Điều trị phẫu thuật bệnh hở van hai lá bẩm sinh đơn thuần

Có nên đặt vòng van nhân tạo ở trẻ em hay không ? Có thể tạo hình vòng van đã bị dãn hay đã biến dạng của bệnh nhi bằng nhiều kỹ thuật khác nhau. Tuỳ vào lứa tuổi lúc được mổ hay độ dãn của vòng van, độ lớn của trái thất và còn tuỳ thuộc vào chọn lựa của bác sĩ phẫu thuật sẽ có nhiều phương pháp để tạo hình vòng van khác nhau như chỉ tạo hình vùng hai mép van(13), tạo hình thu nhỏ vùng vòng van sau bằng 1 dãi Teflon(13,16) hoặc dải màng ngoài tim tự thân , tạo hình toàn bộ bằng vòng van nhân tạo(2,6,17) hoặc bằng vòng van sinh học tự tiêu của Kalangos(3) mục tiêu lớn nhất của việc đặt vòng van là giảm thiểu mức độ hở van tồn lưu sau mổ cũng như kéo dài tính ổn định của phẫu thuật tạo hình van. Nghiên cứu của Chauvaud và Opido cho thấy tỉ lệ mổ lại ở BN có đặt vòng van lần lượt là 11,4% và 0% trong khi tỉ lệ mổ lại ở BN không đặt vòng van lần lược là 40% và 27%. Nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ mổ lại trên bệnh nhân BN có và không đặt vòng van nhân tạo lần lượt là 2,7% và 21% (p< 0,001). Các số liệu này chứng minh vai trò quan trọng của vòng van nhân tạo trong phẫu thuật tạo hình van hai lá. Tuy nhiên, khi trẻ lớn lên vòng van nhân tạo không tiêu sẽ là vật cản và là tác nhân gây hẹp van 2 lá thư phát . Vấn đề này chỉ thậ t sự nghei6m trọng khi phải đặt 1 vòng van nhân tạo khá nhỏ cỡ 16-18 mm cho bệnh nhi nhỏ cân. Với kích cỡ này khi phải mổ lại để thay van nhân tạo thì khó mà có thể đặt được cỡ van lớn. Trong nhóm BN nghiên cứu của chúng tôi, 3 BN được mổ lại với vòng van nhân tạo được đặt trước đó lần lượt là 18, 20, 20 khi mổ lại cả ba BN này đều được lấy bỏ vòng van nhân tạo và mô xơ xâm lấn, tách dây chằng và tạo hình vòng van sau bằng một dải màng ngoài tim gấp đôi. Thực tế khi lấy bỏ vòng van nhân tạo cũ và mô xơ xâm lấn, chúng tôi thấy vòng van của BN vẫn dãn ra và mô van vẫn còn mềm đặc biệt là lá van trước. Chính điều này khích lệ việc tạo hình van lần nữa với mục đích chờ bệnh nhi lớn lên. Cả ba BN này đều có hở van 2 lá mức độ ¼ sau mổ 1 năm.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 121 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trị phẫu thuật bệnh hở van hai lá bẩm sinh đơn thuần, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học 81 ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT BỆNH HỞ VAN HAI LÁ BẨM SINH ĐƠN THUẦN Văn Hùng Dũng* TÓM TẮT Mục tiêu: Phẫu thuật điều trị hở van hai lá bẩm sinh thường gặp nhiều khó khăn do phẫu trường nhỏ và kỹ thuật ứng dụng hạn chế. Nghiên cứu này nhằm xác định kết quả dài hạn của phẫu thuật hở van hai lá bẩm sinh theo phương pháp Carpentier tại Viện Tim TP.HCM. Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu 85 bệnh nhân hở van hai lá bẩm sinh được phẫu thuật theo phương pháp sửa van hai lá của Carpentier. Kết quả: Tuổi trung bình là 8,9 tuổi ( 6 tháng - 45 tuổi), trong đó nhóm tuổi dưới 6 tuổi chiếm 31 trường hợp (36,5%). Nam giới 42 (49,4%). Siêu âm tim qua thành ngực chẩn đoán chính xác nguyên nhân bẩm sinh trong 40% trường hợp. Tạo hình van chiếm 83 trường hợp (97,6%), hai trường hợp phải thay van nhân tạo.Số kỹ thuật trung bình được thực hiện trên một bệnh nhân là 2,5 (ít nhất 1, nhiều nhất 5 kỹ thuật), 64 trường hợp (75,3%) có dặt vòng van nhân tạo. Biến chứng gần sau mổ thấp ( suy tim nặng 5, rối loạn nhịp tim 12, suy thận cấp 1, nhiễm khuẩn huyết 1, viêm phổi 3). Tử vong phẫu thuật là 1,1% (1 trường hợp). So sánh trước và sau mổ sớm, có sự giảm có ý nghĩa độ hở van hai lá : trước mổ (100% đều hở van nặng) và sau mổ: không hở hoặc hở nhẹ 85,7% (72), hở trung bình 14% (12) và hở nặng 1,2%, p < 0,001. Thời gian theo dõi trung bình 108 ± 67,5 tháng 4,8% số BN mất theo dõi. Ở thời điểm theo dõi sau cùng (ngắn nhất 18 tháng và dài nhất 19 năm) có 7 BN hở van tim nặng tái phát, 15 hở van trung bình còn lại hở nhẹ hoặc không hở. 7 BN phải mổ lại vì hở van tái phát (từ 1 đến 180 tháng sau mổ). Tử vong muộn chỉ 1 trường hợp do xuất huyết não. Tỉ lệ còn sống thực tế sau 19 năm theo dõi là 94,1 ± 2,5%. Tỉ lệ thực tế BN không bị mổ lại sau 19 năm theo dõi là 83 ± 5,3%. Kết luận: Hở van 2 lá có nguyên nhân bẩm sinh là một bệnh lý phức tạp và khó chẩn đoán chính xác trước mổ. tao 5hi2nh van là chọn lựa chủ yếu đối với hở van 2 lá bẩm sinh ở trẻ em, kết quả điều trị phẫu thuật theo phương pháp carpentier về dài hạn rất tốt. Từ khóa: Hở van hai lá. ABSTRACT SURGICAL TREATMENT FOR ISOLATED CONGENITAL MITRAL REGURGITATION Van Hung Dung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 6 - 2014: 81 - 86 Objective: Surgical treatment for congenital mitral regurgitation especially in young children often encounter many difficulties because of small surgical field and limited techniques used. This study determines the long-term result of the surgical treatment for isolated congenital mitral regurgitation with Carpentier’s techniques Methods: A retrospective study from Feb 1993 to Dec 2010, 85 patients with isolated congenital mitral regurgitation were operated with Carpentier’s techniques at The Heart Institute of HCM City, Viet Nam. Results: Mean age was 8.9 years (range from 0.5 to 45 years old), among them there were 31 patients (36.5%) under 6 year of ages. Female patients was 43 (51.6%). Diagnosis pre-op by echocardiography was exact only in 40% patients.Valve repair was performed sucessfully in 97.6% and only 2 cases had to change the native valve by prosthetic valve. The mean number of techniques per patients is 2,5 (min 1, max 5), Carpentier-Edwards rigid ring was used in 64 patients (75.3%). Immediate postoperative complications were low (severe LCO 5.9%, arrhythmias 14%, severe infection 4.7% and re-operation 1.1%). 30-day mortality rate was only 1 patient (1.1%). The mean time of follow-up was 108 ± 67.5 months( 18 – 228 months).4.8% patients has losted * Viện tim Thành Phố Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: TS. BS Văn Hùng Dũng, ĐT: 0917882488, Email: vhdung2004@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 6 * 2014 82 followup.During follow-up, 7 patients need to re-operation (1- 130 months).Evaluation MR by echocardiography at the last follow-up showed 7 patients were severe MR, 15 others were moderate MR and the rest were mild or no MR. Actuarial rate of freedom from re-operation at 19-year follow-up was 83 ± 5.3%. Late death