Đề tài Vấn đề khu vực hoá-Mối quan hệ hợp tác Á - Âu (Asem) và Việt Nam trong tiến trình Asem

Khu vực hoá cùng với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là một trong những xu thế chủ yếu nhất chi phối sự vận động và phát triển của thế giới ngày nay. Mọi quốc gia trên thế giới ngày càng ý thức sâu sắc được rằng khu vực hoá và hội nhập kinh tế ảnh hưởng sâu rộng tới mọi mặt đời sống kinh tế - chính trị - xã hội của toàn bộ cộng đồng quốc tế nói chung và tới từng quốc gia nói riêng. Chính vì vậy hầu hết các quốc gia trên thế giới cũng không nằm ngoài quy luật và ít nhất là thành viên của một tổ chức khu vực nhất định. Đối với các nước Đông á và Tây Âu điều này cũng không ngoại lệ. Đáng nói hơn, các quốc gia này lại cùng là thành viên của Hội nghị Cấp cao Á-Âu (ASEM). Tham gia vào tiến trình ASEM, các quốc gia này không chỉ có cơ hội chia xẻ những hiểu biết về văn hoá-xã hội của đất nước mình với các nước thành viên khác mà còn giúp thúc đẩy phát triển kinh tế của các quốc gia thành viên. Tiến trình ASEM mới đi vào hoạt động chưa đầy một thập kỷ, chính vì vậy ngoài những cơ hội và tiềm năng to lớn mà ASEM đem lại cho mỗi quốc gia, tiến trình này vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.

doc101 trang | Chia sẻ: baoanh98 | Lượt xem: 680 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề khu vực hoá-Mối quan hệ hợp tác Á - Âu (Asem) và Việt Nam trong tiến trình Asem, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o quan hệ quốc tế, nắm bắt tốt hơn các xu hướng quốc tế cũng như sự điều chỉnh chính sách kinh tế thương mại của các nước khác, từ đó định hướng điều chỉnh vừa phù hợp với tiến trình chung, vừa khai triệt để những cơ hội lợi nhất cho mình. Nếu không thực sự được hoà mình vào quan hệ quốc tế, chẳng hạn như Việt Nam không phải là thành viên WTO, ta sẽ mất đi cơ hội tham gia những cuộc thương thuyết phân chia quyền lợi và thị trường, không có thông tin, điều này cũng có nghĩa là ta sẽ mất đi chủ quyền đấu tranh, thương thuyết, phát biểu nếu các vấn đề xảy ra hoặc các thoả thuận đó gây phương hại đến lợi ích của quốc gia mình. 3.1.2. Khắc phục tình trạng phân biệt đối xử, tạo dựng được thế và lực trong thương mại quốc tế. Việc tham gia các thể chế hợp tác kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội tốt để ta tham gia vào việc xây dựng những "luật chơi" chung, ngăn ngừa tình trạng bị phân biệt đối xử, bị chèn ép trong thương mại quốc tế, góp tiếng nói chung đấu tranh bảo vệ lợi ích của các nước đang phát triển. Đặc biệt, tiến trình này sẽ tạo cơ hội cho các nước nhỏ, nước chậm phát triển có cơ hội đối thoại chính sách với các nước phát triển hơn, hoặc phối hợp quan điểm với các nước khác trên các diễn đàn quốc tế nhằm giải toả các rào cản thương mại, đấu tranh đòi đối xử công bằng trong thương mại. 3.1.3. Được hưởng những ưu đãi thương mại, mở đường cho thương mại phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế là điều kiện cần để chúng ta tranh thủ những ưu đãi về thương mại, đầu tư và các lĩnh vực khác được áp dụng trong nội bộ mỗi tổ chức, góp phần mở rộng thị trường cho hàng hoá Việt Nam, tạo điều kiện thu hút đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam. Đặc biệt, trong WTO, cũng như đại đa số các tổ chức khu vực khác đều có các chính sách ưu đãi đối với các nước đang phát triển và các nước trong thời kỳ chuyển đổi, cho phép các nước này được hưởng các miễn trừ, ân hạn trong việc thực hiện các nghĩa vụ giảm thuế, phi thuế và các nghĩa vụ khác. Việc mở cửa hội nhập sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hàng xuất khẩu của Việt Nam thâm nhập vào thị trường khu vực và thế giới. 3.1.4. Tạo điều kiện cơ cấu lại sản xuất theo hướng có hiệu quả hơn; tăng cường khả năng thu hút đầu tư nước ngoài và chuyển giao kỹ nghệ, công nghệ từ các nước. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam có cơ hội tiếp thu công nghệ, kinh nghiệm quản lý, kỹ thuật tiên tiến và cọ sát trong cạnh tranh, một số ngành và doanh nghiệp của ta có thể nâng cao được sức cạnh tranh, một số ngành và mở rộng thị trường xuất khẩu. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với những nền kinh tế đang trong quá trình công nghiệp hoá như Việt Nam. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho các ngành sản xuất có cơ hội chọn lựa nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào phù hợp, mở rộng hợp tác khoa học, kỹ thuật, thúc đẩy chuyển giao công nghệ và vốn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 3.1.5. Góp phần nâng cao năng lực quản lý và sản xuất. Thông qua Hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam có thể tận dụng được cơ hội tham gia vào các chương trình hợp tác kinh tế kỹ thuật do các nước thành viên của một tổ chức khu vực tổ chức. Nhờ đó, Việt Nam có khả năng nâng cao được trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý, xây dựng một đội ngũ các nhà doanh nghiệp năng động, có kỹ năng quản lý sản xuất, kinh doanh giỏi, biết tổ chức tốt thị trờng và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, góp phần chiến thắng trong cạnh tranh. Trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm quốc tế, Việt Nam có những bước đi đúng đắn từng bước điều chỉnh hệ thống luật lệ, chính sách thương mại phù hợp với tập quán quốc tế và các quy tắc chuẩn mực của WTO, bảo đảm hình thành đồng bộ các yếu tố của thị trường, bình đẳng khuyến khích tự do kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh nhưng vẫn giữ vững vai trò quản lý của Nhà nước, bảo đảm phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, bảo vệ lợi ích quốc gia. 3. 