Đề tài Vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đối với Việt Nam trong việc giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may

MỤC LỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI iv LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: SỰ CẦN THIẾT PHẢI VẬN DỤNG CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THƯƠNG MẠI HÀNG DỆT MAY 3 I. Tổng quan về cơ chế giải quyết tranh chấp của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) 3 1. Từ cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT đến cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO 3 1.1. Những bất cập trong cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT 3 1.2. Sự cần thiết phải xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO 5 2. Những điểm mạnh và những hạn chế trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO 6 2.1. Những điểm mạnh 6 2.2. Những hạn chế 10 II. Vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO trong giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may 12 1. Các tranh chấp về thương mại hàng dệt may trong phạm vi của WTO 12 1.1. Đặc điểm về hàng dệt may và thương mại hàng dệt may 12 1.2. WTO và thương mại hàng dệt may 13 1.3. Đặc điểm của các tranh chấp liên quan đến thương mại hàng dệt may trong khuôn khổ WTO 14 2. Các quy định trong Hiệp định ATC về giải quyết tranh chấp liên quan đến thương mại hàng dệt may 15 2.1. Hiệp định ATC 15 2.2. Giải quyết tranh chấp theo quy định của Hiệp định ATC 16 3. Vì sao phải vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO trong giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may? 17 3.1. Vì Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO 17 3.2. Vì tranh chấp về hàng dệt may đã nằm trong phạm vi điều chỉnh của WTO 17 3.3. Vì cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO góp phần tích cực trong việc thiết lập một trật tự kinh tế quốc tế dựa trên tự do hoá thương mại và sự bình đẳng giữa các nước giàu và các nước nghèo 17 CHƯƠNG 2: TÌM HIỂU KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN TRONG VIỆC VẬN DỤNG CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THƯƠNG MẠI HÀNG DỆT MAY VÀ RÚT RA BÀI HỌC CHO VIỆT NAM 19 I. Kinh nghiệm của Trung Quốc 19 1. Nhận xét chung về thương mại hàng dệt may của Trung Quốc 19 2. Vụ kiện: Ấn Độ kiện Mỹ về quy tắc xuất xứ hàng dệt may và sự tham gia của Trung Quốc 20 2.1. Tóm tắt vụ kiện 20 2.2. Tiến trình vụ kiện 20 3. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 22 II. Kinh nghiệm của Pakistan 23 1. Nhận xét chung về thương mại hàng dệt may của Pakistan 24 2. Vụ kiện: chế độ hạn ngạch đối với sợi cotton chải kỹ nhập khẩu từ Pakistan vào Mỹ và sự vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO từ phía Pakistan 25 2.1. Tóm tắt vụ kiện 25 2.2. Diễn biến 25 2.3. Giai đoạn xem xét tại Cơ quan giám sát dệt may 25 2.4. Giai đoạn đưa vụ kiện lên giải quyết tại Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO 26 3. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 28 III. Kinh nghiệm của Ấn Độ 30 1. Nhận xét chung về thương mại hàng dệt may của Ấn Độ 31 2. Vụ kiện: “Cộng đồng Châu Âu - Thuế chống bán phá giá với ga trải giường và vỏ gối cotton nhập khẩu từ Ấn Độ” và sự vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO từ phía Ấn Độ 32 2.1. Tóm tắt vụ kiện 32 2.2. Diễn biến 32 2.3. Tiến trình vụ kiện khi đưa lên Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO 33 2.4. Hậu phán quyết của Cơ quan Phúc thẩm. 34 3. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 34 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỂ VIỆT NAM VẬN DỤNG THÀNH CÔNG CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THƯƠNG MẠI HÀNG DỆT MAY 37 I. Dự báo khả năng phát sinh tranh chấp về thương mại hàng dệt may liên quan đến Việt Nam sau khi gia nhập WTO 37 1. Cơ sở để dự báo 37 1.1. Vai trò của ngành dệt may đối với nền kinh tế Việt Nam 37 1.2. Vị trí thương mại hàng dệt may Việt Nam trên thế giới 37 1.3. Thách thức đối với dệt may Việt Nam hậu WTO 38 2. Khả năng phát sinh tranh chấp về hàng dệt may 40 II. Một số kiến nghị cụ thể 40 1. Đối với Nhà nước 40 1.1. Tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu về pháp luật thương mại quốc tế nói chung và pháp luật của WTO nói riêng 40 1.2. Thành lập bộ phận chuyên trách để đặc biệt theo dõi tiến trình về giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế nói chung và thương mại hàng dệt may nói riêng 42 2. Đối với Hiệp hội ngành Dệt may 43 2.1. Hiệp hội dệt may cần nâng cao hiệu quả hoạt động và vai trò đầu mối liên kết giữa các doanh nghiệp cũng như giữa doanh nghiệp với chính phủ 43 2.2. Hiệp hội dệt may cần tăng cường hơn nữa trong việc hỗ trợ doanh nghiệp ứng phó với các vụ kiện liên quan đến thương mại hàng dệt may 45 2.3. Hiệp hội dệt may cần thành lập một bộ phận chuyên trách về giải quyết tranh chấp kết hợp với bộ phận chuyên trách của Bộ Công Thương 46 3. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu dệt may 46 3.1. Nâng cao nhận thức về pháp luật thương mại quốc tế nói chung và cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO nói riêng 46 3.2. Tăng cường liên kết với các doanh nghiệp khác trong việc chủ động đối phó với các tranh chấp có thể xảy ra 47 4. Các giải pháp khác 48 4.1. Tham gia vào vụ kiện với tư cách bên thứ ba 48 4.2. Thúc đẩy công tác vận động hành lang (lobby) và quan hệ công chúng (public relations) 49 KẾT LUẬN 50 CÁC PHỤ LỤC (được xếp số trang riêng và được đánh ở bên dưới của trang) Phụ lục số 1: Thỏa thuận về quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp (DSU) 2 Phụ lục số 2: Trích dẫn một số điều của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại năm 1947 31 Phụ lục số 3: Trích dẫn một số điều của Hiệp định về Quy tắc xuất xứ 33 Phụ lục số 4: Hiệp định hàng Dệt may 35 Phụ lục số 5: Trích dẫn một số điều của Hiệp định chống bán phá giá 50 Phụ lục số 6: Sơ đồ quy trình giải quyết tranh chấp 64 Phụ lục số 7: Cơ cấu tổ chức của Tổ chức Thương mại Thế giới 65 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 66 LỜI NÓI ĐẦU 1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài Ngày 11/01/2007 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Gia nhập WTO, Việt Nam buộc phải tuân theo “luật chơi chung” của WTO, cụ thể phải thực hiện các cam kết trong các hiệp định đa biên, trong đó có Hiệp định hàng Dệt may (ATC) và cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO được đánh giá là có nhiều ưu việt hơn so với cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT trước đây. Và việc vận dụng thành công cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO sẽ mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam trong trường hợp có sự vi phạm từ phía các thành viên khác, cũng như trong việc tự bảo vệ mình khi bị các nước khác khiếu kiện. Tuy nhiên, đối với những nước đang phát triển như Việt Nam, việc vận dụng thành công cơ chế này cũng là một thách thức lớn. Điều này đòi hỏi cần phải có sự nghiên cứu đầy đủ, cụ thể hơn cả trên lý thuyết cũng như việc giải quyết tranh chấp trong thực tế. Ngoài ra, nghiên cứu việc vận dụng cơ chế này còn đặc biệt quan trọng trong thương mại hàng dệt may, một mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Xuất khẩu hàng dệt may là nguồn thu ngoại tệ quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam, với kim ngạch trên 5,8 tỷ đôla vào năm 2006. Ngay khi Việt Nam vừa gia nhập WTO, nhiều thành viên khác của WTO như EU, Mỹ, . cũng đang tìm những sơ hở của những doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam để kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp, Trong hoàn cảnh như vậy, việc tìm hiểu kỹ để vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO vào giải quyết các tranh chấp về thương mại hàng dệt may là rất cần thiết. Với tất cả những lý do trên, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn