Định hướng chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2011 - 2020

Phát triển nông nghiệp - nông thôn đóng vai trò chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế xã hội, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc phòng, phát huy .

doc28 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2010 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Định hướng chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2011 - 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN GIAI ĐOẠN 2011 - 2020 1. Quan điểm Phát triển nông nghiệp - nông thôn đóng vai trò chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế xã hội, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc phòng, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái đất nước. Các vấn đề phát triển nông nghiệp nông thôn phải giải quyết đồng bộ gắn với công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản. Phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt. Phát triển nông nghiệp, nông thôn phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, trước hết là lao động, đất đai, rừng và biển; khai thác tốt các điều kiện thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế; phát huy cao nội lực, đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà nước và xã hội; ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông dân. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; trước hết, phải khơi dậy tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực tự cường vươn lên của nông dân. Xây dựng xã hội nông thôn ổn định, hoà thuận, dân chủ, có đời sống văn hoá phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân. Phát triển phải vững bền cả về tự nhiên và xã hội. Đảm bảo môi trường sản xuất nông nghiệp và nông thôn trong sạch; thực phẩm vệ sinh; tài nguyên sinh học đa dạng; giảm thiểu rủi ro do bệnh tật, thiên tai và quá trình biến đổi khí hậu gây ra; thu hẹp khoảng cách về cơ hội phát triển giữa đô thị và nông thôn, giữa các nhóm cư dân nông thôn; hỗ trợ người nghèo, những nhóm đối tượng khó khăn trong quá trình phát triển. 2. Mục tiêu Mục tiêu tổng quát Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới. Mục tiêu cụ thể đến năm 2020 Giai đoạn 2011-2015: phục hồi tăng trưởng, tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp; phát huy dân chủ cơ sở, huy động sức mạnh cộng đồng để phát triển nông thôn; tăng thu nhập và giảm đáng kể tỷ lệ nghèo, bảo vệ môi trường Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp ổn định 3,3-3,8%. Tạo chuyển biến rõ rệt về mở rộng quy mô sản xuất bình quân của hộ và ứng dụng khoa học công nghệ. Tạo bước đột phá trong đào tạo nhân lực. Nâng cao cả kiến thức, kỹ năng sản xuất kinh doanh nông lâm ngư nghiệp và phi nông nghiệp cho lao động nông thôn. Tạo chuyển biến rõ rệt phát triển kinh tế hợp tác, hiệp hội, phát triển liên kết dọc theo ngành hàng, kết nối giữa sản xuất - chế biến - kinh doanh. Phát triển doanh nghiệp nông thôn. Hình thành kết cấu hạ tầng căn bản phục vụ hiệu quả sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn. Cải thiện căn bản môi trường và sinh thái nông thôn tập trung vào đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống dịch bệnh cho cây trồng và vật nuôi, phòng chống thiên tai. Cộng đồng cư dân nông thôn chủ động, tích cực thực hiện xây dựng nông thôn mới. 20% số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới. Giảm đáng kể tỷ lệ nghèo, đặc biệt ở các huyện còn trên 50% hộ nghèo. Giai đoạn 2016-2020: phát triển nông nghiệp theo hướng toàn diện, hiện đại, sản xuất hàng hóa lớn, vững bền; phát triển nông thôn gắn với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đất nước, tăng thu nhập và cải thiện căn bản điều kiện sống của cư dân nông thôn, bảo vệ môi trường Đảm bảo duy trì tốc độ tăng trưởng nông nghiệp ở mức bình quân 3,5-4%/năm. Hình thành một số ngành sản xuất kinh doanh mũi nhọn của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn chuyển đổi theo nhu cầu thị trường. Phát triển chăn nuôi, thủy sản và lâm nghiệp. Công nghiệp, dịch vụ và kinh tế đô thị phối hợp hiệu quả với sản xuất và kinh doanh nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn. Chuyển phần lớn lao động nông thôn ra khỏi nông nghiệp, lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội. Hình thành đội ngũ nông dân chuyên nghiệp, có kỹ năng sản xuất và quản lý, gắn kết trong các loại hình kinh tế hợp tác và kết nối với thị trường. Phong trào xây dựng nông thôn mới phát triển mạnh với ít nhất 50% số xã đạt tiêu chuẩn. Nâng cao thu nhập của cư dân nông thôn lên 2,5 lần so với hiện nay. Quy hoạch dân cư, quy hoạch lãnh thổ nông thôn gắn với phát triển đô thị, công nghiệp. Phát triển lâm nghiệp tăng độ che phủ của rừng lên 43- 45%, bảo vệ đa dạng sinh học, đảm bảo đánh bắt thủy sản nội địa và gần bờ trong khả năng tái tạo và phát triển, khắc phục tình trạng ô nhiễm trong sản xuất nông nghiệp, khắc phục và giảm thiểu thiệt hại thiên tai, dịch bệnh và các tác động xấu của biến đổi khí hậu. 3. Định hướng chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn 3.1. Định hướng chiến lược phát triển nông nghiệp Định hướng chiến lược cho các ngành sản xuất chính Sản xuất kinh doanh nông nghiệp phát triển hiệu quả và bền vững theo hướng phát huy lợi thế so sánh, tăng năng suất, tăng chất lượng, tăng giá trị gia tăng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh lương thực, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân. Duy trì tốc độ tăng trưởng của ngành trồng trọt khoảng từ 2,5 - 3%/năm, trong đó giai đoạn 2011 - 2015 là khoảng 2,7%/năm và giai đoạn 2016 - 2020 là khoảng 2,6%/năm bằng các giải pháp tăng năng suất, tăng chất lượng, giảm giá thành, điều chỉnh cơ cấu phù hợp xu hướng biến đổi nhu cầu tiêu dùng theo mức tăng thu nhập của nhân dân (giảm tỷ lệ tiêu thụ lương thực, tăng rau hoa quả, tăng nông sản tiêu dùng từ cây công nghiệp, tăng cây trồng làm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, cây trồng làm nhiên liệu sinh học, nguyên liệu công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, dược liệu...), duy trì quy mô sản xuất lương thực hợp lý, đảm bảo nhu cầu an ninh lương thực cho mức dân số ổn định tương lai. Tập trung phát triển các cây trồng nhiệt đới mà Việt