2. Những thách thức của Hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh rất nhiều những cơ hội và thuận lợi ở trên, tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cũng gặp không ít thách thức khó khăn do quá trình này mang lại. Khó khăn lớn nhất của Việt Nam khi bước vào hội nhập là nền kinh tế đang ở trình độ phát triển thấp, chênh lệch lớn không chỉ so với các nước công nghiệp mà ngay cả với các nước có trình độ phát triển chưa cao trong khu vực. 3.2.1. Tính cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu. Việc giảm thuế quan và các biện pháp phi thuế, thông thoáng chính sách quản lý đối với các lĩnh vực đầu tư, dịch vụ sẽ làm phát sinh sức ép lớn, đòi hỏi nền kinh tế và các doanh nghiệp phải có đầy đủ năng lực cạnh tranh mới có thể trụ vững và khai thác được lợi thế của hội nhập. Việt Nam mặc dù có nhiều lợi thế về nguồn lao động và một số tài nguyên nông, lâm, khoáng sản dồi dào, Việt Nam vẫn gặp phải những yếu kém về công nghệ, trình độ quản lý, cơ sở hạ tầng, độ ổn định về chính sách và hệ thống tài chính ngân hàng lạc hậu. Xét về mặt tổng thể, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam còn tương đối thấp. Theo danh sách xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế thế giới về năng lực cạnh tranh của các nền kinh tế thế giới, năm 1997, Việt Nam xếp thứ 49/53, năm 1998 xếp thứ 39/53 và năm 1999 xếp thứ 48/53. Sở dĩ năm 1998 vị trí của chúng ta nhích lên cao vì các nước châu á đang trải qua khủng hoảng nghiêm trọng, kinh tế của họ bị đánh tụt trong bảng xếp hạng. Như vậy, có thể thấy để hội nhập có hiệu quả và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, chúng ta cần giải quyết một loạt các vấn đề liên quan đến cơ sở hạ tầng, cơ chế chính sách, năng lực quản lý, hệ thống tài chính ngân hàng. Xét về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, theo đánh giá của dư luận và các công trình nghiên cứu gần đây thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam đã xuất hiện trong nhiều ngành sản xuất, nhưng nhìn chung còn tương đối thấp, thể hiện ở các điểm sau: Năng suất lao động chưa cao. Chất lượng và tính độc đáo của sản phẩm còn thấp. Trình độ công nghệ và khả năng tiếp cận với công nghệ mới còn hạn chế. Chi phí đầu vào còn cao và chưa hợp lý, dẫn đến nhiều trường hợp giá cả hàng hoá cha cạnh tranh được với hàng nhập khẩu. Thị trường đầu ra cho sản phẩm chưa ổn định và bền vững. Thực trạng về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hiện nay đang đòi hỏi Nhà nước có chính sách bảo hộ hợp lý trong quá trình hội nhập và mở cửa thị trường. Tuy nhiên, đối chiếu với các cơ chế của các tổ chức khu vực và quốc tế mà chúng ta là thành viên không cho phép chúng ta bảo hộ vô thời hạn, bảo hộ tràn lan tất cả các ngành kinh tế. 3.2.2. Các cơ chế của một nền kinh tế thị trường đang trong giai đoạn hình thành, hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh. Trong bối cảnh nền kinh tế nước Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi, yêu cầu về một hệ thống luật pháp hoàn chỉnh thực sự là một thách thức lớn đối với nước ta. Hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay không chỉ liên quan đến việc giảm thuế và các hàng rào phi thuế mà còn liên quan đến việc cải cách hệ thống luật pháp và các chính sách đến thương mại nhằm ngày càng tạo thuận lợi hơn cho xuất nhập khẩu, đầu tư... Tuy nhiên, cho tới nay, hệ thống chính sách thương mại và các chính sách vĩ mô có liên quan khác của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập và không đồng bộ, nhiều biện pháp chính sách tạo lợi thế cho kinh tế thương mại mà các tổ chức quốc tế thừa nhận, thì Việt Nam lại chưa có (thí dụ, chế độ hạn ngạch thuế quan, biện pháp cân bằng thanh toán, quyền tự vệ, quy chế xuất xứ, chống bán phá giá, chính sách cạnh tranh...). Trong khi đó, ta lại áp dụng một số biện pháp chính sách không có trong thông lệ kinh doanh quốc tế hoặc không phù hợp với nguyên tắc của các tổ chức quốc tế. II. Việt Nam trong tiến trình ASEM Hoàn cảnh tham gia và vị thế của Việt Nam trong tiến trình ASEM Nhằm xây dựng một thể chế liên kết kinh tế liên lục địa á-Âu ngày 1-2 tháng 3 năm 1996, Hội nghị cấp cao về Hợp tác á-Âu (ASEM) lần thứ nhất diễn ra tại Bangkok-Thái Lan với sự tham gia của 15 nước thuộc Liên minh châu Âu (EU) cùng 10 nuớc châu á, trong đó có Việt Nam và 6 nước thành viên ASEAN khác. Sự ra đời của ASEM phản ánh chiều hướng mới trong quan hệ quốc tế khi quá trình toàn cầu hoá đang được thúc đẩy mạnh mẽ, đồng thời mở ra một thời kỳ hợp tác phát triển mới giữa hai lục địa lơn của thế giới. Là một trong 25 thành viên sáng lập của ASEM từ năm 1996, Việt Nam nhận thức rõ được rất rõ tầm quan trọng của Tổ chức này trong việc thúc đẩy kinh tế liên lục địa. Cùng với việc gia nhập ASEAN và APEC, ASEM cũng chính là một bước tiến quan trọng trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Nó đóng vai trò không nhỏ trong việc đưa Việt Nam tiếp cận với những đối tác kinh tế, thương mại quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. Kể từ sau ASEM 3, Việt Nam trở thành Chủ tịch ASEAN đồng thời là Điều phối viên Châu á kể từ năm 2000 cùng với Trung Quốc trong ASEM có vai trò điều hành và bảo vệ lập trường đa dạng của các nước Châu á trong Hội nghị ASEM. Với tư cách là Điều phối viên châu á, Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc: Góp phần thúc đẩy hợp tác đi theo hướng triển khai đồng đều, thiết thực, có hiệu quả, đi vào thực chất trên cả ba lĩnh vực hợp tác, phản ánh được yêu cầu và quan tâm của tất cả các thành viên. Tích cực xúc tiến việc chuẩn bị cho Hội nghị cấp cao ASEM 5. Bên cạnh trao đổi chính thức tại các phiên họp, Việt Nam đã tiến hành nhiều cuộc họp riêng với các đoàn, đặc biệt là các điều phối viên để tăng cường phối hợp chuẩn bị cho Hội nghị cấp cao. Để tiếp tục góp phần thúc đẩy một cách thiết thực hợp tác ASEM, Việt Nam tích cực ủng hộ việc thông qua và đồng ý với đề nghị của Trung Quốc về đồng sáng kiến, tổ chức Hội thảo ASEM về xử lý dịch bệnh bùng phát trong cộng đồng. Đầu năm tới, năm 2004 Việt Nam sẽ là nước chủ nhà của Hội nghị thượng đỉnh ASEM 5 tại Hà Nội. Chủ đề tại Hội nghị thượng đỉnh lần này sẽ là những tranh luận xung quanh vấn đề về chính sách kinh tế và toàn cầu hoá. Việt Nam cùng với các nước thành viên khác luôn tìm kiếm những cơ hội và giải pháp nhằm khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá. Ngoài ra trong Hội nghị thượng đỉnh lần này, dự kiến các vấn đề về phát triển nguồn nhân lực, xoá đói giảm nghèo, tăng cơ hội việc làm, vấn đề an ninh quốc tế và chống nạn khủng bố, môi trường cũng như việc thu hẹp khoảng cách kỹ thuật số cũng sẽ được thảo luận. 2. Những hoạt động chủ yếu của Việt Nam trong ASEM Là một trong những nước sáng lập ASEM, Việt Nam tham gia đẩy đủ vào 3 chương trình mang tính thử nghiệm của ASEM là IPAP, TFAP và Hợp tác các doanh nghiệp á-Âu. - Về hợp tác kinh tế : Việt Nam nhấn mạnh các hoạt động của ASEM trong thời gian tới cần dành ưu tiên cao cho hợp tác kinh tế, giải quyết tác động của toàn cầu hoá, trong đó ưu tiên thu hẹp khoảng cách về phát triển, chênh lệch về kỹ thuật số, phát triển nguồn nhân lực, xoá đói giảm nghèo - Trong lĩnh vực tài chính : Việt Nam tranh thủ được Quỹ tín thác ASEM tài trợ kỹ thuật cho 7 dự án trị giá hơn 5 triệu USD về “Cải cách và phát triển hệ thống ngân hàng”, “Chương trình phát triển mạng lưói bảo đảm xã hội tạo công ăn việc làm”, “Thúc đẩy cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước trong khu vực giao thông vận tải”, “Cải cách các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam”, “Cơ cấu lại khu vực ngân hàng”, “Thành lập cơ quan xử lý nợ tồn đọng và tư vấn pháp lý hỗ trợ cải cách ngân hàng ” và “Trợ giúp đánh giá tình hình hoạt động và khả năng tài chính của 10 Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam” - Về thương mại và đầu tư : Việt Nam cử các đoàn tham dự Hội nghị Bộ trưởng, Thứ trưởng, các cuộc họp quan chức cao cấp về thương mại và đầu tư, các Diễn đàn và Hội nghị doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ Nét nổi bật nhất là tại Hội nghị Cấp cao ASEM 3, Việt Nam đã tuyên bố đồng ý đảm nhận vai trò điều phối viên châu á trong ASEM từ sau ASEM 3 đến Hội nghị Cấp cao ASEM 4 tại Đan Mạch mùa thu năm 2002 và nhận đăng cai Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEM lần thứ 3 tại Hà Nội 10-11/9/2001 Tại ASEM 2-London năm 1998, Việt Nam cũng đã đưa ra sáng kiến hợp tác á-Âu trong việc kết hợp y-dược cổ truyền để chăm sóc sức khoẻ cộng đồng và cùng với sáng kiến của phát về Bảo vệ và phát huy di sản văn hoá trong các nước ASEAN. Hai sáng kiến này đã được Hội nghị nhất trí hoan nghênh và ghi nhận vào tuyên bố của chủ tịch. Cụ thể, Việt Nam đã tổ chức thành công cuộc họp của các chuyên gia ASEM trong lĩnh vực di sản văn hoá vào tháng 1/1999 và Hội thảo về kết hợp y dược cổ truyển nhằm chăm sóc sức khoẻ cộng đồng vào tháng 3/1999 cùng với Hội thảo về kết hợp y-dược cổ truyền để chữa một số bệnh nan y vào tháng 12/2000. Tại ASEM 3, Việt Nam đề xuất việc tăng cường các cơ hội kinh doanh trong ASEM nhằm tập trung hơn nữa vào việc tăng cường hợp tác kinh tế giữa hai khu vực. Đây là sự đóng góp mang tính thực tế trong việc đa dạng hoá các mối quan hệ ASEM. Bên cạnh đó, tại Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 3 (EMM3), Việt Nam đề ra những giải pháp nhừm dỡ bỏ những rào cản thương mại như việc đề ra các tiêu chuẩn chất lượng chung và giúp cho việc đi lại cũng như phân phối sản phẩm trở nên dễ dàng hơn. Việt Nam cũng đóng góp vào Quỹ á-Âu trong các thời kỳ 1997-2001 và 2002-2006 và cùng với Quỹ này cũng như Trụ sở Quan hệ quốc tế của Đan Mạch tổ chức hội thảo về phát triển an ninh chính trị trong khuôn khổ hợp tác á-Âu tại Hà Nội tháng 12/2001. Việt Nam cũng có những đóng góp không nhỏ cho sự thành công của ASEM 4 trong việc thúc đẩy và tăng cường quan hệ hợp tác á-Âu vì hoầ bình và phát triển bền vững của hai châu lục. Bằng việc tham gia một cách tích cực vào ASEM 4 Việt Nam có cơ hội tăng sự hiểu biết về các thành viên ASEM từ đó có thêm được các mối quan hệ hợp tác trong các lĩnh vực đầu tư, thương mại, khoa học và công nghệ từ các nước phát triển và các nước NICs. Ngoài ra, Việt Nam cũng xây dựng phương án tham dự Hội nghị các quan chức cao cấp lần thứ 7, Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế lần 3 và tổ chức đoàn doanh nghiệp tham dự diễn đàn á-Âu lần thứ 6. 3. Những cơ hội và thách thức của Việt Nam trong tiến trình ASEM Những cơ hội Trong quá trình tham gia ASEM những năm vừa qua, Việt Nam cũng đã đạt được những thành tựu nhất định tạo ra những cơ hội mang tính triển vọng. Chẳng hạn như Việt Nam đã tranh thủ được Quỹ tín thác á-Âu triển khai 5 dự án tại Việt Nam; tham gia tất cả các Hội nghị quan trọng của ASEM, đóng góp nhiều ý kiến xây dựng vào các văn kiện của ASEM, cử người tham gia Hội đồng Thống đốc Quỹ á-Âu (ASEF) cũng như tham gia tích cực các hoạt động khác của Tổ chức này Thông qua những hoạt động tích cực này, nhìn chung Việt Nam trong ASEM đã và đang đạt được những cơ hội mới như: Đạt được sự ủng hộ của các nước trong EU đối với việc gia nhập WTO của Việt Nam đồng thời tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau hơn nữa giữa các nước ASEAN, từ đó xây dựng và thắt chặt mối quan hệ á-Âu Việt Nam trở thành một trong mục tiêu trọng điểm trong chính sách kinh tế đối ngoại của các nước như Thuỵ Điển, Anh, Pháp, Đức. Việt Nam học hỏi và đạt được những kinh nghiệm trong quá trình đảm nhận vai trò là Chủ tịch Ban thường trực ASEAN và Điều phối viên châu á của ASEM. Cụ thể hơn, sau ASEM 4 tại Copenhagen, Đan Mạch, Việt Nam đã ký kết được 4 Hiệp định quan trọng: Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam với Bộ Kế hoạch và Công nghệ Ireland Hiệp định khung về hợp tác giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam với Bộ Ngoại giao Luxemburg. Hiệp định hợp tác khoa học công nghẹ giữa Bộ Khoa học Công nghệ Việt nam và Cao uỷ phục trách Khoa học kỹ thuật Bỉ Hiệp định khung về hợp tác giữa Văn phòng chính phủ và các vùng Cộng đồng người Bỉ nói tiếng Pháp. Đồng thời qua ASEM4, Việt Nam được khẳng định có vị thế mới đối với thế giới. Đặc biệt, trong các cuộc hội đàm và tiếp xúc song phương giữa Việt Nam với EU và giữa Việt nam với các nước, các nước không những ủng hộ Việt Nam gia nhập WTO mà còn coi Việt Nam là đối tác viện trợ ODA và đẩy mạnh hợp tác huớng vào kinh tế trên cơ sở hai bên cùng có lợi. EU đã quyết định tiếp tục cho hàng dệt may của Việt Nam nhập khẩu vào EU và kể từ ngày 20/9/2002 không kiểm tra mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam nhập khẩu vào EU. Những thách thức Về mặt kinh tế nói chung hay môi trường và thương mại nói riêng, Việt Nam gặp phải một số thách thức do các quy định của các khu vực thị trường tạo ra các rào cản đối với doanh nghiệp Việt Nam. Khó khăn đối vói doanh nghiệp Việt Nam có thể liệt kê một số vấn đề như: Hệ thống các quy định đối với tiêu chuẩn môi trường và thương mại Việt Nam còn thiếu cập nhật không đồng bộ. Có rất nhiều các tiêu chuẩn quốc tế xây dựng vượt quá khả năng của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Việt Nam chưa đầu tư thích đáng đối vói hoạt động nghiên cứu thị trường, nghiên cứu các quy định, các rào cản kỹ thuật đối với sản phẩm Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp còn lạc hậu có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và việc kiểm soát sản phẩm. Điều đó gây khó khăn rất lớn trong việc đảm bảo các điều kiện tiêu chuẩn về vệ sinh môi trường tài thị trường nhập khẩu, đặc biệt là các khu vục phát triển. Hệ thống nguồn nhân lực của Việt Nam còn rẻ nhưng còn thiếu bất cập, thíếu công nhân kỹ thuật có tay nghề cao, ý thức kỷ luật kém III. Các giải pháp thúc đẩy Việt Nam trong tiến trình ASEM Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã và đang thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hoá và hợp tác hoá giữa các quốc gia, làm cho lực lượng sản xuất được quốc tế hoá cao độ. Những tiến bộ của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã đưa các quốc gia gắn kết lại gần nhau, dẫn tới sự hình thành những mạng lưới toàn cầu. Tiến trình ASEM là đại diện cho xu thế khu vực hoá, chuẩn bị cho toàn cầu hoá cao độ. Có thể thấy, ASEM là một diễn đàn đàm phán trực tiếp trên các lĩnh vực về kinh tế, chính trị, xã hội là nền tảng pháp lý cho quan hệ kinh tế quốc tế của nhiều nước thành viên. Đây là một tiến trình được phát triển dựa trên cơ sở vừa hợp tác vừa cạnh tranh. Do đó, thành viên ASEM nào biết đề ra các biện pháp tận dụng những cơ hội và biết vượt qua những khó khăn thử thách thì quốc gia đó có thể đứng vững trên trường quốc tế, khẳng định vị trí của quốc gia đó và tạo nên sức mạnh cho quốc gia đó phát triển. Việt Nam là một thành viên của ASEM cũng không nằm trong ngoại lệ. Để thúc đẩy tiến trình ASEM, những giải pháp cần thiết cho Việt Nam có thể thấy đó là: Về nhận thức, tư tưởng Để thúc đẩy tiến trình ASEM đối với Việt Nam trong thời gian tới, trước hết cần quán triệt những quan điểm, nguyên tắc chủ yếu được nêu trong các Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX. Tại Đại hội Đảng lần thứ VII, Việt Nam chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, đánh dấu bước khởi đầu cho quan hệ kinh tế quốc tế. Tiếp đó, Nghị quyết Đại hội Đảng VIII đã quyết định “Nhiệm vụ đối ngoại quan trọng trong thời gian tới là củng cố môi trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy nhanh quá trình hội nhập khu vực và quốc tế” và Nghị quyết số 07-NQ/TW, ngày 27-11-2001 của Bộ chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX “Về hội nhập kinh tế quốc tế”. Cụ thể là, quán triệt chủ trương được xác định tại Đại hội IX là : “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”. Cụ thể hơn, thúc đẩy tiến trình ASEM là để đáp ứng mục tiêu chung của bản thân Việt Nam trong quá trình phát triển, nhằm lấy nội lực kết hợp với ngoại lực, đẩy mạnh sự nghiệp CHN-HĐH theo định hướng XHCN, bảo đảm hiệu quả kinh tế-xã hội và tăng trưởng bền vững của nền kinh tế quốc dân, hạn chế tối đa ảnh hưởng tiêu cực của những chao đảo, biến động từ bên ngoài. Tuy nhiên, thúc đẩy tiến trình ASEM phải dựa trên nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là yêu cầu chính trị cao nhất đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và thúc đẩy tiến trình ASEM nói riêng. Tham gia hợp tác á-Âu phải tuân thủ các nguyên tắc chung là bảo vệ độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng cùng có lợi, bảo vệ và phát triển sản xuất, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc của dân tộc. Bên cạnh đó, cần quán triệt rằng ASEM là quá trình vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt tuỳ theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể; phải đề phòng tư tưởng ỉ lại, thụ động vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng. Hơn nữa, phải biết tận dụng những cơ hội do tiến trình ASEM đem lại cũng như phải biết sàng lọc những mặt hạn chế và vượt qua những thách thức trong tiến trình ASEM. Thúc đẩy tiến trình ASEM không chỉ là công việc riêng của chính phủ mà cần có sự nhận thức đúng đắn và tham gia đầy đủ của nhiều tầng lớp trong xã hội chẳng hạn như các doanh nghiệp, sinh viênChính vì vâỵ, công tác quảng cáo, tuyên truyền những tri thức liên quan đến tiến trình ASEM là rất cần thiết. Thúc đẩy tiến trình ASEM là một phần của hội nhập quốc tế, là một bộ phận hữu cơ của đường lối đổi mới do Đảng đề ra và để thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội ngắn, trung và dài hạn của Đảng và Nhà nước. Do vậy, thúc đẩy tiến trình ASEM phải phù hợp với chủ trương “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước” và “phát triển kinh tế đối ngoại theo hướng xây dựng hệ thống kinh tế mở”, hình thành thị trường đồng bộ, thông suốt trong cả nước, gắn với kinh tế và thị trường thế giới. Cần kết hợp với nhận thức đẩy đủ các đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam, để từ đó đề ra kế hoạch, lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ của đất nước, vừa đáp ứng các qui định chung của ASEM đặt ra cho các nước thành viên, từ đó Việt Nam đang tham gia và tranh thủ những ưu đãi do ASEM mang lại. Về xây dựng tiến trình ASEM Xây dựng tiến trình ASEM là một trong những trọng tâm của chiến lược hội nhập. Để thích ứng với yêu cầu của hội nhập, đáp ứng các cam kết của nước ta về mở cửa thương mại, đầu tư, dịch vụ, về thuế và phi thuế, việc xây dựng tiến trình cần dựa vững chắc trên các nguyên tắc và nguyên lý căn bản sau: Giữ vững nguyên tắc độc lập và chủ quyền quốc gia, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển trên cơ sở đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, kiên trì, bền bỉ điều chỉnh lại hệ thống cơ chế chính sách cho phù hợp với những quy tắc và chuẩn mực của ASEM. Coi việc điều chỉnh cơ chế chính sách trong tiến trình ASEM là tạo ra động lực bên trong để thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế. Tiến trình ASEM được xây dựng theo hướng bậc thang và hợp lý, được xác định trên cơ sở (1) các cam kết, quy định của ASEM đề ra với các nước thành viên nói chung và Việt Nam nói riêng (2) thực trạng hiện tại và dự báo phát triển trong tương lai của nền kinh tế Việt Nam. Một tiến trình “quá nóng” về mức độ và thời hạn mở cửa thị trường vượt quá khả năng chịu đựng của nền kinh tế, sẽ dẫn tới thua thiệt, đổ vỡ hàng loạt doanh nghiệp, vượt khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước, kéo theo nhiều hậu quả khó lường. Vì vậy, điều cực kì quan trọng là cần xem xét tính toán nghiêm túc điều kiện, khả năng, tiềm lực của Việt Nam trong từng lĩnh vực cụ thể, từng loại doanh nghiệp, có tính đến những quy định chung..., để hoạch định tiến trình hội nhập hợp lý. Tiến trình ASEM phải được xây dựng theo nguyên tắc Việt Nam thừa nhận mục tiêu thuận lợi hoá, tự do hoá thương mại của ASEM và cam kết thực hiện mục tiêu này bằng các biện pháp và bước đi thích hợp với trình độ phát triển của mình, trong đó các cam kết trong khuôn khổ ASEM là các cam kết có mức độ ưu đãi và cần tập trung thực hiện trong lộ trình của ta. Đồng thời xuất phát từ đặc điểm hiện tại của đất nước, trong lộ trình hội nhập Việt Nam cần yêu cầu quyền được hưởng những ưu đãi dành cho các nước có trình độ phát triển thấp và đang trong quá trình chuyển đổi. Trên cơ sở xây dựng tiến trình ASEM tổng thể để hội nhập, cần tiếp tục xây dựng tiến trình chi tiết, rõ ràng trong từng lĩnh vực, từng loại mặt hàng, từng đối tác đàm phán quốc tế, đồng thời xác định rõ lộ trình, thời gian biểu, cam kết thực hiện