Định hướng nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2006 – 2010

Phát triển con người là yếu tố quan trọng bậc nhất để đảm bảo tăng trưởng kinh tế vè giảm nghèo đói. Lợi thế cạnh tranh của một quốc gia cũng như cơ sở đảm bảo cho sự phát triển bền vững trong những thập kỷ tới phụ thuộc rất nhiều vào trình độ phát triển con người ở mỗi nước. Sự phân hóa giàu nghèo cũng có nguyên nhân một phần lớn bởi sự khác biệt về trình độ học vấn nói riêng và sự phát triển con người nói chung. Bởi vậy cần có những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo: - Giải pháp then chốt nhất vẫn là đổi mới và nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong GD-ĐT, cải cách giáo dục toàn diện nhằm làm cho hệ thống giáo dục gắn kết với yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước; đẩy mạnh đổi mới nội dung chương trình và phương pháp giáo dục theo hướng hiện đại và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục; kiên quyết giảm tải tối hợp lý nội dung chương trình học phù hợp với tâm sinh lý của học sinh tiểu học và trung học cơ sở. - Khẩn trương triển khai đề án phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ trong quản lý giáo dục; cơ cấu lại hệ thống đào tạo, hoàn thiện hệ thống đào tạo. Khuyến khích cạnh tranh lành mạnh tạo cơ chế và điều kiên dể các trường đại học, dạy nghề; chuyển mạnh sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. - Tăng cường đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp bao gồm cả tái đào tạo nghề nhằm giúp cho những người trong độ tuổi lao động có thể dễ dàng thích ứng với những đòi hỏi thường xuyên biến động của thị trường lao động. Để thu hẹp dần khoảng cách giữa đầu ra của đào tạo với nhu cầu hiện có của thị trường lao động, các biện pháp cần sớm thực hiện là:

doc30 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 975 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Định hướng nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2006 – 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng nghệ là những thay đổi trong quá trình sản xuất hoặc đưa ra những sản phẩm mới sao cho có thể tạo ra được sản lượng nhiều hơn và cải tiến hơn với cùng một lượng đầu vào. Như vậy nhân tố quan trọng thứ tư là tri thức công nghệ. Trên đây là bốn nguồn của tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên các nhân tố đó có thể khác nhau giữa các nước và một số nước có thể kết hợp chúng hiệu quả hơn các nước khác. Điều quan trọng là cần nghiên cứu và áp dụng hiệu quả vào điều kiện của nền kinh tế. CHƯƠNG II TÌNH HÌNH TĂNG TRƯỞNG CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 – 2005 I. BỐI CẢNH 1. Bối cảnh quốc tế Thế giới đã bước qua thế kỷ 20, thế kỷ có những biến động lớn lao nhất trong lịch sử, đó là: sự ra đời và sụp đổ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa; sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, đem lại cho con người những thay đổi sâu sắc trong nhận thức, trong cải thiện đời sống vật chất tinh thần. Xã hội loài người đang bước vào một nền văn minh mới, một nền kinh tế mới và một xu hướng phát triển mới, đó là văn minh trí tuệ, kinh tế tri thức và xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế.Những xu hướng này sẽ tác động đến mọi quốc gia, dân tộc, trong đó có Việt Nam. 2. Bối cảnh trong nước Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, bước vào những năm đầu của thế kỷ 21, thế và lực của Việt Nam trên trường quốc tế đã có những thay đổi căn bản so với trước. - Việt Nam đã vững vàng bước qua cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, đạt được nhiều thành tựu kinh tế xã hội, và đang tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để đến năm 2020 về cơ bản có thể trở thành một nước công nghiệp. - Kết thúc thế kỷ 20, bước vào thế kỷ 21, chúng ta đã có quan hệ ngoại giao và kinh tế với hầu hết các quốc gia trên thế giới, vai trò và vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao. Đây là điều kiện hết sức quan trọng để giúp chúng ta có thể thu hút được ngày càng nhiều nguồn lực từ bên ngoài phục vụ cho sự phát triển của đất nước. II. THỰC TRẠNG GIAI ĐOẠN 2001 – 2005 1. Một số thành tựu đạt được 1.1. Tăng trưởng về quy mô và tốc độ Đây là giai đoạn thực hiện kế hoạch 5 năm, kết thúc nửa chặng đường thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong thế kỉ 21. Trong suốt 5 năm, 2001-2005 kinh tế Việt Nam tăng trưởng liên tục, với tốc độ năm sau cao hơn năm trước. - Về quy mô: Tăng trưởng của nước ta trong giai đoạn này cũng có sự tăng lên đáng kể được thể hiện qua bảng sau: Bảng 1: GDP của Việt Nam qua các năm theo giá thực tế Đơn vị: Tỷ đồng Năm 2001 2002 2003 2004 2005 GDP 481295 535762 613443 715307 839211 Bảng 2: GDP của Việt Nam qua các năm theo giá so sánh 1994 Đơn vị: Tỷ đồng Năm 2001 2002 2003 2004 2005 GDP 292535 313247 336242 362435 393031 Nguồn: Niên giám thống kê năm 2006 Trong giai đoạn này, GDP của năm sau tăng cao hơn so với năm trước. Năm 2002 là 313.247 tỷ đồng, năm 2003 là 336.242 tỷ đồng, 2005 tăng so với năm 2001 hơn 100.000 tỷ đồng. Chứng tỏ quy mô sản xuất của chúng ta ngày càng được mở rộng. - Về tốc độ: Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn này thể hiện trong bảng Bảng 3: Tốc độ tăng GDP của nền kinh tế Năm 2001 2002 2003 2004 2005 Tốc độ 6.89% 7.08% 7.34% 7.79% 8.43% Nguồn: Niên giám thống kê năm 2006 Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm giai đoạn này đạt 7.5%, cao hơn so với mức 6.9% là tốc độ tăng trưởng bình quân của 5 năm trước (1996-2000). Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng là không đồng đều giữa các năm, đến năm 2003 tốc độ tăng bình quân mới đạt 7.1%/năm. Phải nhờ sự tăng đột biến của năm 2004 mới nhích lên 7.28%/năm và đặt biệt là sự tăng vọt vào năm 2005 mới hoàn thành kế hoạch là đạt tốc độ tăng trung bình 7.5%/năm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế lớn hơn nhiều so với tốc độ tăng dân số( khoảng 1.3 - 1.4%) nhờ đó GDP bình quân đầu người cũng tăng rõ rệt, từ 412.9USD năm 2001 lên 637.3 USD năm 2005. Tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc giai đoạn 2001 – 2005 Đơn vị : % Năm 2001 2002 2003 2004 2005 Tốc độ 7.3 8.3 9.3 9.5 9.2 - Về đóng góp của các ngành: Bảng 4: Đóng góp của các ngành vào tốc độ tăng GDP Đơn vị: % Năm 2001 2002 2003 2004 2005 Bình quân Tốc độ tăng GDP 6.89 7,08 7.34 7.79 8.43 7.50 Nông-lâm-thuỷ sản 0.69 0.93 0.79 0.92 0.82 0.82 CN-XD 3.68 3.47 3.92 3.93 4.19 3.84 Dịch vụ 2.52 2.68 2.63 2.94 3.42 2.84 Nguồn: Tổng cục thống kê và Viện NCQLKTTW Trong tốc độ tăng trưởng bình quân 7.5%, khu vực nông-lâm-thuỷ sản do tỷ trọng giảm dần và tốc độ tăng trưởng thấp nên đóng góp vào tốc độ tăng trưởng bình quân là 0.82%, đóng góp của khu vực dịch vụ bình quân là 2.84% và khá cao vào năm 2005 là 3.42% trong tổng số 8.43%. Về công ngiệp-xây dựng, trong giai đoạn 2001-2005 vẫn là khu vực có đóng góp lớn nhất vào tốc độ tăng trưởng: bình quân 3.84%. Việt Nam đã đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế đã diễn ra trong cả ba khu vực: Bảng 5: Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế Đơn vị: % Năm Ngành 2001 2002 2003 2004 2005 Nông-lâm-thủy sản 23.24 23.03 22.54 21.81 20.70 Công nghiệp- xây dựng 38.13 38.49 39.47 40.21 40.80 Riêng công nghiệp chế biến 19.78 20.58 20.45 20.34 20.70 Dịch vụ 38.63 38.48 37.99 37.98 38.50 + Nông nghiệp: (bao gồm cả lâm nghiệp và thủy sản): Giá trị sản xuất toàn ngành vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng khá cao, bình quân trong 5 năm đạt 5.4%, cao hơn so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra là 4.8%, trong đó nông nghiệp tăng 4.0%; lâm nghiệp tăng 1.3%; ngư nghiệp tăng 10.7%. Đặc biệt sản xuất lương thực có thể gọi là kỳ tích của nước ta. Sản lượng lương thực tăng bình quân mỗi năm 1.1 triệu tấn, từ 34.3 triệu tấn năm 2001 đã tăng lên đến 39.9 triệu tấn vào năm 2005. Năm 2005 Việt Nam đã xuất khẩu được 5.2 triệu tấn gạo. chiếm 30% sản lượng. Sản lượng ngành thủy sản năm 2005 đạt khoảng 3.3 triệu tấn, tăng gấp 1.4 lần so với năm 2001. Lâm nghiệp tăng trưởng chậm hơn nhưng cũng đã có những chuyển biến tích cực, từng bước chuyển hướng từ lâm nghiệp do nhà nước quản lý là chính sang thu hút sự đóng góp của nhiều thành phần kinh tế. Nhờ đó, tốc độ che phủ của rừng từ 33.7% năm 2000 lên đến khoảng 38% năm 2005. + Công nghiệp và xây dựng: Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng bình quân trong 5 năm là 10.3%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế, và được coi là đầu tàu tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. Thời kỳ này, trừ năm 2002 GDP của công nghiệp chỉ đạt mức tăng trưởng 9.48%, tất cả các năm khác công nghiệp đều đạt mức tăng trưởng hai con số, rong đó năm 2005 đạt mức tăng trưởng lên đến trên 11%.Giá trị hàng công nghiệp xuất khẩu trong 5 năm(2001-2005) đạt trên 79 tỷ USD chiếm 73% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 15.7% cao hơn so với mức 13.9% của giai đoạn 1996-2000. Với quy mô ngày càng mở rộng và tốc độ tăng trưởng cao, công nghiệp hiện đang đóng góp tới trên 50% mức tăng trưởng chung của toàn bộ nền kinh tế. + Dịch vụ: Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng bình quân hàng năm giai đoạn 2001-2005 là 7.0%, cao hơn mức 6.8% của giai đoạn 1996-2000. Các ngành thuộc khu vực này đều có bước tăng trưởng khá. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ của ngành thương mại bình quân trong 5 năm tăng 14.8 %. Du lịch có bước phát triển mạnh, lượng khách du kịch quốc tế đến Việt Nam tăng từ 2.1 lượt triệu khách năm 2000 lên 3.2 triệu năm 2005. Các ngành bưu chính viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn, y tế, giáo dục phát triển ngày càng mạnh mẽ. - Về cơ cấu các ngành kinh tế, tuy nông nghiệp (gồm cả lâm ngư nghiệp) vẫn tăng nhưng tốc độ chậm hơn so với công nghiệp và dịch vụ, nên tỷ trọng của ngành này tiếp tục giảm xuống. Tỷ trọng của công nghiệp (gồm cả xây dựng) tăng lên rõ rệt, điều đó là phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước trong thời kỳ công nghiệp hóa. Tỷ trọng của các ngành dịch vụ sau khi giảm chút ít trong ba năm đầu, sau đó đã ổn định lại và bắt đầu tăng lên vào năm 2005.Tỷ lệ cơ cấu ngành của Việt Nam năm 2005 gần giống với của Thái Lan những năm 70 và của Malaixia những năm 60. - Về cơ cấu thành phần kinh tế, khu vực nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng khá lớn, tới 38% GDP. Khu vực ngoài quốc doanh nói chung chiếm 39.4% GDP. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 15% GDP năm 2004. Ngoài ra, giai đoạn 2001-2005 còn đánh dấu bước chuyển biến tích cực của kinh tế đối ngoại Việt Nam. Nước ta đã đạt được thành tựu to lớn trong xuất khẩu. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2005 đạt hơn 32.2 tỷ USD (bình quân đầu người là 380USD), tăng gấp 2.2 lần so với mức 14.4 tỷ USD năm 2000.Kim ngạch xuất khẩu so với GDP năm 2005 đạt tỷ lệ 60.9%. Quy mô xuất khẩu của Việt Nam hiện đã đứng thứ 42 trong tổng số 131 nước và vùng lãnh thổ được xếp hạng trên thế giới. 1.2. Tăng trưởng của các yếu tố đầu vào Vốn, lao động, khoa học công nghệ (KHCN) là 3 nhân tố chính tác động đến tăng trưởng. - Thứ nhất, về vốn: Trong giai đoạn 2001-2005, thị trường vốn cung cấp cho nền kinh tế là 93753 tỷ đồng, tương đương 7.8% tổng nhu cầu vốn đầu tư.Trong đó, nguồn vốn nhà nước vẫn chiếm tỷ lệ lớn nhất, bình quân thời kỳ 2001-2005 là 55%. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và nguồn vốn ODA chiếm 17.9% và 10.2% trong tổng nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Vốn vẫn là yếu tố chủ đạo đóng góp vào tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này, cụ thể là 55-57% (Theo Bộ trưởng Bộ KHĐT-Võ Hồng Phúc). Kể từ năm 2000, vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có xu hướng tăng trở lại, từ mức 2695 triệu USD năm 2000, đến năm 2005 đã đạt 5814 triệu USD. Tính chung trong 5 năm 2001-2005, Việt Nam đã thu hút được hơn 19 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp FDI theo đăng ký. Nguồn vốn này đã góp phần thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ và giảm chi phí nguyên liệu đầu vào, làm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa trong nước.Tỷ trọng đóng góp của FDI vào GDP bình quân giai đoạn 2001-2005 đạt 14.36%, trong khi giai đoạn 1996-2000 chỉ đạt 10.2%. Doanh thu của khu vực FDI giai đoạn 2001-2005 đạt hơn 77.9 tỷ USD, tăng gần 2.9 lần so với giai đoạn 1996-2000. Nộp ngân sách của khu vực FDI giai đoạn 2001-2005 là 3.55 tỷ USD, tăng gần 2.4 lần giai đoạn 1996-2000. Không chỉ nguồn vốn trực tiếp, mà cả nguồn vốn đầu tư gián tiếp các loại vào Việt Nam cũng được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm. Vốn ODA của các nhà tài trợ ký kết cho Việt Nam giai đoạn 2001-2005 đạt 11080 triệu USD, trong đó tổng số vốn đã giải ngân là 7840 triệu USD. Đây là nguồn vốn đã mang lại cho đất nước, người dân nhiều công trình kinh tế, phúc lợi quan trọng như: cầu Mỹ thuận, cầu sông Gianh, dự án nâng cấp quốc lộ 1A, dự án thủy lợi Cửa Đạt- Thanh Hóa Ngoài ra, lượng kiều hối chuyển về nước cũng tăng lên qua các năm, từ 1757 triệu USD năm 2000, đến năm 2005 con số này đã lên đến 3800 triệu USD. Tuy nguồn vốn đầu tư tăng và đạt được tỷ lệ đầu tư toàn xã hội khá cao 38.7% vào năm 2005 nhưng hiệu quả của vốn đầu tư còn nhiều bất cập, đặc biệt vốn đầu tư của khu vực nhà nước. Theo tính toán của các tổ chức quốc tế, hệ số ICOR của khu vực nhà nước là 7.3, của khu vực ngoài quốc doanh là 3.9, trong khi, hệ số ICOR của toàn bộ nền kinh tế là 5. - Thứ 2, về lao động: Lao động là thứ nước ta sẵn có tức là nội lực hơn nữa lại có rất nhiều đến mức dư thừa. Trong 5 năm qua, số lao động đang làm việc hàng năm tăng khoảng hơn 1 triệu người, năm 2000 là 37.6 triệu người; năm 2005 là 42.7 triệu người. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm từ 6.4% năm 2000 xuống 5.3% năm 2005. Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động trong độ tuổi ở nông thôn tăng từ 74.2% lên 80.6% trong những năm tương ứng. Trong giai đoạn này lao động đóng góp 18-20% (Theo Bộ trưởng Bộ KHĐT-Võ Hồng Phúc). Do tốc độ tăng trưởng kinh tế khu vực 2 và 3 nhanh hơn khu vực 1 nên cơ cấu lao động cũng chuyển dịch dần theo hướng giảm tỷ trọng lao động làm việc trong các ngành nông ngư nghiệp và tăng trong ngành công nghiệp và dịch vụ. Bảng 6: Cơ cấu lao động theo ngành Đơn vị: % Năm 2001 2002 2003 2004 2005 Nông nghiệp 62.76 61.14 58.35 57.9 56.8 Công nghiệp 14.42 15.05 16.96 17.4 17.9 Dịch vụ 22.82 23.81 24.69 24.7 25.3 Nguồn: Bộ KH&ĐT Ngoài ra về trình độ lao động, lực lượng lao động chưa qua đào tạo đã giảm từ 82.95% năm 2001 xuống còn 75.21% năm 2005. Tuy vậy vẫn chưa đạt mục tiêu tỷ lệ lao động qua đào tạo là 30% như trong Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng. Lực lượng lao động ở thành thị năm 2001 mới chiếm 18.4% đến năm 2002 đã tăng lên 23.87% và 24.2% năm 2003; năm 2004 là 24.4% và năm 2005 là 24.95%. Bảng 7: Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thời gian lao động ở nông thôn Đơn vị: % Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi ở thành thị 6.42 6.28 6.01 5.78 5.6 5.3 Tỷ lệ thời gian làm việc của lực lượng lao động trong độ tuổi ở nông thôn 74.16 74.26 75.42 77.65 79.1 80.7 Trên phạm vi cả nước, chỉ tiêu quan trọng nhất thể hiện chất lượng của lao động chính là năng suất lao động xã hội. Bảng 8 : Tỷ lệ tăng năng suất lao động của Việt Nam 2001-2005 Đơn vị: % Năm 2001 2002 2003 2004 2005 Năng suất lao động 4,25 4.48 4.54 5.19 5.51 Nguồn: Niên giám thống kê Trong thời gian 2001-2005, năng suất lao động xã hội của Việt Nam tăng 4.81%/ năm, về quy mô đạt 19.62 triệu đồng 1 lao động/ năm (năm 2005). Nếu tính bằng USD chia cho số lượng lao động theo tỷ giá hối đoái thực tế của Việt Nam năm 2005 thì mới đạt 1234 USD thấp xa so với nhiều nước trong khu vực.Trong đó Trung Quốc là 2152.3 USD, Thái Lan 4514.1 USD, Mailaixia là 11276.2 USD, Hàn Quốc 29057.6 USD, Singapore 48563.9 USD, Nhật Bản 73014.4 USD Việt Nam đứng thứ 20 về năng suất lao động so với các nước trên thế giới, nhưng về tốc độ tăng năng suất lao động thì chúng ta đứng thứ 3. Điều đó chứng tỏ Việt Nam đang là nước có tốc độ tăng năng suất lao động cao, nhưng năng suất lao động còn thấp. Điều đó có thể giải thích trình độ khoa học công nghệ còn thấp, cơ sở vật chất nghèo nàn, công tác quản lý hạn chế, sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên đặc biệt là nông nghiệp Như vậy, thị trường lao động ở Việt nam trong 5 năm (2001-2005) đã có những bước phát triển rõ rệt. Qua các năm, nguồn cung lao động ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng, số người có việc làm tăng và theo cơ cấu ngày càng tiến bộ, thu nhập và năng suất lao động đều tăng - Thứ ba, về khoa học công nghệ (KHCN): Tăng trưởng kinh tế được phân thành 2 loại, tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng, phản ánh tăng thu nhập phụ thuộc vào tăng quy mô nguồn vốn, số lượng nguồn lao động và khai thác tài nguyên thiên nhiên; và tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, là sự gia tăng của thu nhập do tác động của yếu tố công nghệ đến hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào(TFP). Theo xu hướng hiện nay thì chúng ta cần nhấn mạnh việc tăng trưởng theo chiều sâu vì nó thể hiện chất lượng của tăng trưởng. TFP giúp duy trì tốc độ tăng trưởng dài hạn và tránh được những tác động từ môi trường bên ngoài. Do đó, đồng thời với việc khai thác lợi thế so sánh về lao động và tài nguyên thì cần phải chú ý nâng cao tác động của nhân tố năng suất tổng hợp. Trong suốt 10 năm qua, Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực để tăng cường đầu tư cho KH&CN. Chi cho KH&CN từ ngân sách nhà nước tăng bình quân hàng năm trên 23% trong giai đoạn 1996-2005. Từ năm 2000 đến nay, đầu tư tài chính cho KH&CN luôn đảm bảo ở mức 2% tổng chi ngân sách nhà nước, đạt đến 4.270 tỷ đồng trong năm 2005. Tuy nhiên, xét cả về số lượng tuyệt đối và tương đối, đầu tư cho R&D ở nước ta còn thấp hơn nhiều lần so với các nước trong khu vực. Theo tiêu chí chi R&D tính trên 1 đầu cán bộ nghiên cứu thì Việt Nam thấp hơn 4 lần Thái Lan, 7 lần Trung Quốc, 8 lần Malaixia và 26 lần so với Xingapo. Đáng quan tâm là tỷ trọng chi R&D của khu vực ngoài Nhà nước so với tổng chi R&D vào năm 2000 của nước ta còn thấp, mới đạt khoảng 19%, trong khi ở Trung Quốc là 45%, Malaixia là 60% và Nhật Bản là trên 72% (trung bình, các doanh nghiệp Việt Nam mới đầu tư cho R&D chừng 0,03% doanh thu, tỷ lệ này ở các nước công nghiệp là khoảng 3%). Kết thúc kế hoạch 5 năm 2001-2005 ở nhiều ngành sản xuất, dịch vụ, máy móc thiết bị đã được đổi mới. Một số ngành đã tiếp thu được công nghệ tiên tiến, tiếp cận với trình độ công nghệ hiện đại của của thế giới như các ngành bưu chính- viễn thông, thăm dò- khai thác dầu khí. Tuy vậy, đối với phần lớn các ngành doanh nghiệp nhà nước cũng như các doang nghiệp vừa và nhỏ của khu vực ngoài quốc doanh nhìn chung máy móc thiết bị còn lạc hậu. Trong nông nghiệp, thiếu công nghệ bảo quản và chế biến nên đến nay trên 60% hàng nông sản vẫn xuất khẩu dưới dạng sơ chế, làm cho giá trị gia tăng của hàng nông sản thấp. Qua những phân tích trên có thể thấy, chúng ta chưa tận dụng được lợi thế của khoa học công nghệ đối với các nước đi sau, tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ của thế giới, để tăng trưởng cả về chiều rộng cũng như chiều sâu.Vì thế trong giai đoạn này đóng góp của KHCN vào tăng trưởng mới chỉ đạt 23-27%, một con số thấp. Trong đó ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc tỉ lệ này trung bình là 40-60%. 1.3. Đóng góp của yếu tố đầu vào cho tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế xét ở đầu vào, có ba yếu tố đóng góp. Đó là sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư, sự đóng góp của số lượng lao động và sự đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP). Theo tính toán ban đầu, yếu tố số lượng vốn đầu tư đã đóng góp khoảng 57%, yếu tố số lượng lao động đóng góp khoảng 20%, yếu tố TFP đóng góp 23%. Từ sự đóng góp như trên, có thể rút ra một số nhận xét sau: - Một là tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dựa chủ yếu vào sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư. Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP từ năm 2004 đến nay đều đã vượt qua mốc 40% (năm 2004 đạt 40,7%, năm 2005 đạt 40,9%, năm 2006 đạt 41%, ước năm 2007 đạt 40,4%), kế hoạch năm 2008 còn cao hơn, lên đến 42%. Đây là tỷ lệ thuộc loại cao nhất thế giới, chỉ sau tỷ lệ trên dưới 44% của Trung Quốc - một tỷ lệ làm cho tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt cao nhất thế giới, đã nhiều năm liền tăng hai chữ số, hiện đang giữ kỷ lục thế giới về số năm tăng trưởng liên tục (28 năm), nhưng Trung Quốc đưa ra mục tiêu giảm độ nóng của tăng trưởng và đẩy mạnh chống lạm phát do tốc độ tăng giá tính theo năm của tháng 2/2008 đã lên đến 8,3%, cao nhất trong 12 năm qua. - Hai là tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện còn dựa một phần quan trọng vào yếu tố số lượng lao động, sự quan trọng này được xét trên hai mặt. Một mặt, do nguồn lao động hàng năm vẫn còn tăng khoảng 2%, tức là trên 1 triệu người mỗi năm. Mặt khác, do tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn còn cao. - Ba là nếu tính cả sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư và sự đóng góp của yếu tố số lượng lao động, thì hai yếu tố này đã đóng góp trên ba phần tư tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Điều đó chứng tỏ, sự đóng góp của yếu tố KHCN đối với tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế còn nhỏ, chưa được một phần tư, thấp chỉ bằng hai phần ba tỷ trọng đóng góp của yếu tố này của các nước trong khu vực hiện nay. Điều đó cũng chứng tỏ, nền kinh tế Việt Nam hiện vẫn đi theo hướng tăng trưởng về số lượng, chưa chuyển sang tăng trưởng về chất lượng, vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chưa chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu. 1.4. Tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội Trong giai đoạn này Việt Nam đã có những thành tích đáng kể trong việc sử dụng kết quả của tăng trưởng để giải quyết các vấn đề xã hội. Cụ thể là HDI của chúng ta tăng lên theo từng năm HDI và xếp hạng HDI của Việt Nam giai đoạn 2001-2005 Năm 2001 2002 2003 2004 2005 HDI 0.682 0.688 0.688 0.691 0.704 Xếp hạng 101/162 109/173 109/175 112/177 108/175 Nguồn: Liên hợp quốc Trong giai đoạn 5 năm HDI tăng lên 2.2%, mỗi năm tăng 0.44%, mức tăng cao nhất khu vực Đông Nam Á Bất bình đẳng trong thu nhập của chúng ta trong 5 năm không tăng đáng kể. Hệ số GINI năm 2002 là 0.420, đến năm 2004 là 0.423 Chương trình xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2001-2005 rất thành công, giảm tỉ lệ hộ đói nghèo từ 17.2% năm 2001 xuống còn 8.3% vào cuối năm 2004, về đích sớm một năm (Đại hội XI đề ra đến năm 2005 giảm xuống còn dưới 10%) Kết luận: Tóm lại, kết quả đạt được trong việc thực hiện kế hoạch 2001-2005 là tốc độ tăng trưởng cao và bước đầu đã chuyển dần từ phát triển kinh tế theo chiều rộng sang phát triển kinh tế theo chiều sâu. Nếu xét mức độ tăng trưởng trong vòng 5 năm đầu của thế kỷ XXI, sức mạnh kinh tế của đất nước đã bắt đầu với một mặt bằng mới đầy triển vọng. Song, nếu xét kỹ thì tốc độ ấy vẫn còn ở mức tăng trưởng "đều đặn", "năm sau cao hơn năm trước", GDP hàng năm tăng tỷ lệ trên dưới 1% nhưng rõ ràng là vẫn chưa tạo cái chất cần thiết là "đột phá". 2. Những vấn đề tồn tại Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong giai đoạn vừa qua, chúng ta vẫn gặp còn những yếu kém và khó khăn cần khắc phục. 2.1. Tổng sản phẩm quốc dân và thu nhập đầu người còn thấp: Theo báo cáo phát triển thế giới của Ngân hàng thế giới, quy mô của nền kinh tế Việt Nam năm 2005 đạt khoảng 50 tỷ USD, đứng thứ 55 trên thế giới, và với quy mô dân số đứng thứ 12, Việt Nam vẫn thuộc nhóm gồm 60 nước có mức GDP bình quân đầu người thấp nhất thế giới. Đến năm 2005 GDP bình quân đầu người của chúng ta mới đạt 638USD/người. Trong khi đó đến năm 2005 GDP bình quân đầu người của Thái Lan là 2740USD, của Trung Quốc là 1740 USD, của Malaixia là 9700USD,... Nguyên nhân do Việt Nam có xuất phát điểm thấp hơn so với các nước khác. Giả định là nền kinh tế các nước không tăng trưởng, với tốc độ tăng trưởng như trong giai đoạn vừa qua, thì muốn đuổi kịp Indonesia, Việt Nam phải mất hơn 6 năm, Philipins là 11 năm, Thailand là 21 nămTừ đó cho thấy, nếu Việt Nam muốn rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực thì tốc độ tăng trưởng 7.5% bình quân trong 5 năm qua vẫn là chưa đủ. Do đó, Việt Nam cần phải có sự bứt phá hơn nữa về tốc độ tăng trưởng kinh tế và phải duy trì tốc độ tăng trưởng cao kéo dài trong nhiều năm. 2.2. Kinh tế tăng trưởng chưa thực sự ổn định: Trong giai đoạn 2001-2005, giá cả nước ta đã có sự gia tăng đột biến- chỉ số giá tiêu dùng chung tăng 5.09%. Tình trạng đó một phần là do tác động của thị trường thế giới- giá xăng dầu và một số nguyên vật liệu nhập khẩu tăng, và thị trường trong nước- thiên tai dịch bệnh. Trong giai đoạn này chúng ta áp dụng mô hình tăng trưởng nhanh nên lạm phát là điều không thể tránh khỏi.Tuy nhiên, trên cơ sở so sánh với các nước trong khu vực năm 2004: lạm phát ở Trung Quốc là 3.4%, Malaysia 1.5%, Thailand 2.8%...thì có thể thấy, tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam khá cao. Nhưng với mức chung ở các nước đang phát triển thì tốc độ lạm phát đó là an toàn. Giai đoạn 2001 2005 lạm phát bằng 0.67 lần tốc độ tăng GDP, trung bình ở các nước phát triển thì tỷ lệ này thường ở mức 1.04 lần. Ví dụ như ở Georgia là 0.86 lần, Ấn Độ là 1.15 lần, Bolivia là 1.27 lần, đặc biệt ở Gahna là 3.92 lần,Điều này đã làm giảm đi ảnh hưởng tích cực của tăng trưởng đến việc cải thiện đời sống nhân dân. Nguyên nhân của lạm phát cao trong những năm 2004, 2005 là do việc xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng và ổn định (lạm phát) chưa đồng bộ. Chúng ta mới chỉ đưa ra những chính sách ngắn hạn, mang tính bị động mà không phải là những chính sách dài hạn để định hướng ngắn hạn, và mang tính chủ động hơn. 2.3. Các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế chưa được khai thác tốt Để có tăng trưởng kinh tế nhanh cần phải khai thác triệt để các nguồn lực cho tăng trưởng, trước hết là đất đai, lao đông, vốn và công nghệ. - Đất đai và các nguồn tài nguyên ở Việt Nam sau thời kỳ đổi mới đến nay đã được khai thác tốt hơn trước rất nhiều. Tuy nhiên, năng suất cây trồng vật nuôi vẫn còn thấp: năng suất lúa chỉ đạt 45-46 tạ/ha, thấp hơn nhiều so với Trung Quốc: 62 tạ/ha. Thực tiễn cho thấy, mô hình kinh tế hộ gia đình hiện nay đã bộc lộ nhiều hạn chế bởi tính phân tán do quy mô sản xuất nhỏ, việc sử dụng ruộng đất tỏ ra kém hiệu quả. Ngoài ra, ngành lâm nghiệp chuyển biến rất chậm, chất lượng rừng tự nhiên bị suy giảm do khai thác bừa bãi, nhiều dự án trồng rừng triển khai chậm và kém hiệu quả. Như vậy, mặc dù 5 năm qua giá