Nam có lợi thế và thị trường thế giới phát triển trong tương lai có nhu cầu (lúa, cà phê, cao su, điều, tiêu, chè, rau hoa quả nhiệt đới,…), giảm thiểu những cây trồng kém lợi thế, chấp nhận nhập khẩu với quy mô hợp lý phục vụ chế biến và nhu cầu tiêu dùng trong nước (bông, thuốc lá, rau hoa quả ôn đới, đỗ tương…). Phát triển chăn nuôi theo lợi thế của từng vùng sinh thái nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước theo hướng sản xuất tập trung công nghiệp, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống dịch bệnh và bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh mức tăng trưởng của ngành chăn nuôi đạt khoảng 6 - 7% trong giai đoạn 2011 - 2015 và khoảng 5 - 6% trong giai đoạn 2016 - 2020 đáp ứng nhu cầu trong nước với mức thu nhập ngày càng tăng (tăng thịt đỏ, tăng gia cầm, tăng trứng sữa, tăng sản phẩm đặc sản,…), theo hướng phát triển sản xuất thâm canh công nghiệp quy mô lớn, tăng nhanh hiệu quả sản xuất, giảm giá thành thức ăn chăn nuôi phòng chống dịch bệnh gia súc, gia cầm, làm tốt công tác vệ sinh an toàn và kiểm dịch động vật. Tập trung phát triển những ngành hàng có lợi thế ở từng địa phương. Xác định rõ quy mô tự túc tối ưu và mức độ nhập khẩu cần thiết những sản phẩm mà nước ngoài có lợi thế hơn (sữa, bò, gà, sản phẩm chăn nuôi ôn đới,…) để tập trung đầu tư và phát triển công nghiệp chế biến. Tạo bước phát triển đột phá, tăng tỷ trọng của ngành thủy sản trong cơ cấu ngành. Tập trung phát triển nuôi trồng, nhất là nuôi thủy sản nước lợ và sau đó là nước ngọt, mở rộng nuôi trồng trên biển theo hướng đầu tư thâm canh tăng năng suất, tăng hiệu quả, đảm bảo vệ sinh an toàn và duy trì cân bằng sinh thái môi trường. Chuyển sang đánh bắt biển xa theo hướng khai thác bền vững, kết hợp kinh tế - quốc phòng. Tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành Thủy sản đạt khoảng 10,5%/năm trong giai đoạn 2011 - 2015 và 11-12%/năm giai đoạn 2016 - 2020. Đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản trên biển và hải đảo bằng các loài hải sản có giá trị thương mại cao (cá biển, tôm hùm, bào ngư,…), phát triển nuôi trồng thủy sản nước ngọt với đối tượng nuôi chính là cá tra, rô phi đơn tính, tôm càng xanh; nuôi trồng thủy sản nước lợ chủ yếu là tôm sú và tôm chân trắng. Phát triển khai thác hải sản xa bờ, viễn dương, xây dựng đội tàu hiện đại đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, kết hợp đánh bắt với du lịch, quốc phòng, phát triển kinh tế xã hội tại các vùng ven biển, hải đảo… bảo vệ nguồn lợi tự nhiên và cân bằng sinh thái môi trường. Tổ chức lại hệ thống nhà máy chế biến đạt trình độ công nghệ tương đương các nước phát triển, theo hướng đảm bảo vệ sinh an toàn, đa dạng hóa sản phẩm, tăng giá trị gia tăng, gắn với vùng sản xuất nguyên liệu tập trung. Ổn định cơ cấu rừng sản xuất, phòng hộ và đặc dụng. Quản lý, sử dụng bền vững diện tích rừng tự nhiên là rừng sản xuất hiện có, thay thế các diện tích kém hiệu quả bằng rừng trồng có năng suất cao, tạo vùng nguyên liệu tập trung chuyên canh có quy mô vừa và lớn, đáp ứng tiêu chí vững bền, cung cấp phần quan trọng nguyên liệu gỗ cho công nghiệp chế biến và nhu cầu của ngành tiểu thủ công nghiệp, đưa lâm nghiệp thực sự trở thành ngành kinh tế có hiệu quả cao. Cải thiện tốc độ phát triển và mở rộng tỷ trọng của ngành lâm nghiệp trong tăng trưởng ngành, phấn đấu đến năm 2020 tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt khoảng 3,5 - 4%, tỷ trọng GDP lâm nghiệp trong tổng GDP đạt khoảng 2 - 3%; từng bước tạo ra thu nhập từ rừng cho các đối tượng trồng và bảo vệ rừng. Tập trung ưu tiên phát triển sản xuất lâm sản ngoài gỗ. Phát triển trồng cây phân tán phục vụ nhu cầu đa dạng ngày càng tăng. Đầu tư phát triển rừng phòng hộ trên địa bàn đầu nguồn, nhạy cảm môi trường ở miền núi phía Bắc, miền Trung, ở các vùng ven biển. Củng cố, phát triển hệ thống rừng đặc dụng, bảo tồn nguyên trạng đa dạng sinh học, phát triển hệ sinh thái đáp ứng mục tiêu hàng đầu về môi trường và thực hiện các nhiệm vụ phối hợp như du lịch, nghiên cứu. Trồng trọt Phát triển sản xuất lúa gạo Việt Nam trở thành mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn có hiệu quả và đảm bảo an ninh lương thực Trên cơ sở tính toán cân đối giữa nhu cầu tương lai của đất nước và dự báo nhu cầu chung của thế giới nhằm đảm bảo tuyệt đối an ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống, đảm bảo quyền lợi hợp lý của người sản xuất và kinh doanh lúa gạo và xuất khẩu có lợi nhuận cao, đảm bảo sản lượng lúa đến năm 2020 đạt hơn 41 triệu tấn lúa trên diện tích canh tác 3,7 triệu ha. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng sản xuất có lợi thế nhất về lúa gạo cần ưu tiên đầu tư phát triển sản xuất lúa hàng hóa quy mô lớn. Hình thành hệ thống các trang trại sản xuất lúa, tạo nên vùng chuyên canh sản xuất lúa nguyên liệu phục vụ các trung tâm chế biến lớn ở Tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười, Bán đảo Cà Mau… Xác định diện tích có khả năng thích nghi cao nhất với sản xuất lúa, quy hoạch cố định để chuyên canh lúa đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Áp dụng hệ thống chính sách bù đắp thu nhập cho vùng này nhằm hoàn toàn đảm bảo nhu cầu trong nước (ở Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng). Những khu vực có khả năng thích nghi cao, ngoài diện tích tối thiểu cần duy trì cho an ninh lương thực, được ưu tiên xây dựng thành vùng chuyên canh phục vụ xuất khẩu. Cố định quy hoạch cho vùng chuyên canh nhưng quy mô sản xuất hàng năm có thể thay đổi tùy thuộc vào hiệu quả sản xuất lúa trên thị trường nhằm sản xuất lượng gạo xuất khẩu từ 3,5 đến 4,5 triệu tấn/năm. Người sản xuất tại các vùng này được hỗ trợ để chủ động áp dụng các giải pháp thay thế hệ thống canh tác (mà không làm biến đổi lớn đến cơ sở hạ tầng và tính chất đất lúa) khi thị trường lúa thu hẹp như nuôi trồng thủy sản, luân canh với cây trồng khác, hoặc tăng vụ khi thị trường lúa gạo mở rộng. Giống lúa và biện pháp canh tác phải đáp ứng nhu cầu trong nước và các thị trường xuất khẩu chính. Đảm bảo nâng cao chất lượng và hạ giá thành để tạo sức cạnh tranh. Ưu tiên xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất lúa tại các vùng chuyên canh: hệ thống phơi sấy, xay xát có đủ công suất chế