Đề xuất quy hoạch môi trường vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn - Tỉnh Ninh Bình

Đề xuất quy hoạch môi trường vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn - tỉnh Ninh Bình MỤC LỤC MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1 1.1. TỔNG QUAN VỀ QUY HOẠCH MÔI TRƯỜNG 1.1.1. Khái niệm về quy hoạch môi trường 1.1.2. Mục tiêu, nguyên tắc và nội dung cơ bản của quy hoạch môi trường 1.1.3. Các hoạt động triển khai về quy hoạch môi trường trên Thế giới và ở Việt Nam 1.1.4. Các phương pháp và công cụ dùng trong quy hoạch môi trường 1.2. TỔNG QUAN VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – KINH TẾ XÃ HỘI VÙNG BÃI BỒI VEN BIỂN HUYỆN KIM SƠN - TỈNH NINH BÌNH 1.2.1. Điều kiện tự nhiên vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn - tỉnh Ninh Bình 1.2.1.1. Vị trí địa lý 1.2.1.2. Đặc điểm khí hậu 1.2.1.3. Đặc điểm thuỷ, hải văn 1.2.1.4. Đặc điểm địa hình 1.2.1.5. Tài nguyên thiên nhiên 1.2.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội 1.2.2.1. Dân cư 1.2.2.2. Hoạt động kinh tế 1.2.2.3. Văn hoá xã hội 1.2.2.4. Hiện trạng sử dụng đất CHƯƠNG 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH VÀ KẾ THỪA CÁC TƯ LIỆU THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM VỀ QUY HOẠCH MÔI TRƯỜNG 2.2. PHƯƠNG PHÁP KHẢO SÁT, ĐIỀU TRA VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI 2.3. PHƯƠNG PHÁP TỔNG HỢP, PHÂN TÍCH, XỬ LÝ HỆ THỐNG THÔNG TIN ĐỊA LÝ 2.4. PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ VÀ DỰ BÁO BIẾN ĐỘNG MÔI TRƯỜNG 2.4. PHƯƠNG PHÁP LẬP BẢN ĐỒ QUY HOẠCH MÔI TRƯỜNG CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU BIẾN ĐỘNG TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG VÀ CÁC ĐỊNH HƯỚNG QUY HOẠCH KHU VỰC BÃI BỒI VEN BIỂN HUYỆN KIM SƠN, NINH BÌNH 3.1. HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG KHU VỰC BÃI BỒI VEN BIỂN HUYỆN KIM SƠN TỈNH NINH BÌNH 3.1.1. Hiện trạng môi trường nước 3.1.1.2. Hiện trạng môi trường nước ngầm 3.1.2. Hiện trạng môi trường đất 3.1.2.1. Thành phần các nguyên tố vi lượng 3.2. DỰ BÁO XU HƯỚNG BIẾN ĐỘNG MÔI TRƯỜNG 3.2.1. Các nhân tố gây biến động môi trường 3.2.1.1 Nhân tố tự nhiên 3.2.1.2. Nhân tố nhân sinh 3.2.2. Dự báo biến động môi trường 3.2.1.1. Các biến đổi địa hình, cảnh quan khu vực nghiên cứu 3.2.1.2. Biến động môi trường nước 3.2.1.3. Biến động môi trường đất 3.2.1.4. Các biến động sử dụng đất 3.3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP QUY HOẠCH SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN KHU VỰC BÃI BỒI VEN BIỂN HUYỆN KIM SƠN, NINH BÌNH 3.3.1. Định hướng quy hoạch môi trường khu vực bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình 3.3.2. Các giải pháp khả thi để sử dụng bền vững tài nguyên khu vực bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn, Ninh Bình KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ I. KẾT LUẬN II. KIẾN NGHỊ

doc82 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2062 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề xuất quy hoạch môi trường vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn - Tỉnh Ninh Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho thấy: Nước mưa rất trong, thuộc loại nước siêu nhạt (0,018 - 0,124 g/l), rất mềm (8 - 104 mg/l), có tính kiềm yếu (pH = 7,35 - 7,96). Thành phần hoá học chính của nước là bicarbonat - calci. Nước không bị nhiễm bẩn, đạt tiêu chuẩn nước cấp cho sinh hoạt. 3.1.1.2. Hiện trạng môi trường nước ngầm 1/ Nước giếng đào Do các tầng chứa nước của Hệ tầng Thái Bình và Hệ tầng Hải Hưng bị nhiễm mặn nên hệ thống các giếng đào dân dụng trong khu vực nghiên cứu không phát triển mạnh. Các giếng đào dân dụng thường được đào gần các ao nước ngọt hoặc kênh tiêu ngọt và tập trung chủ yếu ở phần Tây xã Kim Hải. Kết quả phân tích mẫu nước trong Bảng 11. Bảng 11: Một số thành phần ô nhiễm chính trong nước giếng đào Vị trí M g/l Độ cứng mg/l COD mg/l BOD5 mg/l Coli Fecal NH4+ mg/l NO2- mg/l Nhận xét Xóm 3 Kim Hải 2,5 999 26 10 17 2 0,28 1,96 Nước bị mặn, rất cứng, nhiễm bẩn hữu cơ, vi sinh Xóm 1 Kim Hải 5,2 1.339 - - - - 9,8 0,01 Nước mặn, rất cứng, nhiễm bẩn hữu cơ TCVN 5944 500 10 4 3 0 1 0,001 Tiêu chuẩn nước ngầm QCXDVN I 0,5 500 4 2 0 0 0 0 Tiêu chuẩn cấp nước sinh hoạt Nguồn: Báo cáo tổng quan Dự án điều tra cơ bản huyện Kim Sơn, Ninh Bình năm 2003 Kết quả phân tích cho thấy nước hai giếng đào này khá trong, độ pH từ 7,51 - 7,75; tổng độ cứng từ 999 - 1339 mg/l; tổng khoáng hoá từ 2,505 - 5,211 g/l, thuộc loại nước lợ đến mặn, rất cứng và có tính kiềm yếu. Thành phần hoá học chính của nước là clorur - natri. Lượng oxi hoà tan trong nước rất thấp, chỉ đạt từ 0,82 - 1,12 mg/l. Lượng oxi tiêu hao sinh hoá khá cao, nước chứa nhiều hợp chất hữu cơ. Hàm lượng tổng N thấp nhưng hàm lượng NH4+ và NO2- rất cao, chứng tỏ nước đang bị nhiễm bẩn hữu cơ. Tổng lượng cặn sấy khô 2346,48 mg/l, không đạt TCVN (TCVN: 750 - 1.500 mg/l). Lượng coliform 17 con/100 ml, không đạt tiêu chuẩn vệ sinh về vi khuẩn (TCVN là 3 con). Trong nước giếng đào có mặt hầu hết các kim loại nặng và nguyên tố vi lượng khác nhưng hàm lượng của chúng rất thấp, đạt tiêu chuẩn cho phép. Như vậy nước giếng đào không đạt tiêu chuẩn nước ngầm cũng như tiêu chuẩn nước cấp cho sinh hoạt về các phương diện: độ tổng khoáng hoá, hàm lượng clo, tổng độ cứng, tổng cặn sấy khô, hàm lượng chất hữu cơ, hàm lượng NH4+, NO2- và vi khuẩn. 2/ Nước giếng khoan Do tầng chứa nước Plestocen Hệ tầng Hà Nội phân bố khá rộng rãi nên hệ thống các giếng khoan UNICEF và giếng khoan dân dụng trong khu vực nghiên cứu phát triển rất mạnh. Độ sâu các giếng khoan phụ thuộc hoàn toàn vào độ sâu của mái tầng chứa nước như: ở Nam Nông trường Bình Minh thường sâu 60 - 62m, ở Đông Bắc xã Kim Hải sâu 48 - 54m; ở Đông Nam xã Kim Hải sâu 70 - 80m; ở Bắc Kim Trung và Kim Đông sâu 75 - 85m; ở Nam Kim Trung, Nam Kim Đông và ngoài đê Bình Minh 2 sâu 90 - 95m. Kết quả phân tích các mẫu nước giếng khoan trong Bảng 12. Kết quả phân tích các mẫu nước cho thấy: nước giếng rất trong, độ pH từ 7,23 - 7,97; tổng độ cứng thường từ 76 - 557 mg/l; độ tổng khoáng hoá thường từ 0,33 - 0,676 g/l; thuộc loại nước nhạt, từ rất mềm đến hơi cứng và có tính kiềm yếu. Thành phần hoá học chính của nước là clorur – bicarbonat - natri. Riêng vùng Kim Hải nước có tổng độ cứng từ 2158 - 3780 mg/l, độ tổng khoáng hoá từ 1,755 - 4,47 g/l; vùng ngoài đê Bình Minh 2 nước có tổng khoáng hoá đạt 4,506 g/l; thuộc loại nước lợ đến mặn, rất cứng và có tính kiềm yếu. Thành phần hoá học của nước là clorur - natri. Lượng oxi hoà tan trong nước từ 1,8 - 6,7 mg/l. Lượng oxi tiêu hao sinh hoá khá cao, nước chứa nhiều hợp chất hữu cơ. Hàm lượng tổng N thấp nhưng hàm