Diễn biến hoà bình của chủ nghĩa đế quốc trên mặt trận văn hoá tư tưởng ở Việt Nam

Diễn biến hoà bình của chủ nghĩa đế quốc trên mặt trận văn hoá tư tưởng ở việt namMỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Tình hình nghiên cứu vấn đề 3. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận 6. Kết cấu của khóa luận CHƯƠNG I: “DBHB” VÀ “DBHB” TRÊN MẶT TRẬN VĂN HOÁ TƯ TƯỞNG Ở VIỆT NAM. I. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHIẾN LƯỢC “DBHB”. 1. Diễn biến hoà bình là gì ? 2. Bản chất của “DBHB”. 3. Âm mưu và thủ đoạn của chiến lược “DBHB”. II. DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH TRÊN MẶT TRẬN VĂN HOÁ - TƯ TƯỞNG Ở VIỆT NAM. 1. Việt Nam đứng trước những thử thách mới: 2. Các chiến lược “DBHB” chủ yếu được Mỹ và các thế lực thù địch sử dụng chống Việt Nam. 3. Mục tiêu chiến lược “DBHB” của Mỹ và các thế lực thù địch chống phá Việt Nam trên mặt trận văn hoá - tư tưởng. 4. Những phương tiện chủ yếu được chủ nghĩa đế quốc sử dụng để thực hiện chiến lược “DBHB”. 5. Các phương pháp chủ yếu thâm nhập văn hoá tư tưởng ở Việt Nam của chủ nghĩa đế quốc trong chiến lược “DBHB”. CHƯƠNG II : CHỐNG DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC TRÊN MẶT TRẬN VĂN HOÁ TƯ TƯỞNG Ở VIỆT NAM. 1. Nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng trong cuộc đấu tranh chống diễn biến hoà bình của chủ nghĩa đế quốc. 1.1. Nhận thức đúng đắn về tính sáng tạo và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh . 1.2. Nhận thức rõ bản chất của xã hội chủ nghĩa dân chủ, CNTB hiện đại, chống đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. 1.3. Nhận thức đúng đắn các mối quan hệ giao lưu, hợp tác của các nước TBCN với các nước XHCN. 2. Các biện pháp chống “DBHB” của CNĐQ và các thế lực thù địch trên mặt trân văn hoá tư tưởng ở Việt Nam. 2.1. Đầu tranh chống “DBHB” là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. 2.2. Đấu tranh chống “DBHB” của CNĐQ là nhiệm vụ quan trọng trong quyết định sự tồn vong của chế độ XHCN ở Việt Nam . 2.3. Xây dựng Đảng vững mạnh về trình độ và tổ chức. 2.4. Xây dựng và củng cố chắc trận địa văn hoá -tư tưởng. 2.5. Tăng cường lãnh đạo, và quản lý công tác truyền thông đại chúng. 2.6. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chống sự xâm nhập của văn hoá phẩm độc hại. 2.7. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước XHCN cho thế hệ trẻ trong thời kỳ mới của cách mạng. KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO

doc90 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 4655 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Diễn biến hoà bình của chủ nghĩa đế quốc trên mặt trận văn hoá tư tưởng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thế giới và khu vục là hoàn toàn cần thiết. Tuy nhiên, CNĐQ và các lực lượng thù địch đã lợi dụng điều kiện đó để thực hiện “chiến thuật đổi mầu” nhằm tác động trực tiếp vào lối sống và văn hoá tư tưởng. Một lối sống Mỹ nói riêng, lối sống phương Tây nói chung được phô trương khắp nơi qua phim ảnh, sách báo, truyền hình… Những điều được phô trương như : cuộc sống tự do, không bị gò bó, có khả năng kiếm tiền và thoả mãn những nhu cầu trần tục… đã có sức cuốn hút lớn đối với thanh, thiếu niên. Đây là lớp người chưa được thử thách, chưa có kinh nghiệm sống, chưa được rèn luyện trong nhiều hoạt động thực tiễn, rất nhạy cảm với thị hiếu “mới”. Đây cũng chính là đối tượng chủ yếu, quyết định mà “DBHB” nhằm vào. Những tác động nhẹ nhàng hàng ngày sẽ hình thành ở họ những tình cảm, thái độ, quan niệm sống thực dụng, chạy theo những lợi ích vật chất, xa rời các giá trị tinh thần và mục tiêu cách mạng chân chính. Người ta bị rơi vào bẫy của trò chơi này mà vẫn thản nhiên biện hộ cho nó, coi nó là những điều tốt đẹp, những kinh nghiệm mới mẻ. Tình hình giao lưu báo chí giữa Liên Xô (cũ) và Mỹ nửa cuối những năm 1980 là một ví dụ đặc sắc, một kinh nghiệm xương máu về âm mưu “DBHB”.Đầu những năm 80, quan hệ giữa Liên Xô (cũ) và Mỹ dần dần dịu đi, xuất hiện những xu hướng xích lại gần nhau và cởi mở hơn. Chính sách cải tổ do GoócbaChốp phát dộng từ năm 1986 thực sự tạo ra nền tảng lý luận để dỡ bỏ những mặc cảm và rào cản giữa hai cường quốc thù địch. Theo lời mới của các cơ quan, tổ chức chính phủ và phi chính phủ từ phía Mỹ, nhiều giới chức và các đoàn khách nhiều thành phần được đi thăm Mỹ. Ngược lại, phía Liên Xô (cũ) cũng vậy. Những người đi thăm Mỹ thường dưới dạng đi thăm, nghiên cứu, thi đấu thể thao, biểu diễn văn nghệ; đặc biệt là các nhà báo được mời đi để viết bài, làm phim. Mục tiêu của công việc rất hào bình là giới thiệu để tiến tới tăng cường sự kiện hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước . Mật độ các nhà báo đi thăm Mỹ trong thời gian cuối những năm 80 ngày càng dày. Khi sang Mỹ, họ được chu cấp các khoản chi tiêu, được đưa đi thăm các nơi, nhưng địa điểm tích cực của đời sống xã hội Mỹ. Vào những năm 1989 - 1990, người ta thấy trên các phương tiện truyền thông đại chúng của Liên Xô xuất hiện liên tục các sản phẩm ca ngợi nước mỹ. Các nhà báo Liên Xô trở thành những người tuyên truyền rẻ tiền cho Mỹ, nhưng sự tuyên truyền của họ lại có sức thuyết phục cao đối với người dân trong nước.Từ chỗ thù ghét, người dân chuyển dần thái độ sang thán phục nước Mỹ. Đồng thời với sự chuyển biến còn có qúa trình thứ hai đồng hành : từ chỗ tự hào về đất nước, chế độ người dân bắt đầu chán ghét, có phản ứng tiêu cực với những khó khăn kinh tế trong nước. Sự đổi màu đã được thực hiện tạo điều kiện quan trọng cho những biến đổi về thể chế chính trị vào năm 1991 - một thể chế chính trị đã có hơn 70 năm tồn tại, đã đạt được những thành tựu vinh quáng sáng chói. Đó là một bài học xương máu buộc chúng ta phải cảnh giác cao độ, tuyệt đối không để xảy ra chuyện phía bên kia lợi dụng những mối giao lưu bình thường để kích động các phần tử bất đồng chính kiến, các thế lực chống đối phản loạn nổi lên chống chính quyền hợp pháp, can thiệp vào nội bộ các nước như đã xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới.Bởi vậy, đối với các cuộc giao lưu trên, tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể mà có đối xử khác nhau. Tiêu chuẩn để phân biệt là xem những giao lưu đó có phải là việc bình thường trong quan hệ giữa các nhà nước phù hợp với các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình hay không ? Chúng ta mong muốn và hoan nghênh việc phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước trên cơ sở đó. Trái lại, mọi quan hệ chính trị trái với nguyên tắc chung sống hoà bình, can thiệp vào công việc nội bộ nước khác phải kiên quyết phản đối và chống lại. Trên cơ sở quản lý chặt chẽ các hoạt động giao lưu đối ngoại ngày càng mở rộng, ta cần khôn khéo, linh hoạt, tranh thủ điều kiện thuận lợi