biến và kho tàng dự trữ lúa gạo đủ lớn để tạm trữ phục vụ kinh doanh, sàn giao dịch lúa gạo cho vùng, hệ thống cung cấp giống và các dịch vụ phục vụ sản xuất, kiên cố hóa hệ thống kênh mương thủy lợi, đảm bảo tưới tiêu chủ động. Phát triển Viện lúa Đồng bằng sông Cửu Long thành Viện Nghiên cứu lúa gạo Việt Nam. Nâng cấp cảng Cái Lân (Cần Thơ) để vận chuyển lúa trực tiếp ra tàu biển. Quy hoạch các vùng chuyên canh phục vụ nhu cầu trong nước tại các vùng sản xuất có lợi thế so sánh cao về trồng lúa nhưng mật độ dân số cao hơn, quy mô sản xuất nhỏ hơn ở Đồng bằng sông Hồng, Duyên hải miền Trung. Giống và giải pháp kỹ thuật hướng vào đảm bảo chất lượng cao, phù hợp thị hiếu của người Việt Nam. Ưu tiên khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư sản xuất lúa ưu thế lai trong nước có chất lượng cao và giá thành hạ với hệ thống phân phối lúa giống thương phẩm ổn định đến người sản xuất. Phát triển hệ thống phân phối lưu thông để ưu tiên phục vụ thị trường trong nước. Cải tiến công tác dự báo giám sát, điều hành thị trường và tổ chức xuất khẩu lúa gạo theo hướng phát huy cơ chế thị trường. Xây dựng thương hiệu mũi nhọn và thị trường chiến lược cho lúa gạo Việt Nam. Gắn nhà máy chế biến với các vùng chuyên canh lúa, phát triển cơ sở hạ tầng, dịch vụ phục vụ sản xuất, các hình thức tổ chức sản xuất, xúc tiến thương mại, quản lý thị trường để đảm bảo phát triển sản xuất với quy mô và công nghệ hợp lý nhất. Phát triển cây trồng hàng hóa có khả năng cạnh tranh mạnh, hiệu quả cao phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu Dựa trên cơ sở cân đối cung cầu, phát huy lợi thế của địa phương, tập trung xây dựng các chương trình phát triển ngành hàng mũi nhọn của Việt Nam với các thương hiệu quốc gia cho các cây trồng Việt Nam hiện đang có lợi thế so sánh và thị trường có nhu cầu (cà phê, hạt điều, hạt tiêu, cao su, rau, chè...) và những mặt hàng có lợi thế tiềm năng (cây ăn quả, cây dược liệu,…). Có cơ chế tài chính để hình thành quỹ triển khai các chương trình phát triển ngành hàng mũi nhọn của Việt Nam cho các đối tượng thuộc các thành phần kinh tế khác nhau tham gia chương trình. Hình thành hệ thống giám sát cung và chính sách điều tiết để duy trì sản lượng trong phạm vi cân đối với thị trường trong và ngoài nước (cà phê với sản lượng 1,1 triệu tấn, cao su đạt sản lượng mủ 1,5 triệu tấn, hồ tiêu đạt sản lượng 120 ngàn tấn, điều 600 ngàn tấn, chè búp tươi 1 triệu tấn, cây ăn quả 12 triệu tấn…). Xây dựng một số vùng chuyên canh với các trang trại và doanh nghiệp sản xuất tập trung quy mô lớn gắn với nhà máy chế biến và hệ thống cơ sở hạ tầng, dịch vụ tiếp thị (kho tàng, bến bãi, cầu cảng,...). Xây dựng và tăng cường đầu tư phát triển các viện, trung tâm nghiên cứu khoa học công nghệ cho các ngành hàng mũi nhọn (cà phê, hạt điều, cao su, hạt tiêu,…), thống nhất áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật của các thị trường quốc tế chính, có chính sách thu hút đầu tư phát triển công nghiệp chế biến cho các ngành hàng này. Nghiên cứu những vấn đề phải giải quyết để mở rộng thị trường (thị hiếu, chính sách bảo hộ, tiêu chuẩn kỹ thuật, kênh phân phối, đối thủ cạnh tranh), xây dựng chương trình xúc tiến thương mại và phát triển thị trường, phối hợp giữa nhà nước và các thành phần kinh tế (thông tin thị trường, triển lãm, hội thảo, quảng cáo, xây dựng thương hiệu,…) tạo ra mũi nhọn xuất khẩu chiến lược của Việt Nam trên thị trường thế giới có hiệu quả kinh tế và uy tín cao. Hình thành hệ thống sàn giao dịch nông sản để kết nối trực tiếp các vùng chuyên canh nông sản xuất khẩu của Việt Nam với hoạt động thương mại tại các thị trường quốc tế chính. Đối với cây ăn quả, rau, hoa, tiến hành nghiên cứu tiếp thu khoa học công nghệ để hình thành tập đoàn giống và hệ thống biện pháp kỹ thuật để tạo bước đột phá mở rộng sản xuất các loại cây ăn quả đặc sản của Việt Nam và một số giống tốt của quốc tế, nâng sản lượng rau lên 15 triệu tấn vào năm 2015 và 18 triệu tấn vào năm 2020; sản lượng quả đạt vào năm 2015 và 12 triệu tấn vào năm 2020. Áp dụng các quy trình sản xuất đảm bảo vệ sinh an toàn, áp dụng tiêu chuẩn giám sát xuất xứ sản xuất. Tổ chức chế biến, xây dựng hệ thống tiếp thị hiệu quả để phát triển mạnh thị trường cây ăn quả, rau, hoa trong nước và phục vụ xuất khẩu, phấn đấu đạt sản lượng xuất khẩu rau từ 200 - 300 ngàn tấn/năm trong giai đoạn 2010 - 2015 và 350 - 400 ngàn tấn/năm trong giai đoạn 2016 - 2020; sản lượng xuất khẩu quả các loại từ 400 - 500 ngàn tấn/năm trong giai đoạn 2010 - 2015 và từ 600 - 800 ngàn tấn/năm trong giai đoạn 2016 - 2020. Trên cơ sở quy hoạch cân đối lại diện tích, chuyển những vùng sản xuất lúa kém hiệu quả ở các vùng Đồng bằng sông Hồng, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long sang phát triển các cây trồng có giá trị cao như rau hoa quả, cây cảnh, cây dược liệu. Hình thành hệ thống chợ bán buôn, bán đấu giá, các kênh tiếp thị hiệu quả để gắn kết sản xuất với thị trường. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ tiếp thị, nhất là giao thông vận tải để giảm chi phí giao dịch đến mức thấp nhất. Phát triển hợp lý các loại cây trồng có lợi thế cạnh tranh trung bình hoặc thấp, thay thế nhập khẩu Trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế hợp lý, xác định địa bàn và quy mô sản xuất tối ưu cho những mặt hàng này. Ví dụ, mía đường đạt sản lượng 25 triệu tấn mía cây, lạc 1 triệu tấn, duy trì sản lượng tối đa hơn 6,5 triệu tấn ngô hạt năm 2015 và 7,2 triệu tấn năm 2020, đậu tương 740 ngàn tấn năm 2015 và gần 1,1 triệu tấn năm 2020,... Với bông, thuốc lá, có thể phát triển ở những vùng có điều kiện thuận lợi nhất với quy mô hợp lý. Việc phát triển các cây trồng thay thế nhập khẩu phải trên cơ sở phân tích mức độ thích nghi sinh học, xác định rõ những nơi có điều kiện thuận lợi nhất có thể sản xuất các cây trồng trên với mức độ cạnh tranh được với thị trường quốc tế nhằm chủ động tự túc một phần nguyên liệu cho sản xuất và công nghiệp chế biến. Ngoài phạm vi tự cân đối trên, kiên quyết áp dụng cơ chế thị trường trong hoàn cảnh hội nhập kinh tế quốc tế để nhập khẩu nguyên liệu phục vụ sản xuất thức ăn chăn nuôi với giá thấp nhất, hoặc chủ động tổ chức đầu tư sản xuất nông nghiệp ra nước ngoài những mặt hàng Việt Nam không