trị sản xuất các ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn đạt nhịp độ tăng cao nhưng chi phí sản xuất cũng cao nên giá trị gia tăng của toàn khu vực I không đạt mục tiêu đề ra. Việt Nam là một nước có nhiều tài nguyên nhưng trên thực tế vẫn phải nhập khẩu gần 70% nguyên liệu đầu vào cho sản xuất. - Lao động: Nếu quy cả số người thiếu việc làm ra thất nghiệp thì tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta lên tới gần 15%. Tức là, việc khai thác tiềm năng về lao động ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế. Năm 2005, trong cơ cấu GDP nông lâm ngư nghiệp chiếm gần 21% nhưng lao đông trong khu vực này chiếm tới 57%. Từ đó có thể thấy, năng suất lao động trong khu vực này là rất thấp. Hiện nay, khi đất nước đã chuyển sang giai đoạn công nghiệp hóa- hiện đại hóa, nông nghiệp không còn là mặt trận hàng đầu, thì nguồn nhân lực vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nền kinh tế theo chiều sâu. Theo diễn đàn kinh tế Thế Giới thì nếu cho sức cạnh tranh của lao động theo thang điểm 100 thì Việt Nam đạt 47 điểm về khung pháp lí, 20 điểm về năng suất lao động, 40 điểm về thái độ làm việc, 16 điểm về kỹ năng lao động lao động và 32 điểm về chất lượng lao động. Các nhà kinh tế thế giới nhận định rằng nếu kinh tế có chất lượng nguồn nhân lực nhỏ hơn 35 điểm thì sẽ mất sức cạnh tranh trên thị trường. - Vốn đầu tư: Trong giai đoạn đầu đổi mới 1991-1995, tỷ lệ đầu tư tăng lên đến 22.3% GDP, thì GDP cũng tăng mạnh và đạt đến 8.2%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao còn được tiếp tục trong 2 năm tiếp theo: 1996 là 9.3% và 1997 là 8.2%. Tuy nhiên trong những năm tiếp theo, khi tỷ lệ đầu tư tiếp tục tăng cao, đạt đến 34.2 % năm 2000 và 38.7% năm 2005, thì tốc độ tăng trưởng GDP lại không biến động nhiều, từ năm 2000 đến 2005 mới tăng dần từ 6.8% lên 8.4%. Điều này thể hiên hiệu quả sử dụng vốn đầu tư còn nhiều hạn chế. Theo tính toán, ICOR của Việt Nam ở khu vực Nhà nước là 7.3, ở khu vực tư nhân là 3.8. Trong cùng giai đoạn thì của Singapore, Malaixia, Thái Lan ICOR trung bình khoảng 2.3 – 3.5. Theo IMF thì ICOR của Việt Nam so với Trung Quốc cao hơn khoảng 1.5 lần, cao hơn của Thái Lan 1.35 lần. Nguyên nhân của tình trạng này là trong giai đoạn này chúng ta đổi mới tư duy kinh tế vẫn chưa thật triệt để. Chúng ta vẫn áp dụng mô hình tăng trưởng kinh tế dựa chủ yếu vào thành phần kinh tế Nhà nước là chính, trong khi thành phần kinh tế nhà nước tỏ ra không hiệu quả, ví dụ riêng năm 2005 khu vực này chiếm 53.1% tổng số vốn đầu tư phát triển của Nhà nước nhưng chỉ tạo ra được 38% GDP. - Trình độ công nghệ: Trong công nghiệp, năm 2005 tỷ trọng doanh nghiệp có công nghệ cao mới chiếm 20.6%, thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp trong khu vực. Do công nghệ lạc hậu nên năng suất lao dộng xã hội thấp, chất lượng sản phẩm thấp và giá thành sản phẩm cao, vì vậy hàng hóa của Viêt Nam kém cạnh tranh trên thị trường cả ở nội địa và ở nước ngoài đối với hàng xuất khẩu. Dù trong giai đoạn này Nhà nước đầu tư cho khoa học công nghệ có tăng nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của đòi hỏi thực tế. Việc đầu tư cho KHCN chưa tạo nên bước đột phá trong TFP vào tăng trưởng. Đầu tư của Việt Nam vào KHCN thấp hơn Thái Lan 4 lần, Trung Quốc 7 lần, Malaixia 8 lần, Singapore 26 lần. Trong giai đoạn tiếp theo cần xây dựng kế hoạch và thực hiện việc đầu tư nghiên cứu phát triển KHCN đạt hiệu quả hơn nữa. CHƯƠNG III ĐỊNH HƯỚNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2006 - 2010 I. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2006 – 2010 1. Cơ hội * Những thành tựu kinh tế - xã hội trong những năm qua là cơ sở cho sự tăng trưởng và phát triển của đất nước ngày càng mạnh mẽ hơn. Sau hơn 20 năm đổi mới, diện mạo nền kinh tế Việt Nam đã hoàn toàn thay đổi cả về thế và lực: - Cấu trúc kinh tế mới: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ chế độ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Đây là điều kiện tiên quyết tiên quyết thúc đẩy nền kinh tế không ngừng tăng trưởng và phát triển trong những năm qua và giai đoạn sắp tới. - Tiềm lực kinh tế mới: Trong những năm gần đây, GDP của Việt Nam liên tục cao và ổn định làm cho đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu hợp lý, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp tạo cho nền kinh tế tăng trưởng với chất lượng cao, phát triển bền vững. - Thế phát triển mới: Việt Nam đã gia nhập các tổ chức trong khu vực và quốc tế như ASEAN, APTA, APEC, ký kết Hiệp định thương mại Việt Nam và Hoa Kỳ, cùng với sự nỗ lực gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế WTO sẽ giúp Việt Nam có nhiều cơ hội tăng trưởng và phát triển hơn nữa trong những năm tiếp theo. - Lực lượng ,Chủ thể phát triển mới: Nền kinh tế Việt Nam chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều lĩnh vực, vì thế có thể huy động tối đa mọi nguồn lực trong xã hội cùng phục vụ cho sự nghiệp phát triển của đất nước. * Sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động tài chính - ngân hàng và xu hướng tiếp tục gia tăng đầu tư trong và ngoài nước góp phần không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế của đất nước. - Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, cũng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành tài chính - ngân hàng đang thu hút rất nhiều ngân hàng quốc tế hợp tác và đầu tư.Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán phát triển rất sôi động, sự tham gia của các tập đoàn kinh tế lớn như Vinamilk, Sacombank, Tái bảo hiểm Việt Nam, Bảo Minh, Petrolimextạo ra nhiều cơ hội đầu tư mới cho các nhà đầu tư. * Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội cho các nhà xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước dễ tiếp cận với thị trường thế giới, Việt Nam có lợi trong các vụ tranh chấp thương mạiMặt khác, do sức ép cạnh tranh lớn nên các doanh nghiệp phải chủ động hơn trong việc phát triển, điều này làm cho công nghệ của các doanh nghiệp được nâng cao, giảm mức tiêu hao nguyên vật liệu, hạ chi phí sản xuất. * Sự phát triển khoa học - công nghệ trên thế giới như vũ bão, theo đó công nghệ được áp dụng trong mọi lĩnh vực, mọi hoạt động của nền kinh tế, từ đó nâng cao năng suất, chất lượng của sản phẩm và đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, có thêm nhiều ngành, nhiều lĩnh vực mới được hình thành và phát triển như Thương mại điện tử, thị trường ảo, làm việc từ xa đạt hiệu quả rất cao, vấn đề khoảng cách bị xóa bỏ giúp giảm chi phí dịch vụ. 2. Thách thức 2.1. Sự tụt hậu về kinh tế. - Khoảng cách của Việt Nam với các nước trong khu vực ngày càng bị nới rộng. Singapore chỉ mất 15 năm để từ một “nước vạn chài” trở thành một nước công