Đề tài Văn hóa thanh niên Việt Nam

MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU 1 I. Khái niệm 1 1.Văn hóa 1 2.Tiểu văn hóa 2 3.Văn hóa nhóm 3 4.Phản văn hóa 3 B. TIỂU VĂN HÓA THANH NIÊN 4 I. Tiểu văn hóa thanh niên 4 1. Đặc trưng của tiểu văn hóa thanh niên 5 2. Các mô hình tiểu văn hóa thanh niên ở phương Tây 6 2.1. Nhóm Biker 6 2.2. Nhóm raver (clubber) - những kẻ liều mạng 7 II. Văn hóa thanh niên Việt Nam 9 1. Văn hóa trong nhân cách của sinh viên 9 2.Toàn cầu hóa đối với đạo đức của sinh viên 16 3. Vị thế và vai trò của sinh viên đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhìn từ góc độ xã hội học 21

doc29 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1616 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Văn hóa thanh niên Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g đến hai bảng chữ cái, có ba tôn giáo chính, nói bốn thứ tiếng chính, gồm năm dân tộc chính, chia thành sáu nước cộng hòa riêng biệt, và tiếp thu ảnh hưởng văn hóa của bảy quốc gia khác có chung đường biên. Văn hóa Mỹ so sánh với văn hóa Nam Tư như thế nào? Chúng ta biết, khi còn bé Mỹ là chiếc "nồi nấu" trong đó nhiều người thuộc nhiều dân tộc pha trộn với nhau thành "người Mỹ", có cùng một nền văn hóa riêng lẻ. Nhưng chủng tộc và dân tộc đều tạo ra tính đa dạng văn hóa- và đôi khi sinh ra nhiều mâu thuẫn hơn ám chỉ lịch sử chính thức này. Trong những năm gần đây, nét đặc biệt có vẻ giành được sự nổi tiếng. Nhiều người ta các quốc gia khi đến Mỹ không muốn từ bỏ cách sống truyền thống, và pha trộn vào trào lưu chung. 3. Văn hóa nhóm Văn hóa nhóm là hệ thống các giá trị, quan niệm, tập tục được hình thành trong nhóm. Văn hóa nhóm được hình thành từ khi các mối quan hệ trong nhóm được thiết lập và cùng với thời gian các quy chế được hình thành, các thông tin được trao đổi và các thành viên cùng trải qua các sự kiện. Tất cả các nhóm nhỏ đều có văn hóa của mình nhưng đồng thời cũng là một phần của nền văn hóa toàn xã hội. Như vậy, văn hóa nhóm cho thấy trong nền văn hóa chung còn có thể có những nét riêng biệt của các tập đoàn, các tổ chức xã hội khác nhau. Có ý kiến cho rằng văn hóa nhóm dùng để chỉ nền văn hóa riêng. 4. Phản văn hóa Khác biệt văn hóa trong một xã hội cũng tượng trưng cho sự phản đối tích cực ít nhất là một số khía cạnh trong nền văn hóa thống trị. Văn hóa nghịch dòng được định nghĩa như các mẫu văn hóa xung đột đáng kể với nền văn hóa thống trị. Những thành viên trong xã hội này đi theo các mẫu phản văn hóa rất có thể dẫn đến việc một số thành viên khác trong xã hội đặt vấn đề đạo đức của đa số, không có gì phải ngạc nhiên khi đa số phải nhanh chóng chuyển sang các tác động kiểm soát xã hội chống lại họ, từ việc đưa tin tiêu cực trên phương diện truyền thông đại chúng cho đến hành động cảnh sát. Trong nhiều xã hội, phản văn hóa có liến quan đến giới trẻ. Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với một số hành vi phản văn hóa định hướng cho giới trẻ được công bố rộng rãi trong thập niên 1960. Giới hippie không thừa nhận giá trị ganh đua, theo chủ nghĩa cá nhân và trọng vật chất của xã hội Mỹ trào lưu. Thay vào đó, họ ủng hộ cách sống tập thể và hợp tác trong đó "sự sống" quan trọng hơn "việc làm", các phẩm chất cá nhân như "mở mang hiểu biết" được ca tụng nhiều hơn sở hữu vật chất. Những bất đồng như thế khiến cho nhiều thanh niên hippie rời bỏ xã hội rộng lớn hơn, thường hình thành những cộng đồng phản văn hóa rộng lớn. Quận Haight-Ashbury ở San Francisco có lẽ là cộng đồng hippie nổi tiếng nhất thế giới. Phản văn hóa phát triển tập tục truyền thống đặc biệt của riêng mình kể cả kiểu trang phục, hình thức xã giao và tiểu khiển và sở thích âm nhạc. Nhiều thành viên trong thập niên 1960 đều mặc quần jean xanh da trời và trang phục "thiểu số" để tượng trưng cho nhận dạng của họ với "thường dân" trong xã hội, nghe nhạc rock and roll, ngày nay ít có người đứng đắn nào trong giai cấp trung lưu thưởng thức. Mặc dù ngày nay không biểu hiện rõ như trong thập niên 1960, văn hóa nghịch dòng vẫn còn phát triển mạnh ở Mỹ và ở nước ngoài. Ở Mỹ, đảng 3K va các nhóm chủ trương ưu thế của người da trắng khác vẫn cổ vũ bạo lực và thù ghét chủng tộc để bảo vệ những gì họ xem là "giá trị Mỹ đích thực". Ơ châu Âu, Bắc Mỹ và nơi khác, loại thanh niên du côn thể hiện sự khinh miệt đối với văn hóa hình thành qua phong cách âm nhạc và diện mạo khiêu khích mà hầu hết mọi người đều kinh tởm. B. TIỂU VĂN HÓA THANH NIÊN I. Tiểu văn hóa thanh niên 1. Đặc trưng của tiểu văn hóa thanh niên Thanh niên được định nghĩa trong từ điển Oxford một cách vắn tắt: "Trạng thái trẻ tuổi/ trẻ trung, khoảng cách giữa thời kỳ trẻ con và người lớn." Thanh niên là một nhóm tuổi có thể phân biệt bởi các nhóm tuổi khác. Các nhà xã hội học theo quan điểm của Firth: "thanh niên không đơn giản là một nhóm tuổi mà là một tổ chức xã hội của một nhóm tuổi". Tiểu văn hóa có một vấn đề giải quyết các chức năng và cách những vấn đề này được giải quyết. Nó mô tả giá trị và những hoạt động mà thanh niên quan tâm và đương đầu với kinh nghiệm được chia sẻ. Đây là cách tiếp cận chức năng tiểu văn hóa thanh niên. Theo các nhà chức năng luận tiểu văn hóa thanh niên được xem như một hướng trung tâm của quá trình xã hội hóa và do đó giống một cơ chế bảo tồn tính bền vững xã hội hơn là gây ra sự thay đổi xã hội hoặc phá vỡ nó. Thanh niên sẽ thuộc về một tiểu văn hóa vào một thời gian nhất định. Điều này là tự nhiên bởi vì việc thuộc về nhiều tiểu văn hóa cùng một lúc sẽ tạo ra mâu thuẫn với tiểu văn hóa như là một cơ sở cho nhận dạng cá nhân. Hơn thế nữa đối với nhiều tiểu văn hóa, một thanh niên sẽ được mong đợi cống hiến cho nó. Nếu tỉ lệ phần trăm của bạn bè những người đã tham gia một tiểu văn hóa nhất định là đủ lớn thì một thanh niên cũng sẽ theo tiểu văn hóa đó. Chúng ta biết rằng bạn bè đóng một vai trò quan trọng trong việc lựa chọn theo một tiểu văn hóa nào đấy của mỗi cá nhân. Nếu rất nhiều bạn của một thanh niên đi theo một trào lưu mới thì một cách rất tự nhiên anh ta hay cô ta sẽ quan tâm đến những điều mới và có thể cảm thấy mình bị tụt hậu. Sự thu hút của tiểu văn hóa cũng giảm theo thời gian. Thanh niên không muốn trở nên lạc hậu vì vậy một tiểu văn hóa cùng với sự đi xuống của nó chắc chắng sẽ trở nên ít thu hút các thành viên tiềm năng hơn là các tiểu văn hóa đang trên đà phát triển. Có một sự cản trở đối với sự thay đổi của tiêủ văn hóa. Để theo một tiểu văn hóa thì yêu cầu phải có sinh lực - một người cần phải học các quy tắc ngầm và có xu hướng mua cả đồ dùng cá nhân các loại, tức là dành được vốn tiểu văn hóa. Sau đó tất nhiên là những người theo một tiểu văn hóa phải thích những gì họ đang làm, nếu họ mệt mỏi và không hài lòng với những gì họ đang làm họ cũng không được thay đổi. 2. Các mô hình tiểu văn hóa thanh niên ở phương Tây 2.1. Nhóm Biker Mặc dầu có những sự khác biệt giữa các b- boys phần lớn nhóm biker xuất thân từ tầng lớp lao động. Họ gắn kết với nhau bởi niềm đam mê xe phân khối và nhạc rock. Phong cách của họ mạnh mẽ và hung tợn. Trang phục trông mạnh mẽ: Trang sức, khuy rời bằng da, quần bò vải bông chéo và ủng da nặng, giầy khủng bố, tóc dài vuốt ngược về phía sau, với rất nhiều hình săm trên bàn tay, cánh tay, ngực. Một buổi tối tiêu biểu của một b-boys sẽ gồm sự sắp xếp của những hoạt động giống nhau: Uống rượu và chơi trò ném phi tiêu trong quán quen thuộc, hay uống cà phê trong một quán cà phê và chủ yếu vui đùa và tán phét trong một câu lạc bộ. Theo nghiên cứu của Paul Willis về nhóm Biker trong suốt nhưng năm 70, nhóm hầu hết là đàn ông xuất thân từ tầng lớp lao động. Ở Anh, nỗi lo chung về thanh niên và tiểu văn hóa thanh niên tập trung vào lối sống của thanh niên tầng lớp lao động. Theo Firth "sinh ra lớn lên trong gia đình lao động và các vùng nông thôn, họ có trình độ học vấn thấp hơn, bỏ học ngay khi có thể nên sẽ bị thất nghiệp hoặc phải chịu đựng sự liên tiếp ở những công việc trong tình trạng bế tắc". Quan điểm này giống trường hợp nghiên cứu của Willis- những quan điểm có vẻ theo quan điểm Macxit. Tuy nhiên những nhóm thanh niên khác ví dụ biker được xem đối lập với xã hội và thường được gán cho là "những kẻ lầm đường lạc lối" hay phạm pháp. Trong ít nhất 100 năm thanh niên được xem như một vấn đề của xã hội. Lối sống lệch lạc không chỉ đơn giản chỉ là hành động nổi loạn của thanh niên chống lại cha mẹ mà quan trọng hơn nó hàm chứa sự đối đầu với những nhà chức trách thuộc tầng lớp tiểu tư sản, một điển hình của đặc điểm của tầng lớp lao động. Điều đó có nghĩa có một sự lệch lạc về giá trị của lối sống. Tiểu văn hóa thanh niên- những người muốn mình trông hung tợn, giống như Biker, đầu trọc, nhóm thanh niên kì dị. Nghiên cứu của Willis cũng chỉ ra rằng, phong cách đặc thù, giá trị và những hoạt động của nhóm Biker được chia sẻ cùng nhau, phù hợp vời định nghĩa về tiểu văn hóa thanh niên của Firth "kiểu niềm tin, giá trị, biểu tượng, những hoạt động đặc thù được nhóm thanh niên chia sẻ". Ngày nay, không phải tất cả biker đều chia sẻ những giá trị chung và tham gia những hoạt động giống nhau như kiểu sống của Biker những năm 60. Lý do có thể là thành viên của văn hóa thanh niên li khai từ một nhóm đặc thù hoặc không bao giờ tham gia vào nhóm đầu tiên. Tuổi tác cũng liên quan. Sự chuyển đổi từ thanh niên sang người lớn có thể quyết định một người ở trong một tiểu văn hóa bao lâu. Willis mô tả sở thích âm nhạc của họ có tính dị biệt cao và rất lâu bền. Thường thấy ở rock and roll giai đoạn đầu vào những năm 50. Tiêu biều: Elvis Presley, Buddy Holly hay Rolling Stone. Tuy nhiên không phải tất cả các biker đều thích những nhóm riêng biệt này. Biker không phải là những con nghiện. Thực tế họ coi thường ma túy. Nó không được coi như một chất hấp dẫn tạo nên sự phấn khích hay kinh nghiệm mới. Nhưng một vài nhóm của những năm 60 hay một số Biker ngày nay đã và vẫn dùng ma túy. Nhóm tiểu văn hóa này vẫn tồn tại ngày nay nhưng sẽ có sự thay đổi về giá trị, niềm tin, và những hoạt động chung. 2.2. Nhóm raver (clubber) - những kẻ liều mạng Không giống với những tiểu văn hóa khác, thứ duy nhất mà những raver cùng có là những kinh nghiệm được chia sẻ như tham gia thường xuyên vào nhóm này và có thể quá phấn khích- cái đồng nghĩa với văn hóa raver (kẻ điên). Ravers là tiểu văn hóa thanh niên những năm 80. Vẻ ngoài ưa thích của họ là khăn tay lớn in hoa sặc sỡ, quần áo màu sắc rực rỡ và những cài nhìn thèm muốn, khao khát. Họ thường lui tới những nơi sử dụng nhiều ánh sáng nhập nhoạng, nhấp nháy và những hình ảnh ảo giác. Nam nữ ăn mặc cùng một kiểu: Áo sơmi quá cỡ rộng thùng thình, áo vét xẻ rãnh và quần bò lùng phùng. Quần áo của họ tiện lợi, sặc sỡ, rẻ tiền. Nhảy điệu nghệ theo tiếng nhạc chát chúa, họ sử dụng ma túy và tay trong tay cùng nhảy. Loại quần áo này phù hợp với sự chuyển động nhiều của cơ thể. Tuy nhiên, ảnh hưởng từ nền công nghiệp thời trang, phong cách ăn mặc bắt đầu thay đổi và cải tiến. Nữ thay quần áo rộng thùng thình bằng loại bó sát cơ thể được làm từ chất liệu như lycra để tôn vẻ bên ngòai hơn là sự thoải mái và thiết thực. Do vậy, không phải lúc nào cũng có thể nhận diện raver bằng quần áo. Khó có thể chỉ ra những trải nghiệm chung dẫn dắt mọi người đến với tiểu văn hóa này. Có thể thanh niên theo đuổi một dạng của xu hướng thoát li thực tế, rời bỏ những chuẩn mực của cuộc sống thường ngày hoặc có thể do thất nghiệp. Hầu hết raver chỉ tham gia câu lạc bộ raver vào những ngày cuối tuần. Có vẻ nó là một thú tiêu khiển hơn khi được đối lập với một tiểu văn hóa. Không giống b-boys những năm 60, chỉ có thành viên thuộc tầng lớp lao động, thất nghiệp, nam giới chiếm ưu thế. Ví dụ: Một sinh viên 18 tuổi hay nhà lập trình 30 tuổi cùng đến câu lạc bộ raver vào tối thứ 7. Theo Pendry ở đây quan niệm về tính chất đàn ông mất đi. Không giống b-boys bọn này không uống rượu mạnh, không trợn trạo hay trông đầy vẻ hăm dọa. Văn hóa raver không phải là văn hóa nhóm như nhiều tiểu văn hóa khác. Trong đề cập văn hóa thanh niên những người tóc đỏ, Cohen đã kết nối phạm trù "nỗi lo về đạo đức" với những người trẻ tuổi. Ông tin bây giờ và sau này xã hội sẽ phải trải qua những giai đoạn như thế. Sự tương tác giữa tầng lớp xã hội trong thanh niên và bộ phận xã hội có thể quyết định một phản ứng, một sự phân tầng trong xã hội. II. Văn hóa thanh niên Việt Nam 1. Văn hóa trong nhân cách của sinh viên Văn hoá, nếu hiểu một cách tổng quát đó là trình độ người và phương thức hoạt động của con người theo các hệ chuẩn mực của cái đúng, cái tốt và cái đẹp trong sự phát triển của mỗi cộng đồng dân tộc. Thanh niên, nếu chúng ta xác định từ tuổi 15 đến tuổi 30 thì họ là một giai đoạn phát triển nhân tính trong tiến trình phát triển chung của các thế hệ người. Về cơ chất sinh học, lứa tuổi này đang phát triển và nhiều sức sống. Về tính cách, lứa tuổi này có nhiều ước mơ và năng lực sáng tạo đầy cảm quan lãng mạn. Thanh niên là một giai đoạn phát triển quan trọng