có lợi thế. Đối với cây trồng áp dụng công nghệ biến đổi gen, tiến hành thử nghiệm và chuyển đổi cơ cấu sản xuất ở những nơi thích hợp, trước hết áp dụng với cây trồng không trực tiếp sử dụng làm thực phẩm cho người như cây có sợi, cây lấy dầu công nghiệp, cây trồng làm nguyên liệu thức ăn gia súc mà thế giới đã áp dụng rộng rãi. Đối với những cây trồng mới trong tương lai mà thị trường có nhu cầu như cây trồng làm nguyên liệu sản xuất nhiên liệu sinh học (chú trọng diesel sinh học), cây trồng làm vật liệu xây dựng, làm giấy, gỗ và lâm sản, cây dược liệu... cần tiến hành trồng khảo nghiệm và sản xuất thử. Nếu có triển vọng thì mở rộng sản xuất hướng vào những vùng kém thích nghi với các cây trồng cổ truyền hiện nay (các vùng đất trống đồi núi trọc, vùng ven biển, vùng khô hạn,…). Trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế hợp lý, quy hoạch diện tích đất thích hợp ở một số vùng chuyên canh địa phương để tổ chức sản xuất một số loại cây thay thế nhập khẩu như ngô, đỗ tương, bông, thuốc lá, dầu ăn,... Chăn nuôi Đáp ứng nhu cầu nội địa ngày càng tăng, phát triển chăn nuôi lợn và gia cầm chất lượng cao, phẩm chất tốt, phấn đấu tổng đàn lợn cả nước đạt khoảng 33 triệu con vào năm 2015 và 35 triệu con năm 2020 với sản lượng thịt hơi đạt 3,9 triệu tấn năm 2015 và gần 5 triệu tấn năm 2020; đàn gà có khoảng hơn 252 triệu con vào năm 2015 và 306 triệu con năm 2020 với sản lượng thịt và trứng đạt khoảng 0,8 triệu tấn và 9,1 tỷ quả trứng vào năm 2015, hơn 1,1 triệu tấn và gần 14 tỷ quả trứng năm 2020; đàn trâu đạt gần 3 triệu con, đàn bò gần 13 triệu con năm 2020, trong đó bò sữa khoảng nửa triệu con. Phấn đấu đến năm 2020 sản lượng thịt có thể đáp ứng đủ nhu cầu trong nước. Ở các vùng Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ đẩy mạnh chăn nuôi lợn, gà theo hình thức trang trại công nghiệp, gia trại tập trung, ở Đồng bằng sông Cửu Long, phát triển chăn nuôi vịt, chuyển từ hình thức nuôi vịt chạy đồng quảng canh sang tập trung thâm canh. Phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ (trâu, bò thịt, bò sữa ở Trung du miền núi và Tây Nguyên, dê ở miền núi phía Bắc và miền Trung, cừu ở miền Trung) có chất lượng cao, đáp ứng một phần nhu cầu trong nước. Trên cơ sở tính toán cân đối, hợp lý giữa khả năng tự túc và hiệu quả của nhập khẩu, ở các vùng có điều kiện chăn thả hoặc phát triển đồng cỏ áp dụng các biện pháp thâm canh và bán thâm canh để hình thành các khu chuyên chăn nuôi gia súc ăn cỏ với quy mô trang trại lớn. Trong hoàn cảnh diễn biến dịch bệnh gia súc gia cầm ngày càng phức tạp, phải quy hoạch tách các khu vực chăn nuôi tập trung khỏi khu dân cư, gắn giữa vùng nguyên liệu với nhà máy chế biến với hệ thống giết mổ, chế biến gia súc gia cầm vệ sinh. Khuyến khích phát triển phương thức giết mổ, chế biến công nghiệp. Tăng cường năng lực, hình thành hệ thống dịch vụ thú y, kiểm soát dịch bệnh, nhất là cấp cơ sở. Tập trung lực lượng đảm bảo công tác kiểm dịch tại các cửa khẩu và cửa ngõ các thị trường quan trọng, đảm bảo an toàn sinh học và vệ sinh an toàn thực phẩm. Xây dựng các vùng an toàn trong mọi tình huống dịch bệnh. Để tạo chuyển biến rõ rệt về sức cạnh tranh của ngành chăn nuôi, phải tạo ra thay đổi lớn trong ngành công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi. Phát triển chế biến thức ăn chăn nuôi theo hướng quy mô lớn, chất lượng cao, giá thành hạ, nâng tỷ lệ sử dụng thức ăn chăn nuôi công nghiệp lên hơn 67% (khoảng 16,3 triệu tấn) vào năm 2015 và hơn 70% (khoảng 19,2 triệu tấn) vào năm 2020. Trên cơ sở nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, xây dựng hệ thống văn bản pháp lý phù hợp với các quy định quốc tế, tiến hành thử nghiệm, nhân rộng các mô hình để lựa chọn áp dụng việc thuần hóa tổ chức sản xuất trên quy mô rộng một số động vật hoang dã có nhu cầu trên thị trường và có khả năng nhân giống nhân tạo (trước hết là những loài đã có thị trường và được phép nuôi như hươu nai, cá sấu, trăn, rắn, rùa...). Phát triển các ngành chế biến thuốc, thuộc da, lông, dịch vụ du lịch để tăng giá trị của hàng hóa. Thủy sản Nuôi trồng thủy sản Phát huy lợi thế của ngành, đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản trở thành hướng đi đầu trong chuyển đổi cơ cấu trên cơ sở thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư, hình thành các mô hình tổ chức trang trại, sản xuất tập thể, doanh nghiệp và liên kết, liên doanh đầu tư nước ngoài kết hợp với mô hình quản lý dựa vào cộng đồng. Hình thành các tổ chức hiệp hội ngành hàng để kết nối, chia sẻ lợi ích, chia sẻ rủi ro giữa người sản xuất nguyên liệu với các doanh nghiệp chế biến và kinh doanh. Đến năm 2020, tập trung đầu tư theo chiều sâu, đi lên từ phương thức quảng canh cải tiến, mở rộng qui mô bán thâm canh, thâm canh, giữ ổn định diện tích nuôi trồng thủy sản ở mức 1,1-1,2 triệu ha. Trong đó, nuôi trồng thủy sản nước ngọt 550.000 nghìn ha. Trong đó khoảng 12.000 ha nuôi thâm canh, công nghiệp (3-5% diện tích) với đối tượng nuôi chính là cá tra, rô phi đơn tính, tôm càng xanh); nuôi hải sản nước lợ: 600-650 nghìn ha. Trong đó 60.000 ha nuôi hải sản theo phương thức nuôi thâm canh, công nghiệp với hai đối tượng nuôi chính là tôm sú và tôm thẻ chân trắng (10-12%); Đẩy mạnh phát triển nuôi trồng hải sản trên biển, đảo từ với diện tích 60-70 nghìn ha tập trung (trong đó chủ yếu nuôi các loài hải sản có giá trị thương mại cao như cá biển, tôm hùm, bào ngư, tu hài,…). Phát triển các đối tượng nuôi chủ lực như cá tra, tôm sú, tôm chân trắng, nhuyễn thể phục vụ xuất khẩu. Bảo tồn và phát triển các giống loài thủy sản bản địa, đặc hữu có giá trị kinh tế cao. Đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản trên biển và hải đảo gắn liền với bảo vệ môi trường sinh thái, phối hợp sản xuất với du lịch, gắn kết hoạt động kinh tế và an ninh quốc phòng. Ở những vùng có lợi thế, quy hoạch rõ diện tích đất và mặt nước, xây dựng thành vùng chuyên canh nuôi trồng thủy sản, đầu tư đồng bộ hệ thống thủy lợi và cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi trồng thủy sản, áp dụng tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, đáp ứng các yêu cầu quốc tế về xuất xứ, nguồn gốc của xuất khẩu thủy sản. Gắn quy hoạch vùng nguyên liệu chuyên canh với các khu công nghiệp