lượng NH4+ và NO2- rất cao, ở Kim Hải hàm lượng NH4+ còn tới 4,2 - 10,56 mg/l chứng tỏ nước đang bị nhiễm bẩn hữu cơ. Lượng coliform trong nước thường rất cao, từ 2 - 2.600 con/100 ml; fecalcoli từ 2 - 170 con/100 ml. Nước không đạt tiêu chuẩn vệ sinh về vi khuẩn. Trong nước giếng khoan cũng có mặt hầu hết các kim loại nặng và nguyên tố vi lượng khác nhưng hàm lượng của chúng thường đạt tiêu chuẩn cho phép. Như vậy nước giếng khoan trong khu vực nghiên cứu không đạt tiêu chuẩn chất lượng nước ngầm cũng như tiêu chuẩn nước cấp cho sinh hoạt về các phương diện: hàm lượng chất hữu cơ, hàm lượng NH4+ và NO2 và vi khuẩn. Riêng ở Kim Hải và vùng ngoài đê Bình Minh 2 còn thêm về phương diện độ tổng khoáng hoá, hàm lượng clo, tổng độ cứng, tổng cặn sấy khô. Nước giếng khoan phải được xử lý trước khi dùng vào mục đích sinh hoạt. Bảng 12: Một số thành phần ô nhiễm chính trong nước giếng khoan Vị trí M g/l Độ cứng mg /l COD mg/l BOD5 mg/l Coli Fecal NH4+ mg/l NO2- mg/l Nhận xét BM3 Kim Đông 0,33 182,4 - - - - 1,7 0,14 Nước nhạt, cứng, nhiễm bẩn hữu cơ Xóm 4 Kim Đông 0,455 76 14,7 - 300 22 1,7 0,01 Nước nhạt, cứng, nhiễm bẩn hữu cơ và vi sinh Xóm 2 Kim Đông 0,423 30,4 - - - - 2,52 0,05 Nước nhạt, nhiễm bẩn hữu cơ Xóm 1 Kim Đông 0,505 304 - - - - 2,4 0,1 Nước nhạt, cứng, nhiễm bẩn hữu cơ Xóm 5 Kim Trung 0,497 135 24,6 - 300 170 0,94 0,1 Nước nhạt, cứng, nhiễm bẩn hữu cơ và vi sinh Xóm 4 Kim Trung 0,581 153 - - - - 0,24 0,56 Nước nhạt, cưng, nhiễm bẩn hữu cơ BM2 Kim Trung 4,506 181 - - - - 0,58 0,01 Nước mặn, cứng, nhiễm bẩn hữu cơ 279 quân đội 0,413 144 45 - 2600 4 3,76 1,34 Nước nhạt, cứng, nhiễm bẩn hữu cơ và vi sinh Xóm 3 Kim Hải 0,65 557 47 15 26 2 1,62 0,03 Nước nhạt, cứng, nhiễm bẩn hữu cơ và vi sinh Xóm 4 Kim Hải 0,564 371 - - - - 0,1 0,56 Nước nhạt, cứng, nhiễm bẩn hữu cơ Xóm 2 Kim Hải 1,755 2158 - - - - 4,2 0,05 Nước nhạt, rất cứng, nhiễm bẩn hữu cơ Đội 1 Bình Minh 4,47 3780 - - - - 10,56 0,001 Nước nhạt, rất cứng, nhiễm bẩn hữu cơ Nông trường 0,574 350 9,02 2,5 2 2 0,09 0,001 Nước nhạt, cứng, nhiễm bẩn hữu cơ và vi sinh Khối 11 Bình Minh 0,483 100 - - - - 0,18 0,001 Nước nhạt, hơi cứng Khối 9 Bình Minh 0,526 280 - - - - 3,3 0,001 Nước nhạt, cứng, nhiễm bẩn hữu cơ TCVN 5944 500 10 4 3 0 1 0,001 Tiêu chuẩn nước ngầm QCXDVN I 0,5 500 4 2 0 0 0 0 Tiêu chuẩn cấp nước sinh hoạt Nguồn: Báo cáo tổng quan Dự án điều tra cơ bản huyện Kim Sơn, Ninh Bình năm 2003 3.1.2. Hiện trạng môi trường đất 3.1.2.1. Thành phần các nguyên tố vi lượng Từ Bảng 13 cho thấy trong số 7 nguyên tố Cu, Pb, Zn, Ni, As, Co, Cd có Cu và Zn là hai nguyên tố có hàm lượng cao hơn nhiều so với các nguyên tố còn lại. So sánh với tiêu chuẩn cho phép của Canada thì hàm lượng các nguyên tố vi lượng trong lớp bùn đất tầng mặt của vùng nghiên cứu đều nằm ở mức dưới giới hạn cho phép. Nói cách khác là lớp bùn đất tầng mặt ở đây chưa có biểu hiện ô nhiễm các nguyên tố kim loại nặng và độc hại. 3.1.2.2. Thành phần dư lượng thuốc bảo vệ thực vật Các chỉ tiêu thành phần dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong bùn đất tầng mặt của vùng được xác định ở Bảng 14. So sánh các kết quả với chỉ tiêu cho phép đối với bùn đất trầm tích tầng mặt (với vùng cửa sông ven biển) theo tiêu chuẩn của Canada 1999, đa số các chỉ tiêu phân tích đều nằm ở mức dưới giới hạn cho phép. Điều đó có thể do những năm gần đây đất trong vùng chủ yếu được khai thác để làm đầm ao nuôi hải sản nên các loại hoá chất bảo vệ thực vật bị cấm sử dụng hoặc sử dụng rất hạn chế. Bảng 13: Thành phần nguyên tố vi lượng lớp bùn đất tầng mặt thuộc các phân vùng sinh thái khác nhau của vùng nghiên cứu TT Phân vùng sinh thái Độ sâu lớp bùn đất (m) Số mẫu phân tích Thành phần các nguyên tố vi lượng (mg/kg) Ghi chú Cu Pb Zn Ni As Co Cd 1 Bãi triều và rừng ngập mặn 0-0,3 0,3-0,5 5 5 8,04-12,04 9,55 8,27-12,06 9,93 0,002-0,012 0,007 0,001-0,008 0,003 3,78-6,00 4,58 3,78-5,06 4,47 0,096-0,97 0,283 0,028-0,126 0,094 (0,00-2,01).10-3 1,07.10-3 (0,00-1,87).10-3 0,96.10-3 0,01-0,86 0,269 0,126-0,36 0,203 0,014-0,12 0,038 0,012-0,94 0,218 Min-Max Trung bình 2 Đầm ao nuôi hải sản 0-0,3 0,3-0,5 5 5 10,06-15,8 13,00 8,74-13,07 10,15 0,002-0,009 0,005 0,002-0,008 0,006 3,96-4,21 4,08 3,84-5,94 4,45 0,014-0,126 0,046 0,02-0,134 0,094 (0,97-3,06).10-3 1,99.10-3 (0,00-1,04).10-3 0,26.10-3 0,113-0,812 0,465 0,103-0,9 0,307 0,013-0,09 0,052 0,019-0,08 0,051 3 Ruộng lúa nước ven biển 0-0,3 0,3-0,5 5 5 7,27-9,11 8,44 8,64-10,14 9,61 0,000-0,009 0,003 0,002-0,030 0,013 3,46-5,09 4,28 4,27-6,24 5,21 0,027-0,154 0,094 0,012-0,046 0,026 (0,026-1,4).10-3 0,48.10-3 (0,014-3,01).10-3 1,73.10-3 0,211-0,894 0,635 0,118-0,894 0,439 0,013-0,096 0,042 0,000-0,012 0,008 Tiêu chuẩn của Canada 18,7 30,2 12,4 15,9 7,24 11,5 0,7 Tiêu chuẩn các nguyên tố vi lượng trong lớp bùn đất trầm tích tầng mặt ở vùng đất ngập nước ven biển Nguồn: Báo cáo tổng quan Dự án điều tra cơ bản huyện Kim Sơn, Ninh Bình năm 2003 Bảng 14: Thành phần dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong lớp bùn đất tầng mặt thuộc các phân vùng sinh thái khác nhau của vùng TT Phân vùng sinh thái Độ sâu lớp bùn đất lấy mẫu (m) Số mẫu phân tích Thành phần dư lượng thuốc bảo vệ thực vật (mg/kg) Ghi chú Lindan C6H6Cl6 Endrin Aldrin P.P DDD P.P DDT PP DDE 1 Bãi triều và rừng ngập mặn 0 - 0,3 0,3 - 0,5 5 5 0,01-0,04 0,02 0,01-0,04 0,022 0,34-1,06 0,79 0,47-1,02 0,82 0,01-0,05 0,028 0,01-0,04 0,029 0,07-0,14 0,108 0,03-0,15 0,084 2,01-4,20 2,724 1,04-3,16 2,288 0,65-1,03 0,856 0,04-0,97 0,582 Min - Max Trung bình 2 Đầm ao nuôi hải sản 0 - 0,3 0,3 - 0,5 5 5 0,01-0,03 0,02 0,001-0,04 0,018 0,027-0,95 0,639 0,14-1,04 0,633 0,01-0,07 0,033 0,01-0,05 0,033 0,03-0,11 0,073 0,06-0,12 0,093 1,04-3,27 2,37 1,04-3,24 2,205 0,14-0,96 0,475 0,54-1,01 0,745 3 Ruộng lúa nước ven biển 0 - 0,3 0,3 - 0,5 5 5 0,002-0,04 0,024 0,01-0,04 0,027 0,03-0,98 0,43 0,03-1,03 0,693 0,001-0,03 0,017 0,01-0,02 0,013 0,01-0,94 0,553 0,02-0,78 0,52 1,04-1,24 1,15 1,09-2,18 1,703 0,47-0,52 0,486 0,44-1,08 0,693 Tiêu chuẩn của Canada 0,32 2,673 0,710 1,22 3,89 2,07 Tiêu chuẩn dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong lớp bùn trầm tích tầng mặt ở vùng đất ngập nước ven biển Nguồn: Báo cáo tổng quan Dự án điều tra cơ bản huyện Kim Sơn, Ninh Bình năm 2003 3.2. DỰ BÁO XU HƯỚNG BIẾN ĐỘNG MÔI TRƯỜNG 3.2.1. Các nhân tố gây biến động môi trường 3.2.1.1 Nhân tố tự nhiên Cấu tạo địa chất Châu thổ sông Hồng là một bồn tích tụ ven bờ quy mô lớn, điển hình về kiểu loại và cấu trúc, phát triển liên tục trên nền sụt hạ tân kiến tạo và kiến tạo hiện đại. Tuy nhiên, chế độ sụt hạ này phân dị phức tạp cả về cường độ và xu thế, thậm chí còn tạo nên cả đới nâng nội võng. Trong giai đoạn tân kiến