với nhiều đột biến cả về sinh học lẫn xã hội của đời người. Thanh niên hiện nay mang nhiều yếu tố mưu sinh so với thế hệ trước. Xét về mặt văn hoá, thanh niên có các thành tố đặc biệt: Phong cách sống, diện mạo đạo đức, phẩm hạnh cá nhân, khả năng lựa chọn hướng hành động, các phương thức điều chỉnh hành vi... đều không giống thế hệ đi trước. Các nhu cầu, các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao, tình bạn, tình yêu đều khác với thế hệ trung niên và người cao tuổi. Vì vậy, cần khẳng định có một văn hoá của thanh niên trong mối liên hệ với các thế hệ trong cộng đồng văn hoá dân tộc. Tuy nhiên, văn hoá của thanh niên không tách rời văn hoá của các thế hệ khác trong cộng đồng dân tộc; Càng không thể nói rằng có một mâu thuẫn kịch tính giữa văn hoá của thế hệ thanh niên với văn hoá của các thế hệ đi trước. Nhiều nhà lối sống học đã căn cứ vào các mâu thuẫn thế hệ trong các nền văn hoá phương Tây mà cho rằng thế hệ sau chống lại các chuẩn mực văn hoá của các thế hệ đi trước là một quy luật phổ biến. Cơ cấu văn hoá ở nước ta khác với cơ cấu văn hoá của các nền văn hoá phương Tây. Nền văn hoá phương Tây có một cơ cấu văn hoá gắn với chủ nghĩa cá nhân, đạo Cơ đốc và một nền công nghiệp lâu đời. Cơ cấu văn hoá bền vững của chúng ta là chủ nghĩa yêu nước gắn với các giá trị cộng đồng và một chủ nghĩa nhân văn có sự phát triển ưu tiên về mặt đạo đức. Xét về mặt thế hệ, giữa thanh niên và các thế hệ đi trước có sự khác nhau về tuổi tác, tâm lý, hoài bão, nhu cầu, lợi ích, sở thích và đặc biệt là những nhiệm vụ lịch sử mà mỗi thế hệ phải thực hiện. Nhưng các chuẩn mực văn hoá chung của cả dân tộc, trình độ người của các quan hệ xã hội, các quy luật kế thừa không cho phép thế hệ thanh niên tách ra khỏi nền văn hoá chung của dân tộc. Thế hệ thanh niên muốn phát triển chỉ có thể tiếp thu các giá trị mà các thế hệ trước đạt được; Đứng trên vai của thế hệ trước mà vươn lên. Quy luật kế thừa trong văn hoá bào chứa cả yếu tố sinh học và yếu tố xã hội. Do vậy, văn hoá của thanh niên không thể mâu thuẫn với các giá trị chung của văn hoá dân tộc. Phải thấy rằng thế hệ thanh niên hiện nay được thừa hưởng một gia tài văn hoá truyền thống vô giá về chủ nghĩa yêu nước, tinh thần tự lập tự cường, đức tính tiết kiệm và nhiều giá trị tinh thần khác nhưng vẫn không đủ sức hoàn thành những nhiệm vụ trọng đại mà lịch sử trao cho họ, nếu họ không tạo thêm các giá trị văn hoá mới. Thanh niên phải tích cực sáng tạo mới có thể đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Đất nước hiện nay đang cần những "con người khổng lồ" về trí tuệ, tài năng và nhiệt tình mà trước hết là một nhân cách văn hoá biểu trưng cho thời đại mới, cho dân tộc Việt Nam ở thế kỷ XXI. Những "con người khổng lồ " này phải hình thành trong thực tiễn lao động sáng tạo. Nhân dân ta, Tổ quốc ta tạo điều kiện cho thế hệ thanh niên hiện nay trở thành một nhân cách văn hoá biểu trưng cho thời đại mới. Vì thế, thanh niên phải ý thức được vai trò lịch sử của mình trong giai đoạn phát triển mới của nền văn hoá dân tộc. 2. Môi trường sống, lao động, học tập, sáng tạo của thanh niên ngày nay khác rất nhiều so với môi trường văn hoá trong thời kỳ chiến tranh. Chúng ta xây dựng cơ chế thị trường và tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa tiếp thu các giá trị văn hoá truyền thống, vừa sáng tạo những giá trị văn hoá mới. Cơ chế thị trường đang hình thành một giá trị văn hoá mới và đòi hỏi phải xuất hiện một nhân cách của con người mới Việt Nam. Nhân cách con người Việt Nam, thanh niên Việt Nam trong thời kỳ bao cấp, thời kỳ chiến tranh đã tạo nên nhiều giá trị quý hiếm cho nền văn hoá dân tộc. Song trong nhiệm vụ lịch sử mới, tất yếu các nhân cách mới phải xuất hiện. Khi chúng ta xây dựng và mở rộng cơ chế thị trường hiện đại, cái mà nền văn hoá truyền thống chưa có thì lớp thanh niên hôm nay vừa là sản phẩm trực tiếp của cơ chế thị trường vừa là động lực để phát triển thị trường. Thị trường hôm nay vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với tuổi trẻ. Thị trường truyền thống không phải là nơi điều chỉnh bên trong sự cân bằng giữa sản xuất và tiêu dùng. Nhiều khi lý do đạo đức lại quan trọng hơn lý do kinh tế. Thị trường hiện đại mở rộng khả năng sáng tạo cho thanh niên gấp nhiều chục lần so với nền văn hoá truyền thống. Sự phong phú của thị trường hiện đại đã làm xuất hiện sự phong phú về các hoạt động văn hoá của thanh niên. Những vũ trường, nhà hàng, khách sạn, các tour du lịch, các nhu cầu thẩm mỹ, thưởng thức nghệ thuật và ca hát... đã tạo điều kiện để thanh niên hoạt động văn hoá và đòi hỏi một văn hoá hiện đại xuất hiện trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay. Thị trường hiện đại, dù là định hướng Xã hội chủ nghĩa cũng vừa cổ vũ những nhân cách năng động, phát huy khả năng sáng tạo, vừa rất thực dụng theo các tiêu chuẩn lạnh lùng phi nhân cách của lợi nhuận. Trước tình hình như vậy, văn hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phải làm thay đổi các thói quen dựa dẫm, ỷ vào tập thể, vào người khác, vào cộng đồng, đề cao năng lực sáng tạo cá nhân, kích thích tính tích cực của nhân cách thanh niên, phải phê phán chủ nghĩa cá nhân cực đoan, chủ nghĩa vị kỷ lợi dụng cộng đồng làm công cụ phục vụ lợi ích cá nhân. Văn hoá trong thời kỳ đổi mới cổ vũ các nhân cách thanh niên chấp nhận mọi sự thử thách của thị trường vươn lên cạnh tranh đúng đắn, đồng thời tạo mối liên kết nhân đạo với cộng đồng. Vai trò của văn hoá đối với thanh niên hiện nay trước hết phải làm xuất hiện mối quan hệ nhân tính hài hoà giữa sự phát triển bên trong của cá nhân và sự phát triển của cá nhân với cộng đồng. Trong cơ chế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, các hoạt động văn hoá của thanh niên không chỉ hướng vào việc gìn giữ, phát huy các giá trị truyền thống, mà căn bản hơn là sáng tạo những giá trị văn hoá hiện đại để thoả mãn các nhu cầu văn hoá của thế hệ mình và góp sức nâng văn hoá dân tộc lên một tầm cao mới. Cơ chế thị trường hiện đại đã mang lại bao điều mới mẻ cho tuổi trẻ. Với sức mạnh và hoài bão của mình, thanh niên phải chủ động, tích cực hình thành một nhân cách văn hoá biểu trưng cho nền văn hoá mới. Nhân cách văn hoá này phản ánh các nhu cầu, thị hiếu, lý tưởng, những định hướng giá trị mang dáng vóc của một thời đại văn hoá mới. Cùng với cơ chế thị trường, hiện nay nhân dân ta đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hiện thực này tất yếu phản ánh trong nhân cách văn hoá thanh niên có sự phát triển nội sinh về khoa học kỹ thuật. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ làm nảy sinh nhân cách này và đây là động lực của sự phát triển. Thanh niên nông dân chiếm số đông trong thanh niên cả nước. Các tri thức khoa học, trình độ kỹ thuật cao chưa được chuyển tải sâu rộng vào các vùng sâu, vùng xa. Thanh niên công nhân, thanh niên các đô thị tuy có tiếp xúc với khoa học, công nghệ, nhưng các khoa học tiên tiến và công nghệ hiện đại chưa được phát triển có hệ thống trong các khu vực sản xuất công nghiệp và các đô thị. Vì thế, vấn đề phát triển nội sinh về khoa học kỹ thuật trong thế hệ thanh niên hôm nay có một ý nghĩa trọng đại làm cho văn hoá tác động tích cực đến thanh niên và thanh niên có trách nhiệm hơn nữa trong việc sáng tạo nền văn hoá mới. 3. Trong lối sống của thanh niên không chỉ phản ánh các hoạt động sống của tuổi trẻ mà còn biểu hiện trình độ phát triển của đời sống vật chất và tinh thần đối với một thế hệ năng động nhất của dân tộc trong một thời đại. Lối sống của thanh niên phản ánh rất nhiều các chỉ số về lao động, vui chơi giải trí, tình bạn, tình yêu, gia đình và sáng tạo khoa học, nghệ thuật, những nhu cầu và lý tưởng. Thanh niên ta đã tạo dựng được một lối sống yêu nước, yêu lao động, có khí phách kiên cường trong chiến đấu bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc. Lối sống ấy, phản ánh những nét tốt đẹp của một nền văn hoá làng xã, con người với con người sống với nhau có tình, có nghĩa. Xây dựng nền văn hoá mới, chúng ta không chỉ hài lòng về một tinh thần lao động rất cần cù mà năng suất lại thấp, những giá trị cộng đồng được coi trọng, nhưng lợi ích cá nhân không được quan tâm hợp lý, văn hoá nghệ thuật truyền thống thì bảo lưu nhưng chưa có cơ chế tiếp biến đúng đắn các tinh hoa nghệ thuật nhân loại. Mỗi khi xã hội có những biến động, người ta thừa những lòng tốt mà thiếu năng lực sáng tạo. Xây dựng lối sống cho thanh niên chính là tâm điểm của vấn đề đưa văn hoá đến với thanh niên và trách nhiệm của thanh niên xây dựng toàn diện đời sống văn hoá mới. Nhìn vào thực trạng của xã hội ta hiện nay, các quan hệ vật chất cơ bản như quan hệ sở hữu, quan hệ lao động, phân phối đang vận hành và phát triển. Vì vậy, trong thanh niên có nhiều kiểu sống khác nhau, đặc trưng cho nhiều phương diện văn hoá. Có người sống rất thực dụng, ích kỷ, có người sống có lý tưởng cao đẹp, không ít người "tí hon" có lý tưởng tầm thường. Xây dựng nền văn hoá mới phải hướng thanh niên vào lối sống dân tộc- hiện đại theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Đó là lối sống, trước hết gắn với lao động có năng suất cao. Điều này quyết định mức sống, phúc lợi vật chất xã hội. Lao động năng suất cao gắn chặt với trí tuệ, với công nghệ. Việc gia tăng lao động trí tuệ không chỉ có ý nghĩa đối với nhịp độ phát triển của văn hoá dân tộc mà còn là cội nguồn của các quá trình hội nhập văn hoá để gìn giữ bản sắc. Lối sống là hoạt động văn hoá mang nội dung tính người sâu sắc. Các giá trị, động cơ hoạt động tinh thần và hoạt động nghệ thuật đều là cơ cấu bên trong của lối sống. Về mặt tinh thần, phải xây dựng những quan hệ nhân bản, nhân đạo sâu sắc trong thế hệ trẻ, bởi vì, cơ chế thị trường rất dễ làm băng hoại các giá trị truyền thống và du nhập ồ ạt các phản giá trị. Xây dựng các quan hệ nhân bản lành mạnh không có nghĩa là chúng ta bảo vệ chủ nghĩa bình quân, chấp nhận sự độc quyền chân lý. Ở đây, xác lập một quan hệ dân chủ trong mọi hoạt động có ý nghĩa văn hoá sâu rộng. Nó kích thích khả năng sáng tạo, tăng cường quyền và nghĩa vụ công dân. Chúng ta phải xây dựng cho thanh niên hiện nay lối sống dân tộc- hiện đại mà biểu trưng của nó là văn minh- lịch thiệp- năng động. Lối sống văn minh gắn với lao động, khoa học và pháp luật. Lối sống lịch thiệp gắn với đạo đức- thẩm mỹ. Lối sống năng động, sáng tạo, tận dụng các điều kiện cộng đồng cho phép, chấp nhận mọi thử thách, tạo ra các ứng xử phù hợp giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. 4. Để thanh niên được hưởng những giá trị văn hoá tốt đẹp và đặc biệt là được mang toàn bộ sức lực và tài năng của mình tham gia vào sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới, chúng ta phải xây dựng một chính sách bồi dưỡng và làm tăng cường nguồn lực của tuổi trẻ vào xây dựng nền văn hoá mới. Chính sách này gắn liền với một hệ chuẩn mực được xác lập trong mọi phạm vi của đời sống vì sự phát triển của thế hệ trẻ. Hệ chuẩn lao động đối với thế hệ thanh niên không chỉ có liên quan đến khả năng sáng tạo mà còn tạo ra các hiệu ứng miễn dịch đối với cái xấu, thúc đẩy tính tích cực xã hội của thanh niên trong lối sống. Thanh niên có một trình độ trí tuệ do nền học vấn và thông tin hiện đại mang lại. Cảm hứng lãng mạn và những giá trị văn hoá văn nghệ của thời đại mà thế hệ trẻ tiếp thu được có khả năng rút ngắn khoảng cách về trình độ khoa học- kỹ thuật giữa nước ta và thế giới trong một thời gian không dài. Chỉ có thế hệ thanh niên hiện nay mới có thể nâng cao trình độ khoa học và công nghệ của đất nước. Thanh niên đang là lực lượng sáng tạo chính của các viện khoa học, các trường đại học, các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, thể dục thể thao. Họ nắm được ngoại ngữ và có những mối quan hệ quốc tế. Các chính sách xã hội và khoa học của chúng ta phải giúp thế hệ trẻ hình thành những tài năng mới. Cần kiểm soát chặt chẽ và khoa học các hoạt động khuyến khích tài năng sáng tạo để nó thực sự đi vào cuộc sống, làm cho trong một thời gian không dài, chúng ta có thể đào tạo được nhiều thanh niên xuất chúng. Thanh niên không chỉ là đối tượng hưởng thụ nền giáo dục mà họ còn là chủ thể xây dựng nền giáo dục mới. Chúng ta cần đặt vấn đề một cách nghiêm túc với nền giáo dục hiện nay. Những cải cách giáo dục phải tìm cách đưa những tiến bộ khoa học- công nghệ mới nhất đến với thanh niên, biến nó thành tư bản sống, chuyển tải nhanh vào đời sống. Hệ thống đánh giá thanh niên cần có các tiêu chí về sự kết hợp giữa khát vọng hiểu biết với chuyển giao kiến thức và hoạt động thực tiễn. Phải thống nhất giữa giáo dục trí tuệ với giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ một cách kiên trì và thường xuyên. Tự do sáng tạo là khao khát có tính nhân loại, là không khí trong lành và ánh sáng mát mẻ trong sinh hoạt, học tập, lao động của thanh niên. Tự do là bộ phận trọng yếu của lối sống văn hoá. Hướng tự do sáng tạo của thanh niên vào nguyên tắc sống mà C. Mác đã nêu: Phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người. Đây là một định hướng quan trọng đưa văn hoá đến với thanh niên và giao trách nhiệm cho thanh niên xây dựng nền văn hoá mới. Để lôi kéo thanh niên vào nền văn hoá mới phải có những tổ chức chính thức và không chính thức tập hợp những nhóm có những lợi ích, mục tiêu, những sở thích, những đam mê khác nhau. Tất cả những hình thức này nhằm huy động đông đảo thanh niên không chỉ tham gia hưởng thụ, sáng tạo văn hoá, mà còn tham gia chống lại các phản văn hoá. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì xây dựng xã hội văn hoá cao chính là Xã hội chủ nghĩa. Lý tưởng Xã hội chủ nghĩa không phải chỉ là những tư tưởng mà cơ bản là những phong trào hiện thực. Những phong trào này có thể là: Phong trào thanh niên xây dựng lối sống công nghiệp; thanh niên làm chủ khoa học- kỹ thuật; thanh niên làm chủ cơ chế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa; thanh niên xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, thanh niên xây dựng phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, thanh niên bảo vệ môi trường, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá. Quá trình đưa văn hoá đến với thanh niên và thanh niên tham gia xây dựng nền văn hoá mới thực chất là một quá trình đưa cái chân, thiện, mỹ vào đời sống xã hội, vào mọi hoạt động của tuổi trẻ; đồng thời, cũng là quá trình gạt bỏ những cái cũ, lỗi thời, xây dựng cái mới tốt đẹp hơn. Sự thành bại của quá trình đưa văn hoá đến với thanh niên và đưa thanh niên tham gia vào sáng tạo văn hoá gắn liền với sự thành bại của sự nghiệp đổi mới. Thanh niên cần đề cao trách nhiệm của mình trong nhiệm vụ tạo ra những thành quả văn hoá rất mới, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 2.Toàn cầu hóa đối với đạo đức của sinh viên Toàn cầu hoá (globalization) là khái niệm ra đời từ những năm 80 của thế kỷ XX, dùng để chỉ quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, ảnh hưởng và tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, làm nổi bật hàng loạt những biến đổi có quan hệ mang tính toàn cầu, mà từ đó có thể phát sinh một loạt những sự kiện mới. Toàn cầu hoá là bước phát triển mới về chất của quốc tế hoá- một khái niệm đã có từ trước đó. Nếu như trước đây quốc tế hoá được chi phối và thúc đẩy bởi cuộc cách mạng công nghiệp, thì giờ đây với toàn cầu hoá là cuộc cách mạng khoa học công nghệ, với sự ra đời của một loạt ngành mới (công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, vật liệu mới...) có tác động mạnh mẽ đến các lĩnh vực khác. Qúa trình toàn cầu hoá đời sống kinh tế- xã hội đòi hỏi mỗi quốc gia dân tộc chỉ có thể tồn tại và phát triển khi tự đặt mình là một yếu tố trong cộng đồng thế giới. Khái niệm độc lập tự chủ hiện nay được hiểu là có sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia một cách phổ biến, tạo ra một cơ chế cân bằng. Mỗi quốc gia trở thành một mắt xích trong sợi dây chuyền của nền kinh tế thế giới. Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ đổi mới từ năm 1986, giã từ chế độ bao cấp và chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Một nền kinh tế mở đang ngày càng đặt những bước chân mạnh mẽ vào quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, bộc lộ tính hai mặt (tích cực lẫn tiêu cực) tác động hai chiều đến các giá trị tinh thần, đặc biệt là giá trị đạo đức của con người trong nền kinh tế chuyển đổi. Giới trẻ, trong đó có sinh viên- đối tượng sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đổi mới với những biến đổi vô cùng nhanh chóng, cả về đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần xã hội, đang là đối tượng nhạy cảm nhất trước những biến chuyển này. Toàn cầu hoá vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực đến đạo đức sinh viên hiện nay. Việc tìm hiểu thực trạng đó là rất cần thiết cho quá trình xây dựng nguồn nhân lực mới trong tình hình hiện nay. Sinh viên là những trí thức trẻ tương lai, không ai hết mà chính họ sẽ là những người đóng vai trò chủ chốt trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thế kỷ XXI là thế kỷ của văn minh trí tuệ, của sự phát triển khoa học kỹ thuật, nên rất cần có những con người trẻ tuổi, có trình độ và năng lực sáng tạo cao, có khả năng tiếp nhận cái mới rất nhanh và biết thay đổi linh hoạt, thích nghi kịp thời với sự thay đổi nhanh chóng của xã hội hiện đại, đại diện cho một thế hệ tiên tiến mới. Sinh viên trước hết mang đầy đủ những đặc điểm chung của con người. Nhưng bên cạnh đó, họ còn mang những đặc điểm riêng: Trẻ (chú ý ngoại lệ: đang xuất hiện một số sinh viên đứng tuổi), có tri thức, dễ tiếp thu cái mới, nhạy cảm với các vấn đề chính trị- xã hội, theo học tập trung tại các trường đại học và cao đẳng (thường ở các đô thị) nên sinh hoạt trong một cộng đồng với những quan hệ khá gần gũi (trường, lớp). Đặc điểm rất đáng chú ý đang hình thành trong những người trẻ hôm nay, liên quan đến sự phát triển của công nghệ thông tin với tư cách là một cuộc cách mạng, đó là sự hình thành một môi trường ảo, một lối sống ảo. Hình thành một phương pháp tư duy của thời đại công nghệ thông tin: Ngôn ngữ ngắn gọn, viết bằng bàn phím thay vì cây bút, có tính lắp ghép chính xác, hệ thống, hạn chế sự bay bổng về mặt hình tượng trực quan. Con người vì thế sống trong một môi trường ảo, và cái hiện thực ở đây là cái hiện thực ảo, giao tiếp ảo. Một trong những tác động tích cực nổi bật nhất của toàn cầu hoá là cùng với sự lan toả một ý thức đề cao tính cá nhân, là việc soi chiếu các giá trị đạo đức dưới góc độ cá nhân, phẩm chất cá nhân. Tính cá nhân được coi như một trong những thước đo của hành động, đạo đức hay phi đạo đức chỉ phụ thuộc một phần vào di sản tinh thần mà cộng đồng trước để lại, còn chủ yếu phụ thuộc vào mỗi cá nhân tạo thành cộng đồng mới hôm nay. Chính quan điểm đạo đức xuất phát từ thước đo cá nhân này là sức mạnh lớn nhất trong quá trình ly khai với những quan điểm đạo đức truyền thống không còn phù hợp trong thời kỳ mới. Tự ý thức cá nhân, ít chịu ảnh hưởng bởi dư luận như trước, tạo điều kiện phát huy sức sáng tạo cá nhân, chủ động và nhanh chóng tiếp cận với những cái mới trong khoa học kỹ thuật và công nghệ, chịu khó học hỏi kiến thức phục vụ cho nghề nghiệp và công việc. Việc để lại đằng sau bước đi của chúng ta những di sản quá khứ đã lỗi thời không phải là chuyện đơn giản, vì nó đã ăn sâu vào ý thức cộng đồng qua một thời gian khá dài. Xu hướng