chế biến thủy hải sản, khôi phục và bảo tồn các làng nghề chế biến thủy sản đi đôi với bảo vệ môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm. Xây dựng cảng tập kết tàu đánh bắt, cảng trực tiếp xuất khẩu thủy sản từ những vùng đánh bắt và chuyên canh nuôi trồng tập trung. Đa dạng sự tham gia của các thành phần kinh tế vào hoạt động xúc tiến thương mại thủy sản. Hình thành hệ thống kênh phân phối sản phẩm thủy sản trong và ngoài nước; Đa dạng hóa các mặt hang thủy sản và mở rộng thị trường tiêu thụ nội địa, xuất khẩu. Hình thành các sàn giao dịch thủy sản ở các vùng nuôi trồng thủy sản tập trung có quy mô lớn. Tiến hành nghiên cứu thị trường, làm tốt công tác thông tin, dự báo để sản xuất cân đối với tiêu thụ, đáp ứng nhu cầu đa dạng ngày càng cao của thị trường. Áp dụng rộng rãi công nghệ sinh sản nhân tạo, di nhập các giống có năng suất cao, phù hợp điều kiện sinh thái và có thị trường. Xây dựng hệ thống thú y thủy sản, kiểm dịch, giám sát tình hình dịch bệnh thủy sản; đảm bảo chủ động về nguồn giống sạch bệnh, kiểm soát chặt chẽ chất lượng giống, thức ăn, môi trường nuôi gắn với cơ sở sản xuất nuôi trồng thủy sản, hiện đại hóa cơ sở chế biến và hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ tiếp thị đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Thu hút đầu tư trong và ngoài nước để phát triển công nghiệp chế biến thủy sản và xúc tiến thương mại hiện đại tương đương với trình độ công nghệ của các nước phát triển và trở thành một trong những ngành hàng xuất khẩu chủ lực, nâng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản lên khoảng 7 tỷ USD vào năm 2015 và gần 8,6 tỷ USD vào năm 2020. Thu hút lao động nông thôn vào công nghiệp chế biến thủy sản, phấn đấu đến năm 2020 sẽ tạo việc làm cho khoảng 5 triệu lao động. Khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản Hướng ngành khai thác hải sản ra xa bờ và viễn dương trên cơ sở xây dựng đội tàu hiện đại, kết hợp đánh bắt dài ngày và sơ chế theo tiêu chuẩn quốc tế, phát triển dịch vụ hậu cần trên biển đảo (nơi trú đậu tránh bão, cung cấp dịch vụ hậu cần, hệ thống thông tin liên lạc, xưởng sửa chữa, cầu cảng...), đẩy mạnh nghiên cứu điều tra nguồn lợi, dự báo ngư trường, phòng chống và cảnh báo thiên tai, cứu hộ cứu nạn, đảm bảo an toàn cho ngư dân hoạt động trên biển. So với hiện nay, cơ cấu sản lượng đánh bắt cá sẽ giảm khoảng 10% là cá tạp khai thác ven bờ, mực và tôm tăng 8 - 10%, hải sản khác tăng từ 10 - 12% sản lượng hải sản khai thác. Đến năm 2010 và 2015, ổn định sản lượng khai thác hải sản ở mức 2,2 triệu tấn. Trong đó, khai thác biển 2 triệu tấn, khai thác thủy sản nội địa 200.000 tấn. Đến năm 2020, hợp tác quốc tế, mở rộng hoạt động khai thác viễn dương đạt sản lượng khai thác 2,4-2,5 triệu tấn. Tập trung xây dựng cơ sở hậu cần nghề cá gồm cảng cá, bến cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tầu cá, cơ sở đóng sửa tầu thuyền, sản xuất ngư lưới cụ phục vụ đánh bắt, xây dựng các nhà máy chế biến hải sản và dịch vụ xuất khẩu trực tiếp gắn với phát triển kinh tế và quốc phòng trên các đảo xa, từng bước xây dựng các khu đô thị nghề cá ven biển và hải đảo. Xây dựng và đưa vào hoạt động hệ thống khu bảo tồn biển và bảo tồn thủy sản nội địa kết hợp với các mô hình quản lý có sự tham gia của cộng đồng. Xây dựng lực lượng kiểm ngư mạnh để kết hợp bảo vệ nguồn lợi với bảo vệ ngư dân và an ninh quốc phòng. Chấm dứt hoàn toàn việc sử dụng chất nổ, chất độc, xung điện khai thác hải sản và các nghề khai thác mang tính hủy diệt nguồn lợi thủy sản. Quản lý chặt nguồn lợi thủy sản để giảm thiểu, khống chế mức độ đánh bắt ven bờ, nội địa trong phạm vi đảm bảo bền vững và tái tạo nguồn lợi, gắn với hoạt động du lịch.. Quy hoạch và quản lý một số vùng cấm khai thác, khai thác có giới hạn và khu bảo tồn biển, bảo tồn thủy sản tại các vùng nước nội địa, giảm số lượng tàu thuyền khai thác ven bờ phù hợp với khả năng khai thác cho phép tại các ngư trường. Tiến đến phục hồi và tái tạo nguồn lợi thủy sản. Khai thác nội địa ổn định ở mức 200.000 tấn. Hỗ trợ để chuyển phần lớn cư dân sống bằng đánh bắt ven bờ sang đánh bắt biển xa, nuôi trồng, chế biến thủy sản và các ngành nghề khác. Lâm nghiệp Phát triển 3 loại rừng theo quy hoạch hợp lý Sắp xếp, ổn định lại hệ thống 3 loại rừng bao gồm: 8,4 triệu ha rừng sản xuất, 5,68 triệu ha rừng phòng hộ và 2,16 ha rừng đặc dụng. Phát triển lâm nghiệp toàn diện từ quản lý, bảo vệ, trồng, cải tạo, làm giàu rừng đến khai thác, chế biến lâm sản, bảo vệ môi trường cho du lịch sinh thái. Có cơ chế, chính sách phù hợp, tạo điều kiện, khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia bảo vệ, phát triển rừng. Cho phép khai thác lợi ích kinh tế từ rừng sản xuất là rừng tự nhiên theo nguyên tắc bền vững, lấy nguồn thu từ rừng để bảo vệ, phát triển rừng và làm giàu từ rừng. Khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức, cá nhân trồng rừng thâm canh, hiện đại hoá công nghệ khai thác, chế biến nhằm nâng cao giá trị lâm sản, chú trọng phát triển lâm sản ngoài gỗ. Xây dựng các vùng rừng sản xuất nguyên liệu gỗ ở Tây Bắc (giấy, ván nhân tạo), Đông Bắc (giấy, dăm, trụ mỏ, đồ mộc), Bắc Trung Bộ (dăm giấy, nhựa thông, tre, mây), Nam Trung Bộ (ván nhân tạo, bột giấy), Đông Nam Bộ (nguyên liệu giấy), Đồng bằng sông Cửu Long (bột giấy, ván nhân tạo, đồ mộc). Nhà nước tập trung đầu tư phát triển rừng phòng hộ ở những vùng đầu nguồn nhạy cảm về môi trường tại Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ; rừng phòng hộ ven biển ở các vùng ven biển đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long nhằm đảm bảo duy trì cân bằng sinh thái, bảo vệ đất, môi trường nước và khí hậu, phòng chống thiên tai, hạn chế những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Củng cố và phát triển hệ thống rừng đặc dụng theo hướng bảo tồn nguyên trạng, tạo điều kiện tốt nhất để phát triển các hệ sinh thái đặc thù, bảo tồn qũy gen và bảo tồn giá trị đa dạng sinh học. Đổi mới phương thức quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng rừng Quy hoạch lâm phận quốc gia ổn định cho 16,24 triệu ha rừng và đất lâm nghiệp. Gắn chi phí đầu tư với hiệu quả kinh tế và giá trị môi trường, gắn và chia sẻ lợi ích giữa chủ rừng với cộng đồng. Xây dựng nhận thức bảo vệ rừng để