Định hướng và giải pháp phát triển đội ngũ doanh nhân ở Đồng Nai

LỜI MỞ ĐẦU 1. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu: Trên cơ sở những vấn đề lí luận và thực tiễn về phát triển đội ngũ doanh nhân, từ phân tích, đánh giá thực trạng phát triển đội ngũ doanh nhân ở Đồng Nai những năm qua, đề tài đề xuất định hướng, các giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển đội ngũ doanh nhân ở Đồng Nai đến năm 2020. Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu đặt ra, đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Nghiên cứu những vấn đề lí luận về doanh nhân và phát triển đội ngũ doanh nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam nói chung và ở địa bàn cấp tỉnh nói riêng; - Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển đội ngũ doanh nhân ở một số quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, đặc biệt là những nước có nền kinh tế chuyển đổi, có điều kiện tương đồng, từ đó rút ra những bài học có thể vận dụng vào thực tiễn Việt Nam nói chung và Đồng Nai nói riêng; - Nghiên cứu thực trạng phát triển đội ngũ doanh nhân ở Đồng Nai những năm qua, chỉ ra những thành công, hạn chế và nguyên nhân; - Chỉ ra những yêu cầu mới mà công cuộc đổi mới trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng đang đặt ra đối với đội ngũ doanh nhân và phát triển đội ngũ doanh nhân ở Đồng Nai; - Đề xuất định hướng, các giải pháp và kiến nghị với Đảng, Chính phủ, Tỉnh ủy, UBND Đồng Nai và các cơ quan liên quan nhằm phát triển đội ngũ doanh nhân ở Đồng Nai những năm tới. Nội dung nghiên cứu: Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu trên, đề tài tập trung giải quyết các nội dung nghiên cứu sau: Nội dung thứ nhất: Những vấn đề lí luận về phát triển đội ngũ doanh nhân trong nền KTTT định hướng XHCN ở phạm vi quốc gia và địa phương, kinh nghiệm phát triển đội ngũ doanh nhân của một số quốc gia trên thế giới. Trong nội dung này, đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề cụ thể sau đây: (1) Một số vấn đề cơ bản về doanh nhân, bao gồm các quan niệm về doanh nhân; vai trò của doanh nhân trong phát triển kinh tế - xã hội trong thời kì đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng; các tố chất cần có của doanh nhân; các kĩ năng mà doanh nhân phải có; các điều kiện để trở thành doanh nhân. (2) Các yếu tố tác động tới sự hình thành và phát triển các tố chất và kĩ năng của doanh nhân. (3) Các tiêu chí phân loại, các tiêu chí và phương pháp đánh giá đội ngũ doanh nhân ở địa bàn cấp tỉnh. (4) Kinh nghiệm phát triển đội ngũ doanh nhân của một số quốc gia và bài học thực tiễn rút ra cho Việt Nam nói chung, Đồng Nai nói riêng. Nội dung thứ hai: Thực trạng đội ngũ doanh nhân ở Đồng Nai hiện nay. Trong phần này, đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề chủ yếu sau đây: (1) Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển doanh nghiệp và doanh nhân qua các thời kì. (2) Quá trình hình thành và phát triển đội ngũ doanh nhân Đồng Nai qua các thời kì. (3) Đánh giá chung về đội ngũ doanh nhân Đồng Nai. Nội dung thứ ba: Dự báo các xu hướng vận động của nền kinh tế Việt Nam nói chung, của Đồng Nai nói riêng và những yêu cầu mới đối với doanh nghiệp và doanh nhân ở Đồng Nai những năm tới. Trọng tâm của nội dung này bao gồm những vấn đề sau đây: (1) Dự báo xu hướng vận động của môi trường kinh doanh và của nền kinh tế Việt Nam nói chung, của Đồng Nai nói riêng đến năm 2020, những thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức đang đặt ra trước các doanh nghiệp Đồng Nai. (2) Dự báo những yêu cầu mới đối với đội ngũ doanh nhân Đồng Nai và phát triển đội ngũ doanh nhân Đồng Nai tới năm 2020. Nội dung thứ tư: Đề xuất định hướng và các giải pháp, các kiến nghị nhằm phát triển đội ngũ doanh nhân ở Đồng Nai những năm tới. Trong nội dung này đề tài tập trung giải quyết những vấn đề chủ yếu sau: (1) Đề xuất định hướng phát triển đội ngũ doanh nhân Đồng Nai đến năm 2020. (2) Đề xuất các nhóm giải pháp phát triển đội ngũ doanh nhân Đồng Nai trong những năm tới. (3) Đề xuất các kiến nghị với các cơ quan liên quan. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu đối tượng chính là đội ngũ doanh nhân và những vấn đề liên quan đến phát triển đội ngũ doanh nhân trên địa bàn Đồng Nai. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn ở việc nghiên cứu đội ngũ doanh nhân người Việt Nam, bao gồm chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh công ty hợp danh, chủ tịch hội đồng thành viên, chủ tịch công ty, thành viên hội đồng quản trị, giám đốc (tổng giám đốc) trong các doanh nghiệp của người Việt Nam trên địa bàn tỉnh Đồng Nai với 4 hình thức tổ chức là công ty TNHH, công ti cổ phần, DNTN và doanh nghiệp hợp danh, hoạt động trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, trong thời gian từ 1975 đến nay. Ngoài ra, các giải pháp và kiến nghị mà đề tài dự kiến đề xuất chủ yếu thuộc phạm vi quản lí của cơ quan quản lí nhà nước các cấp. 3. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, kĩ thuật được sử dụng Cách thức tiếp cận: Đề tài là một tập hợp nhiều nội dung, chịu tác động tổng hợp, nhiều chiều với đối tượng nghiên cứu rất rộng. Do đó, đề tài sử dụng cách tiếp cận hệ thống, triển khai theo nguyên tắc từ hệ thống chung đến hệ thống bộ phận. Trước hết phân tích, làm rõ những vấn đề lí luận và thực tiễn về xây dựng đội ngũ doanh nhân trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Phần này sẽ là cơ sở phân tích những vấn đề liên quan đến đội ngũ doanh nhân ở Đồng Nai - bộ phận cấu thành của kinh tế, xã hội Việt Nam. Cách tiếp cận này một mặt xác định rõ những vấn đề mang tính nguyên tắc, cốt lõi của hệ thống, mặt khác loại bỏ được những ảnh hưởng nhiều chiều gây khó khăn trong quá trình nghiên cứu. Bên cạnh đó, đề tài sử dụng cách tiếp cận đa chiều do bản thân đội ngũ doanh nhân Đồng Nai vừa là bộ phận cấu thành trong không gian tổ chức quản lý kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nói riêng vừa là bộ phận cấu thành trong hệ thống kinh tế - xã hội Việt Nam nói chung, sự vận động phát triển của nó do nhiều yếu tố quy định. Như vậy, khi nghiên cứu nội dung đề tài, các cách tiếp cận nêu trên sẽ phát hiện và giải quyết vấn đề từ hai phía: Nhìn nhận những vấn đề liên quan tới đội ngũ doanh nhân Đồng Nai với những phân tích khách quan theo phân hệ của hệ thống và nhìn nhận vấn đề trực tiếp từ kinh tế, xã hội Đồng Nai nhằm làm rõ những vấn đề cần giải quyết, đề xuất những giải pháp và kiến nghị phù hợp. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu đặt ra, đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước, đồng thời vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: 1. Nghiên cứu định tính (nghiên cứu lí thuyết): Dựa trên những cơ sở lí thuyết về phát triển kinh tế - xã hội nói chung, phát triển đội ngũ doanh nhân nói riêng và thực tiễn về những vấn đề này ở một số nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển, đề tài phân tích, đánh giá, dự báo các yêu cầu mà mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đặt ra trước đội ngũ doanh nhân ở nước ta nói chung, Đồng Nai nói riêng trong bối cảnh mới, từ đó đưa ra định hướng và các giải pháp nhằm phát triển đội ngũ này những năm tới. 2. Phương pháp điều tra xã hội học: Nội dung điều tra tập trung vào 2 vấn đề chính sau đây: - Nhận thức của xã hội, các cơ quan quản lí nhà nước và bản thân doanh nhân về vị trí, vai trò của doanh nhân đối với công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh hiện nay. - Những tiềm năng, thế mạnh, điểm yếu và yêu cầu đối với đội ngũ doanh nhân Đồng Nai khi Việt Nam gia nhập WTO. Với các nội dung trên, đề tài xây dựng 2 mẫu phiếu điều tra tương ứng. Địa bàn điều tra: Đề tài thực hiện điều tra ở 3 địa bàn, gồm Đồng Nai, Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh. Trong đó chủ yếu tập trung vào lấy số liệu trên địa bàn Đồng Nai, các địa phương khác nhằm đối chiếu so sánh. Đối tượng điều tra: Tập trung vào 4 nhóm đối tượng chính: (1) Các chủ doanh nghiệp, chủ hộ kinh doanh. (2) Công nhân trong các doanh nghiệp. (3) Cán bộ thực hiện chức năng quản lí nhà nước đối với doanh nghiệp. (4) Một số tầng lớp dân cư. Phương pháp chọn mẫu: Việc chọn mẫu điều tra được thực hiện chủ yếu theo nguyên tắc lấy mẫu xác suất của Krejcie và Morgan. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng nguyên tắc lấy mẫu ngẫu nhiên phân tầng như một nguyên tắc trợ giúp. 3. Phương pháp thống kê - so sánh: Sử dụng các số liệu thống kê để phân tích, so sánh nhằm đưa ra kết luận về thực trạng đội ngũ doanh nhân và phát triển đội ngũ doanh nhân ở Đồng Nai. 4. Phương pháp thảo luận nhóm tập trung: Tiến hành một số thảo luận nhóm tập trung, đối tượng tham gia là cán bộ quản lí nhà nước của tỉnh Đồng Nai, một số giám đốc doanh nghiệp trong tỉnh và các nhà nghiên cứu . để tìm hiểu quan điểm, nhận thức và thực tiễn xây dựng đội ngũ doanh nhân ở Đồng Nai. Phương pháp này cung cấp các số liệu định tính, được kết hợp chặt chẽ với phương pháp Điều tra xã hội học. Các số liệu của 2 phương pháp này sẽ bổ sung cho nhau. 5. Phương pháp chuyên gia: Một số hội thảo được tổ chức trong quá trình thực hiện nhằm tìm kiếm sự thống nhất trong các phân tích, đánh giá cũng như đề xuất các giải pháp và kiến nghị. 6. Phương pháp phỏng vấn sâu: Tiến hành một số cuộc phỏng vấn sâu một số cán bộ chủ chốt các ban, ngành trong tỉnh, một số chuyên gia và đại diện của Hội doanh nghiệp trẻ Đồng Nai, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Cục hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hội doanh nghiệp trẻ Việt Nam, Câu lạc bộ doanh nghiệp Việt Nam, Ban Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp trung ương và một số nhà nghiên cứu. 7. Phương pháp dự báo: Kết hợp cả phương pháp dự báo định tính và dự báo định lượng nhằm dự báo những yêu cầu đối với phát triển đội ngũ doanh nhân ở Đồng Nai đến năm 2020. Cách thức thu thập số liệu: (1) Thu thập gián tiếp hay nghiên cứu tại bàn [Desk Study] (kế thừa các công trình nghiên cứu trước đó; tổng hợp các nguồn số liệu thông qua các báo cáo, tổng kết của các nguồn thông tin chính thức; tìm thông tin thông qua các phương tiện thông tin đại chúng: Báo chí, Internet .); (2) Thu thập dữ liệu trực tiếp hay nghiên cứu thực tế [Field Study] (phỏng vấn sâu [In-depth interview]: Đề tài tiến hành phỏng vấn sâu một số cán bộ quản lý, điều hành thực tiễn và một số nhà nghiên cứu; thảo luận nhóm tập trung [Focus Group Discussion]; điều tra xã hội học [Survey]; quan sát tham dự [Participatory Observation]). Ngoài ra, để có thêm căn cứ thực tiễn phục vụ nghiên cứu và có cơ sở so sánh, đề tài đã tổ chức khảo sát ở Hà Nội, Đà Nẵng - những địa phương là trọng điểm kinh tế, có lực lượng doanh nhân đông đảo, có nhiều nét tương đồng với Đồng Nai, từ đó vấn đề nghiên cứu sẽ bộc lộ rõ hơn. 4. Kết cấu của báo cáo tổng kết Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, các nội dung nghiên cứu của đề tài được kết cấu thành 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lí luận và thực tiễn về doanh nhân và phát triển đội ngũ doanh nhân ở địa bàn cấp tỉnh hiện nay Chương 2: Thực trạng đội ngũ doanh nhân ở Đồng Nai hiện nay Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển đội ngũ doanh nhân ở Đồng Nai trong những năm tới