vấn đề “Vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đối với Việt Nam trong việc giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may” làm đề tài nghiên cứu khoa học cho công trình tham dự cuộc thi “Sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2007” do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích những điểm mạnh, yếu của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và tìm hiểu kinh nghiệm của một số nước đang phát triển trong việc vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO khi giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may, đề tài đề xuất giải pháp để Việt Nam vận dụng thành công cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO trong giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may có thể sẽ xảy ra giữa Việt Nam với các nước thành viên khác của WTO trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của WTO liên quan đến cơ chế giải quyết tranh chấp và việc giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may trong khuôn khổ của WTO. Đối tượng nghiên cứu của đề tài còn bao gồm cả các quy định của Việt Nam, của WTO về xuất khẩu hàng dệt may và kinh nghiệm của một số nước trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến thương mại hàng dệt may thuộc khuôn khổ của WTO. 3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Trong khuôn khổ của một đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học, do hạn chế về thời gian và cả về thời lượng, đề tài không có tham vọng phân tích mọi vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu. Vì vậy, phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở phân tích về việc giải quyết tranh chấp liên quan đến thương mại hàng dệt may trong khuôn khổ của WTO. Khi lựa chọn một số nước đang phát triển để phân tích, nhóm nghiên cứu cũng giới hạn sự lựa chọn chỉ ở ba nước là Trung Quốc – một nước Châu Á nhưng cũng là nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam và Ấn Độ, Pakistan – hai nước cũng ở Châu Á, tuy có nhiều điểm khác biệt với Việt Nam nhưng cũng là hai nước có thế mạnh trong việc xuất khẩu hàng dệt may. Ba nước Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan đã gia nhập WTO trước Việt Nam và cũng đã theo đuổi các vụ kiện về thương mại hàng dệt may trong khuôn khổ của WTO. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài áp dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp như: phân tích, thống kê, hệ thống hoá và luận giải. Phương pháp so sánh luật học cũng được áp dụng để nêu bật những điểm mạnh trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO so với cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT cũng như làm rõ những vị trí khác nhau của ba nước Trung Quốc, Ấn Độ và Pakistan khi những nước này tham gia vào quá trình tố tụng tại WTO. 5. Kết cấu của đề tài Ngoài phần lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, nội dung của đề tài được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Sự cần thiết phải vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may. Chương 2: Tìm hiểu kinh nghiệm của một số nước đang phát triển trong việc vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may và rút ra bài học cho Việt Nam. Chương 3: Một số kiến nghị để Việt Nam vận dụng thành công cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO trong giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may.

doc59 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1643 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đối với Việt Nam trong việc giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ấp về: Điều 2.2.2; 3.1; 3.2; 3.4; 3.5; 5.2; 5.3; 5.4; 5.8; 6; 12.2.2; 15 Xem phụ lục số 5 của Hiệp định chống bán phá giá và Điều 1 và 6 của GATT 1994. * Các mốc thời gian chính - Ngày 03/08/1998 EC nhận được yêu cầu tham vấn từ Ấn Độ về các loại thuế tuyệt đối chống bán phá giá do EC áp đặt đối với mặt hàng ga trải giường và vỏ gối cotton của Ấn Độ. - Ngày 30/10/2000 Báo cáo của Ban Hội thẩm được lưu hành - Ngày 01/03/2001 Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm được lưu hành -Ngày 12/03/2001 Báo cáo Ban Hội thẩm (WT/DS141/AB/R,DSR2001:VI, 2077- Báo cáo Ban Hội thẩm đã được sửa đổi theo báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm) và báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm (WT/DS141/AB/R, DSR 2001:V,2049) được DSB thông qua. - Ngày 29/11/2002 Báo cáo Ban Hội thẩm theo Điều 21.5 của DSU được lưu hành. - Ngày 08/04/2003 Báo cáo Cơ quan Phúc thẩm theo Điều 21.5 của DSU được lưu hành. 2.2. Diễn biến Ngày 30/07/1996, Ủy ban liên minh các ngành dệt và sợi cotton Châu Âu “Eurocotton” - một liên đoàn các hiệp hội nhà sản xuất hàng dệt may cotton trong nước - đã đệ trình đơn yêu cầu mở cuộc điều tra chống bán phá giá đối với ga trải giường và vỏ gối cotton nhập khẩu từ Ấn độ lên EC. Ngày 13/09/1996, EC ra thông báo bắt đầu cuộc điều tra. Thời gian điều tra bán phá giá là từ ngày 01/06/1995 đến ngày 30/06/1996 và thời gian điều tra tổn hại bắt đầu từ năm 1992 đến hết thời gian điều tra bán phá giá. EC thực hiện phân tích bán phá giá trên cơ sở lấy mẫu một số nhà xuất khẩu Ấn Độ. Tuy nhiên, trong 5 công ty Ấn Độ được lấy làm mẫu thì chỉ duy nhất Bomba Dyeing là có số liệu bán hàng tại thị trường nội địa của mặt hàng xem xét. Trên cơ sở đó, EC đã tính trị giá thông thường cho tất cả các nhà sản xuất Ấn Độ bị điều tra trên cơ sở giá thành sản phẩm. Như vậy, EC đã tính toàn bộ các chi phí bán hàng, chi phí chung, chi phí quản lý và lợi nhuận của tất cả các công ty trong mẫu nhưng chỉ dựa vào số liệu của Bomba Dyeing. Bên cạnh đó, EC đã tính phần thiệt hại bằng cách lấy một mẫu gồm 17 trong số 35 công ty hiện tại trong ngành sản xuất nội địa của các nước thuộc liên minh. Đến ngày 2/06/1997, EC đưa ra thông báo khẳng định sơ bộ về việc bán phá giá, mức tổn hại và quan hệ nhân quả. Ngày 14/06/1997 thuế chống bán phá giá tạm thời có hiệu lực. Ngày 28/11/1997, EC đưa ra thông báo cuối cùng khẳng định về việc bán phá giá sản phẩm ga trải giường của Ấn Độ sang thị trường Châu Âu (thông báo này được cụ thể bằng Điều lệ hội đồng số 2398/97 ngày 28/11/1997) 2.3. Tiến trình vụ kiện khi đưa lên Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO Vào ngày 03/08/1998, Ấn độ yêu cầu tham vấn với EC về một số loại thuế tuyệt đối chống bán phá giá mà EC đã áp đặt lên mặt hàng ga trải giường và vỏ gối cotton của Ấn Độ. Ấn Độ lập luận rằng: quá trình EC khởi xướng rồi tiến hành cuộc điều tra chống bán phá giá và áp đặt các mức thuế tạm thời theo Điều lệ Hội Đồng EC số 1069/97 ngày 12/06/1997, tiếp đó áp đặt các mức thuế cuối cùng theo Điều lệ Hội Đồng EC số 2398/97 ngày 28/11/1997 là sai và chưa phù hợp. Ấn Độ cũng chỉ ra rằng: - Thứ nhất: việc xác định tình hình khởi xướng vụ kiện, xác định hiện tượng phá giá và thiệt hại cũng như việc giải thích của các nhà chức trách Cộng đồng Châu Âu là không nhất quán với quy định của WTO. - Thứ hai: việc thiết lập tình tiết thực tế của các nhà chức trách cộng đồng Châu Âu là không phù hợp và việc đánh giá tình tiết này cũng không khách quan và công bằng. - Thứ ba: EC không tính đến trường hợp đặc biệt Ấn Độ là một nước đang phát triển. Tất cả những điều đó đã vi phạm các Điều 2.2.2, 3.1, 3.2, 3.4, 3.5, 5.2, 5.3, 5.4, 5.8, 6, 12.2.2, 15 của Hiệp định Chống bán phá giá và Điều 1 và 6 của GATT 1994. Đến ngày 07/09/1999 Ấn Độ yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm. Sau một lần bị trì hoãn thì đến cuộc họp ngày 27/10/1999, DSB đã thành lập Ban Hội thẩm. Ngày 12/01/2000 Ấn Độ yêu cầu Tổng giám đốc WTO quyết định thành phần Ban Hội thẩm. Ngày 24/01/2000 thành phần Ban Hội thẩm được quyết định. Ngày 30/10/2000 báo cáo của Ban Hội thẩm được lưu hành với kết luận rằng: + Thứ nhất: Cộng đồng chung Châu Âu EC đã hành động trái với Điều 2.4.2 của Hiệp định Chống bán phá giá bằng “việc tính bằng không” các biên độ âm của các loại sản phẩm riêng rẽ. + Thứ hai: EC đã vi phạm Điều 3.4 của Hiệp định Chống bán phá giá khi không xem xét tất cả các yếu tố gây tổn hại liệt kê trong điều khoản này. EC đã xem xét thông tin từ các nhà sản xuất không phải là bộ phận của “ngành trong nước”. Như vậy, EC đã hành động trái với Điều 3.4 của Hiệp định Chống bán phá giá. + EC vi phạm Điều 15 của Hiệp định Chống bán phá giá khi chưa xem xét đến hoàn cảnh Ấn Độ là một nước đang phát triển. Ngày 01/12/2000 EC thông báo với DSB về ý định kháng án. Ngày 01/03/2001: Báo cáo Cơ quan Phúc thẩm được lưu hành, Cơ quan Phúc thẩm kết luận: + Giữ nguyên phán quyết của Ban Hội thẩm rằng EC đã hành động trái với Điều 2.4.2 của Hiệp định Chống bán phá giá khi “tính bằng không” biên độ âm của các sản phẩm riêng rẽ. + Bãi bỏ các phán quyết còn lại của Ban Hội thẩm. Ngày 12/03/2001, DSB chấp nhận báo cáo của đoàn kháng án và báo cáo của Ban Hội thẩm (đã được sửa theo báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm). 