tạo và kiến tạo hiện đại, vùng nghiên cứu phát triển trên đới nâng yếu giới hạn bởi đứt gãy sông Đáy ở phía Đông Bắc với biên độ trên dưới 300m tương ứng với tốc độ nâng vào khoảng 0,01 mm/năm. Hoạt động đứt gãy xảy ra khá mạnh trong lịch sử phát triển địa chất vùng nghiên cứu và chúng tiếp tục hoạt động mạnh trong tân kiến tạo. Các đứt gãy phân chia các miền và đới cấu trúc thành các khối khác nhau. Trong phạm vi khu vực phát triển chủ yếu là các hệ thống đứt gãy phương Tây Bắc - Đông Nam (sông Hồng, Ninh Bình), phương Đông Bắc - Tây Nam (Yên Khánh, Thái Thuỵ), các đứt gãy phương á kinh tuyến (Yên Khánh - Tiên Lữ, Kim Sơn - Nghĩa Hưng) và á vĩ tuyến kém phát triển. Các đứt gãy phương Tây Bắc - Đông Nam là đứt gãy chi phối bình đồ cấu trúc tân kiến tạo trong khu vực và thường liên quan tới các chấn tâm động đất. Đứt gãy sâu sông Hồng: là đứt gãy phân chia các đới nâng tân kiến tạo có tốc độ khác nhau. Đứt gãy thuận phương Tây Bắc - Đông Nam xuất phát từ bề mặt Moho với độ sâu khoảng 30 km. Đứt gãy hiện đang hoạt động, dọc theo đứt gãy đã xác định được 2 chấn tâm động đất đạt 4,5 - 5,5 độ Richter. Đứt gãy sông Đáy: có phương Tây Bắc - Đông Nam, xuất phát từ độ sâu 25 - 30 km, kết thúc ở độ sâu 1 km và có nhiều biểu hiện hoạt động hiện đại với các khu vực nứt đất trên bề mặt. Tương tự với nhiều đứt gãy của trũng sông Hồng, đứt gãy sông Đáy là đứt gãy sinh chấn với các chấn tâm có cường độ M từ 3,1 - 3,5 độ Richter (Hoa Lư) tới 4,6 - 5,0 độ Richter (Phát Diệm) đã từng được sử dụng trong việc lý giải nguyên nhân gây xói lở bờ biển Kim Sơn. Các đứt gãy phương Đông Bắc - Tây Nam: phân cắt các đới, tạo các đới cấu trúc, chủ yếu đóng vai trò phân dị địa hình với các bậc thấp dần ra biển. Các đứt gãy này chủ yếu là đứt gãy thuận. Tại khu vực đới ven bờ có các đới đứt gãy tạo nên các dải nâng, làm lộ trầm tích Vĩnh Phúc ở khu vực có độ sâu lớn hơn 30m nước. Hoạt động hiện đại của các hệ thống đứt gãy trong khu vực góp phần làm phức tạp hoá quá trình bồi tụ - xói lở đường bờ biển trong khu vực châu thổ sông Hồng nói chung và khu vực bãi bồi ven biển Kim Sơn nói riêng. Tốc độ dịch chuyển đường bờ Một trong những nguyên nhân ảnh hưởng tới xu hướng phát triển bãi bồi là tốc độ dịch chuyển vùng Kim Sơn gắn liền với nguồn cung cấp vật liệu, nhất là gắn liền với sự dịch chuyển lòng sông của sông Đáy và sông Càn trước và sau thế kỷ XX. Vào giai đoạn cuối thế kỷ XIX, lòng dẫn sông Đáy không chạy qua địa phận huyện Kim Sơn ngày nay. Chỉ vào đầu thế kỷ XX lòng sông Đáy mới chuyển chảy vào địa phận huyện Kim Sơn và quá trình bồi tụ bãi bồi mới xảy ra mãnh liệt như bây giờ. Tốc độ dịch chuyển đường bờ biển bãi bồi Kim Sơn được tính dựa trên quá trình đắp đê lấn biển với giả thiết rằng các đê được đắp trên cùng một mức độ cao của bãi bồi. Tốc độ dịch chuyển tương đối của đường bờ tính theo công thức: I = d/t Trong đó: I là độ dịch chuyển d là độ dài lớn nhất giữa 2 đê (theo chiều từ đất liền ra biển) t là thời gian giữa hai lần đắp đê Dựa trên số liệu thống kê từ năm 1959 đến 2005, tác giả đã đưa ra kết quả tính toán ở Bảng 15. Bảng 15: Tốc độ lấn biển vùng bãi bồi Kim Sơn Thời gian Số năm Chiều dài lấn biển (m) Tốc độ lấn trung bình (m/năm) 1959 - 1980 21 3444 - 3087 164 - 147 1980 - 2005 25 3087 - 2950 124 - 118 Tốc độ bồi tụ theo diện tích Tốc độ bồi tụ được đánh giá gián tiếp qua diện tích bồi tụ hàng năm và được tính theo công thức: B = S/t Trong đó: B là tốc độ bồi tụ trung bình (ha/năm) S là diện tích được bồi tụ (ha) t là thời gian (năm) Bảng 16: Tốc độ bồi tụ theo diện tích vùng bãi bồi Kim Sơn Thời gian Số năm Diện tích bãi bồi được đắp (ha) Tốc độ tăng diện tích (trung bình ha/năm) 1959 - 1980 21 1932 92 1980 - 2005 25 2375 95 Ảnh hưởng của các yếu tố khí tượng, thuỷ văn Khí hậu là yếu tố quan trọng trong sự phát triển của vùng bờ châu thổ. Vùng đồng bằng châu thổ thường có chất đất màu mỡ, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản. Sự hình thành và phát triển của vùng cửa sông và ven bờ có quan hệ mật thiết đến lượng dòng chảy và lưu lượng bùn cát của sông ngòi luôn thay đổi theo mùa khí hậu, được biểu hiện rõ nhất qua lượng mưa. Nằm trong khu vực nhiệt đới, khu vực có lượng mưa lớn hơn lượng bốc hơi, tác dụng xâm thực, xói mòn sẽ đem đến cho thung lũng sông dòng nước và bùn cát phong phú. Tác dụng phong hoá ở vùng nhiệt đới cũng cung cấp cho sông ngòi nguồn bùn cát to lớn. Lượng dòng chảy và dòng bùn cát do sông thay đổi mạnh theo mùa khí hậu làm thay đổi và tác động đến quá trình động lực cửa sông ven bờ, làm biến đổi cửa, sa bồi luồng hoặc bùn cát do sông đưa ra là nguồn bồi tích tạo nên các bar, cồn và bãi bồi ở cửa sông và các khu vực lân cận. Ngoài ra, chính sự lặp đi lặp lại của gió theo các mùa trong nhiều năm và các yếu tố khí hậu khác làm cho địa hình và cảnh quan ven biển phát triển mang tính chất nhịp điệu, dẫn đến địa hình bờ và luồng lạch cửa sông biến đổi mạnh theo mùa và các quá trình bồi tụ, xói lở ven bờ khu vực cũng mang tính chu kỳ. Sóng biển Đất bồi ven biển Tương tác kéo dài và mất năng lượng Mất toàn bộ năng lượng Năng lượng được duy trì do sóng Bờ biển ổn định Không có sự thay đổi đến khi năng lượng sóng thay đổi Cân bằng Ổn định về hình thái Bồi tụ > xói mòn Bồi tụ < xói mòn Không có sự di chuyển trầm tích Di chuyển trầm tích Mất phần lớn năng lượng Lắng đọng Xói mòn Thay đổi hình thái bờ Hình 2: Quá trình tương tác giữa sóng biển và vùng bờ Ảnh hưởng của khí hậu còn biểu hiện qua hoạt động của chế độ sóng trong khu vực. Trên đất liền gió thường thể hiện chức năng phá huỷ, vận chuyển và tích tụ, song đối với phần ngập nước của dải ven bờ, năng lượng của gió được chuyển qua hoạt động của sóng hay nói khác đi gió có vai trò quyết định đối với sóng ven bờ. Vùng ven biển Kim Sơn, sóng là một trong những yếu tố động lực rất quan trọng và quyết định. Do đặc điểm địa hình và hướng đường bờ, sóng hướng đông và đông bắc trong gió mùa đông bắc phát triển rất mạnh, tạo nên động lực phá huỷ bờ và đê kè. Dòng chảy sóng dọc bờ có vai trò rất quan trọng trong việc vận chuyển vật chất ven bờ xuống phía nam trong trường sóng đông bắc, gây bồi tụ ở Kim Sơn. Vai trò của sóng được thể hiện trong Hình 2. Các hiện tượng thời tiết đặc biệt, nhất là bão, tuy chỉ xảy ra trong thời gian ngắn, nhưng có sức công phá lớn và có thể thay đổi hình thái địa hình khu vực. Với tần suất 3- 4 cơn bão/năm, đây là khu vực có tần suất cũng như cường độ bão lớn nhất nước ta. Vùng ven biển Kim Sơn, tần suất bão cực đại rơi vào tháng 9 (32%) là tháng có mưa cao, dễ gây lũ lụt và tác động mạnh đến vùng ven bờ. Tuy bão xuất hiện không thường xuyên nhưng năng lượng rất lớn, tốc độ gió luôn trên 20 m/s, kèm theo mưa lớn kéo dài