bảo vệ hệ sinh thái, lấy phát triển rừng để bảo vệ. Phối hợp hoạt động bảo vệ giữa chủ rừng, cộng đồng dân cư, chính quyền địa phương, cơ quan quản lý nhà nước. Giao rừng và đất rừng cho đối tượng quản lý thuộc các thành phần kinh tế theo quy hoạch được phê duyệt. Ưu tiên hỗ trợ hình thức kinh doanh của hộ gia đình, trang trại, cộng đồng và kinh tế hợp tác, phát triển liên doanh liên kết; sắp xếp lại công ty lâm nghiệp, đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp lâm nghiệp nhà nước; Kết hợp bảo vệ rừng, khai thác rừng với phát triển gây nuôi động thực vật và lâm sản ngoài gỗ, bảo tồn đa dạng sinh học. Kết hợp bảo tồn, phòng hộ, khai thác với phát triển du lịch sinh thái, các dịch vụ môi trường khác và sản xuất nông ngư nghiệp. Kết hợp cải tạo, làm giàu rừng tự nhiên với khai thác vững bền để vừa bảo vệ tài nguyên rừng, vừa có nguồn thu hợp lý nhằm tái sản xuất mở rộng cho các tổ chức, cá nhân làm lâm nghiệp theo nguyên tắc “khai thác rừng giàu dựa trên lượng tăng trưởng bình quân”. Đối với rừng nghèo kiệt và mới phục hồi, phải “khoanh nuôi, cải tạo, làm giàu” hoặc thay thế bằng rừng trồng có năng suất cao nếu cần. Xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn trồng cây bóng mát và chắn gió kết hợp lấy gỗ dọc theo các công trình giao thông, thủy lợi, trong đô thị, trong khu dân cư. Xây dựng chính sách khuyến khích trồng phân tán cây lấy gỗ có giá trị. Áp dụng khoa học công nghệ để giám sát, quản lý diễn biến tài nguyên rừng và đất lâm nghiệp, cải tạo giống cây rừng và biện pháp lâm sinh. Phát triển nghề trồng rừng sản xuất thành một ngành kinh tế có vị thế quan trọng, đem lại việc làm, thu nhập cho số đông cư dân nông thôn, nhất là đồng bào dân tộc miền núi Xây dựng các khu công nghiệp chế biến và thương mại lâm sản, làng nghề truyền thống gắn với vùng nguyên liệu thành mũi nhọn kinh tế cho ngành lâm nghiệp, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng nội địa, phấn đấu đến năm 2020 kim ngạch xuất khẩu lâm sản đạt trên 7,8 tỷ USD. Thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào lĩnh vực có thế mạnh như đồ gỗ nội thất, đồ gỗ ngoài trời, đồ mộc mỹ nghệ và sản phẩm mây tre và trồng rừng nguyên liệu. Đẩy mạnh chế biến ván nhân tạo, bột giấy, giảm chế biến dăm giấy xuất khẩu. Trên cơ sở xác định tỷ lệ gỗ nhập khẩu phục vụ công nghiệp chế biến có hiệu quả nhất, quy hoạch các vùng nguyên liệu trong nước cân đối với nguồn cung cấp nguyên liệu nhập khẩu ổn định. Tạo ra bước đột phá về chính sách để hình thành động lực khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia bảo vệ và nâng cao chất lượng rừng đặc dụng, rừng phòng hộ. Nhanh chóng xóa bỏ tình trạng quản lý lỏng lẻo đất rừng, rà soát lại các văn bản giao đất, giao rừng, tiến hành thanh lý, bồi hoàn để thu hồi đất, hình thành quỹ đất công tập trung để cho thuê, tổ chức sản xuất rừng trên quy mô hàng hóa lớn. Công nghiệp phục vụ nông nghiệp và ngành nghề nông thôn Sản xuất cung ứng phần lớn vật tư phục vụ nông nghiệp Nghiên cứu lợi thế của việc sản xuất vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp để xác định lượng vật tư sản xuất trong nước – vật tư cần nhập khẩu cân đối có hiệu quả nhất, làm căn cứ đề ra chính sách thương mại và khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y và các loại vắc xin phòng bệnh, thuốc bảo vệ thực vật, phân đạm, lân và phân tổng hợp đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất trong nước. Song song với tăng cường sản xuất, đẩy mạnh việc quản lý tiêu chuẩn chất lượng các loại vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp, kể cả sản xuất trong nước và nhập khẩu. Cải tiến hệ thống quản lý thị trường, phân phối lưu thông các vật tư nông nghiệp chiến lược theo hướng chuyển từ vai trò của các doanh nghiệp lớn sang cho các tổ chức đại diện cho người nông dân và người sản xuất. Cơ khí hóa sản xuất nông lâm ngư Cùng với quá trình tập trung hóa đất đai, mở rộng quy mô sản xuất và rút dần lao động ra khỏi nông nghiệp, tạo điều kiện tiến hành cơ khí hóa, áp dụng công nghệ tin học vào sản xuất nông lâm ngư nghiệp, trước hết ở những vùng chuyên canh sản xuất lớn tại Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và từ những khâu sử dụng nhiều lao động như làm đất, tưới nước, trừ cỏ, trừ sâu, thu hoạch, vận chuyển, chế biến thức ăn gia súc, nuôi trồng, đánh bắt thủy sản, nghề muối,… tiến đến cơ giới hóa cho các trang trại, gia trại, áp dụng công thức sản xuất công nghiệp, bán công nghiệp. Nâng cao chất lượng và sản lượng điện để sử dụng năng lượng điện rộng rãi cho sản xuất nông nghiệp, thay thế cho động cơ nổ. Trước hết, trong bơm tưới thủy lợi và công nghiệp chế biến. Tăng tỷ lệ nội địa hóa trang thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp. Đi theo mức độ tăng quy mô sản xuất từng bước nâng cao chất lượng và công suất cơ giới hóa sản xuất nông lâm ngư nghiệp. Trên cơ sở nghiên cứu lợi thế, xác định rõ cân đối hợp lý giữa nhập khẩu máy móc thiết bị và sản xuất trong nước để đáp ứng yêu cầu phục vụ cơ giới hóa nông nghiệp. Áp dụng chính sách thu hút đầu tư trong và ngoài nước phát triển ngành cơ khí sản xuất, sửa chữa máy móc nông nghiệp, tàu thuyền phục vụ thủy sản. Đặc biệt ưu tiên hỗ trợ những ngành áp dụng công nghệ cao, có tỷ lệ nội địa hóa cao, thu hút đầu tư trong nước, phù hợp với điều kiện Việt Nam. Đặc biệt hỗ trợ cho các làng nghề, các hộ chuyên ở nông thôn, tham gia tổ chức sản xuất và làm dịch vụ bảo dưỡng, nâng cấp các công cụ sản xuất tại địa phương. Tổ chức nghiên cứu khảo kiểm nghiệm máy, hình thành hàng rào kỹ thuật và giải pháp thực hiện kiên quyết để ngăn chặn máy móc rẻ, chất lượng thấp, không an toàn, ô nhiễm môi trường nhập khẩu vào Việt Nam. Công khai tiêu chuẩn về kỹ thuật sử dụng, an toàn giao thông, bảo vệ môi trường để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhập khẩu máy móc mà trong nước sản xuất không có hiệu quả. Hỗ trợ nhân dân kinh phí và kỹ thuật, tổ chức dịch vụ chăm sóc bảo dưỡng, tổ chức thông tin thị trường giới thiệu sản phẩm, tổ chức sàn giao dịch máy móc thiết bị. Hỗ trợ đào tạo công nhân kỹ thuật, có chính sách trợ cấp nhiên liệu cho nông dân, ngư dân, chính sách cho nông dân vay mua máy móc thiết bị, khuyến khích đầu tư dịch vụ duy trì bảo dưỡng máy móc thiết bị phục vụ nông lâm ngư nghiệp ở nông thôn. Phát triển công nghiệp chế biến Áp dụng chính sách ưu đãi đặc biệt (hỗ trợ tiền thuê đất, hỗ trợ đào tạo lao động, cho vay vốn ưu đãi, hỗ trợ nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, đơn giản hóa thủ tục, miễn giảm thuế doanh nghiệp ở mức cao nhất,...) để thu hút đầu tư của mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước phát triển công nghiệp chế biến. Đặc biệt khuyến khích các ngành công nghiệp chế biến tinh, chế biến sâu, áp dụng công nghệ hiện đại, làm ra các sản phẩm có giá trị cao, mở ra hướng mới về phát triển thị trường. Hình thành một số đề án phát triển để tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cung cấp dịch vụ nghiên cứu khoa học và đào tạo nghề cho một số khu công nghiệp chế biến tại các vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp lớn ở Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên. Tăng đáng kể tỷ trọng đóng góp của công nghiệp chế biến nông sản trong cơ cấu kinh tế của ngành công nghiệp nhằm tạo việc làm và thu nhập cho cư dân nông thôn, nâng cao giá trị hàng hóa nông sản. Trước hết, phát triển các ngành công nghiệp chế biến mà Việt Nam có lợi thế sản xuất, có nguyên liệu và thu hút nhiều lao động (chế biến gỗ, hạt điều, thủy sản, đồ thủ công mỹ nghệ,...) kết hợp với tổ chức sản xuất nguyên liệu, quy hoạch các vùng nguyên liệu chuyên canh có cơ sở hạ tầng và hình thức tổ chức sản xuất gắn bó với nhà máy chế biến hoặc các kênh nhập khẩu nguyên liệu ổn định để đảm bảo quy mô sản xuất lâu dài. Phát triển từ sơ chế đến chế biến sâu đối với những ngành hàng cho đến nay vẫn xuất khẩu nguyên liệu thô (lúa gạo, cà phê, hạt tiêu, cao su, chè,…). Nghiên cứu khả năng đầu tư những ngành công nghiệp chế biến có giá trị cao mà Việt Nam có tiềm năng phát triển và có thị trường (rau quả, sản phẩm chăn nuôi, thuỷ sản, dược phẩm, đồ uống…). Phát triển làng nghề và ngành nghề nông thôn Tiến hành chương trình nghiên cứu xác định lợi thế và thị trường cho các sản phẩm làng nghề. Xác định quan hệ phối hợp giữa kinh tế làng nghề với cơ cấu kinh tế chung của cả nước, gắn với công nghiệp và kinh tế đô thị, gắn hoạt động kinh tế của các làng nghề với hoạt động dịch vụ du lịch và bảo tồn phát triển văn hóa truyền thống. Trên cơ sở đó xây dựng quy hoạch làng nghề với quy mô, cơ cấu sản phẩm, trình độ công nghệ hợp lý đủ sức cạnh tranh, đảm bảo môi trường bền vững và thích hợp với điều kiện của từng vùng sinh thái. Hỗ trợ cho các làng đã có nghề xây dựng chương trình phát triển nghề của làng, hỗ trợ các làng nghề phát triển thị trường, tiếp thu công nghệ, đào tạo nghề để nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Xây dựng triển khai chương trình “bảo tồn và phát triển mỗi làng một nghề”. Trên cơ sở nghiên cứu lợi thế so sánh và truyền thống của các địa phương gắn với dự báo thị trường tương lai, tổ chức quy hoạch để thu hút mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển các làng nghề, làng dịch vụ ở Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long, Duyên hải Nam Trung Bộ, Bắc Trung Bộ,... phát huy vai trò cộng đồng, các tổ chức dân sự, để gắn giữa sản xuất và dịch vụ nghề với du lịch nông thôn, du lịch văn hóa. Phối hợp với chiến lược phát triển công nghiệp, quy hoạch đưa các nhà máy, khu công nghiệp đô thị về nông thôn. Trước hết, trong giai đoạn 2010-2015, đưa hết các khu công nghiệp và xí nghiệp sử dụng nhiều lao động (dệt may, da giày,chế biến thủy sản…) và công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản ra xa địa bàn đô thị, định hướng vào các vùng đồng bằng tập trung nhiều dân cư và các vùng nguyên liệu nông nghiệp. Tiếp theo đó là các công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp chế tạo, lắp ráp,… Từng bước phát triển các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp nông thôn trở thành vệ tinh sản xuất gia công phục vụ nhà máy công nghiệp lớn. Giảm bớt tình trạng di cư của đội ngũ lao động về các thành phố lớn. Nghề muối Qui hoạch phát triển sản xuất muối ở những vùng có lợi thế so sánh nhất ở vùng duyên hải Nam Trung Bộ, có khả năng cạnh tranh với các vùng sản xuất muối trên thế giới (lượng mưa thấp, số giờ nắng cao, nồng độ muối trong nước biển cao). Tập trung mở rộng diện tích, đầu tư phát triển nghề muối công nghiệp, hiện đại, quy mô lớn, áp dụng công nghệ tiên tiến, đầu tư phát triển hệ thống thủy lợi, cơ giới hóa, tự động hóa, nâng cao năng suất và chất lượng chế biến phục vụ tiêu dùng, công nghiệp tại các vùng này. Đến năm 2020, đảm bảo sản lượng muối cả nước đạt 1.350.000 tấn trên tổng diện tích muối công nghiệp là 8.500ha. Thu hẹp sản xuất muối thủ công ở những vùng sản xuất quy mô nhỏ, kém hiệu quả ở miền Bắc và miền Nam (số ngày nắng thấp, lượng mưa cao, nồng độ muối trong nước biển thấp), hỗ trợ để chuyển dần người làm muối sang nuôi trồng thủy sản, sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và lao động phi nông nghiệp. Cải thiện hệ thống kinh doanh phân phối, huy động cơ chế thị trường giải quyết hiệu quả việc xuất, nhập và phát triển thị trường đảm bảo nhu cầu trong nước và lợi ích của người sản xuất. b. Định hướng phát triển dịch vụ công phục vụ nông nghiệp Cùng với mức tăng thu nhập và trình độ áp dụng khoa học của nông dân, từng bước xã hội hóa việc cung cấp các dịch vụ công cho sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo cả hai hướng. Đối với vùng khó khăn, trợ cấp trực tiếp cho người sử dụng nắm quyền chủ động lựa chọn, chi trả dịch vụ do các tổ chức của nhà nước cung cấp. Đối với vùng thuận lợi, nhà nước hỗ trợ các thành phần kinh tế cùng tham gia cung cấp dịch vụ kỹ thuật có thu phí. Đầu tư xây dựng hoàn chỉnh các loại dịch vụ hiện nay chưa phát triển nhưng đang trở nên cần thiết như: phân tích, dự báo thị trường; thông tin thị trường, xúc tiến thương mại; quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm, quản lý chất lượng; bảo hiểm rủi ro, phòng chống thiên tai; bảo vệ môi trường,... Đáp ứng những yêu cầu của sản xuất kinh doanh nông nghiệp tương lai với chất lượng cao, Sắp xếp lại các tổ chức dịch vụ công phục vụ sản xuất trong tương lai có thể phân cấp cho các tổ chức sản xuất và cộng đồng trực tiếp thực hiện để dành lực lượng và ngân sách cho các loại hình dịch vụ công mới. Cần tổ chức