pdf188 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1650 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Định hướng và giải pháp phát triển đội ngũ doanh nhân ở Đồng Nai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vấn đề là sự hiểu biết về văn hoá, tâm lý, phong tục, tập quán của các nhà kinh doanh đối với khu vực dân cư khác nhau. Muốn vậy họ phải có trình độ học vấn và sự hiểu biết nhất định nơi họ sẽ tiến hành kinh doanh. “Nhập gia tuỳ tục”, người ta đến một nơi khác 165 hiểu biết phong tục, tập quán, lối sống, tâm lý thị hiếu của địa phương đó, thì việc làm ăn trở nên thuận lợi, ấy là chưa kể nắm được ngôn ngữ của họ để nghe được, nói được và hiểu được tất cả những nguyện vọng thắc mắc của khách hàng thì lợi thế còn lớn hơn. Mặt khác, ngoại ngữ sẽ giúp người doanh nhân có thể trực tiếp trao đổi, trực tiếp lắng nghe, tranh luận và chia sẻ cùng khách hàng, có như vậy những ý tưởng, những sáng kiến được xuất hiện nhanh nhất từ những cuộc trao đổi trực tiếp ấy. Cũng như vậy, với một trình độ hiểu biết ngoại ngữ tốt, doanh nhân có thể trực tiếp tìm hiểu lề lối, pháp luật cũng như tất cả các vấn đề đặt ra trong hoạt động kinh doanh của đối tác. Điều này sẽ tránh được nhiều rủi ro không đáng có. Năm là, các giá trị văn hoá phải giúp cho doanh nghiệp tạo dựng một khả năng thích ứng tốt với những thay đổi của môi trường kinh doanh. Khả năng thích ứng của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc trước hết vào khả năng sáng tạo và đổi mới - bao gồm việc chủ động thay đổi và liên tục cải tiến hoặc áp dụng các phương pháp để thực hiện công việc, phản ứng nhanh chóng với đối thủ cạnh tranh và loại trừ những cản trở đối với sự đổi mới. Học hỏi lẫn nhau và học hỏi từ bên ngoài cũng tạo ra khả năng thích ứng của tổ chức. Sự biến động của môi trường kinh doanh, công nghệ và phương pháp thực hiện công việc là rất nhanh, đa dạng và phức tạp, do đó học hỏi sẽ giúp cho doanh nghiệp duy trì được khả năng đổi mới. Muốn vậy, bên trong mỗi doanh nghiệp, các thành viên phải coi học tập là một mục tiêu quan trọng hàng ngày, tinh thần chấp nhận rủi ro được khuyến khích, kiến thức thông tin được chia sẻ rộng rãi. Bên cạnh đó, các hoạt động của doanh nghiệp, trong đó có hoạt động đổi mới, phải luôn hướng theo khách hàng. Lợi ích của khách hàng luôn được tính đến trong các quyết định của doanh nghiệp. Tất cả các thành viên, từ lãnh đạo cấp cao cho đến người công nhân sản xuất, phải thấu hiểu nhu cầu của khách hàng. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải có một cơ chế khuyến khích tất cả các thành viên trong doanh nghiệp có sự tiếp xúc trực tiếp với khách hàng. Đó là cơ sở quan trọng để đảm bảo cho doanh nghiệp có thể bám sát và phản ứng nhanh chóng với sự thay đổi nhu cầu khách hàng. Sự kết hợp các yếu tố trên sẽ tạo ra một văn hoá kinh doanh- một năng lực tổ chức vượt trội - để giúp cho doanh nghiệp, doanh nhân vượt lên trên các đối thủ trên đường đua đầy rẫy những khó khăn, thách thức. 166 3.3.6. Tuyên truyền, giáo dục, khích lệ và tôn vinh các doanh nhân đóng góp nhiều cho đất nước Có thể nói, thái độ kỳ thị doanh nhân, ganh tỵ người giàu có là một trong những cản trở lớn nhất trong quá trình phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam nói chung, ở địa phương nói riêng. Tư tưởng sắp xếp vị trí xã hội theo kiểu " sĩ - nông - công - thương" đã ăn sâu vào tâm trí và tương đối phổ biến trong nếp nghĩ của nhiều người. Bên cạnh nếp nghĩ truyền thống coi thường của xã hội, doanh nhân Việt Nam còn bị ảnh hưởng bởi cách nhìn nặng nề của cơ chế tập trung bao cấp tồn tại trong một thời gian rất dài ở nước ta, hình ảnh của doanh nhân trong xã hội thường không đẹp và nghề kinh doanh chưa được trân trọng. Thái độ kỳ thị và nếp nghĩ đó vừa không phù hợp, vừa rất mâu thuẫn với bản tính, đặc trưng nhanh nhạy, năng động, tháo vát trong hoạt động kinh tế của người dân Nam Bộ nói chung, người dân Đồng Nai nói riêng. Để khắc phục trở ngại trên, theo chúng tôi, cần có sự điều chỉnh lại thái độ của xã hội đối với tầng lớp doanh nhân bằng các biện pháp sau: Trước hết, thay đổi cách nhìn của xã hội về doanh nhân bằng hệ thống thông tin đại chúng, coi đại đa số doanh nhân là tốt là chân chính, số xấu chỉ là ít. Hình ảnh các giám đốc doanh nghiệp trong quan niệm xã hội một thời, thể hiện trên phim ảnh truyền hình thường đồng nghĩa với việc tiêu tiền và tham nhũng, phải được thay thế bằng những sự tôn vinh của xã hội tương xứng với những đóng góp to lớn của họ. Mặt khác cũng cần tạo ra sự phê phán đúng mức của xã hội đối với những hành vi tiêu cực của doanh nhân trên các kênh thông tin đại chúng để qua đó sàng lọc doanh nhân, tạo ra đội ngũ doanh nhân đích thực, góp phần nâng cao vị thế, hình ảnh của họ, của đất