có thể phá huỷ đê kè và làm thay đổi địa hình bờ biển trong thời gian ngắn. Quá trình đổ bộ của bão vào đới bờ biển thường làm cho mực nước biển dâng cao, đặc biệt nguy hiểm khi trùng kỳ triều cường, gây nên quá trình phá huỷ bờ, đe doạ các hệ thống đê và các công trình ven biển. Dòng chảy trong khu vực được hình thành chủ yếu do sự dao động mực nước biển gây ra. Biên độ dao động mực nước thay đổi theo các tháng trong năm cùng với sự thay đổi của trường gió, sóng tạo nên sự biến đổi cán cân vận chuyển bồi tích trong khu vực. Trong mùa đông, biên độ triều lớn vào các tháng 10 đến tháng 1 là thời kỳ sóng hướng đông và đông bắc phát triển mạnh sẽ phát triển mạnh dòng vận chuyển bồi tích về phía nam trong pha triều xuống, gây xói lở vùng ven bờ. Ngược lại, trong mùa hè, sóng hướng nam và đông nam phát triển tạo dòng chảy sóng kết hợp với dòng triều lên sẽ vận chuyển bồi tích lên phía bắc. Mực nước dao động với biên độ khá lớn (cực đại >3m) tạo cho đới sóng đổ có ranh giới khá rộng ở dải ven bờ, làm tăng khả năng biến đổi địa hình đáy biển ở phạm vi rộng. Khi mực nước dâng cao, sóng có thể đổ sát chân đê, kè gây xói sạt, phá huỷ đê kè. Ngược lại, mực nước xuống thấp nhất, đới sóng đổ bị kéo ra xa bờ, năng lượng sóng có thể ảnh hưởng tới vùng bờ ngầm dưới sâu hơn. Đặc điểm chế độ thuỷ văn sông trong khu vực cũng ảnh hưởng đến chế độ động lực trong khu vực. Vùng ven bờ Kim Sơn có 2 cửa sông chính là cửa Đáy và cửa Càn. Trong năm, chế dộ dòng chảy sông, lưu lượng, độ đục thay đổi mạnh theo mùa: khô và mưa. Đặc biệt về mù mưa lũ động lực sóng rất mạnh thể hiện ở lưỡi nước đục xâm nhập ra biển theo hướng vuông góc bờ đến trên 20 km tại vùng cửa Đáy. Động lực dòng sông giảm từ thượng lưu về hạ lưu nhưng về mùa mưa lũ động lực dòng sông cũng còn rất mạnh ở vùng cửa thể hiện ở sức tải vật chất từ thượng lưu về hạ lưu. Mặc dù vậy những tác động của động lực dòng sông đã bị chi phối và thay đổi nhiều ở vùng nước ven bờ do tương tác với chế độ động lực biển ven bờ. Cùng với động lực dòng chảy, lượng bùn cát sau khi đưa tới cửa, một phần được bồi lắng ngay trước cửa sông, phần khác được dòng hải lưu ven bờ đưa ra xa và phân phối lại cho cả khu vực rộng lớn ven bờ. Ảnh hưởng của phù sa bùn cát của cửa sông Càn ít tác động đến bồi tụ trong khu vực. Cửa Đáy có lượng bùn cát cao nhất hệ thống sông Hồng (khoảng 19,312 triệu tấn/năm), do có hình thái mở rộng ra biển, đã làm khuyếch tán phù sa ra xa bờ, tạo thành vùng bồi tụ ở cửa Đáy với tốc độ cực đại đạt tới 120 m/năm. 3.2.1.2. Nhân tố nhân sinh Xây dựng hồ chứa Xây dựng hồ chứa thượng nguồn là một trong những hành động khai thác lưu vực có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển vùng bờ biển do thay đổi cân bằng nước và bồi tích dẫn đến bồi tụ hay xói lở bờ ở vùng đông bắc Việt Nam, ảnh hưởng này không đáng kể. Nhưng ở vùng bờ châu thổ sông Hồng, ảnh hưởng này rất lớn và diễn biến tác động không lường hết được. Cả 2 phụ lưu chính của sông Hồng đều bị ngăn tạo hồ chứa - hồ chứa Hoà Bình trên sông Đà và hồ chứa Thác Bà trên sông Chảy. Sông Đà là phụ lưu lớn nhất với diện tích lưu vực 51.700 km2 tính tới Hoà Bình, chiếm 50% tổng thuỷ lượng và 42 - 78% lượng chảy lũ của hệ thống sông Hồng. Đập Hoà Bình có sức chứa 9,45 tỷ m3, chiếm 8,29% tổng thuỷ lượng năm của hệ thống sông Hồng và gấp 4 lần hồ Thác Bà. Mỗi năm, lòng hồ Hoà Bình nhận 48 triệu tấn bồi tích, tương dương với 83% lượng bồi tích đổ vào (còn 17% qua xả lũ) hay chiếm 42% tổng tải lượng phù sa của hệ thống sông Hồng. Môi trường và chế độ thuỷ văn khu vực nghiên cứu có sự thay đổi mạnh vào thời điểm trước và sau khi vận hành công trình thuỷ điện Hoà Bình. Lưu lượng nước từ hệ thống sông Hồng vào sông Càn sau khi vận hành hồ thuỷ điện Hoà Bình giảm, dẫn tới giảm lượng phù sa và gia tăng xâm nhập mặn. Bảng 17: Sự thay đổi lưu lượng nước sông Đáy và sông Càn trước và sau khi vận hành hồ chứa nhà máy thuỷ điện Hoà Bình Tên sông Thời kỳ trước khi có thuỷ điện Hoà Bình (trước năm 1970) Thời kỳ sau khi có thuỷ điện Hoà Bình (sau năm 1990) Sông Đáy 0,31 Q Hà Nội 0,32 Q Hà Nội Sông Càn 0,09 Q Hà Nội 0,08 Q Hà Nội Bảng 18: Tổng lượng phù sa hàng năm đi ra biển qua các cửa sông trước và sau khi vận hành nhà máy thuỷ điện Hoà Bình (đơn vị triệu tấn) Tên sông Trước năm 1970 Sau năm 1990 G sau/Gtrước Sông Đáy 23,305 13,970 0,59 Sông Càn 5,329 3,153 0,59 Về mặt lý thuyết, sự thiếu hụt bồi tích như vậy lẽ ra đã gây hiệu ứng gần như gián đoạn quá trình bồi tụ, gây xói lở mạnh mẽ trên toàn tuyến nhưng vấn đề phức tạp hơn nhiều và đặc biệt ở vùng cửa Đáy vẫn tiếp tục bồi tụ mở rộng với tốc độ chưa từng thấy, trên 100m/năm. Đây là tốc độ do con người tạo ra trong quá trình khai khẩn đất đai, chiếm cứ không gian môi trường trầm tích, phát triển cơ sở hạ tầng thuỷ lợi, cưỡng bức phân bố cục bộ nguồn bồi tích của hệ thống sông Hồng. Quai đê lấn biển Quá trình phát triển bãi bồi và vùng phụ cận Kim Sơn bắt đầu từ thế kỷ XV, khi đê Hồng Đức (1471) bắt đầu được tiến hành xây dựng. Công việc chinh phục mở mang bờ cõi của nhân dân huyện Kim Sơn và vùng phụ cận thể hiện qua 9 lần quai đê lấn biển, từ đê Hồng Đức 1471 đến đê Bình Minh 3 (2001) 1. Lần quai đê đầu tiên vào năm 1471 để xây dựng hệ thống đê Hồng Đức. Vào thời kỳ này, trục đê gần như đường thẳng chạy theo hướng đông bắc - tây nam. 2. Đê Đường Quan được xây dựng vào năm 1828, hướng trục đê ngả hơn về đông song theo hướng chủ đạo đông bắc - tây nam. 3. Đê Đường 10 xây dựng vào năm 1899, gần như song song với hệ thống đê Đường Quan. 4. Đê Hoành Trực được xây dựng năm 1927. Do hoạt động uốn khúc và kéo dài cửa sông của sông Đáy và sông Càn, chiều ngang bãi bồi bị thu hẹp đáng kể. Hướng trục đê đã thay đổi chuyển về đông - đông bắc và tây - tây nam, dài khoảng 5 km. 5. Đê Tùng Thiện được khởi công năm 1933, không theo trục thẳng mà có uốn theo hướng chủ đạo gần như đông - tây, dài khoảng 7 km. 6. Đê Cồn Thoi xây dựng vào năm 1945 nhằm bao quanh khu vực bãi bồi phát triển ở cửa sông Đáy có đỉnh cung lồi hướng về phía tây nam, dài khoảng 4 km. 7. Quá trình quai đê Bình Minh 1 diễn ra năm 1959. Hệ thống đê này có hướng tây bắc - đông nam phù hợp với đường bờ biển lúc bấy giờ. Đê Bình Minh 1 dài khoảng 8 km. 8. Đê Bình Minh 2 được xây dựng sau đê Bình Minh 1 là 21 năm và hoàn thành vào năm 1982. Chiều dài đê Bình Minh 2 khoảng 14 km. 9. Đê Bình Minh 3 được khởi công từ năm 1999. Đê có chiều dài theo thiết kế là 15,5 km. Như vậy, lần quai đê lấn biển thứ 2 cách lần thứ 1 là 357 năm, giữa lần 3 và lần 2 là 71 năm, giữa lần 4 và lần 3 là 28 năm còn những lần quai đê lấn biển sau chỉ cách nhau 15 - 20 năm. Công cuộc quai đê lấn biển một mặt thúc đẩy quá trình phát triển của đất liền ra