cho xây dựng và bảo vệ tổ quốc, tiếp thu cái hay và tránh điều dở hoặc không phù hợp với nước ta. Những năm gần đây, cùng với xu thế hoà bình, hoà dịu trên thế giới, cùng với công cuộc cải cách đổi mới, mở cửa được tiến hành mạnh mẽ ở nhiều nước, những cuộc thăm viếng lẫn nhau và những cuộc họp, hội thảo trao đổi về quan điểm, tư tưởng, văn hoá, hoà bình và phát triển của nước ta với các nứơc trên thế giới tăng lên rất nhiều. Những quan hệ văn hoá có tác dụng tích cực là tăng thêm hiểu biết lẫn nhau, tăng cường tinh thần hữu nghị, thúc đẩy văn hoá, khoa học kỹ thuật phát triển có lợi cho cả đôi bên. Nhưng các thế lực thù địch quốc tế đã ra sức lợi dụng những hoạt động bình thường đó vào mục đích “DBHB”. Sau khi bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, Mỹ chủ trương thông qua liên kết, hợp tác kinh tế với chúng ta để gây dựng cơ sở chính trị, xã hội theo hướng TBCN. Trong liên kết, hợp tác kinh tế, Mỹ và các thế lực thù địch dùng mọi thủ đoạn mua chuộc, lôi kéo cán bộ và những người làm công tác kinh tế hòng biến họ thành tay sai, phục vụ ý đồ của chúng. Các hoạt động này nhìn bề ngoài có vẻ rất thiện chí như : mở lớp đào tạo ngắn hạn cho nghiên cứu hoạch định chính sách của Việt Nam và Mỹ, tài trợ cho các đoàn đi nghiên cứu, khảo sát nước ngoài… thông qua đó tiến hành “ DBHB”, chi phối đường lối của ta. Chẳng hạn, thông qua các tổ chức tài chính quốc tế như : quỹ tiền tệ quốc tế (IMS), Ngân hàng thế giới (WB) viện trợ cho Việt Nam, song Mỹ luôn gắn với các điều kiện: trả tự do cho những người chống chế độ, với vấn đề DOW/MIA, đầu tư cho phát triển kinh tế tư nhân… Mỹ sử dụng hàng loạt các tổ chức phi chính phủ, đặc biệt là các tổ chức từ thiện, tôn giáo quốc tế (“Viện Ngôn ngữ mùa hè”, “Tổ chức hàng xóm, láng giềng thế giới”, “Tổ chức thầy thuốc không biên giới”…) để giúp đỡ cho các tổ chức thân Mỹ và đẩy mạnh các hoạt động tình báo gián điệp. Trong diễn văn khi thông qua Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ, Tổng thống Bush còn trắng trợn tuyên bố rằng, Hiệp định này là “Cơ hội để Mỹ cải cách chính trị và kinh tế ở Việt Nam”. Rõ rang, mỹ coi việc viện trợ, hợp tác kinh tế với Việt Nam thực chất là hoạt động thúc đẩy chiến lược “DBHB”. Để phá hoại Việt Nam về kinh tế, Mỹ và các thế lực thù địch tăng cường xâm nhập hàng hoá trên các tuyến biên giới, vùng biển. Đây là một biểu hiện của “DBHB” trên lĩnh vực kinh tế hòng gây ra nhiều khó khăn cho sản xuất trong nước, cũng như công tác quản lý, bảo vệ an ninh quốc gia trên đất nước ta.Chúng đã tổ chức hàng nghìn đường dây buôn lậu vào Việt Nam. Từ xâm nhập hàng hoá, kẻ địch có điều kiện xâm nhập vào nội bộ ta, gây ra nạn tham nhũng, buôn lậu, tha hoá, biến chất cán bộ, đảng viên ở một số cơ quan trọng yếu của Nhà nước.Xâm nhập hàng hoá còn kèm theo các tài liệu phản động, các văn hoá phẩm đồi truỵ, tuyên truyền lối sống phương Tây… Lợi dụng mặt trái của cơ chế thị trường, chúng thúc đẩy mọi hành vi sản xuất, kinh doanh, lưu thông phi pháp, coi thường và trốn tránh pháp luật, tạo nên những hoạt động kinh tế ngầm, nằm ngoài sự kiểm soát của nhà nước, nhằm tạo cơ sở kinh tế, gây dựng ở nước ta các thế lực đối lập, thực hiện mưu đồ phá hoại cơ chế thị trường theo định hướng XHCN có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước. Chúng ta phải hết sức cảnh giác với những hoạt động lợi dụng gặp gỡ, tiếp xúc để truyền bá tư tưởng phản động, văn hoá đồi truỵ, phải có biện pháp cần thiết để phân biệt ngăn chặn và kiên quyết xử lý những hoạt động này. Tuy nhiên, chúng ta không thể coi mọi hiện tượng xấu, tiêu cực đang tồn tại trong xã hội hiện nay đều là kết quả của “DBHB”. Bởivì:Nước ta đã trải qua xã hội phong kiến hàng ngàn năm và xã hội thuộc địa thực dân nửa phong kiến ngót 100 năm, những tư tưởng cũ, văn hoá cũ, phong tục tập quán cũ để lại tiếp tục gây ảnh hưởng xấu. Những thói xấu sùng bái phương Tây, coi mọi thứ từ các nước TBCN đều là tốt, thói quen tiểu tư sản, tư tưởng phong kiến tư sản, tập tục hủ bại cũ có thể phục hồi một cách nhanh chóng. Những hiện tượng thối nát và những tệ nạn xã hội trong nước là mảnh đất tốt mà các thế lực thù địch có thể lợi dụng để thực thi hoạt động “DBHB”, là điều kiện khách quan nội tại để kẻ địch lợi dụng vào mục đích “DBHB”. Các hình thức xâm nhập văn hoá, nhất là sách báo, phim ảnh. “màu vàng” tuyên truyền dâm ô, bạo lực, chủ nghĩa cá nhân cực đoan bất chấp đạo lý,… được các tệ nạn xã hội nuôi dưỡng nhằm làm thối ruỗng, đầu độc nhân dân ta; đặc biệt là gây tác hại đối với thế hệ thanh thiếu niên. Do đó, nếu có thể chúng ta có sức đề kháng cao, hệ thống miễn dịch tốt, bài trừ được các tệ nạn tham nhũng, buôn lậu, mại dâm, ma tuý, mê tín dị đoan, buôn bán phụ nữ, trẻ em sẽ góp phần loại trừ mầm mống “DBHB” của các thế lực thù địch. Tóm lại, chúng ta khẳng định rằng, trong quan hệ giao lưu quốc tế các bên phải nghiêm chỉnh tuân theo 5 nguyên tắc chung sống hoà bình, tức là phải tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; không xâm phạm nhau; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, chung sống hào bình giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau. Các nước có chế độ khác nhau phải tôn trọng quyền lựa chọn lịch sử của nhân dân nước khác, không thể sử dụng ưu thế kinh tế, quân sự và bá quyền quốc tế mà áp đặt chế độ xã hội và mô hình văn hoá cho nhân dân nước khác, không thể nấp dưới chiêu bài trao đổi văn hoá và thương mại kinh tế quốc tế bình thường mà tiến hành hoạt động xâm nhập về chính trị - tư tưởng, văn hoá, coi sự giao lưu quốc tế bình thường là công cụ lật đổ chế độ các nước XHCN; càng không thể coi ý thức hệ giai cấp tư sản là tiêu chuẩn phê bình và can thiệp vào công việc nội bộ của các nước XHCN ; chỉ thích những chính sách được nhân dân đồng tình và phù hợp với nhu cầu của nhân dân Việt Nam, thậm chí dùng trừng phạt kinh tế và can thiệp quân sự đẻ uy hiếp nhau. 2. Các biện pháp chống “DBHB” của CNĐQ và các thế lực thù địch trên mặt trân văn hoá tư tưởng ở Việt Nam. 2.1. Đầu tranh chống “DBHB” là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Xuất phát từ thực tiễn cuộc đấu tranh “DBHB” mà CNĐQ và các thế lực phản động đã gây ra ở nước ta và kết quả đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong hơn 70 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta nhận rõ sự lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện đồng bộ trên mặt trận văn hoá- tư tưởng có ý nghĩa quyết định trực tiếp trong việc chống “DBHB” của CNĐQ đối với nước ta. Trước hết, cần phải nâng cao được trình độ tự giác, cách mạng về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tự giác nhận thức và thực hiện quan điểm đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nâng cao tinh thần cảnh giác chính trị của