nước, của mỗi địa phương với truyền thống nổi bật và bản sắc cuả dân tộc. Hai là, cần phải đổi mới nhận thức xã hội về khu vực kinh tế tư nhân và vấn đề bóc lột. Mặc dù thời gian gần đây Đảng ta thực hịên nhiều chủ trương chính sách để khuyến khích sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân, tuy vậy nhận thức của xã hội đối với khu vực kinh tế tư nhân còn chuyển biến chậm. Điều này một mặt, do ảnh hưởng quá nặng nề về quan niệm kinh tế tư nhân trong thời bao cấp, vì nó đồng nghĩa với phạm trù bóc lột, tự phát theo con đường tư bản chủ nghĩa. Mặt khác, trong thực tế hoạt động kinh tế tư nhân hiện nay cũng còn bộc lộ nhiều tồn tại, đó là nguyên nhân cơ bản làm chậm 167 thay đổi nhận thức về khu vực kinh tế tư nhân. Những năm gần đây, ở nước ta nói chung, một tỉnh nhiều tiềm năng như Đồng Nai nói riêng, khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh, đóng góp nhiều mặt cho địa phương. Song sẽ có sự phát triển và đóng góp nhiều, hiệu quả hơn nếu các doanh nghiệp tư nhân, các doanh nhân khu vực này có nhiều điều kiện thuận lợi hơn. Điều đó phụ thuộc vào chính quyền trên địa bàn. Do đó trong cách nghĩ của chính quyền và dư luận xã hội cần phải thay đổi tư duy theo hướng tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp, các doanh nhân khu vực tư nhân. Chỉ trên cơ sở thay đổi quan niệm xã hội theo hướng tích cực nói trên mới có thể có các giải pháp căn bản thúc đẩy nhanh sự phát triển của doanh nhân. Sự thay đổi đó chỉ thực hiện được khi chúng ta có những chính sách đồng bộ, tạo ra bình đẳng thực sự đối với mọi thành phần kinh tế. Ba là, cần có sự đánh giá công bằng đối với doanh nhân. Ai cũng cần có sự công bằng, doanh nhân cũng vậy. Công bằng với doanh nhân trước hết là thái độ đối xử công bằng của Nhà nước, của các cơ quan bảo vệ pháp luật, của các nhà báo và của toàn xã hội khi đánh giá đúng – sai, cái hay và chưa hay. Một việc làm của một doanh nhân có thể được đánh giá khác nhau, nhưng yếu tố cốt lõi nhất, có tính bản chất nhất là doanh nhân đó có làm lợi cho dân, cho nước không? Hành lang pháp lý có lúc quá mênh mông, có lúc lại quá chật hẹp và thường đi sau đòi hỏi của cuộc sống. Trong bối cảnh đó, doanh nhân “va đập” với hành lang pháp lý là chuyện dễ xảy ra. Nếu như sự “va đập” đó mà hiệu quả cuối cùng là vì dân giàu nước mạnh thì doanh nhân đó cần phải được tôn vinh. Còn nếu lúc nào “cũng đúng”, nhưng đóng góp rất ít cho xã hội thì cái đúng của doanh nhân đó như không. Đồng thời, cần phải khẳng định giá trị của doanh nhân trong giai đoạn xây dựng đất nước hiện nay. Trước đây trong sự nghiệp chiến đấu bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước nếu vai trò của các quân đoàn, binh đoàn bộ đội, vai trò của các tướng lĩnh quyết định thắng lợi trên chiến trường, thì ngày nay trong xây dựng kinh tế vai trò của các doanh nghiệp (các tập đoàn kinh tế), vai trò của doanh nhân quyết định chiến thắng trên các thương trường... Do vậy, cần chuyển đổi các giá trị đạo đức cho phù hợp: nếu trước đây tinh thần yêu nước thể hiện ở giá trị đạo đức cao cả là phấn đấu cho độc lập tự do của dân tộc (Không có gì quý hơn độc lập tự do) thì ngày nay tinh thần yêu nước phải thể hiện ở quyết tâm chấn hưng đất nước, phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước 168 mạnh” đó là một giá trị đạo đức cao đẹp – Doanh nhân phải là người nêu cao giá trị đạo đức mới và là nhân vật tiêu biểu cho giá trị đó. Bốn là, tuyên truyền khơi dậy tinh thần doanh nghiệp (hay nhà doanh nghiệp), nâng cao nhận thức của xã hội đối với doanh nghiệp, doanh nhân. Tinh thần doanh nghiệp được hiểu là ý chí tiến thủ của nhà doanh nghiệp, không bằng lòng với cái hiện tại đã có mà là xông xáo tìm kiếm nắm bắt cho được các cơ hội do công nghệ và thị trường mang lại. Người có tinh thần doanh nghiệp biết nhìn xa trông rộng, biết có những bất trắc, rủi ro, nhưng không chùn bước, vẫn quyết đoán và đi tới hành động đầu tư, sản xuất. Có thể thấy, tinh thần doanh nghiệp bao gồm một số nhân tố sau đây: Nỗ lực tìm kiếm công nghệ và thị trường mới; Tích cực đầu tư, có "tinh thần mạo hiểm", chấp nhận rủi ro; Có ý chí mưu tìm lợi nhuận chứ không phải mưu tìm đặc lợi. Đây là yếu tố quan trọng tạo nên tinh thần doanh nghiệp, hơn nữa, nó còn nói lên tính chất cao thượng trong hoạt động kinh doanh; Đạo đức trong kinh doanh, tức là nhà kinh doanh có bản lĩnh, tự trọng và có lý tưởng không bao giờ hành động trái ngược với đạo đức. Trong lịch sử dân tộc, nhất là trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, “miền Đông gian lao mà anh dũng”, trọng nghĩa khí, kiên cường, có ý chí vươn lên. Đồng Nai là một tỉnh tiêu biểu của miền Đông, do đó cần và đủ điều kiện vật chất, tinh thần, ý chí, chính quyền và đội ngũ doanh nhân trên địa bàn phát huy truyền thống trong lĩnh vực kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà. Ở Đồng Nai, “chính quyền đồng hành cùng doanh nghiệp”, nhưng dưới góc độ phát triển doanh nhân, cần có những biện pháp tích cực tuyên truyền, giáo dục giá trị, vai trò xã hội của người doanh nhân trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh nhà để thu hút ngày càng nhiều người, nhất là giới trẻ, định hướng lập nghiệp bằng con đường kinh doanh. Xây dựng các chương trình tuyên truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng của Trung ương và địa phương, biểu dương các