2.4. Hậu phán quyết của Cơ quan Phúc thẩm. - Ngày 08/03/2002 viện dẫn Điều 21.5 của DSU, Ấn Độ yêu cầu tham vấn lại. - Ngày 04/04/2002, Ấn Độ yêu cầu thành lập ban giám sát thực thi. -Tại cuộc họp của DSB ngày 17/04/2002, Ấn Độ thông báo: theo thỏa thuận đạt được giữa EC và Ấn Độ, Ấn Độ yêu cầu không xem xét vụ kiện trong chương trình nghị sự theo Quy tắc 6 về Thủ tục cho các cuộc họp WTO và DSB đã chấp nhận. - Ngày 07/05/2002, Ấn Độ lại yêu cầu thành lập ban giám sát. - Tại cuộc họp của DSB vào ngày 22/05/2002, các bên thống nhất rằng nếu có thể thì vấn đề sẽ được gửi tới Ban Hội thẩm ban đầu. 3. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Sau khi nghiên cứu diễn biến, quá trình của vụ kiện DS 141 “EC - Thuế chống bán phá giá đối với ga trải giường và vỏ gối cotton nhập khẩu từ Ấn Độ”, có thể rút ra ba bài học kinh nghiệm sau đây cho Việt Nam: - Bài học thứ nhất: cần có sự hiểu biết rõ về pháp luật thương mại quốc tế. Quá trình một cuộc điều tra chống bán phá giá, một vụ kiện chống bán phá giá trong khuôn khổ WTO là một trình tự pháp lý phức tạp, đòi hỏi các bên tham gia phải có hiểu biết rất rõ về pháp luật thương mại quốc tế. Với vị thế là nước đang phát triển nhưng Ấn Độ đã thể hiện mình là một quốc gia “có bản lĩnh” khi tham gia vào hệ thống thương mại thế giới nói chung và thương mại hàng dệt may nói riêng. Trước hết, trong khi EC tiến hành điều tra chống bán phá giá thì dường như phía Ấn Độ theo dõi rất chặt chẽ mọi hành động và tiến trình mà EC tiến hành. Bằng chứng là ngay sau khi bị áp đặt thuế chống bán phá giá, Ấn Độ đã yêu cầu tham vấn về các loại thuế đó và họ đã đưa ra những lập luận hợp lý và sắc bén. Điều đó thể hiện Ấn Độ đã theo dõi các tình tiết vụ việc rất sát sao và rất am hiểu các Hiệp định của WTO nói chung và Hiệp định Chống bán phá giá nói riêng. Ấn Độ đã thành công khi chỉ ra rằng EC đã vi phạm các Điều: 2.2.2, 3.1, 3.2, 3.4, 3.5, 5.2, 5.4, 5.8, 6, 12.2.2, 15 của Hiệp định Chống bán phá giá và Điều 1 và 6 của GATT 1994. - Bài học thứ hai: cần có sự quyết tâm, kiên trì theo đuổi vụ kiện đến cùng bằng việc tin vào lập luận và sự hiểu biết của mình. Cuối cùng, kết luận của cả Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm đều nghiêng về phía Ấn Độ. Các bản báo cáo đều đề xuất EC phải thay đổi chính sách thuế của họ. Trên thực tế, EC đã chấp nhận phán quyết cuối cùng của Cơ quan Phúc thẩm nhưng họ lại không thực hiện đầy đủ các đề xuất mà bản báo cáo đưa ra. Ấn Độ đã không chấp nhận điều đó, nên vào ngày 08/03/2002, viện dẫn Điều 21.5 của DSU Ấn Độ đã yêu cầu tham vấn lại. Đến ngày 04/04/2002 yêu cầu thành lập Ban giám sát thực thi và sau hai lần thành lập Ban giám sát thực thi (lần 2 vào ngày 07/05/2002) Ấn Độ cho rằng EC vẫn chưa nghiêm túc thực thi các đề xuất của Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm. Tại cuộc họp của DSB vào ngày 22/05/2002 Ấn Độ lại tiếp tục đưa vấn đề này vào chương trình nghị sự của DSB và DSB đã thống nhất rằng: “Nếu có thể thì vấn đề sẽ được gửi tới Ban Hội thẩm ban đầu”. Theo dõi suốt quá trình vụ kiện diễn ra, bắt đầu từ giai đoạn tham vấn đến khi bản báo cáo cuối cùng của Cơ quan Phúc thẩm được thông qua và cả trong giai đoạn thực thi phán quyết, không lúc nào Ấn Độ chịu “lép vế” trước EC. Họ theo dõi sát sao các tình tiết, tích cực tham gia cùng các bên liên quan và luôn sẵn sàng tận dụng mọi điều khoản có thể được để bảo vệ lợi ích quốc gia nói chung và ngành dệt may nói riêng. Ấn Độ cũng kiên quyết chống lại bất cứ hành động không hợp lý nào xâm hại lợi ích quốc gia mình, cho dù hành động đó xuất phát từ phía bên kia hay ngay cả từ cơ quan giải quyết tranh chấp. - Bài học thứ ba: quyết tâm giữ vững vị thế của nước mình dù vụ kiện chỉ thắng lợi về danh nghĩa. Cho đến tận cuộc họp ngày 22/05/2002 của DSB, tức là khoảng 3 năm 9 tháng kể từ khi bắt đầu tham vấn (03/08/1998) và khoảng 5 năm 8 tháng kể từ khi EC bắt đầu cuộc điều tra chống bán phá giá (30/07/1996), vụ việc vẫn chưa được giải quyết dứt điểm để giành lại sự công bằng cho Ấn Độ theo như tinh thần của các bản báo cáo. Phần thắng rõ ràng đã nghiêng về Ấn Độ nhưng đó chỉ là về mặt danh nghĩa mà không có thực. Trong khi đó, để có thể theo kiện gần 4 năm trời Ấn Độ đã phải tập trung nguồn nhân lực và bỏ ra một khoản chi phí không hề nhỏ. Vậy một câu hỏi đặt ra là: có phải Ấn Độ chỉ đơn thuần đạt được một phán quyết có lợi cho mình? Trên thực tế, việc Ấn Độ theo đuổi vụ kiện đến cùng còn giúp quốc gia này đạt được lợi ích lớn hơn, đó là một vị thế vững chắc hơn trong thương mại quốc tế nói chung và thương mại hàng dệt may nói riêng. Sau vụ kiện này nếu một quốc gia nào khác muốn tiến hành điều tra chống bán phá giá đối với các mặt hàng của Ấn Độ mà đặc biệt là với mặt hàng dệt may thì họ sẽ phải hết sức thận trọng. Chính điều này sẽ tạo cho Ấn Độ một vị thế nhất định khi tham gia vào hệ thương mại thế giới và có lẽ đó mới là cái lớn nhất mà Ấn Độ mong muốn có được. Có thể nói, Ấn Độ là một quốc gia đang phát triển tiêu biểu tham gia vào hệ thống thương mại thế giới với nguồn nhân lực về pháp luật quốc tế có chất lượng rất cao. Qua vụ kiện cụ thể này, Ấn Độ cũng giúp Việt Nam tin tưởng rằng Việt Nam cũng hoàn toàn có quyền bình đẳng trong hệ thống thương mại thế giới, hoàn toàn có thể tham gia vào hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO để bảo vệ những lợi thế có được từ các mặt hàng là thế mạnh của mình như dệt may. Ấn Độ đã trở thành một hình mẫu cho Việt Nam cũng như cho các nước đang phát triển khác trên thế giới noi theo. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỂ VIỆT NAM VẬN DỤNG THÀNH CÔNG CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THƯƠNG MẠI HÀNG DỆT MAY I. Dự báo khả năng phát sinh tranh chấp về thương mại hàng dệt may liên quan đến Việt Nam sau khi gia nhập WTO 1. Cơ sở để dự báo 1.1. Vai trò của ngành dệt may đối với nền kinh tế Việt Nam Theo báo cáo thống kê hàng hoá của Tổng cục Hải quan, dệt may là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với tổng kim ngạch trong năm 2006 đạt tới 5,8 tỷ USD chiếm 14,65% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước, chỉ đứng sau dầu thô Trích Báo cáo thống kê hàng hoá xuất khẩu, ngày 28/01/2007 của Cục công nghệ thông tin & Thống kê Hải quan, Tổng cục Hải quan . Với tốc độ tăng kim ngạch trung bình hàng năm trên 20%, chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2007, giá trị xuất khẩu dệt may đã đạt tới con số 3,4 tỷ USD chiếm đến 14,99% tổng kim ngạch xuất khẩu. Từ những số liệu thống kê như trên, rõ ràng xuất khẩu dệt may là một nguồn thu ngoại tệ hết sức quan trọng của Việt Nam. Ngoài ra, với đặc điểm cần nhiều lao động, ngành dệt may đã tạo ra nhiều công ăn việc làm, góp phần làm giảm đáng kể tỉ lệ thất nghiệp và ổn định an sinh xã hội cho đất nước. Theo thông tin từ Hiệp hội dệt may, tính đến cuối năm 2006, cả nước có khoảng 2000 doanh nghiệp dệt may và đang sử dụng