nhạan cạnh tranh sòng phẳng với nhiều đặc điểm bất lợi hơn. Việt Nam có khoảng thời gian ưu đãi hơn nhưng nó chỉ có giá trị với điều kiện là có sự nố lực rất lớn trong việc cải thiện sức cạnh tranh. Quãng thời gian 3 năm quả thực là quá ngắn nếu so quãng thời gian mà các nước ASEAN khác đã có để đạt tới sức cạnh tranh hiện tại. Chính vì vậy, Việt Nam cần phải nỗ lực hơn nữa, năm 2006 đã gần kề tình hình kinh tế trong nước và khu vực luôn biến đổi. Do đó việc học tập rút kinh nghiệm từ các thành viên ASEAN là không thể bỏ qua. 2.2. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ. Quan hệ Việt - Mỹ là một quan hệ đặc biệt so với các quá trình giữa Việt Nam và các nước khác không chỉ bởi vì Mỹ là cường quốc trên thế giới. Trước đây Mỹ là kẻ thù của dân tộc Việt Nam trong chiến tranh. Mỹ cũng đã từng cấm vận Việt Nam gây ra một thời kỳ khó khăn vất vả cho cả nước. Bây giờ Mỹ là một bạn hàng to lớn, một thị trường rộng mở và càng đặc biệt khi Hiệp định - Thương mại Việt - Mỹ chính thức có hiệu lực từ 10/12/2001. Đây là Hiệp định được đánh giá đồ sộ và có quy mô lớn nhất trong lịch sử đàm phán Việt Nam. Nó bao gồm các thoả thuận bao trùm tất cả lĩnh vực kinh tế - thương mại thế giới WTO. Tính đến ngày được ký kết (13/7/2001) Hiệp định đã trải qua 11 vòng đàm phán (vòng 1 bắt đầu vào 9/1996 tại Hà Nội). Như vậy để thấy rằng Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có ý nghĩa to lớn như thế nào đối với nước ta. Đến nay tuy thời gian hiệp định có hiệu lực chưa dài song có người cũng đã nhận thấy sự khác nhau trong quan hệ hai nước so với trước đây. và quan trọng hơn đó là tác động của Hiệp định đối với kinh tế Việt Nam. Những số liệu sau đây có thể xem là những ví dụ cụ thể và những tác động đó là: Đối với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, theo các chuyên gia kinh tế Việt Nam, xuất khẩu nước ta có thể tăng ngày 4% - 5% trong năm 2002, chủ yếu tập trung ngành dệt, may mặc, dày dép, gốm sữ, sơn mài, chế biến nông sản thực phẩn. Việc cắt giảm thuế quan song song với việc được hưởng mức thuế suất thương mại bình thường làm GDP tăng lên 0,23% trong ngắn hạn và 0,26% trong dài hạn. có thể thấy là việc mở rộng thị trường xuất khẩu sang Hoa Kỳ làm cho GDP nước ta tăng một cách bền vững trong tương quan dài hạn. tổng tiêu dùng xã hội cùng tăng 0,44% trong khi đó các ngành công nghiệp bị ảnh hưởng lớn, ví dụ, ngành dầu thô giảm 0,34%, ngành thép giảm 0,29%... Đối với sổ thu ngân sách Nhà nước, qua các chỉ số cụ thể của từng ngành, trong ngắn hạn tăng khoảng 0,05% và 0,11% trong dài hạn. Trong đó chương trình cắt giảm thuế quan mở rộng xuất khẩu, về lâu dài số thu ngân sách tăng 0,1%. Nếu phân tích sâu sắc và rộng rài hơn, có khả năng kinh tế Việt Nam thu được lợi ích cao hơn và số thu ngân sách được đảm bảo ổn định. Việc ký kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ là chủ trương lớn trong đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Hiệp định không nước đáp ứng được lợi ích của cả hai nước, mà còn có tác động tích cực đến quan hệ đối ngoại khác của Việt Nam và Hoa Kỳ đối với ASEAN, khu vực và thế giới. Chính vì vậy tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng đối với toàn bộ nền kinh tế nước ta của các chương trình điều chỉnh chính sách thương mại trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế cần được ưu tiên và đầu tư thích đáng. 2.3. Quan hệ kinh tế thương mại Việt - Trung. Trung Quốc là người bạn láng giềng "khổng lồ" của nước ta, không chỉ là một đất nước rộng lớn với 1,3 tỷ dân mà còn là một cường quốc về kinh tế. là hai nước láng giềng quá trình giao lưu buôn bán đã có từ rất lâu và rất sâu sắc. Thực tệ, người tiêu dùng Việt Nam đã quen thuộc với hàng hoá Trung Quốc với các đặc tính: rẻ, mẫu mã phong phú đa dạng nhưng chất lượng chưa cao lắm (thực ra, đây không phải là do công nghệ kém mà là "chiến thuật" của Trung Quốc). Ngày 10/11/2001, Trung Quốc chính thưc là thành viên của WTO. Sự kiện này càng làm cho nền kinh tế Trung Quốc có cơ hội tăng mạnh tính cạnh tranh đồng thời có tác động mạnh mẽ đến thị trường hàng hoá thế giới, trong đó Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nhiều nhất, đặc biệt là phải đối mặt với những thách thức về khả năng giảm kim ngạch xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thách thức về xuất khẩu đối với Việt Nam xuất phát từ khả năng cạnh tranh