cá nhân tiêu biểu, tích cực trong công tác hỗ trợ khởi sự và phát triển doanh nghiệp. Cần tăng cường đối thoại, gặp gỡ giữa các cấp chính quyền địa phương với các hiệp hội, câu lạc bộ doanh nghiệp, các tổ chức quần chúng, tổ chức các đợt tham quan, khảo sát, học hỏi kinh nghiệm làm ăn, điển hình tốt về khởi nghiệp cho các hộ nông dân, các chủ trang trại, người buôn bán nhỏ có 169 tiềm năng. Xây dựng các chương trình phổ biến ý chí kinh doanh ngay từ trong nhà trường, kể cả ở trường phổ thông trên địa bàn tỉnh. Năm là, thực hiện thường xuyên các chương trình tôn vinh doanh nhân tiêu biểu, doanh nhân giỏi cùng với chương trình quốc gia. Một mặt để thay đổi nhận thức xã hội về doanh nhân, mặt khác động viên, khuyến khích doanh nhân nỗ lực làm giàu cho mình, cho địa phương và cho đất nước. Mỗi một giai đoạn lịch sử đều có những nhân vật trung tâm để xã hội nhìn nhận, tôn vinh và noi theo, trong chiến tranh nhân vật đó là người lính, trong giai đoạn phát triển kinh tế và hội nhập đó là những doanh nhân. Nhìn lại một chút lịch sử của đội ngũ doanh nhân, từ lúc cụm từ doanh nhân chưa có chỗ trong từ điển tiếng Việt đến lúc được nhắc tới trên báo chí, rồi có một ngày doanh nhân Việt Nam chính thức được tôn vinh. Đó là sự ghi nhận, động viên vô giá với đội ngũ doanh nhân Việt Nam. Các nghị quyết của Đảng và Nhà nước cũng đã đề cập nhiều tới DN, doanh nhân. Nhưng vẫn cần phải có sự thống nhất cao hơn nữa trong nhận thức xã hội về vị trí, vai trò của doanh nhân, về quan điểm, chủ trương chính sách và những biện pháp xây dựng đội ngũ doanh nhân Việt Nam nói chung, trên mỗi tỉnh thành, trong đó có Đồng Nai nói riêng phù hợp với tình hình mới để tiếp tục củng cố lòng tin và định hướng của cộng đồng doanh nhân Việt Nam trong các nỗ lực làm giàu cho mình và cho đất nước. Hiện nay, xã hội ta đã bắt đầu thực hiện sự tôn vinh doanh nhân qua các chương trình như: ngày doanh nhân Việt Nam, các giải thưởng cho các doanh nhân tiêu biểu như "Sao vàng đất Việt", giải "Sao đỏ", giải thưởng “Hàng Việt nam chất lượng cao”. Ở nước ngoài, đã diễn ra buổi “Diễn đàn thế giới của doanh nhân Việt Nam” tại Pháp vào ngày 14 và 15/11/2008 với 250 đại biểu là doanh nhân Việt Nam đang sinh sống, làm việc ở châu Âu, Hoa Kỳ, Canada và Việt Nam tham dự,... Tuy vậy, sự tôn vinh đó vẫn còn mang tính chất phong trào và mới ở cấp độ tổ chức xã hội, quần chúng, nó chưa thực sự đủ sức mạnh lôi cuốn xã hội và doanh nhân. Để cho sự tôn vinh đó trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển doanh nhân, cần được thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú ở nhiều cấp độ khác nhau và cần có chương trình cấp quốc gia để tôn vinh những doanh nhân giỏi có nhiều đóng góp cho sự phát triển kinh tế nhà nước. 170 Thứ sáu, tuyên truyền động viên đội ngũ doanh nhân chủ động, tự giác, tích cực tham gia các hoạt động xã hội từ thiện, các hoạt động xã hội khác. Bên cạnh các hoạt động kinh doanh thuần tuý, các doanh nhân với tư cách là những người có tiềm lực về vật chất trong xã hội, cần có trách nhiệm đóng góp vào các hoạt động chung. Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với xã hội đang ngày càng trở nên quan trọng và góp phần không nhỏ tạo nên thương hiệu. Doanh nhân, doanh nghiệp được coi là đội quân chủ lực đưa dân tộc, đưa nước ta, cũng như mỗi tỉnh, thành phát triển nhanh, bền vững về kinh tế vừa giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Bên cạnh các khía cạnh luật pháp như không gây ra tác hại với môi trường sinh thái, quan tâm đến người lao động về mặt vật chất và tinh thần, sản phẩm có chất lượng tốt không gây tổn hại sức khoẻ người tiêu dùng… doanh nghiệp còn phải dành một phần lợi nhuận của mình đóng góp cho các hoạt động trợ giúp cộng đồng. Thực hiện đúng và đầy đủ những điều này, một yếu tố quan trọng với nhà doanh nghiệp là phải có đầy đủ kiến thức chuyên môn, đầy đủ kiến thức về sản phẩm - dịch vụ do chính họ cung cấp hoặc làm ra và chịu trách nhiệm trước pháp luật về sản phẩm - dịch vụ đó. Doanh nhân phải đóng thuế đầy đủ và minh bạch, đồng thời tuỳ theo khả năng của mình mà tích cực tham gia các hoạt động xã hội từ thiện. Hoạt động này diễn ra theo kế hoạch dài hạn với những mục tiêu cụ thể chắc chắn sẽ tạo được hiệu quả và hiệu ứng dây chuyền trong xã hội. Cũng nên hiểu rằng đó cũng là cách đầu tư dài hạn, bởi lẽ một xã hội phát triển ổn định và phồn vinh, có trình độ tổ chức và văn hoá cao, sẽ là điều kiện cần thiết để hoạt động kinh doanh thuận lợi và nâng cao vị thế của doanh nhân trong cách nhìn, quan điểm sống của xã hội. Khi thành lập một doanh nghiệp, những người sáng lập đã đặt lên vai mình trọng trách đối với xã hội: trách nhiệm với khách hàng, nhân viên, đối tác, với môi trường và cộng đồng dân cư chung quanh… Tư tưởng và quan điểm này sẽ phải thể hiện rõ qua các hoạt động, từ hoạch định chiến lược, văn hoá công ty, xây dựng thương hiệu cho đến liên kết, cạnh tranh, chất lượng sản phẩm, dịch vụ khách hàng, hậu mãi… Để có được niềm đam mê kinh doanh thực sự, để doanh nghiệp phát triển bền vững thì phải có động lực lớn, một động lực thăng hoa thành giá trị lớn vượt lên trên những lợi nhuận đơn thuần. Một doanh nghiệp mạnh phải là doanh nghiệp do nhu cầu xã hội và vì 171 xã hội, từ xã hội mới thấy được nhu cầu, rồi đáp ứng nhu cầu và tạo ra nhu cầu mới cho xã hội. Đây là điều mà mỗi doanh