nghĩa vụ của ASEM, đảm bảo kết hợp cân đối giữa cam kết ở ASEM với các cam kết ở các tổ chức khác. 3. Xây dựng và nâng cao năng lực của các cơ quan quản lý Nhà nước Trong điều kiện của nền kinh tế chuyển đổi, các cơ quan quản lý Nhà nước ở nước ta hiện vẫn chưa thực sự sẵn sàng trước tiến trình ASEM cả về cơ cấu tổ chức và các cơ quan quản lý từ trung ương đến địa phương. Chẳng hạn như sự nhận thức chưa đầy đủ về tiến trình ASEM đôi khi đã dẫn đến những quyết định lệch lạc, chệch hướng so với chủ đề và mục tiêu của tiến trình ASEM. Những sự yếu kém này đã và đang che lấp và làm giảm đi những nỗ lực của Việt Nam trong việc đưa ra các chính sách liên quan. Do vậy, định hướng và giải pháp nâng cao năng lực quản lý Nhà nước đối với tiến trình ASEM không chỉ nhằm đẩy nhanh tiến trình ASEM mà còn nhằm thúc đẩy sự phát triển và nhận thức đúng đắn về ASEM của người dân ở các mức độ khác nhau. Những giải pháp chủ yếu cho vấn đề xây dựng và nâng cao năng lực của cơ quan quản lý Nhà nước bao gồm: Việt Nam cần kiện toàn hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước theo cơ chế quản lý và những nội dung quản lý đã được xác định. Các cơ quan quản lý thực hiện đúng chức năng của mình, không thực hiện một cách chồng chéo, không đúng nghĩa vụ của mình Nâng cao vai trò và tính chủ động của các ngành và lĩnh vực liên quan trong công tác quản lý hiện đại. Đẩy mạnh chương trình cải cách hành chính từ trung ương đến địa phương, giảm bớt những khâu nấc quản lý rườm ra và những quy định hành chính không phù hợp với phương thức quản lý hiện đại trong thời đại phát triển của công nghệ thông tin Ngoài ra, Nhà nước cần hoạch định xây dựng một môi trường pháp lý thuận lợi, thường xuyên cung cấp thông tin về tiến trình ASEM, việc ban hành các chính sách liên quan và công việc tổ chức thực hiện chẳng hạn như hỗ trợ doanh nghiệp trong việc liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài, triển khai mạnh mẽ hơn nữa chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, kiểm soát chặt chẽ được hoạt động của doanh nghiệp, hướng doanh nghiệp triển khai các hoạt động theo đúng luật pháp quy định. Đồng thời cần có biện pháp, chính sách khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia vào sản xuất, kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng qua đó mà sàng lọc, định hướng phát triển, hình thành các hạt nhân doanh nghiệp ưu tú có sức cạnh tranh đảm bảo hội nhập đem lại hiệu quả kinh tế cao. Trong những năm tới Nhà nước cần hướng vào giải quyết một số vấn đề như : tạo lập đồng bộ nền kinh tế thị trường trong nước, khuyến khích cạnh tranh và chống độc quyền; gắn bó hữu cơ với hội nhập quốc tế nói chung và tiến trình ASEM nói riêng, với chiến lược kinh tế-xã hội của đất nước, tạo ra các đột phá chiến lược; tổ chức công tác nghiên cứu khoa học và hệ thống thông tin về thị trường thế giới; hình thành cơ cấu tổ chức hợp lý về kinh tế đối ngoại, chuẩn bị nguồn nhân lực cho tương lai. Trong đó vấn đề cấp bách được nhắc đến trong nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước là vấn đề điều chỉnh cơ cấu kinh tế để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh. 4. Về phương hướng và giải pháp điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong tiến trình ASEM Đại hội Đảng lần thứ VI đã xác định nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế trên cơ sở phát huy những tiềm năng, nội lực của mình để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, như vậy nhu cầu gắn kết chặt chẽ giữa hội nhập với đổi mới quản lý và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một tất yếu. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần được định hướng theo 2 góc độ: thứ nhất, đó là việc tạo dựng một môi trường vĩ mô chung có tính cạnh tranh cao để thúc đẩy các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh, nâng cao hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế và của các ngành, các doanh nghiệp; thứ hai, điều chỉnh cơ cấu sản xuất và đầu tư dưới góc độ ngành và doanh nghiệp căn cứ trên cơ sở sức cạnh tranh của từng ngành với lợi thế so sánh trong sản xuất kinh doanh trong điều kiện Việt Nam sẽ triển khai thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế đối với các tổ chức khu vực như ASEM. Dưới góc độ quốc gia, tính cạnh tranh thể hiện ở năng lực tạo dựng môi trường cạnh tranh trong đó vai trò của nhà nước mang tính kiên quyết để đảm bảo cho nền kinh tế phát huy những lợi thế so sánh, phân bổ các nguồn lực có hiệu quả, đạt và duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững. Trong bối cảnh Việt Nam chỉ được đánh giá là nước có môi trường cạnh tranh quốc gia thấp, thì một trong những nội dung của việc xây dựng chiến lược hội nhập là cần tăng cường tính cạnh tranh cấp quốc gia, trong đó các chính sách kinh tế được hoạch định sao cho thực hiện tốt các yếu tố cơ bản sau đây: Các chỉ số kinh tế vĩ mô (thâm hụt ngân sách, lạm phát, cán cân thanh toán, tỷ giá) ổn định và ở mức cân bằng. Nền kinh tế tương đối mở (nhất là về thương mại và các luồng FDI) Cạnh tranh trong nước được khuyến khích Điều kiện cạnh tranh bình đẳng được đảm bảo và can thiệp của Nhà nước chủ yếu là trên bình diện vĩ mô (như tạo khung pháp lý, sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô, đầu tư vào hạ tầng cơ sở) Dịch vụ công cộng có chất lượng cao Hệ thống tài chính, ngân hàng tạo nên trung gian tài chính hiệu quả Các chủ thể thị trường có thể tiếp cận thông tin và công nghệ Cở sở hạ tầng được nâng cấp và duy trì Thị trường lao động linh hoạt trong mối quan hệ thích hợp giữa người sử dụng lao động và người lao động Thể chế luật pháp, xã hội vận hành có hiệu lực và minh bạch Tiếp tục tiến hành cải cách kinh tế mang tính tổng thể và đồng bộ. Đặc biệt, đó là những cải cách trong các lĩnh vực tài khoá, tài chính tiền tệ, thương mại và khu vực DNNN. Cải cách kinh tế cũng không thể tách rời cải cách khu vực hành chính nhằm hạn chế đáng kể nạn tham nhũng, giảm thiểu tệ quan liêu cũng như các chi phí giao dịch cho các hoạt động kinh doanh. Dưới góc độ ngành thì phương hướng điều chỉnh cơ cấu ngành được xem xét dựa trên việc nghiên cứu và phân loại các ngành sản xuất và dịch vụ theo 3 nhóm: nhóm có khả năng cạnh tranh cao, nhóm có khả năng cạnh tranh có điều kiện (được bảo hộ, hỗ trợ có thời hạn và tích cực nâng cao khả năng cạnh tranh) và nhóm có khả năng cạnh tranh thấp. Căn cứ theo nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho tổng số 40 nhóm sản phẩm và dịch vụ của Việt Nam thì hiện tại có 11 sản phẩm thuộc loại có khả năng