của hàng hoá Trung Quốc được tăng cường do được hưởng những điều kiện thương mại bình đẳng và ưu đãi của WTO. Trước hết là cơ cấu hàng xuất khẩu hai nước có tính tương đồng trùng lặp khá cao như: dệt may, giày dép, điện tử, linh kiện máy tính, thủ công mỹ nghệ... mà chi phí lao động và chi phí sản xuất của họ thấp hơn nên sẽ ảnh hưởng đến khả năng tăng xuất khẩu của hàng hoá nước ta. Việt Nam và Trung Quốc lại có chung các đối tác lớn như Nhật, Mỹ, EU, Hàn Quốc, ASEAN... Hơn nữa, gia nhập WTO, khả năng giảm giá của hàng hoá Trung Quốc hoàn toàn có thể xảy ra khi họ từng bước điều chỉnh tỷ giá đồng nhân dân tệ theo hướng giảm giá so với đô la Mỹ. Như vậy, có nghĩa là, trên thị trường thế giới sức cạnh tranh của hàng Trung Quốc sẽ mạnh hơn. Một thách thức lớn nữa là về thu hút vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) dù 10 năm qua tỷ lệ thu hút DTNN so với GDP của Việt Nam cao hơn Trung Quốc nhưng theo Ngân hàng Thế giới, thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam còn thiếu yếu tố bền vững, hiệu quả và thực chất mới chỉ thể hiện về số lượng. Ngược lại thu hút đầu tư nước ngoài của Trung Quốc hướng được vào xuất khẩu, tạo nhiều việc làm trực tiếp và gián tiếp. Tuy còn có một số trở ngại: lạm phát cao, nạn quan liêu tham nhũng nhưng Trung Quốc cũng đã tiến hành hàng loạt biện pháp tạo môi trường ổn định, thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài như: thực hiện chính sách miễn thuế nhập khẩu thiết bị, giảm tiền thuê đất, đơn giản hoá thủ tục đầu tư, xúc tiến mạnh mẽ hợp tác song phương và đa phương. Trong khi đó Việt Nam còn có rất nhiều hạn chế, đặc biệt là tình trạng thanh tra, kiểm tra hoạt động doanh nghiệp còn tuỳ tiện, chồng chéo, ít sức thuyết phục... Như vậy có thể thấy việc Trung Quốc gia nhập WTO đưa đến những nguy cơ và thách thức không nhỏ đối với nền kinh tế Việt Nam. Việc đưa ra các giải pháp tính thuế cũng như lâu dài là hết sức cấp thiết. 2.4. Việt Nam với Liên minh Châu Âu đã có những bước khởi đầu từ năm 1975. Trải qua sự cố gắng, nố lực từ hai phía, đỉnh cao của sự phát triển quan hệ này được đánh dấu bằng sự kiện trọng đại diễn ra vào ngày 17/7/1995 khi "Hiệp định hợp tác giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cộng đồng Châu Âu" được ký kết. ở đây tôi muốn đi sâu vào một số mặt hàng mà Việt Nam hiện đang có lợi thế trên thị trường EU và trong cả những năm tới. Trước hết là hàng dệt may. Từ 1/1993, hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam là một trong hai mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất nước ta. Hiện nay hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang hơn 40 nước trong đó xuất khẩu sang các nước EU chiếm từ 34% đến 38% tổng kim ngạch hàng xuất khẩu dệt may cả nước. Thứ hai là hàng thuỷ sản. Theo tổ chức lương thực và nông nghiệp của Liên hiệp quốc, đến nay hàng thuỷ sản Việt Nam có mặt trên 49 nước và khu vực, đặc biệt Việt Nam tiếp cận ngày càng sâu vào thị trường Việt Nam. Tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản cả nước không ngừng tăng lên từ năm 1991 đến nay, tốc độ tăng bình quân 17,7%/năm trong đó kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang EU là 75,2 triệu USD năm 1997; 93,4 triệu USD năm 1998 và 105,3 triệu năm 1999. Hiện EU là thị trường lớn thứ hai nhập khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam, chủ yếu là tôm đông, cá đông, cá hộp, mực, thịt tôm hỗn hợp. Mặt hàng thứ ba là giày dép và đồ da. EU hiện là thị trường nhập khẩu giày dép lớn nhất của Việt Nam, chiếm khoảng 70% tổng giá trị xuất khẩu giày dép cả nước. Việt Nam là một trong năm nước có số lượng giày dép tiêu thụ nhiều nhất ở EU do giá rẻ, chất lượng và mẫu mã chấp nhận được. Do kim ngạch xuất khẩu giày dép của nước ta vào EU tăng rất nhanh nên EU đã bắt đầu quan tâm đến tăng trưởng xuất khẩu giày dép Việt Nam. EU đã cử đoàn sang làm việc với Hiệp hội Da giày Việt Nam và khảo sát thực tế tại Việt Nam. Chắc chắn rằng, thời gian tới, với mặt hàng giày da Việt Nam, EU sẽ có những chính sách phù hợp. Đây là cơ hội quý giá cho kinh tế Việt Nam nói chung và hàng giày da nói riêng. Như vậy, với thị trường rộng lớn EU, Việt Nam đã có vị thế ở một số mặt hàng. Đó là nền tảng thuận lợi cho những bước tiến tham gia và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Vấn đề quan trọng là Việt Nam có nắm lấy được cơ hội này hay không? 