khoảng 2 triệu lao động Theo thông tin từ Hiệp hội Dệt may Việt Nam . Trong thời điểm hiện nay, có thể nói dệt may là ngành công nghiệp trọng điểm mũi nhọn, đóng góp một phần không nhỏ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam. Nhận thức được tầm quan trọng đó, chính phủ Việt Nam đã có những chính sách tích cực phát triển ngành dệt may, từ đó làm cho dệt may Việt Nam có một vị trí đáng kể trên thị trường quốc tế. 1.2. Vị trí thương mại hàng dệt may Việt Nam trên thế giới Gia nhập WTO khi chế độ hạn ngạch MFA bị bãi bỏ là cơ hội tăng trưởng rất lớn đối với dệt may Việt Nam. Nhưng đi kèm theo đó là việc phải cạnh tranh với các "đại gia" về dệt may như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh... những nước có lợi thế hơn Việt Nam cả về nguyên vật liệu, lao động, thiết kế và thương hiệu. Tuy gặp phải nhiều khó khăn thách thức, nhưng Việt Nam vẫn tận dụng được những cơ hội để phát triển ngành dệt may. Xuất khẩu dệt may Việt Nam năm 2006 đạt hơn 5,8 tỉ USD, tăng 20,5% so với năm 2005 và là nước đứng thứ 10 trong số các nước có kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất thế giới. Hiện nay, Việt Nam đã trở thành nước đứng thứ 7 thế giới về xuất khẩu hàng dệt may với tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may 6 tháng đầu năm 2007 là 3,4 tỷ USD Trích Báo cáo Hải quan năm 2006 và 5 tháng đầu năm 2007 . Thị trường xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam hiện nay đã khá đa dạng, nhưng lớn nhất vẫn là thị trường Hoa Kỳ. Năm 2006, Mỹ nhập khẩu khoảng 3,04 tỷ USD hàng dệt may Việt Nam, chiếm 55% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và chiếm 3% tổng lượng hàng nhập khẩu dệt may vào Mỹ. Đứng thứ hai là thị trường EU Nguồn: Trung tâm thông tin Bộ Thương mại . Năm 2002, kim ngạch nhập khẩu vào EU của dệt may Việt Nam là 645 triệu USD, xếp thứ 19, đến năm 2006 là 1,2 tỷ USD. Tiếp đến là thị trường Nhật Bản. Nhật Bản là thị trường phi hạn ngạch, bạn hàng quen thuộc từ lâu đối với dệt may Việt Nam. Năm 2002, nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam vào Nhật đạt 84 triệu USD, đứng thứ 9 trong số những nước xuất khẩu dệt may vào nước này Trích Thời đại mới – Tạp chí nghiên cứu và thảo luận, số 2 tháng 07/2004 . Năm 2005, con số đó đã lên tới 600 triệu USD, tức là tăng gấp 7 lần. Ngoài ra hàng dệt may Việt Nam còn xuất khẩu vào các thị trường khác như ASEAN, Canada, Nga … Ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO, Bộ Thương mại Mỹ đã đặt ra cơ chế giám sát cho hàng dệt may Việt Nam. Điều này không những gây ảnh hưởng đến các doanh nghiệp nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam ở Mỹ mà còn gây ra tâm lý e ngại nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam từ những thị trường khác. Tuy vậy, dệt may Việt Nam vẫn đề ra mục tiêu xuất khẩu đến năm 2010 đạt khoảng 10-12 tỷ USD 10 – 12 tỷ là mục tiêu mà Hiệp hội dệt may thống nhất đề ra vào tháng 05/2007, còn theo khoản 3 Điều 1, Quyết định số 55/2001/QĐ-TTg ngày 23/4/2001 thì con số đó chỉ là 8-9 tỷ. . Con số này cho thấy Việt Nam luôn coi dệt may là mặt hàng chủ lực của mình và quyết tâm giữ vững vị thế xuất khẩu hàng dệt may của mình trên thế giới. 1.3. Thách thức đối với dệt may Việt Nam hậu WTO Kể từ ngày 12/1/2007 – ngày Việt Nam phải thực hiện các cam kết của mình trong WTO, hạn ngạch dệt may xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ sẽ được bãi bỏ để phù hợp với quy định trong Thoả thuận song phương về việc Việt Nam gia nhập WTO cũng như quy định tại điều 20(B) của Hiệp định dệt may song phương. Sự kiện này được nhiều chuyên gia nhận định sẽ là cú huých tạo đà cho sự tăng trưởng xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam vào Hoa Kỳ trong thời gian tới. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi thấy được trước mắt, các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam còn phải đối mặt với những thách thức không nhỏ do những cam kết gia nhập WTO cũng như việc thông qua Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) mang lại. Một trong những điểm mấu chốt để kết thúc đàm phán song phương gia nhập WTO với Hoa Kỳ chính là những vấn đề xung quanh thương mại hàng dệt may, mà nổi bật là những trợ cấp trái với quy định của WTO của ngành dệt may Việt Nam. Để tháo gỡ vướng mắc này, Việt Nam đã cam kết xoá bỏ tất cả những trợ cấp bị cấm trong ngành dệt may kể từ thời điểm gia nhập WTO. Theo đó, tác động đối với ngành dệt may đến từ việc Việt Nam sẽ phải cắt giảm 3 hình thức ưu đãi bao gồm: ưu đãi về tín dụng, ưu đãi về đầu tư và bảo lãnh tín dụng đầu tư. Như vậy, ngành dệt may sẽ nhận được ít hỗ trợ hơn từ phía Chính phủ và điều đó cũng phần nào làm giảm sức cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp trong ngành. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là việc Hoa Kỳ tỏ ra nghi ngại về khả năng thực thi các cam kết xoá bỏ trợ cấp về dệt may của Việt Nam. Theo nhận định của nhiều chuyên gia, Hoa Kỳ đã rút ra được bài học cay đắng từ trường hợp của Trung Quốc gia nhập WTO nên sẽ giám sát chặt chẽ việc tuân thủ các cam kết của Việt Nam. Theo đó, một khi Hoa Kỳ chứng minh được Việt Nam chưa xoá bỏ các loại trợ cấp bị cấm ngay từ khi gia nhập thì nước này có quyền áp đặt hạn ngạch ngay lập tức đối với hàng dệt may Việt Nam. Việt Nam cũng đã chấp nhận sẽ không khởi kiện việc Hoa Kỳ áp dụng hạn ngạch theo các thoả thuận này, bất kể Việt Nam có thể có quyền khởi kiện Hoa Kỳ theo các hiệp định của WTO. Như vậy, Hoa Kỳ có quyền áp dụng biện pháp tự vệ đặc biệt đối với ngành dệt may Việt Nam và hạn ngạch có thể bị tái áp dụng. Mặt khác, nhằm tạo thuận lợi cho việc thông qua Quy chế PNTR với Việt Nam, Bộ thương mại Hoa Kỳ cũng đã cam kết trước Quốc Hội nước này sẽ xúc tiến áp dụng cơ chế giám sát đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam ngay từ thời điểm Việt Nam gia nhập WTO. Theo đó, định kỳ 6 tháng một lần, Bộ thương mại Hoa Kỳ sẽ tiến hành rà soát kết quả giám sát để xem xét bằng chứng phục vụ tiến hành điều tra chống bán phá giá. Trong trường hợp tình hình diễn biến phức tạp và Hoa Kỳ có thể chứng minh được hàng dệt may Việt Nam bán phá giá thì nước này sẽ đánh thuế chống bán phá giá tạm thời. Cơ chế giám sát này sẽ có hiệu lực cho đến khi nhiệm kỳ hiện tại của chính quyền Tổng thống G. Bush kết thúc vào cuối năm 2008. Trên thực tế, cơ chế này đã tạo ra thách thức không nhỏ đối với ngành dệt may của chúng ta bởi vì Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của hàng dệt may Việt Nam với sản lượng chiếm khoảng 50% tổng kim ngạch. Trước lần đánh giá đầu tiên dự kiến diễn ra vào tháng 8/2007, lượng đơn hàng xuất sang Mỹ đã giảm đáng kể và các doanh nghiệp Việt Nam buộc phải có những phương án chuyển hướng sang các thị trường khác. Bên cạnh đó, khi gia nhập WTO Việt Nam ngay lập tức phải thực thi cam kết về cắt giảm thuế nhập khẩu hàng dệt may, Việt Nam sẽ phải giảm thuế suất MFN cho nhóm hàng dệt may từ mức bình quân hiện hành 37,3% xuống còn 13,7% áp dụng cho tất cả các thành viên WTO. Trong đó, nhóm hàng xơ, sợi giảm từ 20% xuống còn 5%, vải từ 40% còn 12%, quần áo và đồ may sẵn từ 50% còn 20% Tổng hợp từ cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO . Như vậy, ngành dệt may thậm chí còn không có thời gian chuẩn bị đã phải cạnh tranh ngay với các doanh nghiệp nước ngoài trên chính thị trường nội địa, nhất là từ nước láng giềng Trung Quốc. Việc cắt giảm thuế suất đã tạo áp lực rất lớn đối với ngành dệt may nhất là khi sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành còn yếu. Trong những năm tới, xuất khẩu hàng dệt may có thể gặp phải nhiều khó khăn do sự cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ ở cả thị trường trong nước, khu vực và thế giới. Đáng nói hơn, ngành dệt may còn phải đối mặt với nguy cơ bị Hoa Kỳ tiến hành các cuộc điều tra và áp đặt thuế chống bán phá giá cũng như áp dụng các biện pháp tự vệ đặc biệt