nhân chân chính cần phải nhận ra và coi đó như kim chỉ nam của mình. Các doanh nhân phải tập trung lãnh đạo doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho công nhân, tạo nhiều sản phẩm đạt chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu đời sống của nhân dân. Vì vậy, đẩy mạnh sản xuất, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của các tầng lớp nhân dân là con đường để xây dựng, củng cố niềm tin, tình cảm đối với hình ảnh doanh nhân, là thước đo tính đúng đắn của các giải pháp, cũng chính là thước đo tài - đức của doanh nhân. 3.3.7. Nâng cao chất lượng các chương trình hỗ trợ, tư vấn cung cấp thông tin, xúc tiến thương mại cho doanh nhân Ðể tạo điều kiện cho cộng đồng doanh nghiệp tiếp cận các thông tin chính thức từ các cơ quan Chính phủ và các cơ quan liên quan, trong thời gian qua Đồng Nai đã tổ chức nhiều cuộc gặp gỡ giữa các doanh nghiệp trên địa bàn với các cơ quan chính quyền địa phương nhằm trao đổi thông tin, đối thoại về những vấn đề doanh nghiệp quan tâm, đồng thời chia sẻ thông tin từ chính cộng đồng doanh nghiệp đã được tổ chức, góp phần cung cấp những thông tin chính xác, kịp thời cho doanh nghiệp để định hướng kinh doanh. Tuy nhiên, thiếu thông tin, đặc biệt là những thông tin có tính dự báo, phục vụ cho hoạt động kinh doanh vẫn đang là một khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp hiện nay. Vì vậy, các cơ quan chức năng của Đồng Nai cần tăng cường các hoạt động nghiên cứu, dự báo và phổ biến kịp thời, công khai các thông tin kinh tế đến các doanh nghiệp và hiệp hội doanh nghiệp. Ðây cũng chính là cơ sở để doanh nghiệp có thể nâng cao chất lượng xây dựng và điều hành chiến lược đầu tư, kinh doanh của mình. Việc hỗ trợ này không chỉ giúp các doanh nhân ra quyết định đúng mà còn giúp các doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất, thực hiện các phương án kinh doanh hiệu quả hơn. Mặt khác, việc nghiên cứu thị trường thế giới là một việc rất phức tạp đối với các doanh nghiệp bởi giới hạn về trình độ, khả năng ngoại ngữ, nguồn tài chính eo hẹp… Nếu như trước đây, chúng ta thường tập trung vào các yếu tố liên quan tới các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, thị hiếu người tiêu dùng thì hiện nay các vấn đề mới, thay đổi nhanh như tỷ giá, sức mua của đồng tiền nội tại, thu nhập người dân, khả năng người tiêu dùng 172 sử dụng các mặt hàng thay thế, vai trò của các nhà bán buôn, bán lẻ... là những yếu tố quan trọng mà doanh nghiệp phải luôn tính đến. Trong bối cảnh đó, Đồng Nai cần phải phát triển mạnh hệ thống thông tin với quốc gia bằng chi phí từ ngân sách nhà nước với nhiều hình thức khai thác thông tin khác nhau để cung cấp cho doanh nghiệp và các doanh nhân. Tại các nước đang phát triển, nghiên cứu thị trường thế giới là việc phức tạp đối với các cơ quan chính phủ bởi hầu hết họ chưa quen và chưa hề được chuẩn bị cho công việc này. Doanh nghiệp, doanh nhân rất khó khăn để tìm hiểu thông tin thế giới, cũng như thực hiện những hoạt động tiếp thị và cạnh tranh ra bên ngoài. Sự giới hạn về trình độ, khả năng ngoại ngữ, nguồn vốn là những trở ngại chính. Mặt khác trong điều kiện hội nhập quốc tế mà phần lớn các doanh nghiệp ở địa phương đang còn nhiều hạn chế về tài chính, năng lực kinh doanh, kinh nghiệm quốc tế thì việc doanh nhân nắm bắt thông tin thị trường trong nước, quốc tế sẽ gặp nhiều khó khăn, khó có điều kiện để tiếp cận nếu như không có sự hỗ trợ từ phía nhà nước và các tổ chức khác. Vì vậy, các hoạt động hỗ trợ của chính quyền tỉnh Đồng Nai và cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh cần phải được chuyên nghiệp hoá theo yêu cầu sau: - Tăng cường hỗ trợ cung cấp thông tin cho doanh nhân bằng việc khẩn trương ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống quản lý nhà nước, xây dựng phát triển mạng lưới cung cấp thông tin nhằm cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin về pháp lý, các văn bản pháp luật và thủ tục hành chính liên quan tới thành lập, thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh, chuyển đổi doanh nghiệp, thủ tục giải thể, phá sản; cung cấp thông tin về cơ hội đầu tư và các điều kiện thực hiện sản xuất kinh doanh như hỗ trợ doanh nhân trong việc lựa chọn hình thức đầu tư và địa bàn đầu tư, tiếp cận các nguồn công nghệ tiên tiến, cung cấp các thông tin về tình hình diễn biến thị trường... - Tổ chức tốt công tác nghiên cứu và dự báo kinh tế - xã hội, nghiên cứu và dự báo thị trường. Trong điều kiện hội nhập và cạnh tranh gay gắt, công tác nghiên cứu và dự báo kinh tế - xã hội, dự báo thị trường là một đòi hỏi cấp thiết nhằm giúp các doanh nhân định hướng được chiến lược kinh doanh của mình cho phù hợp với những biến động của nền kinh tế. Do đó, Nhà nước cần đầu tư và quan tâm hơn nữa tới các cơ quan nghiên cứu và dự báo về kinh tế – xã hội, về thị trường; làm cầu nối giữa các trung tâm nghiên cứu với doanh nhân để những thông tin khoa học thực sự quan trọng đến được 173 với đông đảo cộng đồng doanh nhân, trở thành cơ sở cho những quyết sách đúng đắn và kịp thời của doanh nhân. - Hỗ trợ doanh nhân xúc tiến thương mại thông qua việc tổ chức hội thảo, hội chợ triển lãm, giới thiệu hàng hóa… nhằm tạo điều kiện cho doanh nhân có điều kiện tiếp cận thị trường trong và ngoài nước. + Tăng cường hỗ trợ doanh nhân phát triển thương hiệu thông qua Chương trình