cạnh tranh cao là: cà phê, điều, lúa gạo, một số loại trái cây, thuỷ sản, may mặc, giày dép, động cơ đi-ê-zen cỡ nhỏ, sản phẩm của ngành du lịch, dịch vụ xây dựng; ngoài ra 19 sản phẩm dịch vụ khác thuộc nhóm có khả năng cạnh tranh có điều kiện gồm: chè, cao su, rau, thực phẩm chế biến, lắp ráp điện tử, cơ khí, hoá chất, xi măng, đóng tàu, thịt heo, ngân hàng, viễn thông, vận tải biển, vận tải hàng không, kiểm toán, công nghệ phần mềm, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ tư vấn pháp luật, dịch vụ y tế và 10 sản phẩm thuộc nhóm có khả năng cạnh tranh thấp gồm: mía đường, bông, cây có dầu, đỗ tương, ngô, quả có múi, hoa, sữa bò, thịt gà, thép. Theo cơ sở phân chia này, nhà nước cần đưa ra các chính sách về thuế nhập khẩu, phân bổ hạn ngạch phi thuế, chế độ phụ thu xuất khẩu, chính sách thuế trong nước, tín dụng xuất khẩu và cải cách doanh nghiệp phù hợpđối với từng nhóm và ngành cụ thể. Trong lĩnh vực nông nghiệp, rõ ràng lợi thế so sánh của nền nông nghiệp nhiệt đới là điểm mạnh của Việt Nam có thể cạnh tranh với các sản phẩm nước ngoài trên thị trường nội địa, đồng thời mở rộng thị trường xuất khẩu. Muốn vậy, cần nhanh chóng áp dụng các tiến bộ sinh học, hiện đại hoá công nghệ chế biến nâng cao chất lượng vệ sinh thực phẩm, đóng gói bao bì Trong lĩnh vực công nghiệp, việc bố trí đầu tư, xây dựng phải căn cứ theo có sở phân chia khả năng cạnh tranh trên để chọn thứ tự ưu tiên. Bên cạnh đó cần phát triển một số ngành công nghiệp nặng, xây dựng các công trình quy mô lớn một có chọn lọc, và dành quan tâm thỏa đáng cho việc phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, có công nghệ tiến tiến để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, tiêu thụ được trên thị trường cả trong nước và thế giới. Đối với khu vực dịch vụ, đây là lĩnh vực có tầm quan trọng đặc biệt song cũng rất nhạy cảm trong điều kiện hiện nay của Việt Nam. Chấp nhận cạnh tranh, kể cả cạnh tranh trong nước lẫn cạnh tranh quốc tế, coi đó là động lực thúc đẩy sự tiến bộ của các ngành dịch vụ phải đi đôi với việc xem xét các điều kiện, đặc thù của từng ngành dịch vụ. Mặc dù về lý thuyết điều chỉnh cơ cấu cần tiến hành theo những phương hướng như vậy, song khi khoa học và công nghệ không ngừng phát triển, kinh tế thế giới có nhiều đột biến, thị trường luôn biến động, tính cạnh tranh và lợi thế so sánh của các nước đều rất linh hoạt thì cần phải có sự điều chỉnh kịp thời bộ phận này hay bộ phận khác của các định hướng phát triển, nhằm hợp lý hoá cơ cấu kinh tế, tăng cường hơn nữa năng lực cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ, doanh nghiệp và của nền kinh tế Việt Nam nói chung. Ngoài vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ, doanh nghiệp và của nền kinh tế Việt Nam, thúc đẩy tiến trình ASEM trong thời gian tới còn đòi hỏi việc xây dựng một lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường. Về công tác xây dựng và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tham gia trong tiến trình ASEM Nhân tố con người luôn là nhân tố quan trọng và luôn cần được tính đến. Vấn đề về đào tạo, sử dụng cán bộ trong tiến trình ASEM là cực kì quan trọng. Cần xây dựng những tiêu chuẩn bắt buộc với những cán bộ tham gia xây dựng chính sách và hoạt động trong công tác kinh tế đối ngoại, bao gồm các yêu cầu về phẩm chất đạo đức, về tư tưởng, trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ. Trên cơ sở những yêu cầu đó để xây dựng kế hoạch về đào tạo, chọn lọc sử dụng cán bộ phù hợp với nhu cầu hợp tác quốc tế thời gian tới. Kiến nghị-Đề xuất Trước hết, để tham gia vào tiến trình ASEM một cách có hiệu quả cần có sự cố gắng của Nhà nước trong việc hoàn thiện môi trường pháp lý đối với tiến trình ASEM. Làm được điều này không chỉ giúp cho việc xác định một hướng đi cơ bản và rõ rằng mà còn giúp cho các doanh nghiệp tham gia vào ASEM một cách chủ động và tích cực. Hơn nữa, sự nỗ lực và hoạt động hỗ trợ của các bộ ngành liên quan cũng vô cùng quan trọng đối với việc thúc đẩy tiến trình ASEM. Việt Nam cần coi trọng quan hệ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn hoá trong tiến trình ASEM. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh việc tăng cường hơn nữa lĩnh vực hợp tác có tầm quan trọng đặc biệt đối với tiến trình ASEM. Đồng thời, xây dựng và hoàn thiện Nhóm đặc trách kinh tế ASEM tập trung xem xét và đưa ra những khuyến nghị cụ thể, thiết thực nhằm tăng cường hơn nữa sự hợp tác về thương mại, đầu tư và tài chính giữa hai châu lục để có được những đối tác kinh tế thực chất hơn nhằm phát huy những tiềm năng, cơ hội của khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng. Từ đó, tiến tới đi sâu vào thực chất hoá chủ đề chính của Hội nghị Cấp cao ASEM tại Hà Nội vào tháng 10/2004: “Tiến tới quan hệ đối tác á-Âu sống động và thực chất hơn”. Để thúc đẩy tiến trình ASEM, Việt Nam là một nước đang phát triển cần chú trọng hơn nữa vào giải quyết những vấn đề cơ bản, cấp bách và thiết thực như xoá đói giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực, thu hẹp khoảng cách phát triển trong nước nói riêng cũng như so với các nước thành viên ASEM nói chung. Các doanh nghiệp Việt Nam phải biết tận dụng những tiềm năng trong tiến trình ASEM bằng cách học hỏi của các đối tác từ các nước thành viên ASEM như nên liên doanh với đối tác nước ngoài trên các lĩnh vực cần đầu tư và bảo vệ chẳng hạn: rừng, chế biến gỗ, bảo vệ môi trường, đóng tàu, xây dựng cảng, điện tử viễn thông, phân hoá học Các doanh nghiệp cần có những chiến lược và biện pháp để có thể thực sự hoà mình vào tiến trình ASEM chung thông qua việc thực hiện những công việc cụ thể như: cần thực hiện các biện pháp nâng cao tay nghề công nhân, nâng cấp trình độ công nghệĐấy cũng chính là cách thức đúng đắn giúp cho các doanh nghiệp tham gia vào ASEM có hiệu quả hơn. Nhằm thúc đẩy tiến trình ASEM, trước mắt Việt Nam cần chuẩn bị cho Hội nghị Cấp cao ASEM 5 diễn ra một cách thành công tại Hà Nội, thông qua việc tập trung vào một số hướng quan trọng: Cần suy nghĩ và chuẩn bị kỹ lưỡng và toàn diện nội dung, phù hợp với chủ đề hội nghị sắp diễn ra Cần tích cực trong việc triển khai công việc tổ chức, hậu cần, xây dựng trung tâm hội nghị Tăng cường công tác tuyên truyền về ASEM trong nước nhằm đề cao vai trò và hình ảnh tích cực của Việt Nam Nâng cao mạnh mẽ hơn nữa kinh nghiệm của bộ máy, cán bộ tham gia phục vụ cho Hội nghị cấp cao. Như vậy, Việt Nam cần tranh thủ và sử dụng có hiệu quả sự trợ giúp quốc tế dành cho Việt Nam trong tiến trình chuẩn bị Hội nghị. Phụ lục 1 Các rào cản thương mại trong ASEM Từ nhiều nguồn phân tích khác nhau, các thành viên ASEM đã tạm thời xác định những hình thức thương mại sau đây đã và đang tạo ra những rào cản đáng kể đối với việc trao đổi thương mại trong khu vực. Hiện nay, ASEM đang xúc tiến xây dựng chương trình hành động để giải toả những cản trở thương mại Các rào cản chung Bất ổn định về khung pháp lý, ví dụ như thông báo quá ngắn khi có thay đổi luật pháp hay luật pháp không rõ ràng, thiếu chính xác hoặc thậm chí là có những luật lệ không được xuất bản Trì hoãn quá lâu trong việc trả lời các câu hỏi, kiến nghị Yêu cầu quá cao về lập tài liệu (ví dụ đối với nhập khẩu) Tham nhũng Các rào cản trong các lĩnh vực cụ thể . Thủ tục hải quan Tham nhũng Thiếu minh bạch Thời gian quá dài để thông quan Không tuân thủ Công ước Kyoto Các vấn đề về định giá hải quan, ví dụ khi bị áp dụng tuỳ tiện và thường bị sửa đổi, cũng như bị phân loại hải quan. 2.2. Tiêu chuẩn chất lượng Việc đăng kí phức tạp, tốn kém và thướng liên quan đến cả các chi phí thực tế lẫn việc tiết lộ các thông tin mật Các thủ tục thử nghiệm, thủ tục đánh giá sự phù hợp và lập hồ sơ phức tạp, kéo dài hoặc tốn kém. Đôi khi các tiêu chuẩn thay đổi nhanh, khiến cho tiến trình còn bị kéo dài thêm Các quy định thiếu minh bạch, ví dụ như không dịch sang tiếng nước ngoài hoặc không công bố những sửa đổi Đối xử khác nhau giữa tiêu chuẩn trong nước và quốc tế, khác biệt trong việc áp dụng các tiêu chuẩn hoặc không thừa nhận các tiêu chuẩn quốc tế và tiêu chuẩn châu Âu. Đối xử khác nhau giữa các sản phẩm trong nước và nước ngoài trong quá trình áp dụng các quy định và thủ tục Quy định dán nhãn hạn chế 2.3. Mua sắm của chính phủ Nhìn chung thiếu sự thông thoáng và minh bạch Đối xử ưu đãi với các công ty trong nước hoặc các công ty không có quan hệ/bạn hàng với các công ty địa phương. Yêu cầu về hàm lượng nội địa hoá, chuyển giao công nghệ và mậu dịch đối lưu Thông báo thầu ngắn hạn Phá vỡ các quy định thông qua việc chia nhỏ các hợp đồng Không tuân theo Hiệp định mua sắm chung (GPA) 2.4. Kiểm dịch động thực vật Thiếu sự minh bạch về các biện pháp, thủ tục triển khai và cơ quan có thẩm quyền. Các yêu cầu cho nhập động vật, thực vaatj và sản phẩm thực vật quá tốn kém và kéo dài Không thống nhất giữa các tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế và không hài hoà Không thừa nhận quá trình kiểm định hoặc kiểm soát ở nước xuất hàng Các thủ tục và yêu cầu nhập khẩu còn chưa đuợc đơn giản hoá và chưa tổng hợp Yêu cầu kiểm định và kiểm dịch quá cao Quy định dán nhãn hạn chế Việc thử nghiệm không chính xác 2.5. Quyền sở hữu trí tuệ Việc thực thi các luật lệ về IPR trong tất cả các lĩnh vực khác nhau còn chưa đầy đủ hoặc chưa công bằng Thiếu các luật lệ về nhãn hiệu thương mại, bản quyền, bằng sáng chế, thiết kế công nghiệp và chỉ dẫn địa lý. Vi phạm nhãn hiệu thương mại, bản quyền Giả mạo Không thống nhất giữa các quy định quốc gia và quốc tế 2.6. Lĩnh vực phân phối kinh tiêu sản phẩm Hạn chế quyền sở hữu nước ngàoi đối với thương mại hoặc bán lẻ Yêu cầu về liên doanh, liên kết trong nước đối với một số hoạt động cụ thể như quảng cáo Phân biệt đối xử, chống lại các công ty nước ngoài, ví dụ khi bố trí cơ sở và trang thiết bị tại cản biển hoặc sân bay hoặc mức giá quảng cáo, thậm chí có thể thực hiện thông qua các chiến dịch chống lại các sản phẩm nước ngoài hoặc quảng cáo các sản phẩm nội địa Hạn chế sở hữu tài sản cố định Thiếu rõ ràng và không minh bạch Các điều khoản và yêu cầu giấy phép hạn chế đối với các công ty nước ngoài Thiếu các luật lệ về cạnh tranh hoặc chưa đủ thực thi đầy đủ các luật này. Phụ lục 2 Danh mục các dự án hợp tác trong lĩnh vực khoa học-công nghệ Tên và nước chủ trì xây dựng dự án 1 Khoa học cơ bản Cộng hoà Liên bang Đức, Trung Quốc, Nhật Bản 2 Chuyển giao kiến thức từ các cơ sở nghiên cứu tới sản xuất công nghiệp Nhật Bản, Pháp, Phần Lan 3 Phát triển nguồn nhân lực tập trung vào nâng cao nhận thức khoa học của xã hội và trao đổi các nhà nghiên cứu Hàn Quốc, áo, Inđônêxia 4 Lâm nghiệp Phần Lan, Trung Quốc, áo 5 Các vấn đề nước Thái Lan, Bồ Đào Nha, Pháp 6 Công nghệ nông nghiệp và công nông nghiệp Singapore, Italia 7 Các thành phố phát triển bền vững Pháp, Hy Lạp, Italia, Philippine 8 Công nghệ sản xuất sạch và bền vững áo, Malaysia 9 Phát triển bền vững hệ sinh thái (nước) Italia 10 Di sản văn hoá Việt Nam, Italia, Tây Ban Nha 11 Nâng cao năng lực nghiên cứu và kỹ thuật của các doanh nghiệp Thuỵ Điển, Trung Quốc, Thái Lan Phụ lục 3 Các biện pháp đầu tư hiệu quả nhằm thu hút đầu tư nước ngoài Các cơ quan xúc tiến đầu tư với cả hai chức năng xúc tiến và tạo thuận lợi cho đầu tư nước ngoài. Các cơ quan này không chỉ hỗ trợ các thông tin ban đầu về thị trường mà còn giúp nhà đầu tư sau khi đã thâm nhập thị trường giải quyết các vấn đề liên quan với các cơ quan chức năng Thực hiện nhất quán các biện pháp tự do hoá nhằm dỡ bỏ các cản trở dòng vốn và các giao dịch liên quan tới đầu tư nước ngoài. Không phân biệt đối xử với các nhà đầu tư nước ngoài: mở rộng diện các ngành sản xuất, dịch vụ được phép đầu tư, kể cả lĩnh vực phân phối. Cởi mở các quy chế đầu tư và dỡ bỏ hoá giảm dần các rào cản hoặc thủ tục phiền hà: loại bỏ việc không cho phép nước ngoài sở hữu đất đai, loại bỏ yêu cầu bắt buộc về sản phẩm (hàm lượng nội địa hoá, tỷ lệ xuất khẩu) Các chính sách khuyến khích đầu tư: miễn thuế, trợ giá, hỗ trợ nghiên cứu và phát triển các cơ sở hạ tầng, khai thác các lợi thế tự nhiên đặc biệt để thu hút đầu tư Tăng cường tính minh bạch và dự báo trước của môi trường đầu tư. Công bố rộng rãi các văn bản pháp lý về đầu tư ký thoả thuận song phương về các vấn đề thuế, xét xử độc lập của hệ thống toà án và đối xử công bằng, bình đẳng đối với nhà đầu tư. Các thoả thuận song phương, khu vực và đa phương về đầu tư quốc tế. Tăng cường hiệu quả của cơ quan quản lý quốc gia: đơn giản hoá các quy định, hợp tác tốt hơn giữa các cơ quan chính phủ, đặt thời hạn cho các cơ quan chức năng trong việc giải quyết vụ việc Cải thiện đồng thời môi trường kinh tế trong nước và cơ sở hạ tầng. Các yếu tố kinh tế-xã hội tác động tới đầu tư: đồng tiền ổn định, hệ thống tài chính-ngân hàng quản lý tốt, lao động lành nghề, không bãi công, thuế khoá thấp Cải thiện cơ sở hạ tầng trong các lĩnh vực: viễn thông, vận tải, hệ thống phân phối và các cơ sở hạ tầng mang tính xã hội như giáo dục, bảo vệ sức khoẻ Phụ lục 4 Viễn cảnh ASEM Viễn cảnh hợp tác á-Âu: từng bước hoà hợp châu và châu Âu thành khu vực hoà bình và cùng phát triển, một môi trường cùng tồn tại thịnh vượng trong thế