nghiệp. Hàn Quốc cũng chỉ mất 20 năm để trở thành một trong cường quốc trên thế giới. Hay Trung Quốc vào những năm 1980 không hơn nước ta là mấy, thế nhưng hiện nay đã bỏ xa Việt Nam khoảng 10 - 15 năm. Còn Việt Nam, sau hơn 20 năm đổi mới, nước ta vẫn là một nước nghèo, lạc hậu, trình độ phát triển thấp. - So với thế giới thì năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam mới đứng thứ 77/104, quy mô sản xuất còn bé, năm 2005, tổng sản phẩm trong nước ước chiếm 0,1 GDP của toàn cầu. 2.2. Thách thức về phát triển bền vững Ngày nay, vấn đề phát triển bền vững đã trở thành xu thế của thời đại. Việt Nam là nước đang phát triển nên phải đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển, thế nhưng chúng ta vẫn cần kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng với vấn sử dụng tài nguyên, năng lượng một cách hợp lý và bền vững, tránh phát triển nóng như Trung Quốc trong những năm gần đây. Cần giải quyết tốt giữa vấn đề tăng trưởng nhanh để tránh tụt hậu với việc nâng cao chất lượng tăng trưởng, đảm bảo cho phát triển bền vững. 2.3. Sự lạc hậu về trình độ khoa học - công nghệ. Hiện nay, trình độ khoa học - công nghệ của Việt Nam còn rất lạc hậu, năng suất thấp, chất lượng hàng hóa chưa cao, trong khi đó việc phát triển nhanh như vũ bão và liên tục của công nghệ thế giới trong nhiều năm qua đã tạo thách thức rất lớn cho Việt Nam trong việc nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. 2.4. Hệ thống tài chính, tiền tệ còn nhiều yếu kém, bất cập Cơ cấu sản xuất trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng vùng chưa chuyển dịch kịp thời theo sự biến động nhanh của nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Tính hiện đại trong công nghệ, trong tổ chức sản xuất, trong quản lý doanh nghiệp còn thấp. 2.5. Vấn đề tham nhũng đã trở thành quốc nạn Tham nhũng làm cho tài sản quốc gia thất thoát nghiêm trọng, nền kinh tế bị giảm sút, tình trạng đầu tư thua lỗ, sử dụng nguồn vốn đàu tư kém hiệu quả và làm thui chột môi trường cạnh tranh lành mạnh. Tham nhũng cũng làm gia tăng sự phân cực giầu nghèo, bất bình đẳng trong xã hội, làm giảm long tin của nhân dân đối với đảng, nhà nước và chế độ gây bất ổn về chính trị - xã hội. Ngày nay tham nhũng đã xuất hiện ở mọi lĩnh vực, mọi nơi, thậm chí ở nhiều cương vị lãnh đạo rất cao, lượng của cải tham nhũng đạt mức khổng lồ. 2.6. Ngoài ra, còn có nhiều yếu tố gây bất ổn chính trị - xã hội khác Tình hình an ninh trật tự ở một số vùng còn nhiều phức tạp, tội phạm hình sự gia tăng nhanh chóng và xuất hiện ngay cả trong lực lượng bảo vệ pháp luật, hàng ngũ cán bộ của đảng và nhà nước. Tình hình đình công của công nhân trong khu công nghiệp năm 2005 chứng tỏ công nhân vẫn còn bị bóc lột thạm tệ. II. MỤC TIÊU VÀ ĐỊNH HƯỚNG NÂNG CAO TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2006 – 2010 1. Mục tiêu tổng quát “Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Tiếp tục củng cố và mở rộng các quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế”. ( Trích Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc ) 2. Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu trong giai đoạn 2006 – 2010 - Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá so sánh gấp hơn 2.1 lần năm 2000, đạt khoảng 1690-1760 nghìn tỷ đồng tương đương 94-98 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng GDP 7.5-8%/năm, phấn đấu đạt trên 8%/năm, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp tăng 3-3,2%, công nghiệp và xây dựng tăng 9.5-10.2%, dịch vụ tăng 7.7-8.2%. GPD bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt tương đương 1050-1100 USD. - Cơ cấu ngành trong GDP: khu vực nông nghiệp khoảng 15 - 16%, công nghiệp và xây dựng 43-44%, dịch vụ 40-41%. - Kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm. - Tỉ lệ huy động GDP hàng năm vào ngân sách đạt 21-22%. - Tổng vốn đầu tư xã hội đạt khoảng 40% GDP, khoảng 2200 nghìn tỷ đồng (theo giá năm 2005), tương đương 138,6 tỷ USD. 3. Một số định hướng tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 2006-2010. - Phát huy các nguồn nội lực và ngoại lực trong một cơ cấu có hiệu quả và năng động. Đây là nhiệm vụ then chốt để nâng cao tăng trưởng kinh tế trong những năm tới. - Chuyển dần từ tăng trưởng theo chiệu rộng sang tăng trưởng theo chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và phát triển bền vững. - Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế dựa trên lợi thế so sánh động, nguồn nhân lực dồi dào, tiền nhân công thấp, trình độ tay nghề cao. - Tăng trưởng kinh tế đi đôi giải quyết vấn đề phúc lợi xã hội, xóa đói giảm nghèo. - Tăng trưởng kinh tế gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo tăng trưởng bền vững. III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI 1. Huy động tối đa các nguồn vốn cho tăng trưởng. 1.1. Tăng cường huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán (TTCK) bằng cách: - Đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp theo phương thức bán cổ phần. - Chú trọng phát triển thị trường trái phiếu nhằm thu hút vốn đầu tư. - Hoàn thiện khuân khổ pháp luật về TTCK, đổi mới hệ thống quản lý và tăng cường giám sát TTCK tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. - Phát triển thị trường giao dịch, các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán. Đồng thời, cần có những chính sách khuyến khích hữu hiệu các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư mạnh mẽ vào TTCK. - Phát triển giáo dục, thông tin tuyên truyền là chìa khóa trong các giải pháp phát triển TTCK. 1.2. Đẩy mạnh hoạt động huy động vốn của các trung gian tài chính. - Tăng cường năng lực tài chính của các NHTM nhà nước và NHTM cổ phần để đầu tư vào công nghệ thanh toán góp phần nâng cao năng suất và chất lượng cho các hoạt động của các NHTM. - Phát triển một số NHTM Việt Nam theo mô hình tập đoàn kinh tế đa năng cả về ngân hàng, bảo hiểm, đầu tư, môi giớitạo uy tín cho khách hàng trong nước và thu hút các đối tác ngân hàng trên thế gới hợp tác cùng phát triển. - Cần phải chú trọng tới công tác quản lý các chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo hướng cấp phép hoạt động. Chú trọng tới công tác dào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công nhân viên trong ngành 1.3. Huy động nguồn vốn trong dân cư thông qua giải pháp phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Cần đảm bảo tính đồng bộ giữa quyền tự do, dân chủ kinh doanh và thể chế nhà nước. Có những chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mới khởi nghiệp. Tạo lập môi trường thuận lợi đi cũng các hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Nâng cao tính chủ động, sáng tạo của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc huy động vốn phát triển sản xuất. 1.4. Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Giai đoạn 2006-2010, vốn đầu tư nước ngoài dự kiến đạt 55,1 tỷ USD chiếm 35% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó nguồn vốn ODA 17 tỷ USD, vốn đầu tư trực tiếp FDI 23-25 tỷ USD, vốn đầu tư từ kiều hối 12 tỷ USD, vốn đầu tư gián tiếp 9 tỷ USD - Giải pháp: + Xây dựng chiến lược và thu hút FDI. Cần xác định rõ ngành, lĩnh vực, địa bàn cần khuyến khích thu hút + Cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài: • Hoàn thiện hệ thống pháp luật • Đổi mới, hoàn thiện, chính sách đầu tư nước ngoài • Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư • Đổi mới quản lý Nhà nước, cải tiến thủ tục hành chính FDI 1.5. Tạo các bước đột phá mới để thu hút kiều hối - Mở ra cho người dân trong và ngoài nước giao dịch vốn với nhau - Chính sách phù hợp để Việt kiều trở về nước mua nhà, đất. - Chính sách cho Việt kiều mua cổ phần không bị giới hạn quá nhiều - Tạo ra mạng lưới để thu nhận và chi trả tiền 2. Phát triển khoa học - công nghệ 2.1. Thúc đẩy nhu cầu đổi mới công nghệ và đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp. - Tiếp tục thực hiện cải cách kinh tế vĩ mô, cải cách cơ cấu, hoàn thiện thể chế thị trường theo hướng tạo môi trường pháp lý kinh doanh bình đẳng nhằm tạo sức ép cạnh tranh trên thị trường, từ đó doanh nghiệp chú ý tới đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả sản xuất. - Tiếp tục triển khai nhanh, kiên quyết và hiệu quả các định hướng sắp xếp, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, giảm bao cấp, bảo hộ, độc quyền đối với doanh nghiệp nhà nước, tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động đổi mới công nghệ của doanh nghiệp nhà nước - Nâng cao đóng góp của đầu tư nước ngoài trong thúc đẩy đầu tư, đổi mới và chuyển giao công nghệ cao theo hướng khuyến khích đầu tư nước ngoài đổi mới công nghệ và thực hiện các hoạt động nghiên cứu triển khai ở Việt Nam; khuyến khích doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài liên kết với các tổ chức nghiên cứu khoa học-công nghệ trong nước đầu tư đổi mới công nghệ. - Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia đầu tư đổi mới công nghệ trong sản xuất thông qua các hình thức như: hỗ trợ về vốn, hỗ trợ chuyên gia tư vấn; Thực hiện các dịch vụ như: dịch vụ công nghệ, dịch vụ bảo hộ người sở hữu trí tuệ, chuyển gia công nghệ, dịch vụ cung cấp thông tin công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực về công nghệ, hỗ trợ các hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ tổ chúc hoạt động tuyên truyền thông tin về công nghệ, đổi ,mới công nghệ. 2.2. Hình thành thị trưòng các sản phẩm khoa học công nghệ và hỗ trợ thị trường này phát triển Những cơ chế, chính sách nên tập trung theo hương xây dựng đầy đủ các thể chế để thị trường vận hành thong suốt, cởi bỏ những yếu tố hạn chế các chủ thể tiềm năng tham gia thực hiện giao dịch chính thức trên thị trường, hỗ trợ các chủ thể tham gia về vốn tài chính, con người, về thông tin. Trong đó vấn đề trước mắt là cải thiện công tác bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Cụ thể: - Nâng cao ý thức tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ thông qua tuyên truyền và nâng cao hiệu lực pháp luật; tạo thói quen trong xã hội về thực hiện theo pháp luật các giao dịch về công nghệ, chuyển giao công nghệ - Rà soát, sớm sửa đổi, bổ sung và ban hành mới những văn bản dưới luật liên quan tới các vấn đề hiện đang bức xúc trong lĩnh vực khoa học công nghệ, sở hữu trí tuệ như: các giao dịch, hợp đồng mua bán, chuyển giao công nghệ, cơ sở tính giá công nghệĐồng thời nghiên cứu hoàn thiện về luật sở hữu trí tuệ. - Nâng cao hiểu biết và năng lực của cán bộ trong việc phát hiện các vi phạm cũng như giải quyết các tranh chấp về sở hữu trí tuệ; vận hành có hiệu quả và hiệu lực thể chế để xử lý các vi phạm quyền sở hữu trí tuệ - Khuyến khích các tổ chức khoa học-công nghệ tham gia các giao dịch chính thức trên thị trường khoa học-công nghệ; đổi mới cơ chế hoạt động của các tổ chức nghiên cứu và triển khai theo hướng cơ chế thị trường: các tổ chức nghiên cứu khoa học-công nghệ hoạt đông như một doanh nghiệp phi lợi nhuận. 2.3. Một số giải pháp khác Có chiến lược phát triển dài hạn về đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ: đầu tư có trọng tâm, trọng điểm để tạo bước bứt phá về một số công nghệ cao, có tác động tích cực đến việc nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế; Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực khoa học-công nghệ, khuyến khích, tôn vinh những nhà khoa học trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài có đóng góp to lớn về công nghệ. 3. Đào tạo nguồn nhân lực Phát triển con người là yếu tố quan trọng bậc nhất để đảm bảo tăng trưởng kinh tế vè giảm nghèo đói. Lợi thế cạnh tranh của một quốc gia cũng như cơ sở đảm bảo cho sự phát triển bền vững trong những thập kỷ tới phụ thuộc rất nhiều vào trình độ phát triển con người ở mỗi nước. Sự phân hóa giàu nghèo cũng có nguyên nhân một phần lớn bởi sự khác biệt về trình độ học vấn nói riêng và sự phát triển con người nói chung. Bởi vậy cần có những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo: - Giải pháp then chốt nhất vẫn là đổi mới và nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong GD-ĐT, cải cách giáo dục toàn diện nhằm làm cho hệ thống giáo dục gắn kết với yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước; đẩy mạnh đổi mới nội dung chương trình và phương pháp giáo dục theo hướng hiện đại và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục; kiên quyết giảm tải tối hợp lý nội dung chương trình học phù hợp với tâm sinh lý của học sinh tiểu học và trung học cơ sở. - Khẩn trương triển khai đề án phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ trong quản lý giáo dục; cơ cấu lại hệ thống đào tạo, hoàn thiện hệ thống đào tạo. Khuyến khích cạnh tranh lành mạnh tạo cơ chế và điều kiên dể các trường đại học, dạy nghề; chuyển mạnh sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. - Tăng cường đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp bao gồm cả tái đào tạo nghề nhằm giúp cho những người trong độ tuổi lao động có thể dễ dàng thích ứng với những đòi hỏi thường xuyên biến động của thị trường lao động. Để thu hẹp dần khoảng cách giữa đầu ra của đào tạo với nhu cầu hiện có của thị trường lao động, các biện pháp cần sớm thực hiện là: • Xác định rõ ràng các lĩnh vực, ngành nghề hiện đang thiếu nhân công, thiếu lao động có trình độ chuyên môn, tay nghề để tăng cường đầu tư hỗ trợ. • Tiêu chuẩn hóa các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, bồi dưỡng kỹ năng, với những chỉ tiêu chất lượng được quy định rõ ràng. • Phối