mọi công dân Việt Nam trước những âm mưu “DBHB” của CNĐQ và các thế lực phản động. Bởi vì: + Mất cảnh giác từ sự nhẹ dạ cả tin sẽ dẫn đến bị đối phương mơn trớn, ve vãn, dễ bị lợi dụng trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội - Chính trị. + Mất cảnh giác với trò chơi “dân chủ” của “DBHB”, thoát lý mối quan hệ tâp trung dân chủ để tự do cá nhân vượt ra khỏi mối quan hệ cộng đồng sẽ dẫn đến a dua, nhóm họp tổ chức manh động, phản kháng, vượt ra ý thức đoàn kết cộng đồng đất nước. + Mất cảnh giác với cái gọi là “Nhân quyền” sẽ không còn giữ được kết cấu cơ sở xã hội - kinh tế chính trị đẻ bảo vệ quyền con người, quyền công dân Việt Nam và quyền lợi chính đáng của bản thân mình. + Mất cảnh giác chỉ chú trọng làm giầu theo kiểu tư bản sẽ không bào giờ thực hiện được mục đích tốt đẹp : “Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; mà ngược lại chỉ có một số người lệ thuộc vào tư bản nước ngoài mới giàu có, sống bằng giá trị thặng dư của đa số quần chúng lao động trong xã hội, còn đại đa số quần chúng nhân dân lao động đều chung số phận lâm vào cảnh bần cùng. + Mất cảnh giác với “DBHB” sẽ không bao giờ được sống trong hào bình thực sự, bởi vì đất nước chưa phát triển, đời sống kinh tế thu nhập thấp, cuộc sống nghèo đói kéo dài triền miên, bất công xã hội, bất công giữa các dân tộc về kinh tế - văn hoá cũng thêm khoảng cách… lúc này những mâu thuẫn nội bộ giữa các dân tộc dù rất nhỏ bé cũng sẽ bị CNĐQ và các thế lực phản động lợi dụng kích động dẫn tới chiến tranh giữa các tộc người và chúng lấy cớ đó nhảy vào can thiệp theo ý đồ đã vạch sẵn. Mặt khác, nếu mất cảnh giác với “DBHB” sẽ dẫn đến thảm hoạ lớn về sự ổn định và phát triển mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội và trật tự an toàn xã hội là nền tảng của an ninh quốc gia sẽ không bao giờ được yên ổn phát triển theo qui luật tất yếu của lịch sử và theo lòng mong ước của nhân dân. Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam đang vững bước phát triển trong sự nghiệp đổi mới, bằng phương pháp biện chứng cách mạng của chủ nghĩa Mác, chúng ta khẳng định rằng : đại đoàn kết dân tộc sẽ là sức mạnh chiến thắng âm mưu và hành động “DBHB” của CNĐQ và có thế lực phản động áp đặt trên đất nước ta. Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đến nay đã thực sự xứng đáng với sự tin cậy của GCCN, nhân dân lao động và cả dân tộc. Bởi vì Đảng lãnh đạo toàn dân làm nên những chiến công hiển hách, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc độc lập thống nhất đất nước. Hiện nay, Đảng đang lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN với mục tiêu “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Những thắng lợi đi vào truyền thống dân tộc có ý nghĩa lịch sử vĩ đại đó đã làm cho mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân Việt Nam gắn bó qui định sự tồn tại của Đảng, ngày càng đi vào huyết mạch sống còn của cả dân tộc và mỗi con người Việt Nam. Trong cuộc sống của mỗi người, mỗi thế hệ và những thế hệ người Việt Nam kế tiếp nhau đến nay, hiện thực đất nước đã hình thành nếp sống không thể nào khác: “Đảng cần dân - dân cần Đảng; Đảng tin dân -dân tin Đảng”. Trong qúa trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng đã có lúc vấp phải những sai lầm. Qua những lần như vậy, Đảng luôn luôn đề cao tinh thần trách nhiệm trước GCCN và dân tộc, dựa vào dân và tin dân, thẳng thắn nhận khuyết điểm trước nhân dân và tổ chức, sửa chữa, tìm ra nguyên nhân, điều kiện và bài học qua những thắng lợi hoặc thất bại để tiếp tục đề ra đường lối đổi mới toàn diện, khắc phục tư duy cũ, cách làm cũ. Sau gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, tình hình kinh tế - xã hội nước ta đã ổn định và khởi sắc theo hướng phát triển. Tuyệt đại bộ phận nhân dân ta thấy rõ vai trò của Đảng là tổ chức chính trị duy nhất đủ điều kiện hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với qui luật khách quan và đáp ứng được yêu cầu nguyện vọng cùa nhân dân. Chỉ có vững vàng trên lập trường của GCCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam chúng ta mới hoàn thành được nhiệm vụ bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh . Có phát triển mới bảo vệ được, bảo vệ đi đối với phát triển để chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự là cũ khí tư tưởng, là kim chỉ nam hướng dẫn chúng ta đấu tranh chống chiến lược “DBHB”. Vào thời kỳ xây dựng, phát triển kinh tế hiện nay, trong quần chúng nhân dân còn có những ý kiến khác nhau, thậm chí đối lập nhau cũng là lẽ thường tình. Sự khác nhau, đối lập nhau trong nhận thức tư tưởng nội bộ dân tộc quốc gia Việt Nam luôn được giải quyết đúng đắn theo qui luật phát triển xã hội. Bởi vì, đại bộ phận nhân dân ta cùng chung ý nguyện đoàn kết phấn đâu dưới ngọn cờ đại nghĩa : Xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, đân tộc và giàu mạnh, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.Phương pháp, phong cách, thái độ giải quyết đúng đắn mọi tư tưởng nhận thức khác nhau, giải quyết những bất đồng, đối lập nhau… đều xuất phát từ bản lĩnh, đức độ, tài năng và lực lượng hùng hậu của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản, của GCCN và nhân dân Việt Nam mà thế hiện cụ thể ở đội ngũ đảng viên của Đảng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn : “Địch không phải tài tình gì đâu. Nó phá được ta vì ta sơ hở, chủ quan. Nếu công an biết giữ gìn và biết dựa vào nhân dân làm cho nhân dân cũng biết cách giữ gìn không để sơ hở, thì nhất định không thể làm gì được [16 - 386]. 2.2. Đấu tranh chống “DBHB” của CNĐQ là nhiệm vụ quan trọng trong quyết định sự tồn vong của chế độ XHCN ở Việt Nam . CNĐQ và các thế lực phản động, đứng đầu là đế quốc Mỹ sử dụng “DBHB” chống phá CNXH nhằm thiết lập “trật tự thế giới mới” trên địa cầu do Mỹ thống soái chỉ huy. Trong “Thiết lập trật tự thế giới mới, chính quyền B.Clintơn chia ra 4 loại quan hệ giữa Mỹ với các nước trên thế giới: 1. Loại nước đồng minh đế quốc Mỹ luôn thắt chặt không để nước nào ly tâm; 2. Loại nước có thời kỳ lầm lỗi đi theo CNXH, đế quốc Mỹ luôn ngăn chặn không cho quay lại CNXH; 3. Loại nước còn ngoan cố theo CNXH chỉ có một Đảng Cộng sản cầm quyền, các thế lực đế quốc phải tìm mọi cách tác động từ bên trong chuyển theo các giá trị của Mỹ; 4. Loại nước nhiều vấn đề phức tạp về sắc tộc, nhân quyền, Mỹ phải củng cố chế độ dân chủ kiểu Mỹ không làm hại đến chiến lược toàn cầu của Mỹ.Các thế lực đế quốc hiếu chiến xếp Việt Nam vừa vào loại nước XHCN, vừa vào loại nước phức tạp có vấn đề dân tộc, nhân quyền. Chúng tìm mọi cách tác động để chuyển biến đưa Việt Nam lên các nước ở loại 2: Không quay lại CNXH. Thực tiễn cho ta nhận rõ cuộc đấu tranh chống “DBHB” không phải diễn ra trong ngày một, ngày hai mà đó là một cuộc chiến lâu dài và phức tạp. + Tính chất lâu dài của cuộc đấu tranh chống “DBHB” Qúa trình xây dựng CNXH ở nước ta vẫn đang là qúa trình khám phá, thí nghiệm và phát triển. Khi bước vào công cuộc đổi mới, chúng ta chưa có cả lý luận và thực tiễn xây dựng và quản lý đất nước. Do đó, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta còn có những vấp váp, sai lầm. Vì vậy, Đảng và Nhà nước phải không ngừng đổi mới, cải cách đi từ hoàn thiện phát triển. Dân tộc ta là một dân tộc ngoan cường trong đấu tranh, tích cực cần cù trong lao động. Đất nước thống nhất, hoà bình và 54 dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đã chung sức xây dựng tổ quốc theo con đường XHCN. Hiện nay, nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đang hình thành và phát triển ở nước ta. Nguồn lực vật chất được tăng cường, xuất khẩu khá tăng nền kinh tế bắt đầu có tích luỹ, nhưng khoảng cách giữa Việt Nam và các nước tư bản chủ nghĩa là rất lớn vì các nước TBCN đã có hàng mấy trăm năm phát triển.CNTB tuy bị thất bại, nhưng chúng luôn tìm cách giành giật lại vị trí “thiên đường” vốn đã bị mất. Hiện nay, chiến lược “DBHB” là thủ đoạn “quốc sách” của CNĐQ với tư cách “thẩm thấu” dần để biến CNXH thành thực thể bên trong của CNTB. Còn ở Việt Nam vì sự tồn tại và phát triển của mình, vì sự phồn vinh thịnh vượng và hiện đại hoá của mình cũng phải kiên trì chính sách cải cách, mở cửa, đồng thời cũng phải kiên trì đấu tranh chống xâm nhập “DBHB”. Do vậy, cuộc đấu tranh chống “DBHB” tất yếu sẽ diễn ra lâu dài. + Tính chất phức tạp của cuộc đấu tranh chống “DBHB”. Cuộc đấu tranh chống “DBHB” đang là một qúa trình đấu tranh liên tục, ráo riết, quyết liệt trên nhiều mặt và càng ngày kẻ địch càng sử dụng những phương thức, thủ đoạn hoạt động nguy hiểm hơn nhằm lật đổ chế độ XHCN ở nước ta và xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.Thủ đoạn mà CNĐQ và các thế lực đế quốc phản động thường dùng là sử dụng tổng hợp các hoạt động phá hoại thông qua các hoạt động chính trị, kinh tế tư tưởng, văn hoá xã hội . Từng bước thực hiện các mưu đồ của chúng một cách lặng lẽ, thấm dần làm “mục ruỗng” từ bên trong các lực lượng xã hội nước ta; kích động các lực lượng, khuynh hướng phản động, phản nhân dân nổi dậy mà không dùng đến lực lượng vũ trang xâm lược.Đây là cuộc đấu tranh giai cấp không khoan nhượng của GCTS đối với GCCN và nhân dân lao động. Là cuộc đấu tranh giữa hai trận tuyến CNTB và CNXH mà GCTS cầm quyền tiến hành từ khi tư tưởng CSCN mới ra đời cho đến ngày nay. Tóm lại, cả nhận thức và lý luận đều do chúng ta thấy rõ: Đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia chống “DBHB” là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc giữa lực lượng cách mạng với lực lượng phản cách mạng; giữa dân tộc Việt Nam với CNĐQ và các thế lực phản động. Các hình thức phá hoại tư tưởng, phá hoại kinh tế của chúng đều bắt nguồn từ yêu cầu chính trị và dẫn tới phá hoại chính trị; gây bạo loạn lật đổ chính quyền; xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lật đổ chế độ XHCN đưa phe phái thân đế quốc lên nắm quyền và chuyển thành chính quyền dân chủ tư sản và nền kinh tế tư hữu TBCN. Song, dẫu chúng có hàng loạt âm mưu thâm độc, phương thức hoạt động xảo quyệt nhưng khả năng thực tế của CNĐQ và các thế lực thù địch tiến công bằng “DBHB” đối với Việt Nam không lệ thuộc vào chúng, mà lực lượng quyết định không chấp nhận “DBHB” là tuỳ thuộc vào nhân dân Việt Nam.Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã và đang đấu tranh bảo vệ chế độ XHCN và đạt được những kết quả nhất định. Tiến hành chống phá cách mạng Việt Nam, chúng đã vấp phải cuộc đấu tranh toàn diện của toàn dân, kiên trì lâu dài, vừa đánh thắng địch từng trận, từng chiến dịch, vừa xây dựng lực lượng cách mạng trưởng thành, lớn mạnh cả về số lượng, chất lượng, khí tài phương tiện đến phát triển về khoa học, chiến lược, sách lược tiến công toàn diện về quân sự, chính trị, ngoại giao, sử dụng lực lượng tại chỗ kết hợp với sức mạnh thời đại… để giành toàn thắng, giành quyền độc lập, tự do cho tổ quốc và cho nhân dân.Chúng ta đã và đang vững vàng trong thế trận đấu tranh trên mặt trận văn hoá tư tưởng, vô hiệu hoá hệ thống phát thanh truyền hình nhằm tăng cường sự xâm nhập về tư tưởng và chính trị. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, bằng tổ chức thực tiễn đời sống văn hoá tinh thần, đồng thời với dòng đời sống kinh tế ngày càng được cải thiện nâng cao của nhân dân từ hải đảo, biên giới, miền núi và miền xuôi, nông thôn và thành thị đến các thành phố đông dân cư và thủ đô Hà Nội đều phát triển trong khí thế xây dựng CNXH : Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Chúng ta đã và đang vững vàng trong giao lưu quốc tế “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, đứng vững trước phương thức, thủ đoạn của CNĐQ và các thế lực thù địch lợi dụng thông qua các cuộc hội thảo khoa học và trao đổi văn hoá để tăng cường gây ảnh hưởng chính trị tư tưởng đối với trí thức và nhân dân ta. Các lực lượng an ninh, quân đội và nhân dân ta đã cảnh giác nắm chắc âm mưu và hoạt động của kẻ địch, làm thất bại ý đồ phá hoại của chúng trong thời gian qua như: “Thử xem việc bố phòng của Việt Nam như thế nào ?” Mức độ hưởng ứng và huy động lực lượng đến đâu? (vụ Lý Tống) . Chúng ta đã làm thất bại ý đồ ban đầu của chúng vì “Hoạt động để chứng tỏ cho thế giới biết lực lượng chống đối Việt Nam rất đông”, “khắp nơi bọn chúng đều có tổ chức lực lượng sẵn sàng hoạt động”, “làm cho nguyên thủ các nước tư bản đừng quan hệ thăm viếng Việt Nam”, các nhà doanh nghiệp thế giới không vào kinh doanh ở Việt Nam”, những người muốn đi du lịch… không đến Việt Nam vì an ninh trật tự xã hội không đảm bảo… Tất cả những hoạt động này của CNĐQ và các thế lực phản động đều bị mạng lưới “Thiên la địa võng” của nhân dân ta được tổ chức trực tiếp khép kín, nắm chắc ý đồ hoạt động của đối phương, làm thất bại kế hoạch của chúng tạo điều kiện thuận lợi phát triển quan hệ quốc tế phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo hướng XHCN ở Việt Nam. Có được thành công trên là do Đảng Cộng sản đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam lựa chọn đúng hướng đưa đất nước đi lên CNXH, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam hướng cho mọi hoạt động thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam.Nhân dân Việt Nam chỉ tin tưởng vào Đảng Cộng sản Việt Nam và thừa nhận là người lãnh đạo, bởi Đảng Cộng sản Việt Nam đã cùng gắn bó sinh từ với nhân dân trong qúa trình đấu tranh giải phóng dân tộc đầy cam go, thử thách. Sự lãnh đạo của Đảng là biểu hiện thành quả đấu tranh của GCCN và toàn thể dân tộc Việt Nam cho nên, để bảo vệ vững chắc những thành quả cách mạng đã đạt ược, mỗi công dân Việt