quốc gia tổng thể về nâng cao khả năng cạnh tranh cho thương hiệu Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế, đặc biệt là tại thị trường xuất khẩu trọng điểm. Mặt khác, tăng cường hỗ trợ doanh nhân quảng bá thương hiệu Việt Nam ra thị trường nước ngoài để người tiêu dùng biết đến các thương hiệu Việt Nam nhiều hơn nhằm nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của thương hiệu Việt Nam trên thị trường quốc tế; hỗ trợ doanh nhân đăng ký thương hiệu ở nước ngoài; hỗ trợ doanh nhân bảo hộ thương hiệu trên thị trường quốc tế; tăng cường hỗ trợ thông tin, đào tạo, dịch vụ tư vấn cho doanh nhân trong việc xây dựng và quảng bá nhãn hiệu hàng hóa và thương hiệu doanh nhân. + Hỗ trợ khởi nghiệp là một hoạt động có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với doanh nhân. Song, hoạt động này hiện nay mới chỉ là bước đầu, chủ yếu tập trung ở khâu tuyên truyền phổ biến về chủ trương, chính sách, luật doanh nghiệp, các luật liên quan và hướng dẫn các thủ tục cần thiết, cách thức thành lập doanh nghiệp. Để nâng cao chất lượng hoạt động hỗ trợ này ngoài những vấn đề thực tế đang tiến hành trên đây thì điều quan trọng là phải chú trọng đi sâu vào chất lượng của sự hỗ trợ. Nhà nước, các hiệp hội của doanh nhân cần tổ chức các khoá đào tạo, hướng dẫn về các thủ tục khởi sự doanh nghiệp, đào tạo kiến thức cơ bản về quản trị kinh doanh. Để chương trình thực hiện có hiệu quả cần phải có sự hỗ trợ về phương tiện, kinh phí hoạt động và cần thiết phải huy động sự tham gia rộng rãi của các hiệp hội doanh nhân, các tổ chức xã hội, các tổ chức tư vấn, các phương tiện thông tin đại chúng vào hoạt động hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp. + Đối với hoạt động tư vấn, cung cấp thông tin, xúc tiến thương mại, đây là những dịch vụ vô cùng cần thiết đối với doanh nhân. Kinh nghiệm quốc tế về vấn đề này cho thấy hoạt động hỗ trợ này mạnh và chất lượng cao 174 sẽ là yếu tố rất quan trọng giúp doanh nhân có các quyết định sáng suốt, chính xác các hoạt động kinh doanh. Hoạt động hỗ trợ này ở nước ta nói chung Đồng Nai nói riêng chỉ mới ở giai đoạn bắt đầu, còn thiếu kinh nghiệm và tính chuyên nghiệp, do đó hiệu quả còn rất thấp, chưa thực sự đủ uy tín để thu hút mọi doanh nhân tham gia. Để nâng cao chất lượng hoạt động tư vấn, cung cấp thông tin, xúc tiến thương mại hỗ trợ sự hình thành, phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả kinh doanh của doanh nhân cần thực hiện theo hướng sau: Ở tầm vĩ mô của nhà nước, những hoạt động hỗ trợ này phải được xây dựng thành chương trình quốc gia, thực hiện thường xuyên nằm trong chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp, doanh nhân. Nội dung chương trình phải xác định rõ mục tiêu, nội dung hỗ trợ, nguồn kinh phí, cơ chế thực hiện, đối tượng thụ hưởng, cơ chế giám sát và tiêu chuẩn đánh giá. Đối với Đồng Nai cần có cơ chế để xúc tiến nhanh sự hình thành các trung tâm tư vấn, cung cấp thông tin, xúc tiến thương mại hỗ trợ doanh nhân. Các trung tâm dịch vụ hỗ trợ này phải thường xuyên giúp doanh nhân cập nhập cung cấp các thông tin cần thiết về thị trường, đầu tư, khoa học công nghệ... Thực hiện thường xuyên việc tổ chức các triển lãm, hội chợ với quy mô lớn tạo điều kiện cho doanh nhân tham gia, qua đó họ có thể tiếp cận về đối tác, giá cả, mẫu mã, công nghệ từ đó thúc đẩy hoạt động kinh doanh. 3.3.8. Nâng cao vai trò, năng lực và chất lượng hoạt động của hiệp hội theo hướng chuyên nghiệp hoá trong việc hỗ trợ doanh nhân Trong điều kiện hội nhập, các biện pháp hành chính của Chính phủ sẽ khó có thể thực hiện trực tiếp nhằm yểm trợ cho doanh nghiệp. Nhưng những biện pháp hỗ trợ gián tiếp thông qua hiệp hội doanh nghiệp, đặc biệt là việc liên kết tự nguyện của doanh nghiệp sẽ là cơ chế phù hợp với các quy định của WTO. Do vậy, Đồng Nai cần phải sắp xếp và củng cố lại hiệp hội doanh nghiệp trên địa bàn, bảo đảm hiệp hội doanh nghiệp hoạt động một cách thiết thực và hiệu quả. Hiệp hội doanh nhân như đã có ở nhiều quốc gia hoặc có tính khu vực, quốc tế là cầu nối rất quan trọng giữa doanh nhân và chính quyền, thông qua tổ chức này sẽ hỗ trợ doanh nhân trong việc nắm bắt các thông tin về pháp luật, chính sách của nhà nước và các vấn đề khác liên quan đến hoạt động của doanh nhân. Đồng thời thông qua hiệp hội để doanh nhân đề đạt các nguyện 175 vọng, những đóng góp giúp nhà nước bổ sung kịp thời các chính sách, văn bản pháp quy và giải quyết các vướng mắc của doanh nghiệp tạo điều kiện cho doanh nhân phát triển tốt hơn. Hiện tại hoạt động của câu lạc bộ doanh nhân, hiệp hội doanh nhân nói chung còn nhiều hạn chế, chưa thể hiện được tính chuyên nghiệp cao còn nhiều vướng mắc trong cơ chế, kinh phí hoạt động, năng lực tổ chức quản lý, cũng như sự hỗ trợ từ phía nhà nước, cho nên sự hỗ trợ của tổ chức này đối với doanh nhân hiệu quả chưa tương xứng với vai trò của nó. Phát triển đội ngũ doanh nhân ở nước ta nói chung, Đồng Nai nói riêng không thể thiếu vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp và các hiệp hội ngành nghề. Đội ngũ doanh nhân sẽ chỉ có sức mạnh khi được liên kết với nhau theo từng ngành nghề, tạo thành sức mạnh tổng hợp trên thương trường. Vai trò của các hiệp hội thể hiện đậm nét ở chỗ liên kết từng doanh nhân lại với nhau thành một sự thống nhất nhằm nâng cao tính cạnh tranh của các doanh nghiệp. Do