kỷ XXI, trong đó tri thức, của cải, di sản văn hoá, các tư tưởng dân chủ, tài sản giáo dục, khát vọng trí tuệ và công nghệ mới của hai khu vực cùng hoà quyện gắn bó và giao lưu, không bị bất kỳ hình thức ngăn trở hoặc ép buộc nào. Chính sách khuyến nghị: Giáo dục Tăng cường giao lưu giáo dục để đạt tới sự hiểu biết sâu sắc hơn giữa hai châu lục á-Âu Ra Tuyên ngôn về giáo dục tại ASEM III (Seoul, Hàn Quốc 2000) với tầm nhìn dài hạn đối với các yêu cầu về đào tạo và đặt mục tiêu nhiều tham vọng Chương trình học bổng ASEM Trao đổi giữa hai khu vực các học bổng sau đại học cho các sinh viên giỏi và có triển vọng nhất. Đặt mục tiêu ban đầu hai trăm học bổng ASEM mỗi năm. Thống nhất các nguyên tắc về Quản lý nhà nước lành mạnh Cùng xác định quản lý nhà nước lành mạnh là nền tảng của sự thịnh vượng và nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, Khuyến nghị các nguyên thủ ASEM thống nhất lại các nguyên tắc quản lý nhà nước lành mạnh tại Họi nghị Thượng đỉnh ASEM III (Seoul, Hàn Quốc) và thúc đẩy đối thoại về cách thức quản lý nhà nước lành mạnh và nhân quyền Thực hiện mục tiêu tự do hoá thương mại Xây dựng khung chiến lược cho việc tự do hoá từng bước thương mại hàng hoá và dịch vụ xác định rõ ràng thời hạn và mốc thực hiện có tính đến sự khác biệt về trình độ phát triển của các nước. Phối hợp chặt chẽ hơn các chính sách kinh tế vĩ mô và cải cách hệ thống tài chính quốc tế Kết hợp ứng phó để thích ứng với quá trình toàn cầu hoá tài chính đang diễn ra nhanh chóng. Thành lập trung tâm môi trường ASEM Đẩy mạnh việc hợp tác môi trường dài hạn thông qua việc thành lập một Trung tâm môi trường ASEM. Định rõ những lĩnh vực và mục tiêu ưu tiên, tăng cường thể chế và cùng chia xẻ gánh nặng về môi trường. Thành lập Hội đồng cố vấn thương mại á-Âu (BAC) Thiết lập diễn đàn để tạo thuận lợi cho đối thoại cao cấp giữa những nhà lãnh đạo chính phủ quốc gia và giám đốc điều hành các doanh nghiệp tư nhân. Thảo luận các vấn đề cấp thiết liên quan đến đầu tư, thương mại và thị trường. Xây dựng khung khổ cho việc cải thiện hạ tầng của ASEM bao gồm tất cả các lĩnh vực trọng yếu (năng lượng viễn thông, giao thông, nước và môi trường) nhằm tạo thuận lợi cho thương mại, đầu tư, chuyển giao công nghệ và đi lại của các cá nhân trong lĩnh vực phát triển hạ tầng. Thành lập Hội đồng công nghệ thông tin ASEM để đẩy mạnh việc phát triển hạ tầng thông tin (các mạng có tốc độ cao, phần mềm dịch thuật điện tử và truyền hình vệ tinh) tiến tới xây dựng xa lộ thông tin liên khu vực. Lời nói đầu Khu vực hoá cùng với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là một trong những xu thế chủ yếu nhất chi phối sự vận động và phát triển của thế giới ngày nay. Mọi quốc gia trên thế giới ngày càng ý thức sâu sắc được rằng khu vực hoá và hội nhập kinh tế ảnh hưởng sâu rộng tới mọi mặt đời sống kinh tế - chính trị - xã hội của toàn bộ cộng đồng quốc tế nói chung và tới từng quốc gia nói riêng. Chính vì vậy hầu hết các quốc gia trên thế giới cũng không nằm ngoài quy luật và ít nhất là thành viên của một tổ chức khu vực nhất định. Đối với các nước Đông á và Tây Âu điều này cũng không ngoại lệ. Đáng nói hơn, các quốc gia này lại cùng là thành viên của Hội nghị Cấp cao á-Âu (ASEM). Tham gia vào tiến trình ASEM, các quốc gia này không chỉ có cơ hội chia xẻ những hiểu biết về văn hoá-xã hội của đất nước mình với các nước thành viên khác mà còn giúp thúc đẩy phát triển kinh tế của các quốc gia thành viên. Tiến trình ASEM mới đi vào hoạt động chưa đầy một thập kỷ, chính vì vậy ngoài những cơ hội và tiềm năng to lớn mà ASEM đem lại cho mỗi quốc gia, tiến trình này vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Là một quốc gia đang phát triển và là thành viên sáng lập của ASEM, Việt Nam đã và đang tham gia một cách tích cực vào tiến trình ASEM, góp phần xử lý các vấn đề đặt ra trong hợp tác á-Âu, trên cơ sở đó góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau của hai châu lục, thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế, khoa học, công nghệ, văn hoá, giáo dục. Việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới nói chung và tham gia vào ASEM nói riêng là một vấn đề vô cùng bức thiết không chỉ về mặt thực tiễn mà còn về mặt lý luận, nhận thức. Những giải pháp thúc đẩy tiến trình ASEM đối với Việt Nam là một câu hỏi làm trăn trở không chỉ các chính trị gia, các nhà văn hoá mà còn cả các nhà kinh tế học. Chủ động tham gia và thúc đẩy tiến trình ASEM là cách để Việt Nam thực hiện được các mục tiêu về kinh tế-văn hoá-xã hội nói riêng và mục tiêu tổng thể về công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước của Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Trong thời gian gần đây đã có không ít những nghiên cứu, ý kiến đánh giá về khu vực hoá, các mô hình khu vực hoá như ASEM và hội nhập kinh tế khu vực của Việt Nam. Tuy nhiên, đó thường là những nghiên cứu sâu, chi tiết về các vấn đề riêng lẻ mà ít có những nghiên cứu mang sâu chuỗi, liên kết lôgic về các vấn đề này. Do đó, để có được một cách nhìn tương đối tổng quát, tác giả chọn viết Khoá luận tốt nghiệp với đề tài: “ Vấn đề khu vực hoá-Mối quan hệ hợp tác á-Âu (ASEM) và Việt Nam trong tiến trình ASEM”. Nội dung của khoá luận tốt nghiệp bao gồm 3 chương sau: Chương 1. Tổng quan về hội nhập kinh tế khu vực Chương 2. ASEM và vai trò của tiến trình ASEM trong việc thúc đẩy mối quan hệ á-Âu Chương 3. Việt Nam trong tiến trình ASEM Thực hiện nội dung trên, tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, thống kê, so sánh, đối chiếu, tổng hợp và phân tích để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu. Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân trọng nhất đến các cô các chú, các anh chị ở Bộ Ngoại Giao, thư viện Quốc Gia, Viện kinh tế Thế Giới, thư viện trường Đại Học Ngoại Thương- những người đã rất nhiệt tình cung cấp những thông tin, tài liệu có liên quan đến nội dung của khoá luận. Đồng thời, tác giả cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo trường Đại Học Ngoại Thương đã trang bị cho những lớp sinh viên những kiến thức quí giá trong thời gian 4 năm học vừa qua. Đặc biệt, tác giả xin chân thành cảm ơn thầy giáo- Tô Trọng Nghiệp đã tận tình trực tiếp hướng dẫn, đóng góp ý kiến để tác giả có thể hoàn thành bản khoá luận này. Cuối cùng, tác giả xin gửi tới gia đình, bạn bè đã động viên cả về vật chất và tinh thần để tác giả có thể hoàn thành tốt bản khoá luận này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van.doc
  • docKet luan.doc
  • docMuc luc.doc
Tài liệu liên quan