để bảo hộ ngành công nghiệp nội địa. 2. Khả năng phát sinh tranh chấp về hàng dệt may Dệt may là mặt hàng mà các nước đang phát triển có lợi thế so sánh rất lớn và cũng nằm trong nhóm hàng “nhạy cảm” nhất thế giới. Theo số liệu thống kê từ báo cáo của Ban thư ký WTO ngày 11/06/2007, các cuộc điều tra chống bán phá giá đi kèm với các vụ kiện chống bán phá giá trong thương mại hàng dệt may nổi lên như một hiện tượng kể từ khi chế độ hạn ngạch bị xóa bỏ từ 31/12/2004 cho đến nay. Cụ thể, trong giai đoạn 6 tháng cuối năm 2006 đã có tất cả 103 vụ điều tra chống bán phá giá tương ứng với 66 biện pháp chống bán phá giá được áp dụng, trong đó, dệt may dẫn đầu danh sách các sản phẩm bị áp dụng với 14 biện pháp. Khi chế độ hạn ngạch đã bị xóa bỏ thì các cuộc điều tra chống bán phá giá dường như là một công cụ đắc lực để bảo vệ ngành sản xuất dệt may trong nước và đó là khởi nguồn cho các vụ kiện chống bán phá giá phát sinh sau này. Xu thế đó có thể sẽ vẫn tiếp tục trong thời gian tới. Từ ngày 12/01/2007, hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sẽ không còn bị hạn chế bởi chế độ hạn ngạch nữa. Theo đó, khi chế độ hạn ngạch bị dỡ bỏ thì có xu thế tăng trưởng quá nhanh của số lượng hàng dệt may xuất khẩu; việc tăng trưởng quá mức như vậy mà muốn bán được nhiều sản phẩm thì phải hạ giá xuất khẩu, và khi hạ giá như thế sẽ gây áp lực cạnh tranh lên các nhà sản xuất hàng dệt may trong nước của các quốc gia nhập khẩu, khi đó các nhà sản xuất này có ý kiến với chính phủ của họ và xu thế tất yếu các cuộc điều tra chống bán phá giá sẽ diễn ra. Cũng theo báo cáo của Ban thư ký WTO vào ngày 11/06/2007, trong số 103 vụ điều tra chống bán phá giá chưa có sự góp mặt của Việt Nam. Tuy vậy, nguy cơ hàng dệt may Việt Nam bị điều tra chống bán phá giá theo quy định của WTO đang hiển hiện. Bằng chứng là xuất khẩu dệt may Việt Nam đang phải đối mặt với cơ chế giám sát của Mỹ, một quốc gia chiếm tới 55% thị phần xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Bộ thương mại Mỹ dự kiến đến tháng 08/2007 này sẽ đưa ra kết quả của 6 tháng giám sát đầu tiên. Bên cạnh đó, trong văn kiện gia nhập WTO, Việt Nam vẫn bị coi là nước có nền kinh tế phi thị trường (trong vòng 12 năm kể từ ngày gia nhập WTO). Tất cả những điều đó cảnh báo một nguy cơ tiềm ẩn trong việc hàng dệt may Việt Nam sẽ bị điều tra chống bán phá giá và khả năng phát sinh tranh chấp về lĩnh vực này là rất khó tránh khỏi. II. Một số kiến nghị cụ thể 1. Đối với Nhà nước 1.1. Tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu về pháp luật thương mại quốc tế nói chung và pháp luật của WTO nói riêng Như đã phân tích ở chương 2, công tác đào tạo đội ngũ đóng vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt đối với Việt Nam. Không chỉ thiếu kinh nghiệm trong giải quyết tranh chấp, Việt Nam hiện nay còn thiếu trầm trọng nguồn nhân lực chuyên sâu, có sự hiểu biết về pháp luật thương mại quốc tế đủ tầm để tự tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp tại WTO. Sự thiếu hụt trầm trọng này sẽ khiến cho Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong khâu chuẩn bị hồ sơ tranh tụng. Để tăng cường công tác đào tạo, theo chúng tôi, nhà nước cần xây dựng một chiến lược đào tạo toàn diện đội ngũ chuyên gia trong nước có chất lượng cao, chuyên sâu về pháp luật thương mại quốc tế, về hệ thống các quy định của WTO và giỏi về ngoại ngữ. Chiến lược đào tạo toàn diện này cần có sự tính toán kỹ lưỡng, cần có sự kết hợp hiệu quả giữa nhiều Bộ, ngành và các cơ quan quản lý nhà nước khác nhau. Chiến lược đào tạo này cũng cần có những quy mô, thời gian đào tạo khác nhau như đào tạo ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và đào tạo ở trong nước kết hợp đào tạo ở nước ngoài. Chiến lược đào tạo đó cũng cần hướng tới những đối tượng đào tạo cụ thể như cán bộ quản lý, cán bộ nghiên cứu, nhà quản lý hiệp hội ngành nghề, doanh nghiệp, các cán bộ trẻ và đặc biệt là lớp sinh viên trẻ của các trường đại học, để có thể tránh lãng phí cho ngân sách nhà nước đồng thời vẫn có được hiệu quả tối ưu cho từng đối tượng đào tạo: 1.1.1. Đào tạo ngắn hạn Chính phủ Việt Nam cần tận dụng có hiệu quả các quy định của WTO về đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các nước đang và kém phát triển, theo đó các nước có trình độ phát triển cao hơn, Ban thư ký của WTO và các tổ chức quốc tế khác sẽ hỗ trợ các nước đang phát triển như Việt Nam về mặt kỹ thuật pháp lý trong WTO thông qua các chương trình, dự án phát triển đào tạo ngắn hạn của họ. Một trong những dự án như vậy đã được triển khai tại Việt Nam vào tháng 2005, 2006, 2007 là “Dự án hỗ trợ đa biên I, II” (MUTRAP I, II) dưới sự hỗ trợ tài chính của Ủy ban châu Âu. Trong chương trình của dự án có các cuộc hội thảo đào tạo ngắn hạn từ 3 dến 4 ngày về thủ tục giải quyết tranh chấp và các hiệp định của WTO có liên quan dành cho các nhà quản lý, cán bộ nghiên cứu, các lãnh đạo Hiệp hội ngành hàng và các doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối tượng đi học là sinh viên hầu như chưa có. Vì vậy, chúng tôi kiến nghị là cần có chiến lược đào tạo ngắn hạn tổ chức vào dịp hè, để sinh viên các trường đại học có thể dễ dàng tham gia. 1.1.2. Đào tạo trung và dài hạn Đây là hình thức đào tạo mà chính phủ cần đặc biệt quan tâm và đầu tư thích đáng để có được một đội ngũ chuyên gia trong nước có chất lượng cao đủ tầm gánh vác những nhiệm vụ mà thực tiễn thương mại thế giới nói chung và thực tiễn giải quyết tranh chấp trong WTO đòi hỏi. - Trước tiên, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Công Thương và các Bộ, ngành khác cần rà soát những cán bộ trẻ có đủ tố chất, kiến thức cơ bản, có triển vọng, tinh thông ngoại ngữ trong bộ máy của chính Bộ Công Thương và của những trung tâm nghiên cứu, các trường đại học, và ngay lập tức có kế hoạch tài chính để gửi họ đi học dài hạn ở các nước có ngành luật phát triển như Mỹ, các nước Châu Âu và ngay tại Ban thư ký của WTO. Đây là một hướng đào tạo tốn kém tiền bạc và thời gian, nhưng là tối cần thiết để có được một đội ngũ chuyên gia “hạt nhân” chuyên sâu có chất lượng cao. - Thứ hai, ngoài việc gửi cán bộ đi học ở các trung tâm có ngành luật phát triển như Mỹ, các nước Châu Âu và Ban thư ký của WTO thì Việt Nam cũng cần tính đến việc gửi sinh viên sang các nước đang phát triển có trình độ phát triển cao hơn như Ấn Độ -nước có nhiều kinh nghiệm trong vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và đặc biệt chi phí sẽ rẻ hơn rất nhiều- và học ngay tại tòa án hoặc các bộ phận có liên quan đến WTO của họ. Hơn nữa, các chuyên gia luật của Ấn độ cũng có trình độ cao, đã được thế giới công nhận thông qua thực tiễn giải quyết tranh chấp trong thời gian vừa qua; điển hình trong vụ kiện đã phân tích ở trên, Ấn Độ đã theo kiện đến cùng và đã giành thắng lợi trước một trung tâm có ngành luật phát triển hàng đầu như Liên minh Châu Âu. - Thứ ba, Bộ giáo dục và Đào tạo cần phối hợp với các Bộ ngành có liên quan, liên hệ với các chuyên gia trong nước cùng các chuyên gia nước ngoài tại các trường đại học có ngành luật phát triển để thiết kế các chương trình giảng dạy, các chuyên ngành học chuyên sâu về pháp luật thương mại quốc tế, pháp luật của WTO, cũng như đào tạo ngoại ngữ một cách chuyên nghiệp để triển khai đào tạo bậc đại học và sau đại học về lĩnh vực này tại các trường đại học của Việt Nam. Trong tương lai, khi kết hợp với các loại hình đào tạo khác chúng ta có thể hoàn thiện được hệ thống đào tạo nguồn nhân lực, có thể chủ động phát triển không phụ thuộc quá nhiều vào các chuyên gia nước ngoài. - Cuối cùng, chính phủ cũng nên có kế hoạnh triển khai hình thức đào tạo trực tuyến qua mạng Internet khi trình độ ngoại ngữ, tin học của các cán bộ và sinh viên đã đạt đến một trình độ nhất định. Hình thức này giúp cho người học có thể theo học các cấp khác nhau tại những trung tâm đào tạo lớn nhất trên thế giới với chi phí thấp nhưng vẫn