was one patients . Actuarial rate of survival at 19 year was 94.1 ± 2.5% Conclusion: Isolated congenital MR is always complex and difficult to diagnose before operation. In almost cases, mitral valve repair should be the primary choice to congenital MR. Mitral valve repair in children with Carpentier’s techniques has very good long-term results with very low mortality and acceptable re-operation rate. Key words: Mitral regurgitation (MR). MỞ ĐẦU Hở van hai lá có thể gặp ở bất kỳ lứa tuổi nào từ sơ sinh cho đến người lớn tuổi và có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau. Hở van hai lá có thể đơn thuần là một bệnh duy nhất hoặc kết hợp với các thương tổn van tim khác hoặc dị tật tim khác. Chẩn đoán có hở van hai lá nặng thì không khó với phương tiện hiện nay nhưng chẩn đoán đúng nguyên nhân gây hở van thì không đơn giản. Trên siêu âm tim, tuỳ theo nguyên nhân gây hở van sẽ có các hình ảnh chẩn đoán khá đặc thù. Các dạng tổn thương của lá van, vòng van và bộ máy dưới van phối hợp hoặc không đi kèm với các dị tật tim khác sẽ giúp chẩn đoán nguyên nhân.Tóm tắt có thể chia làm 5 nhóm nguyên nhân gây hở van hai lá như sau: -Hở van hai lá do viêm nhiễm: hậu thấp, viêm nội tâm mạc. -Hở van 2 lá do thoái hoá: bệnh thoái hoá nhày, bệnh Barlow, hội chứng Marfan. -Hở van 2 lá bẩm sinh: đơn thuần hoặc phối hợp với dị tật khác. -Hở van 2 lá do thiếu máu cơ tim: sau nhồi máu, hội chứng ALCAPA. -Hở van 2 lá do nguyên nhân khác: chấn thương, u nhầy. Tại Việt Nam, hở van tim 2 lá bẩm sinh đơn thuần thường được nghĩ tới ở trẻ nhũ nhi, trẻ nhỏ dưới 5 tuổi. Với trẻ lớn hơn hở van tim 2 lá đơn thuần do nguyên nhân hậu thấp. Trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ khảo sát những trường hợp hở van hai lá bẩm sinh đơn thuần ở mọi lứa tuổi được mổ. Mục tiêu nghiên cứu Phẫu thuật điều trị hở van hai lá bẩm sinh thường gặp nhiều khó khăn do phẫu trường nhỏ và kỹ thuật ứng dụng hạn chế. Nghiên cứu này nhằm xác định kết quả dài hạn của phẫu thuật hở van hai lá bẩm sinh theo phương pháp Carpentier tại Viện Tim TP.HCM. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Hồi cứu, cắt dọc. Thu thập các kết quả trước trong và sau mổ đồng thời phân tích các khối dữ liệu thu được trong quá trình theo dõi bệnh nhân về dài hạn. Dân số chọn mẫu là tất cả bệnh nhân được phẫu thuật tại viện tim thành phố hồ chí minh từ tháng 2năm 1993 đến hết tháng 2010 với chẩn đoán sau mổ là hở van 2 lá bẩm sinh đơn thuần. Loại trừ các bệnh nhân hở van hai lá do nguyên nhân khác hoặc hở van hai lá bẩm sinh phối hợp với các dị tật tim khác như: thông liên thất, thông liên nhĩ, còn ống động mạch. Các khối dữ liệu cần thu thập bao gồm: các đặc điểm bệnh lý trước mổ, chẩn đoán dạng tổn thương và nguyên nhân hở van hai lá trong mổ, thời gian theo dõi và kết quả siêu âm tim xa nhất sau mổ cũng như các biến cố ghi nhận được trong quá trình theo dõi. Các biến định lượng được trình bày dưới dạng trung bình ± độ lệch chuẩn. Các biến định tính, các biến cố liên quan được trình bày đưới dạng tần suất phần trăm và hoặc tần suất đường thẳng (linearized rate). Tỷ lệ bệnh nhân còn sống đến cuối quá trình theo dõi cũng như tỷ lệ bệnh nhân không gặp biến cố liên quan được trình bày theo biểu đồ Kaplan-Meier. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học 83 Phân tích kết quả thống kê được thực hiện bằng chương trình SPSS for Window phiên bản 13.0. KẾT QUẢ Từ tháng 2 năm 1993 đến hết tháng 12 năm 2010, tại Viện Tim thành phố Hồ chí Minh chúng tôi đã mổ cho 85 trường hợp hở van 2 lá bẩm sinh đơn thuần. Tuổi trung bình là 8,9 tuổi ± 7,6 năm (nhỏ nhất 6 tháng và thấp nhất 45 tuổi) , trong đó nhóm tuổi dưới 6 tuổi chiếm 31 trường hợp (36,5%). Trẻ em dưới 16 tuổi chiếm đa số với 71 trường hợp. Nam giới: 42 (49,4%). Siêu âm tim qua thành ngực chỉ chẩn đoán chính xác nguyên nhân bẩm sinh trong 40% trường hợp. các trường hợp còn lại, nguyên nhân hở van do bẩm sinh được chẩn đoán trong mổ với các tổn thương đặc trưng như van hai lá có dạng 2 lỗ, toàn tại chẻ lá van trước hoặc van sau. (mitral valve cleft), thiếu dây chằn bờ, hội chứng dây chằng ngắn. Trong các trường hợp tồn tại chẻ lá van, chỉ 2 BN có chẻ lá không hoàn toàn còn lại 13 trường hợp có chẻ hoàn toàn và không có day chằn treo. Tất cả các trường hợp được mổ với hở van 2 lá nặng trước mổ. có 2 đường tiếp cận van 2 lá. ở người lớn, vào van hai lá qua đường xẻ chọn lọc trên nhĩ trái. Ở trẻ em, van hai lá được bộc lộ qua đường xẻ vách liên nhĩ theo hình vòng cung hướng về tĩnh mạch phổi phải. Bảng 1: Thương tổn van hai laù tìm thấy trong lúc mổ. Dang tổn thương Số TH % Dãn vòng van Chẻ lá van trước Chẻ lá van sau Thiếu dây chằng: lá van trước lá van sau Dài dây chằng (lá van trước) Hội chứng dây chằng ngắn Dính mép van Van hai lá dạng 2 lỗ Van dạng Hammock- Parachute 81 11 4 50 13 10 12 3 2 1 95,3 11,7 3,9 58,8 15,3 11,7 14,1 3,5 2,3 1,1 * Nhận xét: Phân tích bảng 1 cho thấy 4 dạng tổn thương chính yếu trong hở van hai lá bẩm sinh đơn thuần là 1. dãn vòng van, 2. thiếu dây chằng bờ của lá van trước (59%) và lá van sau (15%), 3. Hội chứng dây chằng ngắn hạn chế việc đóng kính của lá van trong kỳ tâm thu và 4. Tồn tại chẻ của lá van (15%). Tạo hình van chiếm 83 trường hợp (97,6%), hai trường hợp còn lại phải thay van nhân tạo. Một trường hợp van có dạng Hammock - Parachute phải thay van ngay từ đầu. trường hợp còn lại tạo hình van cho kết quả không tốt và BN được thay van ngay sau đó. Hình 1: Chẻ lá trước van hai lá: trước và sau khi phẫu thuật tạo hình van. * Nhận xét: Chúng tôi áp dụng chủ yếu các kỹ thuật sửa van của Carpentier, các kỹ thuật này được liệt kê trong bảng 2. Số kỹ thuật trung bình được thực hiện trên một bệnh nhân là 2,5 (ít nhất 1, nhiều nhất 5 kỹ thuật), 64 trường hợp (75,3%) có đặt vòng van nhân tạo Carpentier-Edward. Các trường hợp còn lai được tạo hình vòng van sau bằng một dải màng ngoài tim hoặc Teflon. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 6 * 2014 84 Bảng 2: Các kỹ thuật tạo hình van hai lá được áp dụng. Kỹ thuật mổ Số TH % Tạo hình vòng van với vòng CE Tạo hình vòng van sau bằng màng ngoài tim hoặc PTFE Đóng chẻ van 2 lá Cắt tam giác lá van trước Cắt tứ giác lá van sau Nới rộng lá van trước bằng màng ngoài tim Rút ngắn dây chằng Chuyển vị dây chằng Bờ hoá dây chằn Khâu gấp mô van Cắt mép van Xẻ cửa số dây chằng Tách trụ cơ 64 19 15 24 13 10 7 23 6 4 3 2 3 75,3 22,3 