bổ sung các cục và đơn vị sự nghiệp đáp ứng nhu cầu mới, tiến hành đầu tư cơ sở hạ tầng, đào tạo đội ngũ cán bộ tiếp thu công nghệ mới để các loại hình dịch vụ công mới nhanh chóng đi vào hoạt động hiệu quả, tương đương tiêu chuẩn các nước tiên tiến trong khu vực. Khuyến nông Tiến hành phân cấp, phân quyền từ Trung ương xuống địa phương, từ chính quyền sang các tổ chức cộng đồng và đoàn thể quần chúng, để từng bước chuyển việc quản lý sử dụng nguồn kinh phí khuyến nông cho các đối tượng sản xuất trực tiếp điều hành nhằm đáp ứng kịp thời và thiết thực cho nhu cầu sản xuất. Chuyển hình thức khuyến nông theo các chương trình, ra quyết định từ cấp trên sang khuyến nông trực tiếp đáp ứng các yêu cầu của sản xuất từ người dân. Từng bước xã hội hóa, đa dạng hóa dịch vụ khuyến nông phục vụ các mục tiêu phát triển sinh kế cho cư dân nông thôn (nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, chế biến, ngành nghề,...). Nhà nước tập trung vào hoạt động đào tạo, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ thông tin, trợ cấp kinh phí. Tiến tới chuyển lực lượng cán bộ khuyến nông và hoạt động khuyến nông sang cho cộng đồng địa phương, cơ sở sản xuất, các hợp tác xã, hội nông dân và các hiệp hội trực tiếp quản lý nhằm tạo điều kiện để lực lượng này thực sự đáp ứng được nhu cầu thiết thực của sản xuất. Dần hình thành hệ thống khuyến nông do dân tổ chức và quản lý, được nhà nước hỗ trợ. Bảo vệ thực vật Tổ chức đồng bộ hệ thống bảo vệ thực vật từ trung ương đến địa phương. Tập trung vào công tác dự tính, dự báo, cảnh báo và tư vấn để mọi đối tượng sản xuất cùng tham gia phòng chống dịch bệnh. Áp dụng các biện pháp phòng trừ tổng hợp, kết hợp phòng chống sâu bệnh với bảo vệ môi trường và bảo đảm an toàn thực phẩm. Ở những vùng có điều kiện thuận lợi, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia cung cấp dịch vụ bảo vệ thực vật có thu phí, hỗ trợ hình thành hoạt động bảo hiểm dịch bệnh của các tổ chức nông dân, tổ chức kinh tế hợp tác và các tổ chức tài chính chuyên nghiệp. Tập trung đầu tư để nâng cao trình độ hoạt động của các tổ chức quản lý hoạt động vệ sinh dịch tễ lên ngang tiêu chuẩn các nước tiên tiến trong vùng, cả về trang bị, kiến thức, kỹ năng, cơ sở hạ tầng, điều kiện làm việc để có thể đàm phán, xử lý, bảo vệ quyền lợi của người sản xuất kinh doanh Việt Nam tương đương với các nước đối tác và hình thành hàng rào bảo vệ kỹ thuật hiệu quả. Thú y Để chủ động phòng chống dịch bệnh, tập trung nguồn lực thú y vào tăng cường công tác kiểm dịch tại các cửa khẩu, biên giới, vùng giáp ranh giữa các địa phương, cửa ngõ các thành phố lớn, các vùng sản xuất hàng hóa chăn nuôi lớn. Ưu tiên đầu tư phát triển hệ thống thú y, kiểm dịch phòng trừ dịch bệnh cho gia súc gia cầm, tổ chức đồng bộ hệ thống thú y nhất là ở cấp cơ sở. Xây dựng các vùng an toàn dịch bệnh, tách sản xuất chăn nuôi khỏi các khu dân cư tập trung, làm tốt công tác thông tin kiểm soát dịch. Huy động toàn dân tham gia phòng chống dịch bệnh. Công tác thú y có thu phí và hoạt động bảo hiểm dịch bệnh được khuyến khích như đối với hoạt động bảo vệ thực vật. Quản lý chất lượng Xây dựng đồng bộ hệ thống quản lý chất lượng vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và chất lượng sản phẩm từ hệ thống các phòng thí nghiệm, kiểm nghiệm đến lấy mẫu, giám sát thị trường, cấp phép, chứng nhận. Đảm bảo bảo vệ quyền lợi của người sản xuất và người tiêu dùng. Ban hành hệ thống tiêu chuẩn chất lượng cho các mặt hàng. Hình thành chế độ tự đăng ký, tự kiểm tra và trách nhiệm công bố thông tin về tiêu chuẩn chất lượng trên bao bì vật tư và nông sản hàng hóa. Hình thành hệ thống thanh tra kỹ thuật chuyên ngành kết hợp với mạng lưới thanh tra ngoài nhà nước được cấp phép để giám sát chất lượng vật tư đầu vào và sản phẩm đầu ra của nông nghiệp. Khuyến khích các tổ chức hiệp hội sản xuất kinh doanh chủ động ban hành và kiểm soát tiêu chuẩn chất lượng vật tư hàng hóa của tổ chức mình. Thể chế hóa hoạt động của các tổ chức đại diện cho người tiêu dùng, khách hàng để chủ động giám sát, đánh giá, kiểm tra, công bố khách quan và thông qua hệ thống tư pháp để xử lý các sai phạm và tranh chấp về tiêu chuẩn chất lượng của vật tư nông nghiệp, máy móc thiết bị nông nghiệp, hàng hóa nông sản. Định hướng phát triển nông thôn Phát động Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới để đổi mới một cách căn bản đời sống vật chất tinh thần của cư dân nông thôn theo hướng có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ. Nội dung xây dựng nông thôn mới dựa theo Bộ Tiêu chí Quốc gia được qui định tại Quyết định 491 của Thủ tướng Chính phủ. Di dân tái định cư để cải thiện thu nhập và điều kiện sống cho nhân dân Thực hiện tốt các chương trình di dân tái định cư phục vụ cho các công trình xây dựng công nghiệp đô thị và cơ sở hạ tầng lớn. Từng bước thực hiện nguyên tắc "người dân khi chuyển đến nơi ở mới có điều kiện sống và thu nhập bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ", tiến hành các chương trình nghiên cứu đánh giá hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, hiệu quả môi trường của các chương trình di dân tái định cư, xác định các tiêu chí phải đạt cho các hoạt động này để đánh giá và ra quyết định triển khai di dân. Tiến hành rà soát, nghiên cứu xác định các khu vực thường xảy ra thiên tai, rủi ro (lũ quét, lũ ống, bão, lụt,...), những khu vực sản xuất nông lâm ngư nghiệp bất thuận (không có nguồn nước, đất dốc, nước ô nhiễm nặng...), những khu vực quá hẻo lánh, xa các trục kết cấu hạ tầng (xa đường, hệ thống điện, không có thông tin liên lạc...), những vùng có khả năng chịu tác động xấu do biến đổi khí hậu, để tiến hành quy hoạch di dời nhân dân đến các khu vực định cư an toàn và thuận tiện hơn cho sản xuất và đời sống. Tiến hành dạy nghề, cho vay vốn, hỗ trợ vật tư, xây dựng kết cấu hạ tầng, kết nối với thị trường để người dân có việc làm và thu nhập mới ổn định lâu dài, thích ứng với mức phát triển của xã hội. Quy hoạch xây dựng các khu tái định cư vào những nơi còn quỹ đất, an toàn về mặt môi trường và phải tính đến đặc điểm kinh tế xã hội của các nhóm dân cư. Việc bồi hoàn đất đai và các c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docdinh_huong_chien_luoc_phat_trien_4971.doc
Tài liệu liên quan