rất hiệu quả. Hơn thế nữa, đào tạo trực tuyến còn góp phần tiết kiệm chi phí đi lại cũng như ăn ở cho các nghiên cứu sinh khi học tại nước ngoài. Đó cũng là xu thế phát triển đào tạo chung của thế giới. 1.2. Thành lập bộ phận chuyên trách để đặc biệt theo dõi tiến trình về giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế nói chung và thương mại hàng dệt may nói riêng Trước thực tế tranh chấp trong thương mại hàng dệt may có thể xảy ra bất cứ lúc nào, việc thành lập một bộ phận chuyên trách để theo dõi về tranh chấp trong thương mại quốc tế nói chung và thương mại hàng dệt may nói riêng là rất cần thiết. Việt Nam vừa mới gia nhập WTO và chưa có kinh nghiệm về giải quyết tranh chấp trong WTO, vì thế vai trò đầu tiên của bộ phận này là thành lập các nhóm chuyên gia để theo dõi và thu thập thông tin về các vụ kiện diễn ra trên thế giới, đặc biệt là trong khuôn khổ WTO, tập hợp các án lệ để phân tích, lấy kinh nghiệm phục vụ cho những vụ kiện của Việt Nam sau này. Bộ phận chuyên trách trực thuộc Bộ Công Thương này cũng có nhiệm vụ làm đầu mối khi có vụ tranh chấp liên quan đến Việt Nam xảy ra. Đây sẽ là bộ phận tập hợp các yêu cầu tham vấn từ các quốc gia thành viên khác, lập kế hoạch theo kiện và thông báo tình hình đến các doanh nghiệp, hiệp hội để chuẩn bị ứng phó với vụ kiện. Hơn nữa, bộ phận này cũng sẽ tiếp nhận các thông tin, ý kiến yêu cầu từ các doanh nghiệp, hiệp hội trong nước để xem xét xử lý và đưa ra khuyến nghị cho các cơ quan quản lý Nhà nước để khởi kiện lên cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO nếu cần thiết. Nếu phải theo kiện, bộ phận này cũng sẽ chịu trách nhiệm chuẩn bị hồ sơ theo kiện cũng như thuê luật sư và các chuyên gia tư vấn thích hợp cho vụ kiện. Ngoài ra, bộ phận này cũng cần theo dõi sát sao quá trình diễn biến của vụ kiện để kịp thời đưa ra chiến lược tranh tụng hợp lý và có lợi cho Việt Nam. Mặt khác, sự hiểu biết của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam về WTO và cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO còn hạn chế. Vì vậy, bộ phận chuyên trách còn phải gánh vác nhiệm vụ phổ biến những kiến thức cơ bản cho các doanh nghiệp để họ có thể tham gia vào hệ thống thương mại thế giới theo đúng khuôn khổ pháp lý của WTO, tránh xảy ra những tranh chấp không cần thiết. Ngoài ra, những kiến thức này cũng sẽ giúp các doanh nghiệp có thể ứng phó với các vụ kiện có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của họ. 2. Đối với Hiệp hội ngành Dệt may 2.1. Hiệp hội dệt may cần nâng cao hiệu quả hoạt động và vai trò đầu mối liên kết giữa các doanh nghiệp cũng như giữa doanh nghiệp với chính phủ Từ vụ kiện giữa Pakistan và Mỹ, chúng ta có thể thấy rõ vai trò quan trọng của hiệp hội dệt may trong việc liên kết khối doanh nghiệp và khối chính phủ. Chính phủ đề ra chính sách và yêu cầu doanh nghiệp phải tuân theo vì lợi ích chung. Trong khi đó, doanh nghiệp lại chủ yếu hoạt động vì mục đích kinh doanh của mình. Điều này làm cho việc liên kết giữa hai khối gặp rất nhiều khó khăn; do vậy, vai trò của hiệp hội dệt may là không thể thiếu. Trong hoàn cảnh hàng dệt may Việt Nam hiện đang đứng trước nguy cơ bị kiện bán phá giá rất cao, việc liên kết hai khối chính phủ và doanh nghiệp lại càng trở nên cấp thiết. Hiện nay, các doanh nghiệp dệt may trong nước đã tham gia vào Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) do ông Lê Quốc Ân làm chủ tịch. Với vai trò là người đại diện cho các doanh nghiệp thành viên, VITAS đã có những hoạt động tích cực như kiến nghị với Nhà nước và Chính phủ trong việc đề ra các chính sách, các cơ chế quản lý của nhà nước đối với ngành; VITAS cũng đưa ra các đề xuất với chính phủ để thúc đẩy sự phát triển của ngành dệt may trong nước. Nhưng có lẽ những hoạt động này vẫn là chưa đủ nên trong thời gian tới, Hiệp hội cần phải có những hoạt động thiết thực hơn nữa, đặc biệt là trong những vấn đề liên quan đến giải quyết tranh chấp. Các bộ phận chức năng thuộc các cơ quan Chính phủ sẽ có nhiệm vụ theo dõi, rà soát tình hình, thu thập thông tin liên quan đến thương mại hàng dệt may trên thế giới để kịp thời đưa ra những cảnh báo và khuyến nghị cần thiết định hướng cho hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may trong nước. Trên cơ sở đó, Hiệp hội cần phải nắm bắt để chuyển tải nhanh chóng và chính xác những khuyến nghị này tới toàn bộ các doanh nghiệp. Đồng thời, Hiệp hội cũng phải tổ chức những phiên họp toàn thể mở rộng bàn về các biện pháp cần thiết nhằm thúc đẩy xuất khẩu nhưng vẫn tránh được nguy cơ bị kiện ở mức cao nhất. Đặc biệt, khi vụ kiện thực sự xảy ra, Hiệp hội còn phải đảm nhận vai trò cầu nối để tập hợp, phân tích, lựa chọn thông tin cần thiết từ phía doanh nghiệp cung cấp cho các cơ quan thuộc chính phủ trong quá trình tham gia kiện. Ngược lại, Hiệp hội cũng cần theo dõi sát sao và cập nhật thông tin từ chính phủ về diễn biến vụ kiện để ngay lập tức cung cấp cho doanh nghiệp, giúp họ định hướng giải quyết hay chuẩn bị tài chính và các nguồn lực khác để theo kiện đến cùng. Để nâng cao hơn nữa vai trò là đầu mối liên kết của mình, theo đề xuất của nhóm nghiên cứu, trước hết Hiệp hội cần phải xây dựng cơ cấu tổ chức chặt chẽ và hoạt động hiệu quả. Bên cạnh đó, Hiệp hội cần phải duy trì, phát triển hạ tầng cơ sở hệ thống thông tin, chủ yếu là kết nối qua mạng internet. Hiện nay, Hiệp hội đã có cổng giao tiếp điện tử để chuyển tải tin tức và liên kết các doanh nghiệp, tuy nhiên điều này vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu thực tế. Vì vậy, Hiệp hội cần đầu tư xây dựng, nâng cấp trang thông tin điện tử này nhiều hơn nữa, thường xuyên cập nhật, trao đổi và đảm bảo cung cấp thông tin hai chiều, lưu chuyển thông suốt. Bên cạnh đó, Hiệp hội cũng cần tham gia vào hoạt động của các tổ chức ngành trong vùng, các tổ chức quốc tế và với các liên đoàn dệt may các nước... nhằm tăng cường trao đổi thông tin, đặc biệt là về các tranh chấp xảy ra trong thương mại hàng dệt may. Ngoài ra, VITAS cũng cần thể hiện rõ hơn vai trò cầu nối trong việc liên kết các doanh nghiệp dệt may với nhau. Hiện nay, các doanh nghiệp trong Hiệp hội đã hợp tác và phối hợp trong các hoạt động như: tổ chức, môi trường, khoa học công nghệ và xúc tiến thương mại... để nâng cao tính cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp thành viên cũng như của toàn ngành dệt may Việt Nam; nhưng đó mới chỉ đơn giản là về mặt kinh doanh sản xuất. Trong thời điểm hiện tại, Hiệp hội còn phải đóng vai trò quan trọng kết nối các doanh nghiệp để ứng phó với các vụ kiện về dệt may có liên quan đến Việt Nam. Ví dụ như: nếu Việt Nam có khả năng bị kiện bán phá giá, Hiệp hội cần tập hợp các doanh nghiệp lại để tìm cách đối phó với những yêu cầu mà bên điều tra bán phá giá đưa ra. Điển hình như trong vụ Pakistan kiện Mỹ, vai trò liên kết các doanh nghiệp cùng chịu chi phí và cùng đồng lòng theo đuổi vụ kiện đến cùng của Hiệp hội dệt may Pakistan là một trong những yếu tố quyết định giúp cho việc đi kiện của Pakistan thành công. Đây một bài học kinh nghiệm mà Hiệp hội dệt may của Việt Nam nên học hỏi. Cơ quan chuyên trách của Chính phủ Hiệp hội CHÍNH PHỦ DN DN DN DN DN DN NGUỒN THÔNG TIN ĐÁNG TIN CẬY KHÁC KÊNH THÔNG TIN NHIỀU CHIỀU MÀ HIỆP HỘI LÀ ĐẦU MỐI 2.2. Hiệp hội dệt may cần tăng cường hơn nữa trong việc hỗ trợ doanh nghiệp ứng phó với các vụ kiện liên quan đến thương mại hàng dệt may Giải pháp này được đưa ra trong bối cảnh sự hiểu biết của cộng đồng doanh nghiệp dệt may Việt Nam về cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO cũng như những việc cần làm để chuẩn bị hay tham gia trực tiếp vào quá trình giải quyết tranh chấp cụ thể còn hạn chế. Đặc biệt, ngành dệt may Việt Nam hiện nay lại có nguy cơ bị kiện chống bán phá giá. Quy trình một vụ kiện chống bán phá giá lại hết sức phức tạp, điều đó thể hiện rõ qua vụ kiện giữa Ấn Độ và Cộng đồng Châu Âu. Khi đó, vai trò của Hiệp hội dệt