2.5. Việt Nam với tổ chức thương mại thế giới WTO. Tổ chức thương mại thế giới được coi là tổ chức rộng rãi nhất, cao nhất trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam tham gia vào WTO và được hưởng những ưu đãi, quyền lợi mà tổ chức dành cho các thành viên luôn là mục tiêu phấn đấu của các quốc gia trên thế giới. Mặc dù rằng những quyền lợi đó luôn song sóng với những cam kết các nước phải thực hiện. Mà sự bất lợi, hay thách thức luôn nghiêng về các nước đang phát triển, hay kém phát triển hơn. Việt Nam cũng là một quốc gia đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. Gia nhập WTO, song song với việc mở rộng thị trường, giảm bớt hàng ràp thuế quan và phi thuế quan, loại bỏ các hạn chế đầu tư ở các nước công nghiệp phát triển, Việt Nam cũng phải chấp nhận mở cửa thị trường, đón nhận sự cạnh tranh gay gắt của những đối thủ mạnh hơn rất nhiều ngay trên thị trường nội địa của mình. Thực chất Việt Nam chủ động trong tiến trình AFTA, trong quan hệ với các nước, khu vực trên thế giới như Mỹ, Trung Quốc, EU... cũng là để rút ngắn vòng đàm phán gia nhập WTO mà nước ta đã nộp đơn từ năm 1994. Việt Nam cũng xác định được rằng: WTO chỉ tạo ra cơ hội chứ không phải tự nó đem lại sự tăng trưởng kinh tế. Cho nên xây dựng nền tảng hạ tầng và hệ thống pháp lý thuận lợi cho đầu tư tư nhân, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và đầu tư phát triển nhân lực đang là phương châm cho mọi đường lối kinh tế của Đảng và Nhà nước. Cho đến nay, khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ chính thức có hiệu lực, cùng với những bước tiến vững chắc trong quan hệ với các nước, khu vực, chúng ta đã tạo những bước thuận lợi cho tham gia tổ chức Thương mại thế giới. 3. Những khó khăn của nước ta trong tiến trình hội nhập hiện nay. Qua thực trạng của Việt Nam trong lộ trình gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực, trong quan hệ kinh tế với các quốc gia, các cộng đồng quốc tế, ta đã nhìn thấy những hạn chế của nền kinh tế, của hệ thống pháp lý quốc gia gây ra những khó khăn cho bước tiến hội nhập kinh tế quốc tế. Thực ra, những hạn chế đó bắt nguồn từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước ta hiện nay. 3.1. Trình độ phát triển thấp của nền kinh tế Việt Nam với hai đặc trưng nghèo nàn và lạc hậu. Lấy các nước Châu á và trong khu vực làm mức so sánh thì mặt hàng xuất phát kinh tế thực tế của nước ta còn thấp xa. Theo sự sắp xếp của các tổ chức thế giới, Việt Nam là một trong mười quốc gia nghèo nhất trên thế giới. GDP nước ta kém xấp xỉ 30 lần GDP so với GDP của Mỹ. Cần lưu ý thêm rằng, vì nghèo và tuy nghèo song tỷ lệ tiết kiệm nội địa (theo % GDP) của nước ta rất thấp, chỉ bằng 1/2 đến 2/3 so với nước khác, như Trung Quốc chẳng hạn. Điều này sẽ làm chậm khả năng tăng trưởng và cải tạo cơ cấu kinh tế chỉ dựa trên căn bản nguồn vốn nội địa. Ta cũng dễ dàng nhìn thấy thực tế quen thuộc là tình trạng thiếu vốn, công nghệ kém lạc hậu của các dự án, công trình hay các doanh nghiệp, Công ty. Ngoài ra trình độ cơ cấu kinh tế của ta hiện còn thấp. Phải đến 10 - 15 năm nữa, với nỗ lực thật cao may ra nước ta mới đạt được mức trung bình hiện tại của các nền kinh tế đang nổi ở Châu á, với trình độ đó, sự cạnh tranh theo nguyên tắc bình đẳng sẽ đặt Việt Nam vào thế bất lợi hầu như là tuyệt đối. Nguy cơ tụt hậu xa hơn sẽ mang tính hiện thực ngày càng cao nếu chúng ta không có những sự lựa chọn đúng theo hướng đi tắt để đuổi kịp. 3.2. Khó khăn thứ hai bắt nguồn từ đặc trưng Việt Nam đang trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường. Chỉ so sánh với các thành viên khác của AFTA thì các nước đã phát triển thị trường thành công trước hàng mấy chục năm. Qua 15 đổi mới, thể chế kinh tế thị trường của ta còn thiếu đồng bộ, trình độ vận hành và điều hành còn thấp. Trong khi đó, hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi phải "chơi" theo "luật chơi" của thị trường thực sự thậm chí ở trình độ cao, gay gắt sâu sắc hơn. Dường như ảnh hưởng của nền kinh tế chỉ huy tập trung trước đây vẫn còn tác dụng. Là lực lượng chủ đạo trong nền kinh tế song các doanh nghiệp Nhà nước dường như vẫn trông chờ vào Nhà nước như một "cứu cánh" để tồn tại chứ không phải dựa vào năng lực cạnh tranh của chính bản thân mình, trên cơ sở nâng cao sức cạnh tranh thực sự. Sức ỳ lớn, tiền trình đổi mới diễn ra chậm, thái độ sẵn sàng hội nhập