biển, mặt khác mở rộng diện tích đất canh tác và đất thổ cư. Bên cạnh mặt tích cực như quai đê lấn biển, một số hoạt động khác của con người đã và đang làm phát sinh những hiện tượng bất lợi đối với quá trình phát triển tự nhiên của bãi bồi và làm thay đổi các hình thái sử dụng tài nguyên đất khu vực. Hàng loạt các hoạt động của con người trong khai thác rừng ngập mặn, đào đắp ao nuôi thuỷ sản, đánh bắt hải sản đã làm suy giảm chất lượng bãi bồi. 47 hạ tân kiến tạo và kiến toạh ha/năm)g bãi tác giả c góp phần làm phức tạp hoá quá trình bồi tụ - xói lở đường bờ biển 3.2.2. Dự báo biến động môi trường Do thời gian tiến hành luận văn có giới hạn, vì vậy các số liệu phân tích thu được trong quá trình thực hiện luận văn chưa đủ để đưa ra các dự báo và đánh giá về xu hướng biến đổi tài nguyên và môi trường khu vực khảo sát. Tuy nhiên, dựa vào các tư liệu nghiên cứu khác và các phương pháp đánh giá, dự báo tác động môi trường, có thể nêu lên một số dự báo về xu hướng biến đổi tài nguyên môi trường khu vực nghiên cứu. 3.2.1.1. Các biến đổi địa hình, cảnh quan khu vực nghiên cứu Các biến đổi vùng bãi bồi ngoài đê Kết quả phân tích các bức ảnh vệ tinh chụp khu vực nghiên cứu qua các thời kỳ 1992 và 2003 cho thấy xu thế phát triển của bãi bồi Kim Sơn như sau: Dòng sông Đáy sẽ phân nhánh mạnh ở vùng cửa sông. Trong tương lai gần, bờ trái sông Đáy vùng Nghĩa Hưng (Nam Định) phải đối diện với khúc lồi của sông sẽ bị xói lở mạnh. Sông Đáy sẽ cắt xẻ bãi bồi Nghĩa Hưng tạo một cửa mới ra biển. Như vậy, vùng của sông Đáy có xu thế phát triển về phía đông và đông nam. Cửa Càn cũng có xu hướng phát triển về phía đông nam. Trong tương lai, vùng cửa sông Đáy sẽ bao gồm hệ cửa nhánh sông dạng chân chim. Toàn bộ vùng bãi bồi Kim Sơn có xu thế phát triển theo hướng nam - đông nam. Các biến đổi địa hình vùng bãi bồi trong đê Địa hình và cảnh quan vùng bãi bồi trong đê sẽ có những thay đổi do các tác động nhân sinh như sau: phát triển cơ sở hạ tầng đường giao thông và hệ thống kênh mương tưới tiêu, mở rộng các khu dân cư, chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất. Khu vực xã Kim Tân, Kim Mỹ, Cồn Thoi và nông trường Bình Minh có khả năng thay đổi nhiều nhất. 3.2.1.2. Biến động môi trường nước Trữ lượng tiềm năng khai thác nước dưới đất trong tầng chứa nước Pleistocen, Hệ tầng Hà Nội qua các thông số thuỷ văn tại các điểm bơm hút thí nghiệm trong mùa khô là không lớn. Cần xác định và nghiên cứu chi tiết các nguồn cung cấp cho cả mùa mưa, cho từng khu vực, từng xã (đặc biệt là cho Nông trường Bình Minh và vùng khan hiếm nước Kim Hải) để từ đó có thể vạch ra được các phương án quy hoạch, bảo vệ và khai thác hợp lý nguồn nước, phục vụ cho việc phát triển các khu dân cư mới, các khu công nghiệp tập trung, các khu chế biến thuỷ sản trong tương lai tránh hiện tượng suy thoái, cạn kiệt và nhiễm mặn nguồn nước quý giá này. Khu vực nghiên cứu có tiềm năng nước mặt rất lớn nhưng phần lớn các nguồn nước mặt ở đây đều bị nhiễm mặn, ít có ý nghĩa trong cung cấp nước phục vụ cho mục đích sinh hoạt. Mức ô nhiễm trong nước giếng đào, nước các đầm nuôi trồng thuỷ sản, nước kênh tiêu ngọt, nước sông trong khu vực nghiên cứu sẽ gia tăng do gia tăng dân số và mức tiêu thụ của từng người dân trong vùng. Gia tăng ô nhiễm nước kênh tiêu mặn, kênh lạch triều, nước biển ven bờ do các hoạt động quai đê lấn biển không hợp lý của con người. Điều này đặc biệt quan trọng vì đây là khu vực chủ yếu lấy nước mặn dùng cho vùng nuôi trồng thuỷ sản xã Kim Trung, Kim Hải, Kim Đông. 3.2.1.3. Biến động môi trường đất Môi trường đất trồng lúa và đầm nuôi có khả năng biến đổi theo hướng lượng chất dinh dưỡng (N, P, K) giảm dần, dẫn tới giảm độ phì của đất đối với hoạt động canh tác nông nghiệp. Sự tích tụ các chất ô nhiễm trong đất (kim loại nặng, thuốc bảo vệ thực vật, các hoá chất khác) gia tăng do các tác nhân thâm canh, tăng năng suất cây trồng và sản lượng đầm nuôi. Một số vùng đất trồng lúa chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản sẽ có môi trường đất mặn. 3.2.1.4. Các biến động sử dụng đất Các dạng biến động sử dụng đất chính của vùng: Chuyển đổi đất từ trồng lúa sang nuôi trồng thuỷ sản, tập trung ở Nông trường Bình Minh và khu vực Bình Minh 2. Chuyển từ đất thổ canh sang đất thổ cư, tập trung theo các tuyến giao thông chính của vùng bãi bồi phía trong đê. Chuyển đổi đất cho các nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng của vùng như: đào kênh tưới tiêu, mở rộng và phát triển đường giao thông, xây dựng các công trình phúc lợi công cộng. Chuyển đổi đất bãi triều, tập trung chủ yếu ở khu vực Bình Minh 3 theo hướng từ rừng ngập mặn thành đầm nuôi tôm. Diện tích rừng ngập mặn sẽ giảm do hoạt động quai đê lấn biển. 3.3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP QUY HOẠCH SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN KHU VỰC BÃI BỒI VEN BIỂN HUYỆN KIM SƠN, NINH BÌNH 3.3.1. Định hướng quy hoạch môi trường khu vực bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình Qua kết quả khảo sát môi trường đất và nước vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn và dự báo các biến động về tài nguyên đất của khu vực cho phép đưa ra một số định hướng và các giải pháp quy hoạch nhằm sử dụng tài nguyên đất và nước Các chỉ tiêu cần quan trọng nhất để lựa chọn địa điểm vùng đất quy hoạch đầm nuôi thuỷ sản có thể bao gồm: diện tích và đặc điểm vùng đất, khả năng cấp và tiêu thoát nước mặn, khả năng cấp và tiêu thoát nước ngọt, các chi phí và lợi ích khi chuyển đổi sử dụng đất sang hoạt động nuôi trồng thuỷ sản. Dựa vào các tiêu chí trên, có thể sơ bộ đánh giá những diện tích tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản ở vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình (Bảng 19) Bảng 19: Đánh giá tiềm năng phát triển đầm nuôi trồng thuỷ sản vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình Loại tiêu chí Bình Minh 1 (nông trường Bình Minh) Bình Minh 2 Bình Minh 3 Bình Minh 4 (ngoài đê) Diện tích Khá thuận lợi Thuận lợi Thuận lợi Thuận lợi Đặc điểm đất Phù hợp Phù hợp Phù hợp Thuận lợi Khả năng cấp nước mặn Khó khăn Thuận lợi Thuận lợi Thuận lợi Khả năng cấp nước ngọt Khá thuận lợi Khó khăn Khó khăn Khó khăn Khả năng tiêu thoát nước Khá khó khăn Thuận lợi Khá thuận lợi Thuận lợi Chi phí chuyển đổi Vừa phải Vừa phải Nhỏ Vừa phải Lợi ích chuyển đổi so với trước Vừa phải Cao Vừa phải Vừa phải Xét chung các tiêu chí (Bảng 19), các điểm dự kiến phát triển quy hoạch đầm nuôi trong vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình đều có những khía cạnh khó khăn và thuận lợi riêng để phát triển các đầm nuôi thuỷ sản. Ngoài vùng thích hợp nhất đối với phát triển nuôi trồng thuỷ sản là