may là rất quan trọng. Với sự hiểu biết rộng hơn các doanh nghiệp và việc theo dõi cũng như tìm hiểu về các vụ kiện thực tế trong WTO nhiều hơn, Hiệp hội dệt may cần hướng dẫn cũng như hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may trong quá trình chuẩn bị đối phó với những cuộc điều tra chống bán phá giá cũng như tham gia vào các vụ kiện nếu chúng xảy ra. Hiệp hội sẽ định hướng cho doanh nghiệp cung cấp thông tin để đáp ứng được yêu cầu của cơ quan điều tra nhưng cũng đảm bảo được bí mật kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệp hội cũng cần hỗ trợ và định hướng các doanh nghiệp trong việc hợp tác với bên điều tra chống bán phá giá, doanh nghiệp nên hợp tác trong chừng mực nào là thích hợp và không nên có thái độ chống đối lại việc điều tra nếu không muốn bị áp thuế chống bán phá giá cao. Ngoài ra, Hiệp hội cũng cần phát triển một đường dây nóng cung cấp thông tin, tư vấn pháp lý và đáp ứng những nhu cầu liên quan đến giải quyết tranh chấp để kịp thời hỗ trợ doanh nghiệp. Đường dây này có thể hoạt động thông qua mục tư vấn, hỏi đáp, hỗ trợ trực tuyến với các doanh nghiệp trên trang thông tin điện tử của Hiệp hội hoặc qua đường dây điện thoại nóng. 2.3. Hiệp hội dệt may cần thành lập một bộ phận chuyên trách về giải quyết tranh chấp kết hợp với bộ phận chuyên trách của Bộ Công Thương Một trong những giải pháp quan trọng dành cho chính phủ đã được nêu ra là phải thành lập một bộ phận chuyên trách về giải quyết tranh chấp. Tương tự như vậy, Hiệp hội dệt may của Việt Nam cũng cần phải lập ra một bộ phận chuyên trách tương ứng của riêng mình. Thứ nhất, bộ phận này sẽ có nhiệm vụ kết hợp với bộ phận chuyên trách của Bộ Công Thương trong những công việc liên quan đến giải quyết tranh chấp như hoạt động đào tạo, tuyên truyền, phổ biến những hiểu biết về cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO cho doanh nghiệp. Thứ hai là tự tìm kiếm thông tin, phối hợp cung cấp và trao đổi thông tin về tình hình giải quyết tranh chấp tại WTO với bộ phận chuyên trách của Bộ Công Thương cũng như với các doanh nghiệp. Thứ ba là bộ phận này sẽ có chức năng cung cấp kịp thời những thông tin của doanh nghiệp trong trường hợp chính phủ chủ động đi kiện. Ngoài ra bộ phận chuyên trách của Hiệp hội cũng có nhiệm vụ cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin cần thiết nếu có vụ tranh chấp nào đó liên quan đến dệt may, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xảy ra. Để đảm nhận được những nhiệm vụ như trên, bộ phận chuyên trách của Hiệp hội cần phải có đội ngũ nhân lực có trình độ cao về pháp luật quốc tế, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, ngoại ngữ cũng như kiến thức chuyên môn về dệt may để có khả năng cập nhật những thông tin về tình hình giải quyết tranh chấp nói chung và những tranh chấp liên quan đến dệt may nói riêng đã và đang diễn ra trên thế giới. Thêm vào đó, bộ phận này cũng cần có quỹ đóng góp riêng được kêu gọi từ phía doanh nghiệp. Quỹ này sẽ dùng để chi cho những khoản cần thiết khi thu thập thông tin, tổ chức đào tạo hay đáp ứng các hoạt động khác của Hiệp hội. Đó cũng chính là quỹ sẽ được dùng chi trả cho những chi phí phát sinh nếu có một vụ tranh chấp liên quan đến dệt may của Việt Nam mà cần có sự hỗ trợ tài chính từ phía các doanh nghiệp xảy ra. Đây là bài học kinh nghiệm lớn được rút ra từ vụ kiện giữa Pakistan và Mỹ, vụ kiện mà vấn đề tài chính là một vấn đề nổi cộm trong cả quá trình giải quyết tranh chấp. 3. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu dệt may 3.1. Nâng cao nhận thức về pháp luật thương mại quốc tế nói chung và cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO nói riêng Sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này cũng mở ra một cơ hội mới để mở rộng thị trường, thu hút vốn đầu tư, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh… cho các doanh nghiệp; bên cạnh đó, hội nhập cũng mang đến nhiều thách thức mà một trong những thách thức không nhỏ là khả năng bị kiện nếu như chúng ta không tuân thủ đúng theo các quy định trong các Hiệp định của WTO. Do đó, trước hết, đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp hoạt động trong thương mại hàng dệt may nói riêng, việc nâng cao nhận thức về pháp luật thương mại quốc tế cũng như cơ chế giải quyết tranh chấp WTO là rất cần thiết. Hiện nay, có thể một phần vì Việt Nam mới gia nhập WTO và tất nhiên là chưa tham gia bất kỳ một vụ tranh chấp nào với tư cách là thành viên của tổ chức này, nên những kiến thức về cơ chế giải quyết tranh chấp WTO vẫn còn là một chủ đề lạ lẫm và mới mẻ đối với các doanh nghiệp. Điều đó càng chứng tỏ việc cung cấp kiến thức về lĩnh vực này trở nên rất quan trọng, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may. Trong thời điểm hiện tại, chúng ta đang bị Hoa Kỳ áp đặt cơ chế giám sát đối với hàng dệt may. Theo đó, nguy cơ xuất khẩu dệt may Việt Nam bị điều tra rồi áp thuế chống bán phá giá là rất lớn. Từ việc phân tích vụ tranh chấp Ấn Độ khiếu kiện EC về việc áp đặt các loại thuế bán chống phá giá, ta thấy rõ sự phức tạp về mặt quy trình thủ tục điều tra cũng như việc xét xử theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Điều này đưa đến một yêu cầu là các doanh nghiệp dệt may cần phải nâng cao nhận thức về vai trò đặc điểm của cơ chế giải quyết tranh chấp WTO, nắm rõ những quy định của WTO liên quan đến thủ tục và trình tự giải quyết tranh chấp để có sự phối hợp với Hiệp hội và chính phủ, chuẩn bị tốt nhất trong trường hợp phải khởi kiện để bảo vệ lợi ích của mình. Bên cạnh đó, doanh nghiệp dệt may cũng cần trang bị kiến thức về yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu chứng minh, quy trình đầy đủ của một cuộc điều tra chống bán phá giá, để qua đó xây dựng một chiến lược kháng kiện hiệu quả, chính xác và hợp pháp theo thông lệ quốc tế khi cần thiết. Để làm được điều này, việc nghiên cứu trên lý thuyết là chưa đủ mà cần phải dựa vào tình hình thực tế. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải chủ động thu thập và phân tích các vụ kiện trước đây trong thương mại hàng dệt may, đặc biệt lưu ý đến vấn đề chống bán phá giá để có cái nhìn sâu sắc và rõ ràng hơn. Doanh nghiệp sẽ cần phải chủ động hợp tác chặt chẽ với bộ phận chuyên trách của Hiệp hội và bộ phận chuyên trách của chính phủ để nhận được sự hỗ trợ trong những vấn đề này. Xét cho cùng, các doanh nghiệp là những chủ thể quan trọng trong các vụ tranh chấp. Chính phủ đi kiện cũng là để bảo vệ lợi ích cho đất nước, cho doanh nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp cần phải chủ động hơn trong các tranh chấp, mà trước hết là phải nâng cao nhận thức về cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. 3.2. Tăng cường liên kết với các doanh nghiệp khác trong việc chủ động đối phó với các tranh chấp có thể xảy ra Hiệp hội dệt may có vai trò là đầu mối liên kết giữa các doanh nghiệp trong ngành cũng như giữa doanh nghiệp với chính phủ. Tuy vậy, điều quan trọng hơn là các doanh nghiệp cũng cần phải tăng cường hợp tác với nhau để chủ động ứng phó trước những nguy cơ xảy ra tranh chấp. Qua phân tích vụ tranh chấp của Pakistan kiện Mỹ về hạn ngạch nhập khẩu đối với mặt hàng sợi cotton chải kỹ, một trong những yếu tố khiến cho Pakistan có thể đạt được một phán quyết có lợi từ DSB chính là quyết tâm theo đuổi vụ kiện đến cùng của phần lớn các doanh nghiệp dệt may. Ngay như ở các tranh chấp thương mại mà Việt Nam đã tham gia, điển hình là vụ kiện tôm, sự hợp tác chặt chẽ giữa các doanh nghiệp rõ ràng đã phát huy kết quả. Sự phối hợp đó đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng một mặt trận kháng kiện thống nhất; kết quả là tuy bị áp thuế chống bán phá giá nhưng mức thuế này tương đối thấp. Với nguy cơ bị kiện bán phá giá ngay trước mắt, kinh nghiệm này cũng đáng để các doanh nghiệp trong ngành dệt may cần phải học tập. Mặt khác, sự phối hợp trao đổi thông tin và cùng nhau giải quyết khó khăn phát sinh giữa các doanh nghiệp sẽ giúp hạn chế được những sai sót và nhầm lẫn khi phải chứng minh để bảo vệ lợi ích cho mình một khi tranh chấp xảy ra. Đáng nói hơn, nếu như dệt may Việt Nam bị áp thuế chống bán phá giá thì thuế này sẽ áp đặt cho tất cả các doanh nghiệp có hàng xuất khẩu với các mức khác nhau. Nói chung, các doanh nghiệp đứng ngoài cuộc thường bị áp thuế cao nhất. Do đó, chính bản thân doanh nghiệp phải chủ động hợp tác hơn nữa, cùng đoàn kết thống nhất với các doanh nghiệp khác để tích cực kháng kiện khi cần thiết. 