cũng như năng lực cạnh tranh thấp. Khu vực doanh nghiệp tư nhân tuy phát triển nhanh hơn song tiềm lực và sức cạnh tranh còn yếu. Vì vậy hàng hoá Việt Nam phải đương đầu với sự xâm nhập ồ ạt, mạnh mẽ của hàng hoá nước ngoài. Cũng xuất phát từ một thể chế thị trường chưa hoàn chỉnh đã kéo theo một hệ thống pháp lý vừa thực hiện vừa sửa đổi, dẫn đến tình trạng chồng chéo giữa các luật, quyết định, nghị quyết thông tư... Một hệ thống hành chính với các thủ tục phức tạp, rườm rà. Mười lăm năm đổi mới vẫn chưa xoá bỏ được nạn quan liêu, tham nhũng hình thành hệ thống tài chính các doanh nghiệp, Công ty chưa trong sạch, hàng năm thất thoát hàng chục tỷ đồng của Nhà nước. Những vấn đề nêu trên đã dẫn đến hàng loạt khó khăn trên tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế về thu hút Đầu tư nước ngoài, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới.... Thêm vào đó, cho đến nay vẫn chưa có nhận thức đầy đủ cả cơ hội lẫn khó khăn, thách thức của quá trình hội nhập trong từng cấp, từng ngành, chủ thể kinh tế. Vì thế, sự ưu đãi về thời gian những cơ hội đưa đến từ các hiệp định, cam kết dễ trở nên ít có ý nghĩa thực sự. Trách nhiệm về vấn đề này không chỉ của riêng Đảng, Nhà nước, các cấp, ngành và bản thân từng doanh nghiệp, từng cá nhân phải tự trang bị cho mình những hành trang cần thiết, phải tự bắt kịp với xu thế toàn cầu. 3.3. Làm thế nào để hội nhập kinh tế quốc tế mà vẫn độc lập tự chủ về chính trị, vẫn giữ gìn bản sắc văn hoá của dân tộc? Đó không phải là vấn đề của riêng Việt Nam ta khi đứng trước xu thế toàn cầu hoá, khi đưa ra những quyết định hội nhập kinh tế quốc tế. Bởi vì hội nhập kinh tế thế giới đồng nghĩa với việc thực hiện các cam kết, hiệp định mà từ đó mối liên hệ phụ thuộc giữa các quốc gia ngày càng sâu sắc và chặt chẽ. Trong khi đó, các nước tư bản, đặc biệt là Mỹ vẫn không ngừng tìm cách cam thiệp vào nội bộ của các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển hoặc kém phát triển. Quá trình đàm pháp Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ là một ví dụ. Mỹ đưa ra một cái gọi là "Đạo luật Nhân quyền Việt Nam" buộc Việt Nam ký kết kèm theo hiệp định, trong khi rõ ràng Hiệp định mang lại lợi ích cho cả hai quốc gia và Mỹ cũng thừa hiểu rằng Việt Nam không bao giờ đồng ý với cái đạo luật đó. Bên cạnh đó, quan hệ kinh tế sâu sắc sẽ tác động không nhỏ đến giao lưu văn hoá, du lịch... giữa các quốc gia, các khu vực. Thực tế một xu thế toàn cầu hoà về văn hoá đang diễn ra. Văn hoá ở đây bao gồm mọi mặt hoạt động, tư tưởng trong đời sống xã hội. Cùng với sự xuất hiện ngày càng tăng nhiều các sản phẩm hàng hoá nước ngoài, sự có mặt các nhà đầu tư nước ngoài là sự xuất hiện những quan niệm, trào lưu hoàn toàn mới. Một bản sắc văn hoá Việt Nam liệu có được giữ vẽng trước các "hàng ngoại nhập"? 3.4. Cuối cùng đó là nhân tố bối cảnh quốc tế ngày càng diễn ra phức tạp, khó lường. Sự xuất hiện các tổ chức, cá nhân khủng bố tầm cỡ quốc tế, tình hình chiến sự diễn ra khắp mọi nơi do sự xung đột giữa các tôn giáo, sắc tộc đang là những vấn đề đáng lo ngại cho hoà bình và ổn định trên thế giới. Sự kiện ngày 11 - 9 tại Mỹ cho đến nay vẫn còn là nỗi kinh hoàng ám ảnh không chỉ nhân dân Mỹ mà với cả nhân dân toàn thế giới. Bên cạnh đó sự phát triển của khoa học và công nghệ diễn ra không ngừng, tạo nên những bước nhảy vọt, đặc biệt là thông tin và công nghệ học làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và biến đổi sâu sắc các lĩnh vực đời sống xã hội. Toàn cầu hoá kinh tế một lần nữa được khẳng định là xu thế khách quan, là quá trình hợp tác gắn liền với đấu tranh phức tạp, đặc biệt là các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) để bảo vệ lợi ích của mình, chống lại áp bức phi lý của các cường quốc kinh tế. 4. Những thuận lợi của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Đối mặt với những khó khăn cần giải quyết, không cách nào khác là phải dựa vào ưu thế vững chắc mà nước ta có được trong tiến trình hội nhập quốc tế. Đó là: 4.1. Nền kinh tế Việt Nam có mức tăng trưởng khá ổn định. Trong 10 năm trở lại đây, tốc độ tăng GDP mỗi năm ổn định ở mức từ 0% - 7%. Kinh tế nước ta vẫn đứng vững trước các cuộc khủng hoảng khu vực, trên thế giới. Nhưng cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á năm 1997, trong khi các nước khác, như Inđônêxia, cho đến năm 2000 vẫn còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ, tốc độ tăng GDP các năm bị giảm mạnh một cách đáng lo ngại thì Việt Nam vẫn giữ mức ổn định. Một trong những nguyên nhân là do nền kinh tế Việt Nam phát triển vững chắc, dựa vào nội lực là chính. Từ sự cố gắng nỗ lực của cả nước cùng với những chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước, kết quả đáng kích lệ này quả là có ý nghĩa không nhỏ nếu chúng ta nhìn ra thế giới: nước Nhật đã qua lâu rồi "giai đoạn thần kỳ" và đang rơi vào tình trạng khủng hoảng, đồng yên Nhật liên tục mất giá; cường quốc kinh tế Mỹ đang phải đối mặt với sự phát triển kinh tế trì trệ; Achentina rơi vào khủng hoảng, vỡ nợ dường như không cứu vãn nổi... vấn đề đặt ra cho Việt Nam chúng ta là làm thế nào để tiếp tục giữ được mức tăng trưởng ổn định, bền vững tạo tiền đề cho hội nhậ kinh tế quốc tế. 4.2. Việt Nam có môi trường chính trị ổn định, quốc phòng an ninh đảm bảo, môi trường đầutư kinh tế an toàn. Kiên trì đi theo con đường Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn, Việt Nam có một và chỉ một Đảng Cộng Sản lãnh đạo quần chúng nhân dân, kiên quyết đưa đất nước tiến lên theo con đường chủ nghĩa xã hội. Sự lựa chọn đó đã đưa lại cho đất nước những tiền đề phát triển hết sức quý báu: đó là một môi trường chính trị ổn định, quốc phòng an ninh đảm bảo an toàn. Không phải ngẫu nhiên mà Việt Nam được coi là một trong những quốc gia có đời sống chính trị, xã hội ổn định nhất khu vực. Tất nhiên chẳng phải dễ dàng để có được kết quả đó. Những sự kiện ở Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long đầu năm 2001nhắc nhở chúng ta về một bài học. Không bao giờ được lơ là mất cảnh giác và những bài học đó càng quý giá khi chúng ta nhìn thấy một New York tang thương, một Afghanistan tuyệt vọng về bom đạn và đối rét. Giá trị đó cũng góp phần nâng vị thế Việt Nam từ vị trí thứ 8 vươn lên vị trí số 1, giành danh hiệu địa điểm đầu tư an toàn nhất khu vực Châu á - Thái Bình Dương. Đây là cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam mà không phải là quốc gia nào cũng có được. Dĩ nhiên an toàn nhất chưa phải là tất cả, đặc biệt là trong tình hình hiện nay khi Trung Quốc gia nhập WTO và đang ra sức đưa các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy, vấn đề mà chúng ta cần thiết phải suy nghĩ: làm thế nào để biến ưu thế đó thực sự có ý nghĩa thực tế trong tiến trình hội nhật kinh tế quốc tế? 4.3. Nhân dân ta có truyền thống cần cù, thông minh, dân tộc ta có truyền thống đoàn kết yêu nước. Những truyền thống tốt đẹp đó đã được thử thách và chứng minh trong lịch sử hào hùng của dân tộc. Không có lý do gì để không thể tiếp tục phát huy "nội lực mạnh mẽ" đó trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt trong tiến trùnh gia nhập kinh tế quốc tế, khi mà phải đối mặt với những thế lực bên ngoài. Trung Quốc gia nhập WTO qua 15 năm đàm phán với tầm thế của một con người cần mẫn với sự âm thầm mà mạnh mẽ không ngừng. Việt Nam cũng đang tiến dẫn những bước đi vững chắc. Dân tộc Việt Nam với sự cần cù, chịu thương chịu khó chắc chắn sẽ thu được kết quả xứng đáng. Thế hệ trẻ Việt Nam vẫn không chịu bỏ qua bất kỳ một thử thách nào cùng bạn bè thế giới. Chính vì vậy, chúng ta có cơ sở để tin rằng Việt Nam sẽ hội nhập kinh tế quốc tế bằng chính nỗ lực của bản thân mình. Để đạt được điều đó, không chỉ riêng, Đảng, Nhà nước mà bản thân mỗi công dân Việt Nam phải tự phấn đấu và rèn luyện. Chương III: Một số quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả chủ động hội nhập kinh tế 1. Xác định quan điểm chủ động quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là cả một quá trình lâu dài, phức tạp. Để quá trình này mang lại hiệu quả cho sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta, cần thiết phải xác định quan điểm đúng đắn làm kim chỉ nam, từ đó làm cơ sở đề ra chính sách, quyết định những bước tiến phù hợp. Quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế trước hết phải dựa trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, tiềm lực và hoàn cảnh của nước ta cũng như bối cảnh quốc tế đầy biến động. Một là, phát huy tôi đa hoá nội lực. Lấy Thái Lan làm ví dụ. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 có điểm xuất phát từ Thái Lan sau đó mới lan rộng ra các nước. Tại sao kinh tế Thái Lan lại rơi vào khủng hoảng? Nguyên nhân chủ yếu là do Thái Lan đã sử dụng vốn của đầu tư nước ngoài quá rộng rãi. Kinh tế Thái Lan trước đó phát triển một cách vượt bậc, nhưng khi đầu tư nước ngoài rút đi, ngay lập tức nền kinh tế hụt hẫng và khủng hoảng. Chính vì vậy phát huy tối đa hoá nội lực không chỉ là quan điểm trong tiến trình chủ động hội nhập quốc tế mà là định hướng chung cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội. Có như vậy nền kinh tế mới phát triển một cách lành mạnh, vững chắc. Tất nhiên ngoại lực cũng là một yếu tố cần thiết, đặc biệt với tình hình nước ta hiện nay vẫn rất cần có những "đòn bẩy" từ bên ngoài. Đại hội Đảng IX cũng đã xác định: "Nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, gắn kết với nhau thành nguồn lực tổng hợp đẻ phát triển đất nước". Từ quan điểm này, Nhà nước cần tập trung tháo gỡ mọi vướng mắc, xoá bỏ mọi trở lực để khơi dậy nguồn lực to lớn trong nhân dân, cổ vũ các nhà kinh doanh, và mọi người dân ra sức làm giàu cho chính mình và cho đất nước. Hai là, hội nhập dựa trên nguyên tắc giữa vững độc lập tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa. Độc lập tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả tạo điều kiện cần thiết để xây dựng kinh tế độc lập tự chủ. Mỗi liên hệ hai chiều đã được Nghị quyết Đại hội Đảng IX khẳng định: "Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế". Độc lập, tự chủ trước lết là độc lập tự chủ về đường lối phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo nền kinh tế đủ sức đứng vững và ứng phó được với các tình huống phức tạp. Trong tiến trình hội nhập đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại nhưng cũng luôn phải đề cao, cảnh giác trước mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch. Đồng thời luôn chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, không ngừng tăng năng lực cạnh tranh và giảm dần hàng rào bảo hộ. Quan điểm này có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng, khi mà tốc độ phát triển của thế giới biến chuyển không ngừng. Việc nắm chắc quan điểm và đi sát với quan điểm lại càng khó khăn. Ba là, phát huy mọi nguồn lực trong chủ động hội nhập mà trung tâm là nguồn nhân lực. Thực tra quan điểm này gắn liền với quan điểm đầu tiên. Phát huy mọi nguồn lực trong nước: nguồn tài nguyên, nguồn vốn, nguồn nhân lực nhưng nó lại được tách riêng ra với mục đích khẳng định vị trí trung tâm của con người trong quá trình hội nhập quốc tế. Nước ta có nguồn lao động dồi dào, giá lao động rẻ, cùng với tinh thần cần cù thông minh là điểm thu hút đầu tư, cũng là thế mạnh để đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Tầng lớp trí thức năng động, biết d khoa học vào đời sống một cách hợp lý, đón nhận công nghệ kỹ thuật tiên tiến nhanh nhạy, chỉ có điều cơ hội tiếp cận còn quá ít. Chính vì vậy, chúng ta phải đầu tư lớn vào đào tạo và đào tạo, bao gồm cả dạy nghề hướng nghiệp, và đào tạo lại. Bốn là, chủ động hội nhập với mọi hình thức, bước đi phù hợp, không chủ quan nóng vội. Tham gia WTO, ký kết các hiệp định thương mại với các quốc gia, thực hiện cam kết AFTA, tham gia APEC,... là các hình thức hội nhập quốc tế mà Việt Nam đã tham gia và tiếp tục đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại một cách mạnh mẽ. Điều đó không có nghĩa là tạo lập các quan hệ một cách nóng vội, chủ quan duy ý chí. Quan điểm này phải được gắn liền với các quan điểm đã nêu ở trên. Như vậy có nghĩa là hội nhập kinh tế quốc tế cần có sự kết hợp tổng hợp mọi phương châm đường lối. Chúng ta có những bài học quí báo trong lịch sử về chủ quan, nóng vội. Dĩ nhiên điều đó không đồng nghĩa với việc chúng ta rụt rè trước mọi cơ hội, đặc biệt là trong tốc độ phát triển mạnh mẽ như ngày nay và sẽ càng nhanh hơn trong thời gian tới. Năm là, kiên quyết giữ vẵng phương châm bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ lợi ích chính đáng của đất nước. Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế đã dỡ bỏ dần khoảng cách giá các quốc gia bằng các cam kết, qui ước các nước gần nhau hơn và ngày càng bình đẳng trên phạm vi toàn cầu. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có lợi cho cả hai bên và hai nước hoàn toàn bình đẳng trong vấn đề cam kết, thực hiện nội dung của Hiệp định tại sao Mỹ lại đưa ra "Đạo luật nhân quyền tại Việt Nam". Nước ta đã kiên quyết phản đối, bảo vệ sự trong sạch của Đảng và Chính phủ. Trong lộ trình hội nhập sắp tới, Việt Nam tiếp tục tạo lập mối quan hệ bình đẳng và cùng có lợi và sẵn sàng đấu tranh lại mọi âm mưu nhằm phá hoại hoà bình đất nước. 2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế trong tình hình hiện nay. 2.1. Nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam có giành được ưu thế hay không phụ thuộc chủ yếu vào khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhà nước, của hàng hoá, của các lĩnh vực, các ngành thuộc kinh tế quốc dân. 2.1.1. Đối với doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) để nâng cao sức cạnh tranh cần thực hiện một số giải pháp chủ yếu. Một là, sắp xếp cơ cấu tổ chức lại doanh nghiệp Nhà nước để có chính sách, giải pháp cụ thể cho mỗi loại hình doanh nghiệp. Có hai loại doanh nghiệp công ích và doanh nghiệp kinh doanh. Doanh nghiệp kinh doanh còn phân thành ba loại khác nhau. Các loại hình doanh nghiệp có mục đích tôn chỉ hoạt động khác nhau cho nên cần xây dựng kế hoạch giải pháp cụ thể cho từng loại hình. Hai là, đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN. Hiện nay tiến độ thực hiện cổ phần hoá còn chậm so với yêu cầu. Việc nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến sự chậm chế này là hết sức cần thiết. Từ đó phải thực hiện đồng loạt các công tác như sau: tăng cường tuyên truyền, giáo dục, sửa đổi bổ sung kịp thời nghị định số 44/1998 NĐ/CP nhằm loại bỏ hạn mức tham gia cảu các cá nhân, rút ngắn thời gian thực hiện các dự án cổ phần hoá của các doanh nghiệp.... Ba là, củng cố nâng chất các Tổng Công ty Nhà nước, xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh. Cho đến nay, nước ta đã có hơn 90 Tổng Công ty 90 và 91, là "xương sống" của nền kinh tế song nhiều Tổng Công ty hoạt động kém hiệu quả. Vì vậy phải hoàn thiện cơ chế hoạt động, sử dụng cán bộ có năng lực, trình độ. Thực hiện "chế độ tham dự"... phát triển Tổng Công ty theo mô hình tập đoàn kinh tế... để nâng cao sức mạnh các Tổng Công ty, cạnh tranh có hiệu quả với các đối tác nước ngoài. Bốn là, triệt để xoá bỏ cơ chế đầu tư. Xin cho rằng con đường cấp phát, Nhà nước đầu tư cho các doanh nghiệp được thực hiện thông qua các công ty đầu tư tài chính của mình. Năm là, thực hiện đúng chức năng quản lý của Nhà nước, không can thiệp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, bảo đảm cho doanh nghiệp có đẩy đủ các quyền trong kinh doanh theo các quy định của pháp luật. Cần hoàn thiện hệ thống kiểm toán độc lập, thanh tra Nhà nước, đồng thời các DNNN thực hiện chế độ quản lý Công ty, kiểm soát nội bộ cổ đông. Sáu là, cùng với quá trình sắp xếp tổ chức lại, mỗi DNNN cần có sự nỗ lực vươn lên, nâng cao ý thức tự chủ, đổi mới trang thiết bị, hiện đại hoá doanh nghiệp, khả năng dự báo, xây dựng chiến lược sản phẩm tiếp cận thị trường. 2.2.2. Xây dựng kế hoạch hội nhập tới từng cấp, ngành, chủ thể kinh tế. Hội nhapạ kinh tế quốc tế tác động tới mọi lĩnh vực trong xã hội, và ngược lại, hoạt động của các lĩnh vực có ảnh hưởng tới hiệu quả hội nhập quốc tế. Vì vậy mọi ngành, cấp cần quan tâm sâu sắc, thiết lập kế hoạch sẵn sàng gia nhập kinh tế toàn cầu như ngành thuế, ngành tài chính, thương mại. Lấy thương mại làm ví dụ. Để nâng cao khả năng cạnh tranh cần thực hiện đồng thời các giải pháp: nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá, thực hiện chuyển biến mạnh trong thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu, xây dựng hệ thống chính sách thương mại thích ứng cơ chế hoạt động thương mại quốc tế. Đồng thời các cấp ngành cần có sự phối hợp chặt chẽ tạo sự đồng bộ tách chồng chéo bằng sức mạnh hội nhập quốc tế. 2.3. Tạo môi trường đầu tư ổn định, hiệu quả để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay trong việc thu hút Đầu tư nước ngoài của nước ta vẫn còn nhiều hạn chế. Tình trạng thanh tra, kiểm tra hoạt động doanh nghiệp còn tuỳ tiện, chồng chéo, ít sức thuyết phục. Vì vậy Việt Nam cần cải thiện môi trường đầu tư, nhất là các thủ tục hành chính, tạo dựng lòng tin đối với các nhà đầu tư, nghiên cứu tham khảo kinh nghiệm thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư của các nước như Trung Quốc. 2.4. Tập trung phát triển nhân lực. Một là, nâng cao chất lượng cán bộ hoạt động trong dự báo, tiếp thị, nắm bắt thông tin một cách chính xác, có bản lĩnh chính trị vững vàng để có thể đưa ra những quyết định đúng đắn, nhanh chóng trong thị trường nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh. Hai là đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đối với từng ngành, lĩnh vực; nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng đối với cán bộ có chính sách khuyến khích nâng cao trách nhiệm của họ; đồng thời nghiêm minh với những biểu hiện tiêu cực ỷ lại. Ba là tiếp tục đào tạo công nhân lành nghề. Đầu tư nhiều hơn cho các trường dạy nghề nhằm nâng cao uy tín, tạo lòng tin đối với người lao động và các cán bộ quản lý cần tuyển lao động. Tiêps tục xuất khẩu lao động ra nước ngoài. Phải có một hệ thống quản lý và bảo vệ quyền lợi của người dân Việt Nam lao động ở nước ngoài và người lao động Việt Nam làm việc cho người nước ngoài một cách đầy đủ, sâu sắc. 2.5. Tiếp tục điều chỉnh chính sách thương mại. Trong quá trình hội nhập chính sách thương mại của Việt Nam đã từng bước có những cải cách theo hướng tự do hoá hơn phù hợp với những thông lệ quốc tế, góp phần thúc đẩy thương mại phát triển. Một là, Điều chỉnh chính sách mặt hàng và thị trường xuất nhập khẩu. Về sản phẩm xuất khẩu cần đa dạng hoá hàng xuất khẩu, tăng dần trình độ chế biến, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm vào các sản phẩm không truyền thống. Về chính sách nhập khẩu cần trang bị máy móc thiết bị công nghệ sản xuất hiện đại, nhập khẩu phải bảo hộ hợp lý sản xuất nội địa nhập khẩu phục vụ cho xuất khẩu. Hai là, cải cách chính sách thuế và thuế quan. Ba là hoàn thiện các quy chế thương mại phi thuế quan, theo hướng: Sắp xếp lại danh mục hàng hoá quản lý bằng hạn ngạch và giấy phép. Thực hiện quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp theo luật quy định. Ban hành các quy chế hành chính kỹ thuật kiểm soát nhập khẩu. Bốn là chính sách tiền tệ Để tạo điều kiện tự do hoá và hội nhập cần thực hiện thị trường tài chính mở chế độ hai giá đối với hàng hoá dịch vụ mang lại tính phân biệt đối xử đối với các loại hình doanh nghiệp cần được xoá bỏ, quản lý ngoại tệ khuyến khích xuất khẩu và áp dụng cơ chế tỷ giá linh hoạt tạo điều kiện thúc đẩy tự do hoá thương mại. Kết luận Nghị quyết Đại hội Đảng IX một lần nữa khẳng định "Toàn cầy hoá kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước bao trùm hầu hết tất cả các lĩnh vực; vừa thúc đẩy vừa hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc lẫn nhay giữa các nền kinh tế. Quan hệ song phương, đa phương giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng cả trong kinh tế, văn hoá và bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai và các đại dịch...". Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình vừa hợp tác để phát triển, vừa đấu tranh rất phức tạp; đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam để bảo vệ lợi ích của mình vì một trật tự kinh tế quốc tế công bằng, chống lại những áp đặt phi lý của các cường quốc kinh tế, các Công ty xuyên quốc gia. Chính vì vậy việc nghiên cứu tìm hiểu sâu vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế không phải chỉ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước mà các cấp cấp, ngành, nhà quản lý và tầng lớp trí thức trẻ hôm nay. Tuỳ trình độ, khả năng và khía cạnh quan tâm mà mỗi chủ thết, tổ chức cá nhân có phương pháp tìm hiểu đánh giá riêng về vấn đề này. Đặc biệt với sinh viên kinh tế cần có kiến thức cập nhật, đầy đủ lý luận và bao quát về toàn cầu hoá và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Từ đó xác định nhiệm vụ, trách nhiệm của bản thân để phấn đấu học tập và rèn luyện. Hà Nội, ngày .... tháng.... năm 2002 Sinh viên Danh mục tham khảo 1. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII, VIII, IX 2. Tạp chí Tài chính số 1 + 2 năm 2002 3. Toàn cầu hoá và vấn đề hội nhập quốc tế của nước ta - TS Võ Đại Lược "Những vấn đề kinh tế thế giới số 1 năm 2000". 4. Hai mặt của toàn cầu hoá - Đỗ Sáng lược thuật 5. Thương mại Việt Nam trong lộ trình AFTA - Nguyễn Thị Như Hà "Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương" - số 3/2001. 6. Tiếo tục điều chỉnh sáng thương mại trong quá trình hội nhập và tự do hoá thương mại - GS. Bùi Xuân Lưu. 7. Đổi mới do doanh nghiệp Nhà nước - Nâng cao khả năng hội nhập thị trường quốc tế của Việt Nam - Trần Văn Hiển. 8. Tạp chí Thế giới Thương mại số 11 năm 2001. 9. Báo Sinh viên Việt Nam số 39 năm 2001. 10. Mười năm quan hệ Thương mại Việt Nam - EU - Tạp chí những vấn đề kinh tế Thế giới số 2 năm 2000.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0130.doc
Tài liệu liên quan