toàn cầu hoá chính là chất xúc tác, là đòn bẩy và cũng chính là yêu cầu của việc rời bỏ triệt để những mảnh quá khứ đã lỗi thời. Làm được điều đó một cách triệt để nhất, rõ ràng nhất, không ai khác ngoài sinh viên- đối tượng trẻ có tri thức, lớn lên trong môi trường mới, đi đầu tiếp thu cái mới, chấp nhận những giá trị mới trong một môi trường năng động liên tục. Tác động tích cực tiếp theo của toàn cầu hoá đối với ý thức đạo đức sinh viên là tạo ra sự tương đối đồng nhất giữa quan niệm đạo đức và quy tắc ứng xử của một cộng đồng (ở đây là sinh viên Việt Nam) với các quan niệm đạo đức và quy tắc ứng xử chung có tính quốc tế. Như đã phân tích ở trên, bên cạnh đặc điểm cơ bản là dễ dàng rời bỏ quá khứ lỗi thời và tiếp thu cái mới, sinh viên hôm nay còn được trang bị ngoại ngữ, tin học, với sự hỗ trợ của các phương tiện thông tin hiện đại và việc mở rộng, đa dạng hóa tiến trình giao lưu quốc tế, tác động tích cực này đã mở ra được một dòng chảy mới trong qúa trình hội nhập, xích lại gần nhau trong một tinh thần cảm thông và cởi mở. Có thể thấy những biểu hiện của nó trong các quan niệm đạo đức có liên quan đến các lĩnh vực đặc trưng của tuổi trẻ như tình bạn, tình yêu... mà đôi khi làm nhiều thành viên trong thế hệ trước quan sát với con mắt lo ngại. Thế nhưng, với cái nhìn cởi mở và hướng về phía trước, thì sự hoà nhập quốc tế lại là một thước đo của tính đúng đắn và bền vững. Các quan niệm đạo đức của mỗi cộng đồng, bên cạnh cái riêng của mình, đang xuất hiện những cái chung hoà nhập cùng thế giới, mở ra những cơ hội giao lưu, học hỏi. Có thể dự đoán về một xu hướng đạo đức được quốc tế hoá, vừa trên cơ sở thống nhất những quy tắc đạo đức chung của con người, vừa giữ được truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Những quan niệm về tốt, xấu, công bằng, bình đẳng... cũng đang có sự dịch chuyển nhất định. Những dịch chuyển này tạo ra một sự giải phóng về mặt tư tưởng quan niệm, hướng sinh viên đến sự chuẩn bị cho những hành động có tính hiệu quả sau này khi gia nhập vào thị trường nhân lực. Những quy tắc ứng xử vì thế cũng biến đổi, sự điều chỉnh hành động tuân theo nguyên tắc thiết thực, hiệu qủa, phù hợp với yêu cầu mới của thời đại công nghiệp. Những rào cản đạo đức nào không còn phù hợp trong việc điều chỉnh hành vi sẽ bị vượt qua, thể hiện khá rõ nét ở sinh viên. Điều đáng chú ý là vẫn với những yếu tố tác động có tính tích cực ở trên, thì cũng chính những yếu tố này, ở một bộ phận sinh viên đã được đẩy lên qúa cao, đến mức lệch chuẩn, nghiêng sang khía cạnh tiêu cực. Tác động tiêu cực rõ nét nhất là biểu hiện cá nhân thực dụng trong quan niệm đạo đức và hành vi ứng xử trong một bộ phận không nhỏ sinh viên hôm nay. Trào lưu dân chủ hoá, làn sóng công nghệ thông tin và việc nâng cao dân trí đã làm ý thức cá nhân ngày càng rõ, đặc biệt rõ trong những người trẻ có học vấn là sinh viên. Họ tự ý thức cao về bản thân mình và muốn thể hiện vai trò cá nhân. Cái cá nhân nhiều khi đã lấn át cái cộng đồng, lợi ích cá nhân quan trọng hơn tất cả. Một biểu hiện khá điển hình của tác động tiêu cực này, đến mức tạo nên một tác động tiêu cực thứ hai, là đang hình thành một thái độ bàng quan đối với những người xung quanh, cho dù các phong trào tình nguyện gần đây được phát động khá rầm rộ trong sinh viên, nhằm giáo dục và tuyên truyền tinh thần vì cộng đồng. Sự hy sinh và quan tâm đến người khác thấp đi, và nếu có thì thường được đánh giá dưới góc độ kinh tế thực dụng hơn là tình cảm và sự chia sẻ. Tác động tiêu cực tiếp theo là cùng với sự du nhập lối sống và sản phẩm công nghệ hiện đại từ các nước phát triển, đã dần dần làm không ít sinh viên xa rời các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp vốn vẫn luôn phù hợp với thời kỳ hiện đại. Hình thành tư tưởng hưởng thụ ăn chơi đua đòi, chịu tác động của tệ nạn xã hội, dễ bị dao động về mặt định hướng đạo đức và lối sống trong bối cảnh một nền kinh tế xã hội mở cửa. Các quan niệm đạo đức trong một bộ phận sinh viên đang bị lệch chuẩn, đặc biệt là ở quan niệm cho rằng đạo đức và lợi ích cá nhân là hoàn toàn đồng nhất mọi lúc mọi nơi. Sự dối lừa được coi là một chuyện bình thường. Khi quan sát, có thể thấy một biểu hiện đáng buồn là nhiều sinh viên không cho rằng việc sao chép tài liệu, ăn cắp ý tưởng trong quá trình làm bài thi, viết tiểu luận và khoá luận là một hành vi phi đạo đức. Nhiều sinh viên đi thuê làm khoá luận, đồ án tốt nghiệp, hoặc đi thi hộ trong kỳ thi tuyển sinh vào đại học và cao đẳng. Hiện tượng mua bằng, bán điểm không còn là chuyện hiếm thấy. Điều đáng lo ngại là nhiều sinh viên bộc lộ thái độ cho rằng đó là chuyện bình thường, không liên quan đến đạo đức. Trong khi đó, ở các nước phát triển, lừa dối là hành vi bị lên án rất mạnh trong môi trường học đường. Cũng vậy, với sự phát triển của thông tin, được sự hỗ trợ của công nghệ cao đang làm giảm giá thành và tăng tốc độ đường truyền, đã làm Internet trở nên phổ biến, nhiều bạn trẻ đã lên mạng sử dụng tiện ích chat như một thú tiêu khiển hơn là phương tiện liên lạc. Với môi trường giao tiếp ảo này, người ta có thể ảo hoá những thông tin cá nhân (tên, tuổi, giới tính, địa phương cư trú, hình dáng...) và dễ dàng đi đến chỗ cung cấp thông tin giả. Sự dối lừa trên mạng được coi là một trò chơi. Nếu như nó chỉ dừng lại ở đó thì không có gì nghiêm trọng, nhưng đáng lưu tâm ở chỗ là từ trò chơi- một lĩnh vực cụ thể, nó dần dần sẽ ảnh hưởng sang quan niệm về đạo đức nói chung, ở cả các lĩnh vực khác. Và gần đây, tác động tiêu cực của môi trường ảo đã hiện thực hoá qua một số vụ xung đột trong các chatter ngoài đời. Sự lạnh lùng trong các mối quan hệ tình cảm- vốn rất được đề cao tính đạo đức- một đặc trưng của con người phương Đông, đang ngày càng lan rộng trong sinh viên. Không thể không đáng suy nghĩ với lời một bài hát như thế này: "Tình yêu đến em không mong đợi gì, tình yêu đi em không hề hối tiếc” (Hát với dòng sông). Nó như một tuyên ngôn cho lối sống lạnh lùng, thiếu hụt cảm xúc, thiếu hụt những đam mê khát vọng và động lực cao quý vốn là tài sản quý báu của tuổi trẻ.. Trong nhiều sinh viên, xuất hiện thái độ đòi hỏi công bằng hơn là sự hy sinh, đặc biệt khi cho rằng việc làm và hưởng thụ đi đôi với nhau mà quên mất nghĩa vụ và trách nhiệm công dân. Toàn cầu hoá là một làn sóng vô cùng mạnh mẽ đang kéo theo tất cả mọi quốc gia, mọi dân tộc, mọi gia đình và cá nhân vào cuộc. Không một ai, không một quốc gia nào có thể đứng ngoài. Sinh viên Việt Nam là