17,6 32 15,3 11,7 8,2 27 7 4,7 3,5 2,3 3,5 * Nhận xét: Biến chứng gần sau mổ thấp: suy tim nặng 5, rối loạn nhịp tim 12 (chủ yếu là nhịp chậm xoang hoặc nhịp bộ nối: 10 trường hợp, 2 trường hợp còn lại bị rung nhĩ tạm thời sau mổ), suy thận cấp 1 trường hợp (cần làm thẩm phân phúc mạc), nhiễm khuẩn 4 (nhiễm khuẩn huyết 1, viêm phổi 3). Tử vong phẫu thuật là 1,2% (1 trường hợp do nhiễm khuẩn huyết dẫn đến suy đa cơ quan). Hình 2 : Van hai lá dạng 2 lỗ. Thời gian thở máy TB là 20 ± 45 giờ, và thời gian nằm hồi sức TB là 2,2 ± 1,8 ngày (1- 18 ngày). So sánh trước và sau mổ sớm, có sự giảm có ý nghĩa độ hở van 2 lá : trước mổ (100% hở nặng) và sau mổ: không hở hoặc hở nhẹ 85,7%(72), hở trung bình 14%(12) và hở nặng 1,2%, p< 0,001. Thời gian theo dõi trung bình là 108 ± 67,5 tháng. 3,8% số BN mất theo dõi. Ở thời điểm theo dõi sau cùng (ngắn nhất 18 tháng và dài nhất 19 năm) có 6 BN hở van nặng tái phát, 4 hở van trung bình còn lại hở nhẹ hoặc không hở. 6 BN phải mổ lại vì hở van tái phát (từ 11 đến 130 tháng sau mổ) và một BN mổ lại vì thoái hóa van sinh học. Tử vong muộn: 2 trường hợp (1 do nhũn não tái phát vào tháng thứ 50 sau mổ và 1 không rõ nguyên nhân). Tỉ lệ còn sống thực tế sau 19 năm theo dõi là 94,1 ± 2,5% . Tỉ lệ thực tế BN không bị mổ lại sau 19 năm theo dõi là 83 ± 5,3%. BÀN LUẬN Chọn thời điểm mổ lần đầu: hiện nay với các trường hợp hở van 2 lá bẩm sinh đơn thuần đặc biệt là ở trẻ nhũ nhi đa số các tác giả đều đồng ý nên trì hoãn thời điểm mổ, nói khác đi là chỉ xét chỉ định phẫu thuật khi trẻ càng lớn càng tốt. Chỉ một số ít các trường hợp cần phẫu thuật sớm khi trẻ có biểu hiện suy tim tiến triển nặng không đáp ứng điều trị nội khoa(8,11,14,16). Chẩn đoán nguyên nhân hở nặng van hai lá trước mổ: để chẩn đoán chính xác nguyên nhân hở van 2 lá đơn thuần do nguyên nhân bẩm sinh thường không dễ nếu chỉ có siêu âm tim. Hở van hai lá đi kèm với các dị tật tim bẩm sinh khác như còn ống động mạch, thông liên thất, thông liên nhĩ, đa phần có nguyên nhân bẩm sinh tuy nhiên ở người lớn, trẻ em dạng hở van kết hợp này hợp này vẫn có nguyên nhân hậu thấp hoặc viêm nội tâm mạc. Chính vì vậy, chẩn đoán chính xác là hở van hai lá bẩm sinh đơn thuần chỉ thực hiện ngay ngay trong mổ với các thương tổn đặc thù như đã nêu trên. Trong nghiên cứu này, chỉ khoảng 40% số trường hợp của chúng tôi được chẩn đáon đúng nguyên nhân gây hở trước mổ. Các tác giả nước ngoài khác không nêu rõ tỉ lệ chẩn đoán đúng nguyên nhân hở van trước mổ nhưng đưa ra một số dấu chứng siêu âm đặc thù giúp gợi ý chẩn đoán(1,4,5,9). Hiện nay việc chẩn đoán dạng tổn thương van hai lá sẽ dễ dàng và đầy đủ hơn nếu Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học 85 sử dụng siêu âm qua ngã thực quản kết hợp với siêu âm 3D. Sửa van hay thay van: tạo hình van luôn luôn là chọn lựa ưu tiên cho đại đa số trường hợp đặc biệt là ở trẻ em nhỏ. Quan diểm này gần như đã được thống nhất mặc dù có rất nhiều kỹ thuật tạo hình van khác nhau được áp dụng với kết quả rất khác nhau. Nhiều tác giả chấp nhận một mức độ hở van tồn lưu trung bình và sau đó tiếp tục mổ lại cho bệnh nhi với mục tiêu là đợi cho bệnh nhi đủ lớn để có thể thay được một van nhân tạo với