Nam hôm nay và ngày mai càng cần được tổ chức hoạt động xây dựng cuộc sống dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh dưới sự lãnh đạo quang vinh của Đảng Cộng sản Việt Nam, đẻ bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng của dân tộc và quyền lợi của bản thân mỗi người, làm thất bại âm mưu và hoạt động “DBHB” của các thế lực thù địch ở Việt Nam. 2.3. Xây dựng Đảng vững mạnh về trình độ và tổ chức. Chống “DBHB” là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; của các ngành, các cấp dưới sự lãnh đạo cảu Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm phát huy được sức mạnh của cả dân tộc, quyết tâm giành thắng lợi, hoàn thành sứ mệnh lịch sử tong giai đoạn cách mạng mới. Xây dựng Đảng Cộng sản - chính đảng của GCCN có vững mạnh hay không, có tốt hay không liên quan đến sự thành bại của CNXH. Do vậy, Đảng Cộng sản phải : * Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, gắn liền công tác xây dựng Đảng với công tác bảo vệ Đảng, chăm lo củng cố các cơ sở Đảng, Đảng phải hoàn thiện đường lối chính sách trên cơ sở tổng kết thực tiễn, sớm định rõ mô hình CNXH ở nước ta. Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự là một chính đảng cách mạng, là đội tiên phong của GCCN Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của GCCN, nhân dân lao động và của cả dân tộc được vũ trang bằng học thuyết Mác-lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh , kiên định đường lối xây dựng CNXH, luôn tự chỉnh đốn và đổi mới ngang tầm nhiệm vụ. Đảng phải hoàn thiện đường lối chính trị đúng đắn đã lựa chọn trên cơ sở tổng kết thực tiễn trong nước và thế giới, kết hợp sáng tạo nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin với thực tiễn cụ thể của cách mạng nước ta hiện nay, sớm định rõ mô hình CNXH để bổ xung chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đây là vấn đề mấu chốt, là cơ sở để tập hợp quần chúng nhân dân xung quanh Đảng, yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiệp đổi mới XHCN.Xây dựng Đảng phải gắn liền với bảo vệ Đảng cả về chính trị - tư tưởng và tổ chức. Ở đây phải có sự tham gia của các tổ chức Đảng và của bộ máy Nhà nước, của các đoàn thể quần chúng. Vấn đề cốt lõi của công tác bảo vệ Đảng là bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ đường lối chính trị của Đảng, bảo vệ khối đoàn kết thống nhất và sự trong sạch về phẩm chất chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên; giữ vững nguyên tắc tổ chức và kỷ luật của Đảng. Đồng thời, phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chinh trị, củng cố mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân. Tiếp tục đi sâu thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thân Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) Ban chấp hành Trung ương khoá VIII và kết luận Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX nhất là đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống sự suy thoái về chính trị tư tưởng đạo đức, lối sống, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Phải kiên trì chế độ tập trung dân chủ, phải nhận thức được đây là nguyên tắc tổ chức của Đảng, vừa là nguyên lý chính trị của Đảng, nó liên quan đến sự sống còn của Đảng.Tập trung trên cơ sở dân chủ và dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung, nó có mối quan hệ biện chứng với nhau. Mọi sự xa dời hoặc phủ định tập trung trên cơ sở dân chủ, làm yếu hoặc phủ định dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung đều là xuyên tạc chế độ tập trung dân chủ, đều sẽ gây ra sự nguy haị cho sự nghiệp cách mạng của Đảng. Phải quan tâm củng cố sự phát huy vai trò hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở Đảng, công tác phát triển Đảng và nâng cao chất lượng đảng viên. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng viên thoái hoá, biến chất, tham nhũng, có quan điểm đa nguyên, đa đảng.Xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh về chính trị - tư tưởng có đủ năng lực lãnh đạo cách mạng Việt Nam trên con đường phát triển đất nước. Bài học của một số Đảng Cộng sản các nước bị tan rã, mất chính quyền giúp chúng ta tỉnh táo và kiên quyết trung thành với nguyên tắc tập trung dân chủ. Ở các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, các cơ quan có chức năng làm tư vấn, tham mưu cho Trung ương Đảng và chính phủ, trong nghiên cứu lý luận, hoạch định chủ trương chính sách, các cơ quan văn hoá tư tưởng, các cơ quan trọng yếu về kinh tế, đối ngoại, quốc phòng an ninh… cần áp dụng nghiêm ngặt những qui chế về bảo vệ chính trị nội bộ. Công tác xây dựng Đảng phải gắn với bảo vệ Đảng, chống nguy cơ sai lầm, bè phái, mất đoàn kết từ trong nội bộ Đảng. Củng cố các tổ chức cơ sở Đảng. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị, củng cố mối quan hệ giữa Đảng và nhân dan, xây dựng và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN. Đảng phải không ngừng nâng cao trí tuệ, hoàn thiện đường lối, chính sách trên cơ sở tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, dự báo chiến lược. Thực tiễn đã chứng minh, Đảng ta đủ sức tự mình xây dựng, chỉnh đốn, đổi mới để tiến lên ngang tầm với nhiệm vụ và làm trên trách nhiệm với đất nước, với nhân dân, hoàn thành thắng lợi sứ mệnh của mình trong giai đoạn cách mạng mới. Mở rộng dân chủ XHCN trên cơ sở giữ vững kỷ cương, pháp luật, từng bước xây dựng một xã hội văn minh, công bằng, bắc ái; chống khuynh hướng đòi dân chủ không giới hạn, ca ngợi dân chủ tư sản. Thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tôn giáo, tôn trọng quyền bình đẳng dân tộc, tự do tín ngưỡng; chống tư tưởng kì thị dân tộc, chia rẽ tín ngưỡng; ngăn chặn các thế lực thù địch âm mưu kích động đối kháng tôn giáo, gieo rắc thù hằn dân tộc, chia rẽ Bắc - Nam. Khơi dậy lòng yêu nước, yêu CNXH, niềm tin tự hào, ý chí quật cường của dân tộc nhằm động viên được sức người, sức của, dấy lên cao trào người người, ngành ngành đấu tranh chống “DBHB”. 