một trong những đối tượng chịu ảnh hưởng khá mạnh của xu thế toàn cầu hóa. Đây là nguồn nhân lực đầy sức mạnh, trẻ và có tri thức, có khả năng tiếp cận nhanh chóng với cái mới và thay đổi linh hoạt- những tố chất rất cần thiết cho một thời kỳ phát triển mới. Việc phát huy tính tích cực và điều chỉnh những hành vi lệch lạc trong ý thức đạo đức của sinh viên, có tác dụng vô cùng to lớn trong việc bảo vệ và sử dụng nguồn lực quý này. 3. Vị thế và vai trò của sinh viên đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhìn từ góc độ xã hội học Thanh niên luôn là một nhóm xã hội có vị thế vai trò ngày càng quan trọng trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vị trí và vai trò của thanh niên được xác định bởi đặc điểm tâm lý- xã hội của lứa tuổi. Các yếu tố dân số, kinh tế, xã hội cũng đóng vai trò quyết định đối với vị thế và vai trò xã hội của thanh niên. * Thanh niên và cơ cấu tuổi dân số Việt Nam Cuộc điều tra nhân khẩu học và sức khỏe năm 2002 cho biết cơ cấu dân số Việt Nam gồm: Trẻ em, nếu tính dưới 15 tuổi, chiếm 30,1% chưa tính đến tỉ lệ phần trăm số người tuổi từ 15 đến dưới 16 tuổi; thanh niên, nếu tính từ 15 đến 34 tuổi là 33,6%; Trung niên, nếu tính từ 35 đến 59 tuổi là 26,8%; Người cao tuổi, nếu tính từ 60 tuổi trở lên, là 9,5%. Nếu lấy độ tuổi trên của thanh niên là dưới 30 tuổi thì tỉ trọng thanh niên trong dân số Việt Nam sẽ giảm đi khoảng 7,7%-tức là sẽ loại khoảng 7- 8 triệu người ra khỏi đối tượng điều chỉnh của Luật thanh niên. Điều này cho thấy, chỉ tính riêng từ góc độ nhân khẩu học xã hội đã thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của việc xác định tuổi thanh niên. Tuổi cận trên của thanh niên nếu được xác định càng tăng bao nhiêu thì quy mô và tỉ lệ đối tượng điều chỉnh của Luật Thanh niên càng lớn bấy nhiêu, đồng thời quy mô và tỉ lệ trung niên ngày càng ít đi bấy nhiêu. Tỉ trọng trung niên phải lớn hơn tỉ trọng thanh niên, lớn hơn tỉ trọng của dân số phụ thuộc (gồm trẻ em và người cao tuổi) thì mới có thể đảm bảo sự cân đối về cơ cấu dân số độc lập và phụ thuộc. Cần tính đến sự cân đối hợp lý của cơ cấu dân số trẻ em, thanh niên, trung niên và cao tuổi trong dân số. * Tình trạng hôn nhân và tuổi thanh niên. Đối với đời sống của cá nhân cũng như đời sống xã hội, hôn nhân là một sự kiện trọng đại bởi nó không chỉ có ý nghĩa duy trì nòi giống mà có ý nghĩa khẳng định vị thế, vai trò trách nhiệm và quyền lợi của mỗi công dân trong một cộng đồng xã hội. Tri thức thường ngày của người dân Việt Nam cho biết đến tuổi trưởng thành, tuổi dậy thì của nữ sớm hơn nam (“nữ thập tam, nam thập lục”) và thấp hơn nhiều so với tuổi trưởng thành được xác định theo Luật hôn nhân và gia đình. Quan niệm thường ngày của không ít người dân cho rằng tuổi thanh niên kéo dài từ lúc trưởng thành- từ tuổi dậy thì cho đến lúc lấy vợ hoặc lấy chồng. Sự kiện hôn nhân chứng tỏ rằng người có vợ và người có chồng không còn là thanh niên “lông bông”, sống phụ thuộc vào bố mẹ của họ nữa. Tuy không thể lấy tiêu chí “kết hôn” để xác định tuổi thanh niên nhưng cần tính đến tuổi kết hôn trung bình lần đầu của dân số nữ và nam ở Việt Nam. Số liệu điều tra các năm cho biết tuổi kết hôn trung bình tăng lên chậm chạp đối với nam từ 25.4 tuổi năm 1999 lên 26 tuổi năm 2002, nhưng tương đối ổn định đối với nữ 22.8 tuổi trong cùng thời kỳ này. Với độ tuổi kết hôn trung bình lần đầu khoảng 24- 25 như vậy thì có thể thấy lứa tuổi thanh niên là lứa tuổi kết hôn, sinh đẻ và củng cố cơ cấu gia đình hạt nhân quy mô nhỏ. Do vậy, công tác dân số- phát triển cần tập trung vào lứa tuổi rất nhạy cảm này. * Xã hội hóa và tuổi thanh niên. Trong nghiên cứu này, xã hội hóa là khái niệm dùng để chỉ quá trình phát triển cá nhân trong xã hội chứ không phải là quá trình thu hút sự tham gia của các cá nhân, nhóm, gia đình và các tổ chức vào thực hiện một hoạt động vốn được coi là chức năng, nhiệm vụ của một cơ quan hay một ngành hoặc một lĩnh vực nhất định. Về sự phát triển tâm lý- xã hội của mỗi cá nhân, các nhà xã hội học nhất trí cho rằng mỗi xã hội phải dành thời gian và đầu tư các nguồn lực khác nhau để mỗi cá nhân trải qua một thời kỳ xã hội hóa nhất định trước khi chính thức gia nhập vào đời sống xã hội với tư cách là một thành viên độc lập. Quá trình xã hội hóa cá nhân với nội dung chính là chuẩn bị tinh thần, nghị lực, các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cần thiết cho cuộc sống xã hội, có thể kéo dài từ lúc đứa trẻ lọt lòng mẹ cho đến bao nhiêu tuổi là tùy vào điều kiện lịch sử xã hội cụ thể. Xã hội hiện đại đòi hỏi quá trình xã hội hóa phải kéo theo cho đến khi nào cá nhân có đủ kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp chuyên môn để chủ động, độc lập nắm giữ vị trí nghề nghiệp và thực hiện các vai trò tương ứng với nghề nghiệp để có cuộc sống ổn định với tư cách là một công dân có trách nhiệm và quyền lợi nhất định. Theo thuyết xã hội hóa cá nhân, tiếp sau lứa tuổi trẻ em là lứa tuổi thanh niên. Trong quá trình xã hội hóa ở lứa tuổi thanh niên, mỗi cá nhân phải lựa chọn và quyết định việc tiếp tục học tập các tri thức nghề nghiệp hay là trực tiếp tham gia vào các hoạt động nghề nghiệp để kiếm sống. Xã hội công nghiệp ngày nay đòi hỏi thanh niên tiếp tục đến trường để học một cách hệ thống các kiến thức và hình thành các năng lực, phẩm chất nghề nghiệp cần thiết của một người lao động có một vị trí nhất định trong hệ thống cơ cấu sản xuất xã hội. Đối với cả những thanh niên nào sớm tham gia vào các hoạt động kinh tế thì hoạt động lao động của họ ở lứa tuổi đó vẫn chủ yếu mang tính chất làm quen và chuẩn bị, kiểu làm việc “tập sự” để có một vị trí nhất định trong cơ cấu nghề nghiệp của xã hội. Một nội dung hoạt động cơ bản của xã hội hóa cá nhân là việc đi học, là học vấn. công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải tập trung nhiều hơn nữa vào việc làm tăng tỉ lệ tới trường nhất là ở lứa tuổi trung học cơ sở, trung học phổ thông và cao đẳng, đại học. Luật thanh niên đang được soạn thảo cần làm sao để tuổi thanh niên không nên kéo dài vì như thế sẽ đồng nghĩa với việc kéo dài quá trình xã hội hóa, thiếu sự tập trung đầu tư, gây lãng phí thời gian của cá nhân và xã hội. Như vậy là, từ góc độ xã hội học có thể khẳng định rằng lứa tuổi trẻ em là lứa tuổi giáo dục phổ thông và lứa tuổi thanh niên phải là lứa tuổi giáo dục nghề nghiệp, giáo dục cao đẳng, đại học là lứa tuổi đầu tư phát triển vốn người. Việc đi học đối với thanh niên cần được Luật