kích cỡ phù hợp (từ 23-25 mm trở lên)(2,8,11,13,17). Có nên đặt vòng van nhân tạo ở trẻ em hay không ? Có thể tạo hình vòng van đã bị dãn hay đã biến dạng của bệnh nhi bằng nhiều kỹ thuật khác nhau. Tuỳ vào lứa tuổi lúc được mổ hay độ dãn của vòng van, độ lớn của trái thất và còn tuỳ thuộc vào chọn lựa của bác sĩ phẫu thuật sẽ có nhiều phương pháp để tạo hình vòng van khác nhau như chỉ tạo hình vùng hai mép van(13), tạo hình thu nhỏ vùng vòng van sau bằng 1 dãi Teflon(13,16) hoặc dải màng ngoài tim tự thân , tạo hình toàn bộ bằng vòng van nhân tạo(2,6,17) hoặc bằng vòng van sinh học tự tiêu của Kalangos(3) mục tiêu lớn nhất của việc đặt vòng van là giảm thiểu mức độ hở van tồn lưu sau mổ cũng như kéo dài tính ổn định của phẫu thuật tạo hình van. Nghiên cứu của Chauvaud và Opido cho thấy tỉ lệ mổ lại ở BN có đặt vòng van lần lượt là 11,4% và 0% trong khi tỉ lệ mổ lại ở BN không đặt vòng van lần lược là 40% và 27%. Nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ mổ lại trên bệnh nhân BN có và không đặt vòng van nhân tạo lần lượt là 2,7% và 21% (p< 0,001). Các số liệu này chứng minh vai trò quan trọng của vòng van nhân tạo trong phẫu thuật tạo hình van hai lá. Tuy nhiên, khi trẻ lớn lên vòng van nhân tạo không tiêu sẽ là vật cản và là tác nhân gây hẹp van 2 lá thư phát . Vấn đề này chỉ thậ t sự nghei6m trọng khi phải đặt 1 vòng van nhân tạo khá nhỏ cỡ 16-18 mm cho bệnh nhi nhỏ cân. Với kích cỡ này khi phải mổ lại để thay van nhân tạo thì khó mà có thể đặt được cỡ van lớn. Trong nhóm BN nghiên cứu của chúng tôi, 3 BN được mổ lại với vòng van nhân tạo được đặt trước đó lần lượt là 18, 20, 20 khi mổ lại cả ba BN này đều được lấy bỏ vòng van nhân tạo và mô xơ xâm lấn, tách dây chằng và tạo hình vòng van sau bằng một dải màng ngoài tim gấp đôi. Thực tế khi lấy bỏ vòng van nhân tạo cũ và mô xơ xâm lấn, chúng tôi thấy vòng van của BN vẫn dãn ra và mô van vẫn còn mềm đặc biệt là lá van trước. Chính điều này khích lệ việc tạo hình van lần nữa với mục đích chờ bệnh nhi lớn lên. Cả ba BN này đều có hở van 2 lá mức độ ¼ sau mổ 1 năm. KẾT LUẬN Chẩn đoán hở van hai lá bẩm sinh trước mổ thường không dễ dàng. Đối với người có nhiều kinh nghiệm thường tìm các dấu hiệu đặc trưng và phối hợp với phương pháp loại trừ. Cho đến nay, phẫu thuật tạo hình bảo tồn van là chọn lựa tối ưu cho đa số trường hợp đặc biệt ở trẻ nhũ nhi . Trong các trường hợp phức tạp, việc phẫu thuật lại để tái tạo hình tạo hình van có thể thực hiện nhằm chờ bệnh nhi đủ lớn để có thể thay van nhân tạo. Phẫu thuật tạo hình van hai lá theo phương pháp Carpentier cho kết quả rất tốt về dài hạn với tỉ lệ tử vong muộn và tỉ lệ mổ lại thấp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Abadir S, Fouilloux V, Metras D, Ghez O, Kreitmann B and Fraisse A (2009). Isolated Cleft of the Mitral Valve: Distinctive Features and Surgical Management . Ann Thorac Surg,88: pp 839-843. 2. Chauvaud S, Fuzellier JF, Houel R, Berrebi A, Mihaileanu S (1998). Reconstructive surgery in congenital mitral valve insufficiency (Carpentier’s techniques): Long-term results. J Thorac Cardiovasc Surg,115: pp 84-93. 