2.4. Xây dựng và củng cố chắc trận địa văn hoá -tư tưởng. Mặt trận văn hoá tư tưởng đang là mặt trận nóng bỏng, xung yếu nhất mà kẻ địch tập trung chống phá, bắt đầu từ việc làm thay đổi quan niệm giá trị của nhân dân Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ, thay đổi định hướng hành vi của con người và biến chế độ kinh tế, chế độ chính trị của chúng ta tan vào CNTB. Chúng có cả kế hoạch “Xâm lăng văn hoá tư tưởng” với chúng ta. Vì vậy, chúng ta cần xây dựng và củng cố vững chắc trận địa tư tưởng văn hoá XHCN trong nhân dân, kiên quyết đấu tranh làm vô hiệu hoá “DBHB” của CNĐQ và các thế lực thù địch. Trên cơ sở phát huy mạnh mẽ những nguồn lực chính trị và kinh tế của công tác tư tưởng, phải tạo ra được môi trường dư luậnu xã hội tốt đẹp, củng cố lòng yêu nước, truyền thống dân tộc, lòng tin của toàn dân vào công cuộc đổi mới và con đường XHCN đã lựa chọn. Coi trọng công tác tư tưởng đối với tầng lớp trí thức, các nhà khoa học, giới văn nghệ sĩ. Phải thống nhất lực lượng và triển khai mạnh mẽ, có hiệu quả công tác nghiên cứu lý luận trong cả nước nhằm đổi mới sâu sắc công tác thông tin lý luận, nhanh chóng lấp “khoảng trống” về lý luận hiện nay. Để làm được điều đó, chúng ta cần: Tiến hành tổng kết kinh nghiệm đổi mới để làm sáng rõ những căn cứ khoa học và thực tiễn của sự lựa chọn con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Khẳng định và làm rõ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh . Chấn chỉnh và phát huy hiệu lực của công tác thông tin tuyên truyền, giáo dục cán bộ và nhân dân trong đấu tranh tư tưởng, vô hiệu hoá những luận điệu phản động, thù địch với CNXH. Phải làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh thần, thấm sâu vào tâm trí, hành động của mỗi cán bộ đảng viên, mỗi viên chức nhà nước và quần chúng nhân dân. Đẩy mạnh đấu tranh chống văn hoá phản động, đồi truỵ, chống tư tưởng, lối sống phương Tây. Kiên quyết chống khuynh hướng dân chủ tư sản và tư tưởng trào lưu tự do hoá tư sẩn, tư tưởng thoả hiệp, đầu hàng, phản bội dưới mọi hình thức, tư hoá tư tưởng bàng quang vô trách nhiệm trước thời cuộc, theo đuôi quần chúng lạc hậu.Cuộc đấu tranh tư tưởng trước hết phải được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc và sâu sắc trong nội bộ Đảng, Nhà nước ở Trung ương và địa phương, ở các cấp, các ngành và ở trong lực lượng vũ trang.Sự nhất quán về tư tưởng, hành động của những cán bộ, đảng viên phải gắn với lý tưởng của CNXH và lợi ích của quần chúng nhân dân. Đây là nền tảng quyết định mọi thắng lợi của cách mạng XHCN. Chống tự do tư sản và dân chủ tư sản đồng nhất với chống “DBHB”. Phải kiện toàn các cơ quan tư tưởng, văn hoá, văn nghệ, giáo dục theo định hướng XHCN. Chống khuynh hướng tư nhân hoá, tự do hoá tách dời sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, cũng như xu hướng thương mại hoá, phi chính trị hoá trong các lĩnh vực này. Mục đích của công tác văn hoá, văn nghệ, giáo dục là góp phần phục vụ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước, nâng cao dân trí, mở rộng giao lưu với các nước trên thế giới. Muốn tạo được chuyển biến và giữ vững trận địa tư tưởng, chính trị, phải tổ chức được đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ XHCN trung kiên, yêu nước, suốt đời phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Phải chăm lo cải thiện đời sống cho họ, tạo điều kiện để họ cống hiến tài năng cho đất nước, tham gia, đấu tranh chống sự xâm nhập, tác động của tư tưởng dân chủ tư sản, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, ủng hộ sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. 2.5. Tăng cường lãnh đạo, và quản lý công tác truyền thông đại chúng. Hiện nay, sự phát triển của báo chí, Đài phát thanh, truyền hình, Internet, các phương tiện bưu chính viễn thông… đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền bá, lưu giữ, tăng cường giao lưu văn hoá giữa các dân tộc, làm cho con người hiểu biết nhau đầy đủ hơn, sâu sắc hơn. Nhờ các phương tiện thông tin đại chúng mà những giá trị văn hoá của mỗi dân tộc đang trở thành tài sản, giá trị chung của nhân loại. Ngược lại, mỗi dân tộc lại có điều kiện tiếp thu những giá trị chung của văn hoá nhân loại. Những phương tiện thông tin thuận lợi, giá chi phí ngày càng rẻ cho phép đông đảo nhân dân có điều kiện nâng cao dân trí, thưởng thức văn hoá nghệ thuật, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần trong thời đại ngày nay. Tuy nhiên, bên cạnh vai trò rất quan trọng và sự đóng góp rất to lớn của thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức mọi mặt cho nhân dân về âm mưu của CNĐQ và các thế lực thù địch thì vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, khiếm khuyết đã tác động không tốt đến tư tưởng, nhận thức của nhân dân và của xã hội. Do tác động của cơ chế thị trường, một số báo chí đã có những biểu hiện của khuynh hướng thương mại hoá, đáp ứng những thị hiếu tầm thường của một bộ phận công chúng; sa vào tuyên truyền bạo lực, kích dâm, đồi truỵ, mê tín dị đoan để câu khách; khai thác và truyền bá cho lối sống ngoại lai, thẩm mỹ, thị hiếu xa lạ với truyền thống văn hoá dân tộc; dịch và in ồ ạt các tác phẩm văn hoá nước ngoài một cách thiếu chọn lọc, chèn ép văn hoá dân tộc, văn hoá trong nước gây tâm lý hưởng thụ văn hoá ngoại lai, coi thường văn hoá Việt Nam nhất là đối với thanh thiếu niên. Để “giải độc” và tạo ra “bộ lọc” ngay trong nhận thức mỗi người thì bản thân hệ thống thông tin đại chúng phải đủ mạnh, phải quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật. Phải hình thành nên một dư luận xã hội lành mạnh, góp phần tăng cường sự đoàn kết, nhất trí về tư tưởng, chính trị và tinh thần trong nhân dân, gắn chặt thông tin lý luận với thực tiễn đời sống CNĐQ tuyên truyền CNXH là bảo thủ, lỗi thời thì chúng ta phải lý giải được bản chất tốt đẹp của chế độ này, đồng thời phân tích những bài học sai lầm về tuyên truyền xã hội Việt Nam không có dân chủ thì chúng ta phải phân tích có tính thuyết phục sự khác nhau về bản chất của dân chủ XHCN với dân chủ tư sản, đi đối với chứng minh bằng những việc làm cụ thể của qúa trình tiến tới nền dân chủ thực sự ở Việt Nam. Củng cố tăng cường điều hoà vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, thì chúng ta phải làm cho nhân dân thấy được nền móng của nhân quyền, đồng thời vạch rõ sự mất nhân quyền đang diễn ra ở chính các nước có trình độ phát triển trước Việt Nam hàng trăm năm. CNĐQ võ đoán răng các nước XHCN có Đông âu và Liên Xô xụp đổ rõ dần đến sự xụp đổ nhanh chóng của Việt Nam thì chúng ta phải chứng minh cho chúng thấy rằng : không những chúng ta không bị xụp đổ, mà hơn mười năm qua đã đạt được nhiều thành tựu chứng tỏ con đường đổi mới là hoàn toàn đúng đắn và chắc chắn thành công… Đất nước ta hoàn toàn độc lập, tự do thế nhưng các kênh thông tin của ta lại chưa đến đầy đủ và đúng đối tượng. Có nhiều người dân không có báo đọc, không có đài để nghe, ít được tiếp xúc với các loại thông tin của ta… Đó chính là kẽ hở cho các phương tiện thông tin đại chúng của địch như đài BBC, đài VOA, đài RFEk báo Newsweek, báo Le monde… thọc vào “sườn” chúng ta. Vùng biển miền Trung với phía Tây là dãy Trường Sơn, phía đông là biển, ngoại trừ các thành phố, thị xã… còn lại thì dân cư thưa thớt. Trải qua hại cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, cũng như trong những năm xây dựng CNXH, vùng đất này chịu rất nhiều gian khổ, đau thương. Nhân dân kiên cường bám trụ để chống giặc ngoại xâm, chống các thế lực phản động và đấu tranh chống cả thiên nhiên, khắc nghiệt. Cũng trên mảnh đất này, kẻ địch