Thanh niên quy định vừa với tính cách là quyền lợi vừa với tính cách là trách nhiệm, nghĩa vụ. Với tầm nhìn có tính chiến lược về xã hội hóa như vậy thì lực lượng lao động của nền kinh tế Việt Nam mới có thể có đủ trình độ và năng lực đáp ứng yêu cầu của công nghiêp hóa, hiện đại hóa và cạnh tranh với nền kinh tế của các nước khác. Tình trạng đi học của dân số phân theo nhóm tuổi cho biết rõ sự cần thiết phải tính đến đặc điểm và yêu cầu của xã hội hóa đối với việc xác định tuổi thanh niên nói riêng và quyền lợi, nghĩa vụ của thanh niên trong việc học tập nói chung. Trong khi có tới 91,3% trẻ em lứa tuổi 6-15 đi học thì chỉ có 41,4% thanh niên tuổi 16-20 đi học và chỉ có 7,2% thanh niên tuổi 21-24 đi học. Về mặt chiến lược phát triển kinh tế xã hội, cần thấy trước một điều rằng đối với nhóm tuổi 15-19 và nhóm tuổi 18-24 tỉ lệ hoạt động kinh tế càng nhiều càng chứng tỏ đó là một nền kinh tế chậm phát triển và khó có thể có sức cạnh tranh cao. Bởi vì nếu như khi còn trẻ thanh niên không tiếp tục đi học thì khó có thể có đủ trình độ học vấn cần thiết của nền kinh tế tri thức: số liệu về số năm đi học trung bình không khẳng định rằng thanh niên Việt Nam có trình độ học vấn thấp. Với trình độ như vậy thanh niên khó có thể vững bước tiến vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khó có thể cạnh tranh kinh tế với các nước trong khu vực. Về mặt chiến lược, lứa tuổi thanh niên là lứa tuổi đi học- lứa tuổi đầu tư vào phát triển vốn con người, vốn trí tuệ, vốn văn hóa, vốn xã hội và nhiều loại vốn khác cần thiết của người lao động trong xã hội đang tiến vào kỷ nguyên khoa học trở thành lực lượng sản xuất. Tất nhiên, sự nghiệp học tập là sự nghiệp của cả đời người- học, học nữa, học mãi và học suốt đời. Nhưng lứa tuổi trẻ như thanh niên là lứa tuổi học tập có chất lượng tốt nhất và hiệu quả cao nhất. Tuổi trẻ đi qua, việc đào tạo mới và đào tạo lại là rất tốn kém và rất khó khăn đối với mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi cơ quan, tổ chức và toàn xã hội. Thời đại lao động thông minh, lao động trí tuệ đang tiến gần với Việt Nam. Do đó, thanh niên phải là nhóm xã hội tiên phong trên mặt trận học tập và làm giàu trí tuệ của mình bằng kho tàng kiến thức nhân loại. Có như vậy, thanh niên mới thực sự trở thành lực lượng xung kích trên mọi mặt trận và phát huy các truyền thống cách mạng quý báu của thế hệ cha ông. Lời Bác Hồ kính yêu căn dặn về việc bồi dưỡng cách mạng cho đời sau đòi hỏi những người làm luật và hoạch định chính sách về thanh niên cần chú ý để làm sao để nhóm người trẻ tuổi nữ cũng như nam được cất nhắc, đề bạt vào các vị trí lãnh đạo, quản lý xã hội. Tuy chưa có cuộc điều tra chính thức với quy mô lớn về quan niệm xã hội về “tuổi trẻ”: Như thế nào là “trẻ”, nhưng một số quan sát cho thấy trong khu vực kinh tế nhà nước, những người thuộc lứa tuổi 30-35 thường bị coi là quá trẻ để có thể tin cậy trao cho đảm nhiệm các chức vụ lãnh đạo, quản lý. Nếu như trong quan niệm của một bộ phận dân cư và nhất là một bộ phận cán bộ lãnh đạo quản lý còn coi thanh niên là những người ít nhiều còn thiếu kinh nghiệm, nông nổi, “trẻ người non dạ”, thì việc xác định độ tuổi cận trên của thanh niên dưới 30 tuổi sẽ có ý nghĩa thiết thực đối với việc sớm bồi dưỡng, đào tạo thanh niên để sớm trẻ hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tóm lại, nói đến thanh niên là nói đến một nhóm xã hội với tư cách là một bộ phận của xã hội. Việc xác định vị thế, vai trò của thanh niên cần tính đến đặc điểm của một lứa tuổi sinh học của sự phát triển cá thể và các đặc điểm của tuổi xã hội với các điều kiện và yêu cầu mà sự phát triển lâu bền của xã hội ta đặt ra đối với thanh niên với tư cách là một bộ phận của xã hội hiện đại. Các vị thế, vai trò của thanh niên cần được thiết chế hóa thông qua các quy định pháp lý về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của thanh niên và các cá nhân, tổ chức trong xã hội để đảm bảo thanh niên thực sự có điều kiện, cơ hội nâng cao năng lực đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển xã hội công bằng, dân chủ và văn minh trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. “Thanh thiếu niên Việt Nam có suy nghĩ tích cực về tương lai, có nhiều kỳ vọng, đánh giá cao bản thân và cảm thấy mình có giá trị đối với gia đình...”. Đây là kết luận rút ra được từ cuộc Điều tra quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên do Bộ Y tế, Tổng cục Thống kê, Unicef, và Tổ chức Y tế thế giới phối hợp tiến hành tại 42 tỉnh thành của Việt Nam trong 2 năm và được công bố sáng 26- 8 tại Hà Nội. Phát biểu tại hội thảo sáng nay, 26- 8, Tiến sĩ Trần Chí Liêm, Thứ trưởng Bộ Y tế cho biết thanh thiếu niên ngày nay duy trì mối quan hệ gắn bó mật thiết với gia đình, điều này có ý nghĩa bảo vệ và hỗ trợ đối với các em. Cuộc nghiên cứu cũng cho thấy có tới 94,7% thanh thiếu niên nghĩ mình có giá trị đối với gia đình. Các thanh thiếu niên cũng đồng ý với nhận xét “Tôi có khả năng làm được những việc mà người khác làm được” (với 71,3% đồng ý hoàn toàn và 22,7% đồng ý một phần). Mức độ lạc quan của thanh thiếu niên khi được hỏi về gia đình, cuộc sống cũng tăng theo độ tuổi và không có sự khác biệt giới, thành thị và nông thôn. Hầu hết thanh thiếu niên đều có những ước vọng lạc quan về hạnh phúc gia đình với 82,6% hoàn toàn đồng ý với nhận định “Tôi sẽ có một gia đình hạnh phúc hơn trong tương lai”. Trong đó, nam thanh niên (86,7%) lạc quan hơn nữ (78,2%) trong nhận định này. 49,5% thanh thiếu niên cho biết việc làm là ước vọng đầu tiên mà họ muốn đạt được; 25% muốn có kinh tế, thu nhập ổn định; 22% thanh thiếu niên chọn đóng góp cho đất nước. 87,5% thanh thiếu niên được hỏi cho rằng sẽ có một cuộc sống tốt hơn cuộc sống hiện tại của bố mẹ. Tuy nhiên, tỷ lệ này thấp hơn đối với nhóm nữ dân tộc (81,2%). 12% cho rằng cuộc sống của họ cũng vẫn như vậy và chỉ có chưa đầy 1% cho rằng cuộc sống của họ sẽ kém đi. Nhiều bậc cha mẹ đặt kỳ vọng cao vào con cái, mong rằng con họ sẽ thành đạt và có cuộc sống tốt hơn họ. Chính những kỳ vọng đó có thể tạo ra mong muốn và động cơ để thành đạt đối với thanh thiếu niên. Tuy nhiên, cuộc điều tra cũng cho thấy việc cha mẹ can thiệp quá nhiều vào cuộc sống của con cái trong một số trường hợp làm thanh thiếu niên cảm thấy phải có trách nhiệm và chịu áp lực bên trong lẫn bên ngoài trong việc thực hiện các ước muốn trên. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVHOA (56).doc
Tài liệu liên quan