3. Cikirikcioglu M, Pektok E, O Myers P, Christenson JT, Kalangos A (2008).Pediatric mitral valve repair with the novel annuloplasty ring : KALANGOS-BIORING®.Asian Cardiovasc Thorac Ann, 16:pp 515-516. 4. Creech O, Ledbetter MK, Reemtsma K (1962). Congenital Mitral Insufficiency with Cleft Posterior Leaflet. Circulation, 25; pp 390-394. 5. Federici D, Palmerini E, Lisi M, Centola L, Chiavarelli M and Mondillo S (2010). Congenital Mitral Disease: Anomalous Mitral Arcade in a Young Man. Ann Thorac Surg, 89: pp 629-631. 6. Fuzellier JF, Chauvaud SM, Fornes P, Berrebi AJ, Lajos PS, Bruneval P and Carpentier AF (1998). Surgical management of mitral regurgitation associated with Marfan’s syndrome Ann Thorac Surg, 66:pp 68-72. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 6 * 2014 86 7. Kanter KR, Forbess JM and Kirshbom PM (2005). Redo Mitral Valve Replacement in Children. Ann Thorac Surg, 80: pp 642- 646 . 8. Lee C, Lee CH, Kwak JG, Park CS, Kim SJ, Song JY and Shim WS (2010). Long-term results after mitral valve repair in children. Eur J Cardiothorac Surg,37:pp 267-272. 9. Lorussoa R, Borghettia V, Totaroa P, Parrinellob G, Colettia G, Minzioni G (2001). The double-orifice technique for mitral valve reconstruction :predictors of postoperative outcome. Eur J Cardio-thorac Surg, 20: pp 583-589. 10. Maisano F, Redaelli A, Pennati G, Fumero R, Torracca L and Alfieri O (1999). The hemodynamic effects of double-orifice valve repair for mitral regurgitation: a 3D computational model. Eur J Cardio-thorac Surg, 15:pp 419-425. 11. McCarthy JF, Neligan MC, Wood AE (1996). Ten year experience of an aggressive reparative approach to congenital mitral valve anormalies. Eur J Cardiothorac Surg,10:pp 534-539. 12. Minami K, Kado H, Sai S, Tatewaki H, Shiokawa Y, Nakashima A, Fukae K, Hirose H. (2005). Midterm results of mitral valve repair with artificial chordae in children. J Thorac Cardiovasc Surg,129:pp 336-42. 13. Ohno H, Imai Y, Terada M, and Hiramatsu T (1999). The Long- Term Results of Commissure Plication Annuloplasty for Congenital Mitral Insufficiency.Ann Thorac Surg, 68:pp 537– 41. 14. Opido G, Davies B, McMullan M, Cochrane AD et al (2008). Surgical treatment of congenital mitral valve disease:midterm results of a repair-oriented policy.J Thorac Cardiovasc Surg, 135:pp 1313-21 15. Prifti E, Vanini V, Bonacchi M, Frati G, Bernabei M, Giunti G, et al (2002). Repair of Congenital Malformations of the Mitral Valve: Early and Midterm Results. Ann Thorac Surg, 73:pp 614 –21. 16. Wood AE, Healy DG, Nolke L, Duff D, Oslizlok P and Walsh K (2005). Mitral valve reconstruction in a pediatric population: Late clinical results and predictors of long-term outcome. J Thorac Cardiovasc Surg,130: pp 66-73. 17. Zegdi R, Amahzoune B, Ladjali M, Sleilaty G, Jouan J, Latremouille C, Deloche A and Fabiani JN (2008). Congenital mitral valve regurgitation in adult patients. A rare, often misdiagnosed but repairable valve disease. Eur J Cardiothorac Surg, 34:pp 751-754 . Ngày nhận bài báo 09-09-2014. Ngày phản biện đánh giá bài báo 05-10-2014. Ngày bài báo được đăng: 14-11-2014.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdieu_tri_phau_thuat_benh_ho_van_hai_la_bam_sinh_don_thuan.pdf
Tài liệu liên quan