luôn chọn làm mục tiêu tấn công khi Pháp, Mỹ xâm lược, chúng đều đổ bộ trước tiên vào Đà Nẵng, khi địch bao vây kinh tế, lôi kéo người trốn ra nước ngoài thì những đoàn người ra đi cũng ở vùng đất này trước tiên. Còn vùng đất phía Tây, thì bọn thổ phỉ Funrô, các toán xâm nhập như Hoàng Cơ Minh… đều chọn đất này đưa quân về. Do vậy, những năm qua, cuộc đấu tranh chống “DBHB” ở vùng đất này chưa một lúc nào ngưng nghỉ, mà ngày càng quyết liệt hơn, phức tạp hơn. Từ thực tế trên, TW nên lập đài phát thanh dành cho các đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, Quảng Nam - Đà Nẵng, Quảng Ngãi. Hàng vạn người dân ở đây rất hiếm khi được đọc báo, do trình độ văn hoá thấp, báo chí đến chậm; còn báo dành riêng cho đồng bào thì không có. Sóng của Đài tiếng nói Việt Nam đến đây bị yếu, mà các đài tỉnh tiếp âm chỉ có giới hạn… Do vậy, TW cần có biện pháp, kế hoạch cụ thể để kịp thời tháo gỡ những khó khăn này. Bởi một lẽ rất đơn giản: Ta không tuyên truyền thì kẻ địch sẽ làm, mà đó là lỗ hổng lớn để kẻ thù chống phá ta. Hơn nữa, các loại văn hoá phẩm, sách báo phản động, đồi truỵ đang được tung vào nước ta ngày càng nhiều, khó có thể kiểm soát được hết, đặc biệt là ở vùng biển, hải đảo, biên giới. Để đấu tranh có hiệu quả nhằm ngăn chặn tình trạng đó, một mặt các phương tiện thông tin đại chúng cần cố gắng nâng cao vai trò của mình, mặt khác những ngành khác có liên quan cũng phải tham gia dưới sự chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, vì trong cuộc đấu tranh này phải phân biệt rõ địch, ta, không thể mơ hồ. 2.6. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chống sự xâm nhập của văn hoá phẩm độc hại. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991), Đảng ta đã khẳng định cách mạng tư tưởng và văn hoá là một trong những phương hướng cơ bản chỉ đạo qúa trình xây dựng CNXH ở nước ta, đồng thời những mục tiêu của cuộc cách mạng này là “có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” và “con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn điện”. Đây là những đặc trưng trong 6 đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng [13-9]. Nền văn hoá tiên tiến, đầm đà bản sắc dân tộc phải là nền văn hoá XHCN có tính chất tiên tiến và hiện đại. Các lĩnh vực của đời sống tinh thần như văn hoá, nghệ thuật, giáo dục và khoa học, tri thức và phẩm chất, đạo đức, ý thức và năng lực làm chủ của con người Việt Nam phải phát triển ở trình độ tiên tiến của nhân loại. Nền văn hoá đó còn phải thể hiện đậm nét sắc thái, bản sắc dân tộc. Bản sắc dân tộc nói ở đây không chỉ là hình thức mà chủ yếu là nội dung. Phải làm sao chăm lo giữ gìn và phát huy được bản sắc đó trong điều kiện kinh tế thị trường, giao lưu văn hoá, hội nhập quốc tế và mở cửa với bên ngoài. CNĐQ và các thế lực thù địch, chống CNXH thực hiện chiến lược “DBHB” bằng những thủ đoạn tinh vi, hiểm độc làm suy yếu hệ tư tưởng cách mạng, làm chệch hướng XHCN, làm lệch lạc những định hướng giá trị, đặc biệt là trong “lẽ sống” và “lối sống” của thế hệ trẻ, thông qua những tác động phản văn hoá những sự thẩm thấu dần dần của những dòng văn hoá ngoại lai mà ta gọi là “sự xâm lăng văn hoá”. Để kế thừa và phát huy trần thuật, bản sắc dân tộc mà vẫn tiếp thu được những tinh hoa văn hoá của thế giới trên tinh thần chọn lọc và phê phán, cần phải thường xuyên chăm lo bản lĩnh văn hoá, nhất là của chủ thể lãnh đạo và quản lý. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc còn phải chú trọng tới chính sách đầu tư và phát triển văn hoá, nhất là văn hoá tinh thần, đào tạo cán bộ và chuyên gia trong các loại hình văn hoá, tăng cường quản lý nhà nước về văn hoá. Đảm bảo công bằng xã hội trong việc hưởng thụ các thành quả giá trị văn hoá, công bằng giáo dục, y tế và các lĩnh vực phúc lợi xã hội khác; làm cho đồng đảo quần chúng nhân dân được thực sự làm chủ, trở thành chủ thể trong sáng tạo, tiêu dùng, cảm thụ văn hóa. Đó cũng là đảm bảo công bằng trong phát triển. Những nhiệm vụ của cách mạng tư tưởng và văn hoá nhằm xây dựng con người, xây dựng văn hoá cần phải được thực hiện một cách công phu, bền bỉ, thận trọng thấm nhuần tinh thần sáng tạo và đổi mới. Muốn được như vậy, cần phải tăng cường và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực tư tưởng, văn hoá cũng như các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Thực hiện cương lĩnh, đường lối của Đảng đã vạch ra với tư cách là một chiến lược phát triển con người, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, sẽ đảm bảo con người và văn hoá trở thành động lực và mục tiêu của phát triển bền vững ở nước ta. 2.7. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước XHCN cho thế hệ trẻ trong thời kỳ mới của cách mạng. Lòng yêu nước là truyền thống quý báu, giá trị tinh thần lớn lao của nhân dân và các thế hệ trẻ của nước ta được trao truyền và phát huy nhất là qua các bước ngoặt lịch sử của dân tộc. Suốt hơn nửa thế kỷ qua, từ khi chế độ mới ra đời, lòng yêu nước của các thế hệ trẻ Việt Nam luôn gắn bó mật thiết với CNXH. Vì vậy, yêu nước XHCN trở thành giá trị mới; tạo động lực tinh thần, cổ vũ lớp lớp các thế hệ thanh niên lập công xuất sắc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước, cũng như trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ , văn minh. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, thanh niên nước ta đang đứng trước những thử thách mới, nhất là các hoạt động ráo riết của các thế lực thù địch đang tìm mọi cách lôi kéo, tha hoá thanh niên. Vì vậy, vấn đề tăng cường giáo dục lòng yêu nước XHCN cho thanh niên trong thời kỳ mới của cách mạng đang là vấn đề cấp bách cần đặc biệt coi trọng.Đảng ta khẳng định: “Cách mạng Việt Nam có vững bước trên con đường XHCN hay không tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc rèn luyện, bồi dưỡng thanh niên”. Đồng thời chỉ rõ những đức tính của con người Việt Nam trong thời kỳ mới của cách mạng và đặt lên hàng đầu tiêu chí “có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và CNXH, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu”. Đây là vấn đề mang tính thực tiễn và lý luận sâu sắc trong hoàn cảnh và điều kiện mới. Chính vì vậy, Đảng ta luôn quan tâm đến việc bồi dưỡng lòng yêu nước XHCN cho mọi tầng lớp nhân dân, nhưng trước hết là cho thế hệ trẻ. Nếu chúng ta chú trọng bồi dưỡng, giáo dục có hiệu quả chủ nghĩa yêu nước XHCN cho hàng chục triệu đoàn viên, thanh niên thì sẽ tạo ra nhân tố quan trọng, động viên được nguồn lực nội sinh vô tận phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng là qúa trình đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ nước ta thành lớp người mớí XHCN. Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX đặt ra yêu cầu phải giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ, trong đó đặc biệt coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống. Đây là những nội hàm cơ bản trong việc hình thành và phát triển chủ nghĩa yêu nước XHCN. Ngày nay chúng ta đang đứng trước những thời cơ, vận hội mới song cũng không ít thách thức. Bằng chiến lược “DBHB”, các thế lực thù địch đang ráo riết chống phá ta về mọi mặt; nhất là trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị. Chúng ra sức lôi kéo thanh niên, và thanh niên là lực lượng dễ bị lôi kéo. Giới trẻ luôn phải đối mặt với hàng loạt vấn đề đang đặt ra từ cuộc sống. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta coi vấn đề “chệch hướng” là một trong những nguy cơ lớn phải được nhận thức đầy đủ. Từ đó đặt ra cho Đoàn TNCS Hồ Chí Minh nhiệm vụ giáo dục, bồi dưỡng cho thanh niên lý tưởng cách mạng; đó là lòng yêu nước XHCN, như Bác Hồ đã ân cần dặn: “Chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc ta hoàn toàn độc lập cho CNXH hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta”. KẾT LUẬN Cuộc đấu tranh giữa CNXH và CNTB là cuộc đấu tranh gai cấp một mất, một còn. Sự chống phá của CNĐQ, CNTB và các thế lực thù địch có thể có sự thay đổi về âm mưu thủ đoạn cụ thể, song mục tiêu nhất quán là tiêu diệt tư tưởng XHCN và hệ thốngXHCN hiện thực trên thế giới. Trong giai đoạn hiện tại, “Diễn biến hoà bình” dùng mũi khoan tư tưởng văn hoá làm trọng điểm để tấn công được coi là chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc. Bởi chúng hiểu được rằng, xăm lăng văn hoá là biện pháp xâm lăng văn hoá là biện pháp xâm lược hiệu quả nhất và với thời gian ngắn nhất. Việc làm cho văn hoá bản địa bị nhiễm “vi rút lạ”, mất sức đề kháng làm cho con người bị tha hoá, dễ làm phá vỡ nền tảng tinh thần xã hội và đưa đất nước đối phương chuyển biến theo con đường phụ thuộc tư bản chủ nghĩa. Chiến lược “DBHB” trên mặt trận văn hoá tư tưởng mặc dù thâm độc, xảo quyệt và tinh vi, song nó chỉ là hành động đi ngược lại qui luật của thời đại. Nếu chúng ta có nội lực văn hoá mạnh mẽ, luôn cảnh giác và chủ động, giữ gìn được sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng, toàn quan, toàn dân về chính trị tư tưởng, kiên định đường lối đổi mới của Đảng và chăm lo thường xuyên tới sức mạnh phòng thủ đất nước xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững chắc thì nhất định sẽ làm thất bại âm mưu “DBHB” của địch. Tuy vậy, cũng phải nhận thức rằng, cuộc đấu tranh này không phải chỉ trong một thế lực, đó là cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp của hôm nay và ngày mai. Chúng ta không được hoài cổ thái quá, không được bảo thù nhưng cũng không được vọng ngoại thiếu suy nghĩ, thiếu cân nhắc. TÀI LIỆU THAM KHẢO Amanach: Những nền văn minh thế giới, Nxb Văn hoá thông tin, 1997. Ban tư tưởng văn hoá Trung ương: Quyết tâm làm thất bại chiến lược “DBHB” của các thế lực thù địch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1994. Bùi phan Kỳ : Âm mưu và hoạt động “DBHB” của các thế lực thù địch đối với Việt Nam - dự báo tình hình và các giải pháp. Tạp chí CAND 3/1993. Tr 18-21. Cốc Văn Khang: Cuộc đọ sức giữa hai chế độ - Bàn về chống “DBHB”, Nxb Chính trị quốc gia - Tổng cục II- Bộ quốc phòng , Hà Nội 1994. C.Mác- Ph.Ăng-ghen : Toàn tập, T2, Nxb Sự thật, Hà Nội 1980. Công tác Đảng, công tác chính trị. Tập IV - Nxb Quân đội nhân dân, 2001. Công tác bảo vệ chính trị trong quân đội, Tài liệu tham khảo, Học viện chính trị quân sự, 2002. “DBHB” và chống “DBHB”. Nxb xã hội Trung Quốc, Tổng cục II, Bộ quốc phòng 10/1993. Duy Phúc: Một số trung tâm và phương tiện phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch sử dụng phá hoại các nước XHCN. Tạp chí CAND 3/1993, tr 70.71. Dương Thông: Nâng cao cảnh giác cách mạng, quyết tâm đánh bại âm mưu thủ đoạn “DBHB” của CNĐQ trên đất nước ta. Tạp chí CAND 3/1993, tr2-5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII, 6/1991. Đảng Cộng sản Việt Nam : văn kiện Hội nghị lần thứ 7 BCHTW khoá VII. Lưu hành nội bộ, Hà Nội 1994. Đảng Cộng sản : Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Nxb sự thật, Hà Nội, 1994. Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 BCHTW 2/1999. Đặng Nghiêm Vạn: Vấn đề dân tộc và tôn giáo trong tình hình hiện nay. Tạp chí CAND, 1/1993, tr 12-14. Hồ Chí Minh : Toàn tập, T7, Nxb Sự thật, Hà Nội 1987. I.Li-ga-chốp: Hồi ký của Li-ga-chốp bên trong điện Krem li của M.Goóc Ba Chốp. Viện Thông tin lý luận thuộc Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin - Tư tưởng Hồ Chí Minh - 1993. Lênin : Toàn tập, T39, Bàn về chuyên chính vô sản, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1962. Lưu Đình Á, chủ biên: Hãy cảnh giác cuộc chiến tranh khộng có khói súng, Nxb Chính trị quốc gia, Tổng cục II Bộ Quốc phòng , Hà Nội 1994. Lê Xuân Lựu: Sự phá hoại về tư tưởng của các thế lực phản động trong chiến lược “DBHB”. Tạp chí cộng sản 4/1993, tr 19-22. Lê Quang Thành: Mấy vấn đề về chống chiến lược “DBHB” lật đổ của các thế lực thù địch đối với Việt Nam. Tạp chí CAND 3/1993, Tr. 6-9;. Mác-Engel, Tuyển tập, T1. Những luận cương về Feubrbach, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983. Một số vấn đề về “DBHB” và chống “DBHB” ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia - 1999. Một số vấn đề tôn giáo và tôn giáo ở Việt Nam. Tài liệu tham khảo Học viện Chính trị Quân sự - 2003. Nguyễn Anh Lân chủ biên: Chiến lược “DBHB” - Nxb Tổng cục II Bộ Quốc phòng, Hà Nội tháng 6/1993. Nguyễn Đỗ Hoàng : Bàn về “DBHB”, Nxb CAND Hà Nội, 1992. Nguyễn Tài Thư : Bảo vệ giá trị truyền thống dân tộc. Tạp chí Cộng sản 6/1994. Tr 12-16. Nguyễn Hùng Lĩnh: Âm mưu lợi dụng đạo Thiên chúa Việt Nam thực hiện “DBHB” và công tác đấu tranh của ta. Tạp chí CAND 3/1993, tra 67 -69. Nguyễn Văn Cán, “Chiến dịch làm tan vỡ” - Một vấn đề cần nghiên cứu đăng sau sự kiện Đông âu và Liên xô- Tạp chí CAND số 3/1993. tr 51-54. Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế - Tài liệu tham khảo, Học viện Chính trị quân sự, 2002. Tạp chí kinh tế và dự báo, số 313- T5/1999. Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 1/2004, Tổng Cục Chính trị. Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 2/2004, Tổng Cục Chính trị. Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 3/2004, Tổng Cục Chính trị. Tạp chí công tác Tư tưởng văn hoá, số 10/1994, Ban Tư tưởng văn hoá TW. R.Nixơn: 1999- Chiến thắng không cần chiến tranh. Bản dịch - Cục nghiên cứu - Bộ Tổng tham mưu 1989. Xây dựng chế độ dân chủ và hệ thống chính trị XHCN ở nước ta, Tài liệu tham khảo, Học viện Chính trị quân sự, 2003. V. Pap-lốp: Goóc- Ba- Chóp bạo loạn, sự kiện tháng 8 nhìn từ bên trong. Nxb Chính trị quốc gia - Hà Nội. 1994. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKTCT (38).doc
Tài liệu liên quan