4. Các giải pháp khác 4.1. Tham gia vào vụ kiện với tư cách bên thứ ba Trong một vụ tranh chấp, bên nguyên đơn và bị đơn là những nước trực tiếp tham gia vào vụ kiện. Ngoài ra, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO cũng chấp nhận sự tham gia của bên thứ ba vào vụ tranh chấp. Trong vụ Ấn Độ kiện Mỹ về quy tắc xuất xứ, Trung Quốc đã tham gia vào vụ kiện với tư cách là bên thứ ba và thực tế là điều này đã mang lại nhiều lợi ích cho họ trong việc trực tiếp tìm hiểu được quy trình thủ tục, và các tình huống phát sinh trong một vụ kiện. Việt Nam vừa mới gia nhập WTO vào đầu năm 2007 và chưa hề có kinh nghiệm tham gia bất kỳ một vụ tranh chấp nào trong WTO dưới tư cách là bị đơn hoặc nguyên đơn. Hơn nữa, vì vừa gia nhập, nên hiểu biết của Việt Nam về quy trình, thủ tục cũng như những quy định pháp lý liên quan đến giải quyết tranh chấp của WTO còn rất hạn chế. Việc tham gia vào các vụ tranh chấp với tư cách bên thứ ba sẽ giúp Việt Nam có được những kinh nghiệm cần thiết cũng như hiểu biết về quy định pháp lý của WTO, những bài học rất có ích cho quá trình Việt Nam đi kiện hay bị kiện sau này. Cũng từ bài học của Trung Quốc, Việt Nam cần phải theo dõi sát sao những vụ tranh chấp diễn ra trong khuôn khổ WTO. Điều này nhằm mục đích xác định được những tranh chấp có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Việt Nam, hay những tranh chấp không ảnh hưởng trực tiếp nhưng việc giải quyết vụ tranh chấp lại đóng vai trò quan trọng đối với cơ chế của WTO vì thế ảnh hưởng gián tiếp đến Việt Nam. Khi đó, Việt Nam cần tích cực tham gia vào những vụ kiện này với tư cách bên thứ ba để có thể vừa bảo vệ được lợi ích cho mình vừa có được những kinh nghiệm cần thiết mà lại không mất quá nhiều chi phí để theo đuổi vụ kiện. Lợi ích mang lại là rất nhiều trong khi chi phí bỏ ra không quá tốn kém, việc tham gia với tư cách bên thứ ba rất thích hợp với hoàn cảnh của Việt Nam hiện tại, và giải pháp này cũng được khuyến khích sử dụng trong thời gian tới. 4.2. Thúc đẩy công tác vận động hành lang (lobby) và quan hệ công chúng (public relations) Thông thường, kết quả của một vụ tranh chấp trong WTO sẽ phụ thuộc rất nhiều vào những bằng chứng và cơ sở pháp lý được các bên đưa ra và vận dụng. Tuy nhiên trên thực tế, hoạt động lobby và quan hệ công chúng cũng có ý nghĩa rất quan trọng và tác động trực tiếp đến kết quả của một vụ tranh chấp. Đặc biệt, ở một đất nước có nhiều nhóm lợi ích khác nhau, mà thậm chí là đối lập nhau cùng tồn tại như Hoa Kỳ, công tác vận động hành lang lại càng trở nên cần thiết. Trong trường hợp xuất khẩu dệt may Việt Nam bị Mỹ điều tra, áp thuế chống bán phá giá, ngoài việc những doanh nghiệp Việt Nam phải chịu thiệt hại, bên cạnh đó, những nhà nhập khẩu, phân phối và người tiêu dùng mặt hàng này của Mỹ cũng sẽ bị tổn thất. Trên cơ sở đó, phía Việt Nam hoàn toàn có thể phối hợp với các nhà nhập khẩu, các bên có lợi ích liên quan tiến hành gây áp lực lên chính phủ Mỹ để phần nào ngăn chặn những nguy cơ này. Hơn nữa, các doanh nghiệp cũng cần phối hợp với các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng, các ngành sử dụng hàng dệt may Việt Nam để cùng lên tiếng phản đối vì lợi ích chung. Trong thời điểm hiện tại, Việt Nam đang bị Mỹ áp dụng cơ chế giám sát hàng dệt may. Nếu chúng ta có thể đẩy mạnh công tác vận động hành lang với những nhóm có lợi ích liên quan thì hoàn toàn có thể gây sức ép không nhỏ lên chính phủ Mỹ để ngừng việc sử dụng cơ chế này. Mặt khác, chúng ta còn có khả năng tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức như thế này cả về vấn đề tài chính, kêu gọi sự ủng hộ của họ trong trường hợp phải tham gia vụ kiện nhằm bảo vệ lợi ích của cả hai phía nói chung. Ngoài ra, quan hệ công chúng còn bao gồm cả công tác thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng khác như báo, phát thanh, truyền hình, Internet…Tuy vẫn còn một số bất cập về mức độ chính xác của các thông tin đưa ra, nhưng cũng không thể phủ nhận được sự nhanh nhạy và tích cực của việc sử dụng các phương tiện truyền tin này. Đối với Việt Nam, khái niệm vận động hành lang dường như vẫn còn mơ hồ và dễ gây nhầm lẫn. Trong thời gian tới, khả năng Việt Nam phải đối mặt với nguy cơ xảy ra vụ kiện là rất cao, dù muốn hay không, Việt Nam cũng cần phải tích cực sử dụng lobby và quan hệ công chúng như là một thứ công cụ đắc lực để bảo vệ lợi ích quốc gia trong các vụ tranh chấp về thương mại hàng dệt may trong khuôn khổ của WTO. KẾT LUẬN Cùng với xu thế phát triển của thế giới, Việt Nam đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ và ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế. Khi tham gia vào hệ thống thương mại thế giới, mâu thuẫn, xung đột về lợi ích giữa các quốc ra là điều tất yếu, do đó các tranh chấp phát sinh là không thể tránh khỏi. Việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO là rất cần thiết để bảo vệ lợi ích quốc gia nói chung và lợi ích cho các doanh nghiệp nói riêng, đặc biệt là trong thương mại hàng dệt may, một mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Phải thừa nhận rằng những bước đi đầu tiên của Việt Nam khi tham gia vào tranh chấp quốc tế là rất khó khăn, nhưng xét về mặt tích cực, Việt Nam cũng đã có nhiều bài học từ những thất bại. Thông qua những vụ kiện như cá basa, tôm không ít những kinh nghiệm đã được đúc kết và phân tích cặn kẽ. Không chỉ từ những trải nghiệm của bản thân, từ những vụ kiện có liên quan như của Ấn Độ, Pakistan hay Trung Quốc…, Việt Nam cũng tìm thấy sự tương đồng và tự rút ra được bài học cho riêng mình. Đó sẽ là những kinh nghiệm quý giá cho toàn thể cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng cũng như các cơ quan quản lý chuyên trách nói riêng. Cùng với việc tăng cường sản xuất, xuất khẩu, các vụ kiện thương mại, trong đó có kiện chống bán phá giá, chắc chắn sẽ xuất hiện ngày càng nhiều hơn trong thương mại hàng dệt may. Do vậy, Việt Nam cần phải chuẩn bị tinh thần để vượt qua những thử thách và chủ động ứng phó với các vụ tranh chấp có thể xảy ra, đặc biệt là đối với ngành dệt may. Với tinh thần đó, nhóm thực hiện đề tài đã nghiên cứu những ưu nhược điểm của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, từ đó đề ra những giải pháp để Việt Nam có thể vận dụng thành công cơ chế này trong giải quyết tranh chấp về thương mại hàng dệt may. Hiểu được cơ chế giải quyết tranh chấp là thành công bước đầu, nhưng khó khăn hơn là việc vận dụng “luật chơi” sao cho thành công nhất. Điều này đòi hỏi Việt Nam cần có sự chuẩn bị kỹ càng cũng như sự phối hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, hiệp hội và chính phủ. Nhóm nghiên cứu cũng rất hy vọng và cũng có niềm tin rằng, trong một tương lai không xa, Việt Nam sẽ có được những thành công trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp và đặc biệt là thành công khi vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO trong ngành hàng dệt may. Là những sinh viên còn rất trẻ, nhóm nghiên cứu đề tài này sẵn sàng làm việc hết mình nếu được giao những nhiệm vụ có liên quan đến WTO và giải quyết tranh chấp hàng dệt may trong WTO. ĐỀ TÀI ĐẠT GIẢI NHẤT CUỘC THI “SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG 2007” VÀ ĐƯỢC GỬI DỰ THI CẤP BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docde_tai_hoan_chinh_gui_bo_du_thi_2833.doc
Tài liệu liên quan