hợp chặt chẽ giữa các bên tham gia thị trường lao động đó là các xí nghiệp có nhu cầu lao động với các cơ quan đào tạo, bồi dưỡng tay nghề. - Tăng cường hợp tác với nước ngoài và thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực đào tạo đại học, sau đại học và đào tạo nghề, khuyến khích và tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên ra nước ngoài học tập, đi đôi với việc tăng cường công tác quản lý lưu học sinh. - Tăng cường đầu tư cho giáo dục bằng nhiều nguồn khác nhau, trong đó đầu tư từ vồn ngân sách nhà nước cần tăng lên, đồng thời huy động tốt hơn từ nhân dân thông qua việc đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, xây dựng xã hội học tập. PHẦN KẾT LUẬN Nằm trong khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới và theo dự báo sẽ còn tiếp tục duy trì trong 15 – 20 năm tới, Việt Nam đã trở thành một mắt xích quan trọng trong hệ thống sản xuất xuyên châu Á và được đánh giá là có nhiều nhân tố tích cực để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, tình hình chính trị ổn định, vị trí tự nhiên thuận lợi, lực lượng lao động trẻ và đang phát triển, chi phí nhân công thấp hơn các nước láng giềng và trình độ công nghệ ngày càng tăng. Một điểm nữa tác động tới sự tăng trưởng của kinh tế Việt Nam là việc ngày càng mở rộng hợp tác thương mại quốc tế. Những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam nhằm giảm bớt rào cản đầu tư và cam kết về việc thực hiện tự do hóa nền kinh tế cùng với việc đưa ra cải cách dựa trên nền tảng thị trường sẽ đem lại nhiều tác động tích cực cho sự phát triển kinh tế trong những thập kỷ tới. Tuy nhiên đánh giá về việc phát triển của Việt Nam, các chuyên gia kinh tế cũng nhận định đây là thị trường có nhiều tiềm năng rất lớn với không ít những rủi ro và thách thức. Một trong số những điều đáng lo ngại đó là tỷ lệ lạm phát còn khá cao. Bên cạnh đó một số vấn đề dễ nhận thấy là nền tảng cơ sở hạ tầng chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế trong nước cũng như sự đầu tư của các công ty nước ngoài. Mặc dù lực lượng lao động đông đảo nhưng nguồn nhân lực có chất lượng cao thực sự vẫn rất khan hiếm. Một số vấn đề được các nhà đầu tư nước ngoài đưa ra là sự thiếu hụt nhân lực chuyên môn và quản lý, môi trường pháp lý có nhiều cải cách song vẫn chưa hoàn thiện. Và trong những năm qua vấn đề quan liêu tham nhũng cũng đã có ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam. Năm 2007 nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng ở mức 8,5%, thêm một năm tiếp tục đà phát triển trên 8% kể từ năm 2005. Theo Báo cáo thường niên về Triển vọng Kinh tế Đông Á 2008 do Viện nghiên cứu các nền kinh tế đang phát triển vừa công bố: “Kinh tế khu vực Đông Á nói chung năm 2008 sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ nhờ kỳ vọng phát triển kinh tế bền vững của các nước thành viên. Riêng Việt Nam có thể tiếp tục tăng trưởng tốt ở mức 8,7%”. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm qua cho thấy nhiều dấu hiệu khả quan tuy nhiên cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Tăng trưởng kinh tế cao về số lượng là cần thiết nhưng làm cho việc tăng cao về số lượng đó ngày càng bền vững, đặc biệt trong điều kiện mở cửa, hội nhập có sự cạnh tranh gay gắt, thì yêu cầu nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế là một vấn đề tất yếu. Để đạt được điều đó, việc xác định vai trò các nhân tố tăng trưởng kinh tế để từ đó có kế hoạch đầu tư hiệu quả trong thời điểm hiện nay là một việc làm vô cùng cần thiết và mang nhiều ý nghĩa quan trọng. Do khả năng tổng hợp tài liệu nghiên cứu và thời gian còn hạn chế nên trong quá trình thực hiện không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp xây dựng và sửa chữa của giáo viên và các bạn để đề án được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU CHƯƠNG I: CÁC LÝ THUYẾT VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ I. KHÁI NIỆM VÀ ĐO LƯỜNG II. CÁC MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 1. Mô hình cổ điển 2. Mô hình của Cac Mac 3. Mô hình tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế 4. Mô hình của Keynes về tăng trưởng kinh tế 5. Mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại của P.A.Samuelson – hổn hợp III.CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 1. Mục tiêu của tăng trưởng kinh tế 2. Vai trò của năng suất đến sự tăng trưởng kinh tế 3. Các nhân tố của tăng trưởng kinh tế 3.1. Vốn nhân lực 3.2. Tài nguyên thiên nhiên 3.3. Tư bản 3.4. Tri thức công nghệ CHƯƠNG II. TÌNH HÌNH TĂNG TRƯỞNG CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 – 2005 I. BỐI CẢNH 1. Bối cảnh quốc tế 2. Bối cảnh trong nước 2 II.THỰC TRẠNG GIAI ĐOẠN 2001 – 2005 1. Một số thành tựu đạt 1.1. Tăng trưởng về qui mô và tốc độ 1.2. Tăng trưởng của các yếu tố đầu vào 1.3. Đóng góp của yếu tố đầu vào cho tăng trưởng kinh tế 1.4. Tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội 2. Những vấn đề tồn tại 2.1. Tổng sản phẩm quốc dân và thu nhập đầu người còn thấp 2.2. Kinh tế tăng trưởng chưa thực sự ổn định 2.3. Các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế chưa được khai thác tốt CHƯƠNG III. ĐỊNH HƯỚNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2006 – 2010 I. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2006 – 2010 1. Cơ hội 2. Thách thức 2.1. Sự tụt hậu về kinh tế 2.2. Thách thức về phát triển bền vững 2.3. Sự lạc hậu về trình độ khoa học – công nghệ 2.4. Hệ thống tài chính, tiền tệ còn nhiều thấp kém, bất cập 2.5. Vấn đề tham nhũng đã trở thành quốc nạn 2.6. Các yếu tố gây bất ổn định chính trị xã hội II. MỤC TIÊU VÀ ĐỊNH HƯỚNG NÂNG CAO TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2006 – 2010 1. Mục tiêu tổng quát 2. Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu trong giai đoạn 2006 – 2010 3. Một số định hướng tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 2006 – 2010 III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI 1. Huy động tối đa các nguồn vốn cho tăng trưởng 1.1. Tăng cường huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán 1.2. Đẩy mạnh hoạt động huy động vốn của các trung gian tài chính 1.3. Huy động nguồn vốn trong dân cư thông qua giải pháp phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.4. Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài 1.5. Tạo các bước đột phá mới để thu hút kiều hối 2. Phát triển khoa học – công nghệ 2.1. Thúc đẩy nhu cầu đổi mới công nghệ và đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp 2.2. Hình thành thị trường các sản phẩm khoa học công nghệ và hỗ trợ thị trường này phát triển 2.3. Một số giải pháp khác 3. Đào tạo nguồn nhân lực

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6104.doc
Tài liệu liên quan