khu vực Bình Minh 2 đang được đầu tư xây dựng, các vùng có mức độ thích hợp tiếp theo là: Bình Minh 3, Nông trường Bình Minh, Bình Minh 4. Qua Bảng 20, đánh giá tiềm năng sử dụng đất và các mục tiêu kinh tế xã hội của huyện Kim Sơn tác giả có đưa ra một số định hướng cho việc quy hoạch sử dụng tài nguyên đất khu vực bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn như sau: Đối với diện tích khu vực nông trường Bình Minh Hiện tại tổng diện tích của khu vực có 878 ha trong đó Đất sử dụng cho trồng lúa: 510 ha Đất sử dụng cho trồng cói: 37 ha Theo chủ trương của huyện và các điều kiện tự nhiên của khu vực thì chuyển 230 ha trồng lúa thuộc vùng có sản lượng lúa thấp, bấp bênh sang nuôi trồng thuỷ sản theo phương pháp thâm canh. Trong thực tế, nếu ta so sánh 1 ha đất trồng lúa cho một vụ chỉ được 8 tấn/ha/vụ và giá trị chỉ đạt 12 triệu đồng/ha (chưa trừ chi phí). Trong khi đó nếu nuôi tôm sú có thể cho trung bình từ 1 đến 3 tấn/ha/vụ, với giá trị từ 80 đến 250 triệu đồng/ha/vụ (chưa trừ chi phí). Giữ vững diện tích trồng lúa là 280 ha để đảm bảo an ninh lương thực, giữ vững diện tích trồng cói để phát triển ngành nghề nông thôn, tận dụng lúc nông nhàn cho lao động sản xuất nông nghiệp và tăng thu nhập thông qua chế biến hàng nông sản xuất khẩu (Bảng 20). Đối với diện tích khu vực Bình Minh 2 Diện tích hiện nay của khu vực là 1.932 ha và hiện nay đang được sử dụng nuôi thuỷ sản, nhưng do thiếu vốn và trình độ công nghệ nên chưa triển khai mạnh việc đầu tư để nuôi theo phương pháp thâm canh và công nghiệp. Hiện nay thị trường thuỷ sản trên thế giới đã mở rộng, đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ và EU, giá thuỷ sản xuất khẩu đã tăng… nên chủ trương của chính quyền địa phương và nhân dân có xu hướng chuyển mạnh từ phương thức nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến sang nuôi thâm canh và công nghiệp. Khi mô hình nuôi thâm canh và nuôi công nghiệp đã định hình thì chuyển toàn bộ diện tích 450 ha trồng lúa sang nuôi trồng thuỷ sản. Dự kiến sản lượng của khu vực Bình Minh 2 sẽ là: - 833 ha nuôi thâm canh cho năng suất 5 tấn/ha, sản lượng đạt 4.165 tấn thuỷ sản - 212 ha nuôi công nghiệp cho năng suất 8 tấn/ha, sản lượng đạt 1.696 tấn thuỷ sản. (Bảng 20) Đối với diện tích khu vực Bình Minh 3 Hiện nay xã có tổng diện tích đất tự nhiên là 1.450 ha, trong đó: Đất sử dụng cho trồng lúa là 0 ha Đất sử dụng cho nuôi trồng thuỷ sản là 693 ha Đất sử dụng cho trồng cói là 150 ha Đất sử dụng cho trồng rừng là 335 ha Phương pháp nuôi chủ yếu là nuôi bán thâm canh, sản lượng đạt khoảng 1.000 tấn thuỷ sản. Nếu điều kiện giá cả và thị trường thuận lợi sẽ đầu tư diện tích 693 ha nuôi bán thâm canh sang nuôi thâm canh và chuyển 150 ha trồng cói sang nuôi thuỷ sản theo phương pháp bán thâm canh, thậm chí nuôi thâm canh. Sản lượng dự kiến đạt 4.200 tấn. Toàn bộ diện tích từ đê Bình Minh 2 đến đê Bình Minh 3 với tổng chiều dài đê Bình Minh 3 là 15,5 km. Năm 2000, các đơn vị quân đội và nhân dân đã đắp được đoạn đê phía Đông giáp với sông đáy là 7 km, đoạn đê phía Tây giáp với sông Càn là 4 km. Hiện tại, còn 4,5 km đê Bình Minh 3 chưa đắp. Để phát triển nuôi tôm bền vững thuộc bãi bồi ven biển Kim Sơn, việc xử lý nguồn nước sạch cho nuôi tôm là điều thiết yếu phải làm. Do đó không nên đắp 4,5 km đê Bình Minh 3 mà để nguyên đoạn đê hở này, đồng thời kết hợp việc duy trì 335 ha rừng ngập mặn đã có, diện tích này không được xâm phạm, nhất là chặt phá để nuôi trồng thuỷ sản. Nếu những thửa rừng đã bị đào đắp nhằm nuôi trồng thuỷ sản, thì việc đầu tiên phải làm là khôi phục lại diện tích rừng cũ đã trồng do các tổ chức nước ngoài tài trợ nhằm: Tạo hệ sinh thái hở giữa hệ sinh thái nuôi trồng thuỷ sản và hệ sinh thái cửa sông, tạo vùng đệm sinh học giữa các hệ sinh thái khác nhau. Đây sẽ là khu vực diễn ra quá trình làm sạch môi trường. Nó là cỗ máy xử lý nước thải sinh học phục vụ cho vùng nuôi trồng thuỷ sản thuộc bãi bồi ven biển Kim Sơn (Bảng 20) Đối với diện tích khu vực Bình Minh 4 Toàn bộ vùng bãi bồi ngoài đê Bình Minh 3 có chiều dài bờ biển 15,5 km, với tổng diện tích 2.600 ha đất tự nhiên tính đến cốt +0,0, trong đó có 1233 ha trồng rừng phòng hộ chiếm 47,4% diện tích, còn lại khoảng 1.367 ha đất trống, chiếm 52,6%. Đối tượng rừng chủ yếu là cây vẹt, sậy… Cây vẹt được trồng nhiều ở phía cửa sông Càn và cây sậy tập trung ở phía sông Đáy. Vùng ngoài đê Bình Minh 3 chỉ quy hoạch trồng rừng nhằm bảo vệ đê phục vụ nuôi trồng thuỷ sản, đảm bảo cuộc sống người dân vùng trong đê Bình Minh 3, và một phần nuôi thuỷ sản không đê cống. Trong vòng những năm tới vùng bãi này không nên đào đắp ao đầm nuôi trồng thuỷ sản, mà chủ yếu là trồng rừng phòng hộ (rừng ngập mặn), cũng như khai thác tự nhiên và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, kết hợp nuôi không đê cống đối tượng nuôi là nhuyễn thể. Ngoài ra, rừng còn có tác dụng góp phần thúc đẩy các quá trình tích tụ phù sa, làm sạch môi trường đồng thời làm nơi cư trú của các loài chim di cư (di cư kiếm ăn và di cư trú đông) cũng như tạo nguồn dinh dưỡng trong thuỷ vực, làm cơ sở thức ăn cho đối tượng thuỷ sản…. Phương pháp bố trí trồng rừng là: Dọc theo đê Bình Minh 3 (cách đê 100m) trồng một băng rừng rộng khoảng 200m theo hướng từ Tây sang Đông. Từ mép ngoài của băng rừng này, trồng những băng rừng theo chiều dọc từ Bắc xuống Nam (từ đê Bình Minh 3 ra biển), kéo dài từ Tây sang Đông. Mỗi một thửa rừng có chiều rộng khoảng 300m và chiều dài tuỳ thuộc vào khoảng cách từ mép phía ngoài của băng rừng nói trên trở ra biển. Khoảng cách giữa các thửa rừng là một khoảng trống rộng 150m để dân đi lại khai thác tự nhiên kết hợp nuôi không đê cống. Đối với các băng rừng cần nghiên cứu trồng các đối tượng cây phù hợp với điều kiện tự nhiên của đất đai vùng sông Đáy và sông Càn (Bảng 20). Với định hướng sử dụngnhư đã trình bày ở trên, sản lượng thuỷ sản do nuôi trồng hàng năm có thể đạt tới khoảng 9.500 tấn. Nếu tính cả diện tích thu hoạch khai thác và đánh bắt tự nhiên thì sản lượng có thể đạt tới 12.000 tấn/năm. Với định hướng phát triển vùng bãi bồi như trên thì việc hình thành các đầm nuôi nhân giống làm dịch vụ cung cấp con giống là rất cần thiết. Hiện tại con giống phải nhập từ các tỉnh phía Nam là chủ yếu, vừa không chủ động được nguồn, không kiểm soát được chất lượng, giá thành cao… làm cho hiệu quả nuôi trồng thuỷ sản thấp. Hiện tại huyện cũng đã có những trạm nhân giống với quy mô 50.000 triệu con giống/năm, so với nhu cầu hiện tại và nhu cầu của những năm sắp tới thì còn thiếu nhiều, đặc biệt là tôm giống, số lượng thiếu lên đến 100 triệu con giống/năm. Do đó tỉnh Ninh Bình nên có các chính sách kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư sản xuất con giống tại khu vực bãi bồi huyện Kim Sơn. Đối tượng thuỷ sản nuôi và đánh bắt của vùng bãi bồi ven biển Kim Sơn có nhiều loại. Cho đến nay các sản phẩm này đang được tiêu thụ tươi sống ở các chợ trong vùng. Vì vậy hao hụt nhiều và giá trị thấp. Một dự án xây dựng các cơ sở chế biến là rất cần thiết, đặc biệt là khi triển khai mở rộng và phát triển các vùng nuôi thuỷ sản. Do vậy, tỉnh đang có chủ trương xây dựng 3 nhà máy: Nhà máy chế biến thuỷ sản công suất 6.000 tấn/năm; nhà máy chế biến thức ăn gia súc công suất 10.000 tấn/năm; nhà máy chế biến thức ăn nuôi tôm công suất 15.000 tấn/năm. Bảng 20: Hiện trạng và dự kiến sử dụng đất khu vực Đơn vị: ha Dự kiến quỹ đất cho mục đích sử dụng Hiện trạng sử dụng đất (2005) Nông trường Bình Minh Bình Minh 2 Bình Minh 3 Ngoài đê Bình Minh 3 Nông trường Bình Minh Bình Minh 2 Bình Minh 3 Ngoài đê Bình Minh 3 Trồng lúa 280 0 0 0 510 450 0 0 Trồng cói 37 265 0 0 37 265 150 0 Thuỷ sản 230 1045 843 0 0 595 693 0 Đất thổ cư 331 622 272 0 331 622 272 0 Trồng rừng 0 0 335 2600 0 0 335 1233 Bãi bồi 0 0 0 0 0 0 0 1367 Tổng cộng 878 1932 1450 2600 878 1932 1450 2600 Sau đây là bản đồ hiện trạng sử dụng đất (Hình 4) và bản đồ định hướng quy hoạch sử dụng đất khu vực bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn, Ninh Bình (Hình 5). 3.3.2. Các giải pháp khả thi để sử dụng bền vững tài nguyên khu vực bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn, Ninh Bình Các giải pháp có thể phân thành 3 nhóm lớn: các giải pháp quy hoạch; các giải pháp quản lý; các giải pháp giáo dục, đào tạo. Một phần các giải pháp nêu lên sau đây đã được các tổ chức và cơ quan chức năng trung ương và địa phương tiến hành trong thời gian qua và hiện nay. Giải pháp quy hoạch Quy hoạch là giải pháp đầu tiên và quan trọng nhất trong việc phát triển hoạt động nuôi trồng thuỷ sản, bao gồm các nội dung: quy hoạch đầm nuôi, quy hoạch nguồn nước mặn và nước ngọt, quy hoạch hạ tầng cơ sở thức ăn và con giống, quy hoạch các cơ sở chế biến và tiêu thụ. Các nội dung này cần được thực hiện đồng bộ và thống nhất để tạo ra hiệu quả phát triển phát triển bền vững vùng. Việc quy hoạch đầm nuôi đã xác định ở trong các chủ trương phát triển kinh tế của huyện và được định hướng dựa trên các xu hướng biến động của tài nguyên đất khu vực. Các khu vực đầm nuôi trong và ngoài đê đã được thể hiện trên bản đồ (Hình 5) Việc quy hoạch hệ thống cung cấp nước (mặn và ngọt) và tiêu thoát nước cho hoạt động nuôi trồng thuỷ sản ở vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn là rất cần thiết vì hệ thống này hiện nay không phù hợp cho nhu cầu phát triển diện tích đầm nuôi. Như đã nói ở trên, ở khu vực chưa có hệ thống cấp nước ngọt đảm bảo chất lượng cho các đầm nuôi. Việc sử dụng các kênh vừa tưới và vừa tiêu nước nông nghiệp làm nguồn nước cấp ngọt cho hoạt động nuôi trồng thuỷ sản có thể gây nên ô nhiễm môi trường nước trong các đầm nuôi, vừa nhiễm bệnh cho thuỷ sản nuôi trồng. Theo tác giả, có hai phương án giải quyết nguồn nước ngọt cho các đầm nuôi: - Xây dựng các trạm khai thác nước ngầm quy mô từ 1000 - 2000 m3/ngày làm nguồn cấp nước ngọt trực tiếp cho các địa điểm nuôi trồng thuỷ sản. Để làm việc này cần phải có các nghiên cứu bổ sung và phương án kỹ thuật khai thác và xử lý nước ngầm chứa Fe trong khu vực nghiên cứu. Các trạm nước cấp này đồng thời có thể đảm nhiệm cung cấp nước sinh hoạt cho các khu dân cư tập trung trong vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn. - Xây dựng hệ thống kênh lấy nước ngọt từ sông Đáy tới các khu vực Nông trường Bình Minh, Bình Minh 2, Bình Minh 3. Tương tự như vậy, cần xây dựng hệ thống kênh cấp nước mặn cho vùng nuôi ở Nông trường Bình Minh. Quy mô kích thước các cống tiêu thoát nước cần phải điều chỉnh lại cho phù hợp với nhu cầu nước của từng vùng nuôi cụ thể. Hạ tầng cơ sở chủ yếu của hoạt động nuôi trồng thuỷ sản là các trại giống và cơ sở chế biến, tiêu thụ sản phẩm cần phải đầu tư nghiên cứu xây dựng, cũng như khai thác hợp lý các cơ sở hiện có ở huyện Kim Sơn và tỉnh Ninh Bình. Giải pháp quản lý Quản lý vùng bãi bồi là một vấn đề quan trọng, để đạt được hiệu quả kinh tế và phát triển môi trường bền vững thì cần xác định rõ vai trò chính quyền các cấp và các tổ chức kinh tế, xã hội. Tức là đối với cấp tỉnh thì UBND Tỉnh là cơ quan có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch, nghiên cứu ban hành các cơ chế chính sách để UBND huyện và các xã có lợi ích tại khu vực bãi bồi khai thác sử dụng có hiệu quả bãi bồi. UBND huyện Kim Sơn là cơ quan nhà nước trực tiếp quản lý vùng bãi bồi theo quy hoạch và kế hoạch, vận động đầu tư và là chủ đầu tư cho các tổ chức và cá nhân có nhu cầu được thuê, quản lý nguồn thu cho ngân sách, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư và tiêu thụ sản phẩm, quản lý an ninh trật tự khu vực bãi bồi. UBND xã có nguồn lợi từ khu vực bãi bồi là cơ quan trực tiếp quản lý người lao động, hướng dẫn người lao động chấp hành nghiêm những cam kết đã ký trong hợp đồng thuê đất, đồng thời phối hợp với UBND huyện đảm bảo an ninh trật tự và giải quyết các khúc mắc phát sinh. Các cấp chính quyền trên cần phối hợp đồng bộ với nhau để quản lý một số vấn đề của khu vực bãi bồi như sau: - Quản lý tốt hệ thống lấy nước mặn, quản lý hoạt động khai thác nước ngầm làm nguồn nước sinh hoạt cho các khu vực dân cư và hoạt động nuôi trồng thuỷ sản, tránh tình trạng khai thác không có giấy phép tràn lan hiện nay, dẫn tới khả năng ô nhiễm nguồn nước ngầm có chất lượng tốt và lưu lượng lớn hiện nay của khu vực nghiên cứu. - Quản lý nguồn giống và các cơ sở chế biến thức ăn nuôi trồng (sẽ phát triển trong tương lai) ở khu vực nghiên cứu, nhằm đảm bảo chất lượng tốt nguồn giống và thức ăn cho hoạt động nuôi trồng. - Hình thành cơ sở quản lý môi trường nước và đất của các đầm nuôi trồng thuỷ sản và môi trường nước và đất tự nhiên trong khu vực, để kịp thời và chủ động đưa ra các biện pháp hạn chế các biến động về môi trường nước và đất khu vực nghiên cứu. - Quản lý các cơ sở chế biến và tiêu thụ các sản phẩm nuôi trồng thuỷ sản cho toàn khu vực nghiên cứu. Hiện tại là các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân đã và đang thuê đất để sản xuất và kinh doanh trên khu vực. Giải pháp giáo dục - đào tạo Các nội dung cần thực hiện có thể bao gồm: Giáo dục ý thức người dân khu vực trong việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên ở vùng bãi triều như: rừng ngập mặn, các loại con giống đánh bắt, môi trường đánh bắt Giáo dục người dân ý thức trách nhiệm tôn trọng các quy định luật pháp khai thác nước ngầm, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và hoá chất nuôi trồng thuỷ sản, quy định lấy nước và thải nước tại các đầm nuôi Đào tạo các cán bộ có nghiệp vụ kỹ thuật về nuôi trồng và quản lý môi trường làm nền tảng cơ bản cho hoạt động của dân cư địa phương. Đào tạo các bộ phận quản lý địa phương, các kiến thức và phương pháp quản lý tổng hợp đới bờ, làm cơ sở để đề xuất và thực hiện công tác quản lý hành chính tại địa phương. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ I. KẾT LUẬN Việc phân tích các biến động môi trường một cách toàn diện, cho phép chúng ta thấy một bức tranh về hiện trạng môi trường hoàn chỉnh của khu vực nghiên cứu. Từ các kết quả được trình bày ở trên, có thể tạm thời đưa ra một số kết luận như sau: 1. Hình dạng đường bờ và diện tích vùng bãi bồi có những thay đổi đáng kể theo chiều hướng: bãi bồi phía cửa sông Đáy đang mở rộng. Vùng cửa sông Đáy có xu thế phát triển về phía đông và đông nam do bờ trái sông Đáy vùng Nghĩa Hưng (Nam Định) phải đối diện với khúc lồi của sông sẽ bị xói lở mạnh, sông Đáy sẽ cắt xẻ bãi bồi Nghĩa Hưng tạo một cửa mới ra biển. Cửa Càn cũng có xu hướng phát triển về phía đông nam. Trong tương lai, vùng cửa sông Đáy sẽ bao gồm hệ cửa nhánh sông dạng chân chim. Toàn bộ vùng bãi bồi Kim Sơn có xu thế phát triển theo hướng nam - đông nam. Nước giếng đào và nước giếng khoan trong khu vực nghiên cứu không đạt tiêu chuẩn chất lượng nước ngầm cũng như tiêu chuẩn nước cấp cho sinh hoạt về các phương diện: hàm lượng chất hữu cơ, hàm lượng NH4+, NO2-, vi khuẩn, độ tổng khoáng hoá, hàm lượng clo, tổng độ cứng, tổng cặn sấy khô... cần phải được xử lý trước khi dùng vào mục đích sinh hoạt. Nước sông được sử dụng trong hoạt động nuôi trồng thuỷ sản nhưng không đạt tiêu chuẩn dùng cho nước cấp sinh hoạt về độ mặn và cặn sấy khô, chưa bị nhiễm bẩn nhưng bắt đầu có dấu hiệu của sự nhiễm bẩn hữu cơ. Chất lượng nước biển ven bờ trong khu vực nghiên cứu đạt TCVN 5943 – 1995 về tiêu chuẩn đối với nước biển ven bờ. Hàm lượng các nguyên tố vi lượng, các chất dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong lớp bùn đất tầng mặt đều nằm trong mức giới hạn cho phép. 2. Các nguyên nhân gây ra sự biến động về môi trường và tài nguyên là các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo. Trong hàng loạt các yếu tố tự nhiên ảnh hưởng, yếu tố chính khống chế quá trình trên là hệ thống các đứt gãy hướng Tây Bắc - Đông Nam, các tác động ngoại sinh của dòng dọc bờ và sự thay đổi lưu lượng dòng chảy sông Đáy và sông Càn sau khi hồ thuỷ điện Hoà Bình đi vào hoạt động đã khống chế quá trình xói mòn, bồi tụ ở bờ biển Kim Sơn. Bên cạnh đó, hoạt động nhân sinh chủ yếu là hoạt động quai đê lấn biển và phát triển kinh tế vùng bãi bồi cũng có ảnh hưởng nhất định đến chế độ động lực dòng chảy và tốc độ phát triển vùng. Nghiên cứu các biến động do hoạt động KT - XH cho thấy: hoạt động chuyển đổi sử dụng đất đang xảy ra mạnh mẽ và tập trung tại khu vực nông trường Bình Minh và Bình Minh 2 theo hướng chuyển đổi đất trồng lúa thành đầm nuôi thuỷ sản. Khu vực bãi triều Bình Minh 3 từ rừng ngập mặn thành đầm nuôi thuỷ sản. Các khu vực bãi bồi ngập nước ngoài đê Bình Minh 3 đang được khai thác tự nhiên, chưa có sự quản lý chặt chẽ của Chính quyền địa phương. 3. Theo phương án quy hoạch thì tổng diện tích nuôi trồng thuỷ sản so với hiện nay tăng lên 830 ha và phương thức nuôi thay đổi, hay nói cách khác diện tích nuôi theo các phương thức thay đổi, và sự thay đổi theo hướng chủ yếu là nuôi thâm canh, mức đầu tư cao và hiệu quả kinh tế lớn hơn. Diện tích cấy lúa giảm xuống từ 960 ha xuống chỉ còn 280 ha. Diện tích trồng cói trong tương lai sẽ là 302 ha để tạo công ăn việc làm cho người dân trong vùng. Các giải pháp khả thi để sử dụng bền vững tài nguyên vùng bãi bồi ven biển huyện Kim sơn gồm có 3 nhóm giải pháp chính: giải pháp quy hoạch bao gồm các nội dung quy hoạch đầm nuôi, quy hoạch nguồn nước mặn và nước ngọt, quy hoạch hạ tầng cơ sở thức ăn và con giống, quy hoạch các cơ sở chế biến và tiêu thụ; giải pháp quản lý bao gồm quản lý hệ thống lấy nước mặn, quản lý hoạt động khai thác nước ngầm, quản lý nguồn giống và các cơ sở chế biến thức ăn nuôi trồng, quản lý môi trường nước và đất của các đầm nuôi trồng thuỷ sản và tự nhiên trong khu vực, quản lý các cơ sở chế biến và tiêu thụ các sản phẩm nuôi trồng thuỷ sản; giải pháp giáo dục - đào tạo bao gồm giáo dục cho người dân và cán bộ kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản, ý thức bảo vệ môi trường và tuân thủ pháp luật Việt Nam về môi trường. II. KIẾN NGHỊ Kết quả khảo sát các biến động môi trường khu vực vùng ven biển huyện Kim Sơn cho phép đề xuất một số kiến nghị để thực hiện các giải pháp quy hoạch sử dụng tài nguyên khu vực một cách bền vững và nhằm giảm thiểu tối đa các tác động bất lợi tới khu vực. 1. Kiến nghị về quản lý tổng hợp môi trường và tài nguyên vùng bãi bồi: Tiếp tục có những nghiên cứu về các đặc điểm địa chất khu vực. Xây dựng một mô hình tính toán một cách tương đối chính xác khả năng bồi tụ và xu hướng bồi tụ của vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn để từ đó có các định hướng sử dụng tài nguyên đất bền vững cho tương lai. Tiến hành quy hoạch các hoạt động kinh tế xã hội của khu vực, bao gồm: quy hoạch đầm nuôi, quy hoạch nguồn nước, quy hoạch hạ tầng cơ sở thức ăn và con giống, quy hoạch các cơ sở chế biến và thị trường tiêu thụ… Các khu vực thuận lợi là Bình Minh 2, Bình Minh 3. Các giải pháp này nên thực hiện đồng bộ và thống nhất để tạo hiệu quả phát triển vùng. 2. Kiến nghị các giải pháp quản lý môi trường nhằm giải quyết các tác động bất lợi cho khu vực nghiên cứu: Hình thành cơ sở quản lý môi trường nước và đất của các đầm nuôi thuỷ sản và môi trường nước và đất tự nhiên trong khu vực, để kịp thời và chủ động đưa ra các biện pháp hạn chế các biến động. Tiến hành quai đê, gia cố đê Bình Minh 3 nhằm hạn chế xói lở đang xảy ra mạnh mẽ tại khu vực này. Xây dựng hệ thống thuỷ lợi dẫn nước cấp cho đầm nuôi riêng biệt với hệ thống dẫn nước thải. Như vậy sẽ hạn chế hiện tượng lây lan khi tôm bị bệnh. Mỗi khu vực đầm nuôi nên có ao chứa nước thải thải ra từ đầm nuôi, để xử lý trước khi thải ra kênh thuỷ lợi chung. Có những chính sách khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào nuôi trồng thuỷ sản ở khu vực. Đồng thời có những biện pháp quản lý đồng bộ để quản lý chất lượng sản phẩm thuỷ, hải sản của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nên có những giải pháp nhằm giáo dục ý thức người dân trong khu vực để bảo vệ nguồn tài nguyên như: rừng ngập mặn, tài nguyên sinh vật, môi trường và chuyên môn về môi trường làm nền tảng cho các hoạt động của cư dân địa phương. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMT (50).doc
Tài liệu liên quan