đó, Việt Nam cần xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của mạng lưới hiệp hội, các tổ chức tư vấn và trợ giúp doanh nhân. Với tư cách là hiệp hội của các hiệp hội, là người đại diện cho giới sử dụng lao động, là một tổ chức quốc gia có bề dầy về kinh nghiệm và mạng lưới hỗ trợ doanh nhân, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cần thể hiện được vai trò của mình trong việc hỗ trợ và liên kết các doanh nhân. Trong điều kiện kinh tế thị trường, vai trò của các hiệp hội ngày càng được thể hiện rõ nét và ảnh hưởng to lớn đến định hướng và quá trình hoạt động của các doanh nghiệp và doanh nhân. Các hiệp hội doanh nghiệp không còn chỉ giữ vai trò cầu nối, xúc tiến mà còn hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp về định hướng và quá trình hoạt động của các doanh nghiệp, về một loạt các lĩnh vực như tư vấn, cung cấp thông tin, tổ chức diễn đàn, cung cấp các dịch vụ đào tạo, các dịch vụ hỗ trợ, tham gia đàm phán, bảo vệ quyền và lợi ích của các doanh nghiệp... Chính vì vậy cần chú trọng nâng cao vai trò và khả năng hoạt động hỗ trợ doanh nhân của các hiệp hội doanh nghiệp. Trong giai đoạn vừa qua, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và các hiệp hội khác đã làm khá tốt vai trò này, trở thành người đại diện cho cộng đồng các doanh nghiệp để phản ảnh những tâm tư, nguyện vọng của giới doanh nghiệp đến các cơ quan của Chính phủ. Để từ đó, Chính phủ sẽ có những 176 chính sách phát triển doanh nhân có hiệu quả hơn, góp phần xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh hơn cho các doanh nhân. Trong nền kinh tế thị trường, mạng lưới các tổ chức hỗ trợ doanh nhân là rất quan trọng vì nó có thể khai thác và phát huy mọi tiềm lực trong và ngoài nước giúp doanh nhân phát triển. Để phát huy vai trò của hiệp hội doanh nhân trong thời gian tới cần phải: - Kiện toàn tổ chức bộ máy theo hướng chuyên nghiệp, xây dựng chiến lược, kế hoạch và nội dung hoạt động của hiệp hội nhằm nâng cao chất lượng hỗ trợ doanh nhân, doanh nghiệp trong điều kiện mới. - Hướng dẫn thông tin tuyên truyền kịp thời các chính sách văn bản pháp luật đến doanh nhân. Thường xuyên tập hợp các kiến nghị của doanh nhân, tổng hợp và đề đạt các kiến nghị đó đến các cơ quan quản lý nhà nước để giải quyết những vướng mắc của doanh nghiệp. - Mở rộng và nâng cao chất lượng các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh cho doanh nhân. Đa dạng hoá các hình thức trao đổi kinh nghiệm và tìm kiếm cơ hội kinh doanh, thực hiện tốt việc làm cầu nối cho các hội viên liên kết, liên doanh với nhau để nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp. Tham gia tích cực cùng với các cơ quan nhà nước tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, chống lại các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật gian lận thương mại trong phạm vi quốc gia và quốc tế. Đẩy mạnh và tạo điều kiện cho các hiệp hội tham gia trực tiếp và có hiệu quả hơn vào quá trình hoạch định chính sách, pháp luật kinh tế có liên quan đến từng ngành nghề và cộng đồng doanh nghiệp. Các hiệp hội là người đại diện cho các doanh nghiệp và doanh nhân, tiếng nói của họ là tiếng nói, là nguyện vọng của các doanh nghiệp và doanh nhân. Việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật của các cơ quan chức năng cần tham khảo và lắng nghe ý kiến của các doanh nghiệp và doanh nhân thông qua các hiệp hội. Nghiên cứu mở rộng việc Chính phủ ủy quyền cho các hiệp hội thực hiện một số hoạt động tác nghiệp ít tác động điều hành vĩ mô nhằm xã hội hóa những hoạt động mà Chính phủ không cần nắm giữ như thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại khu vực, quốc gia, tham gia đàm phán các hiệp định thương mại song phương và đa phương với các nước và các tổ chức quốc tế, đào tạo các doanh nhân bằng nguồn vốn hỗ trợ của Chính phủ. 177 3.3.9. Gắn đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo với phát triển đội ngũ doanh nhân Đây là giải pháp mang tính quốc gia, song Đồng Nai có thể và lựa chọn cho mình những nội dung thiết thực, phù hợp nhằm phát triển đội ngũ doanh nhân trong tương lai. Nội dung giáo dục từ các trường phổ thông, cao đẳng, trung học, dạy nghề và nội dung chương trình đào tạo chưa thể hiện chưa rõ mục tiêu. Do đó, sản phẩm của nền giáo dục và đào tạo nước nhà là một đội ngũ lao động với chất lượng thấp, trình độ chuyên môn và khả năng thích ứng của người đã được đào tạo còn rất hạn chế. Theo một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, chất lượng lao động Việt Nam chỉ đạt 32/100 điểm. Trong khi đó, những nước có chất lượng lao động dưới 35 điểm sẽ có nguy cơ mất sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Với lực lượng lao động có chất lượng như vậy thì Việt Nam khó có thể có được đội ngũ doanh nhân đông đảo, giỏi kinh doanh và có văn hoá. Việc có được đội ngũ doanh nhân trong điều kiện như vậy với nước ta nói chung, với địa phương nói riêng sẽ còn là chuyện lâu dài. Chúng tôi không có tham vọng, cũng không đủ tri thức, kiến thức chuyên sâu bàn về giáo dục – đào tạo nói chung ở nước ta. Ở đây, chỉ xin xem xét một cách rất khái quát góc độ giáo dục – đào tạo với việc hình thành và phát triển đội ngũ doanh nhân. Để xây dựng và phát triển đội ngũ doanh nhân, một trong các mục tiêu giáo dục – đào tạo phải là những yếu tố cấu thành nên tố chất, năng lực và văn hoá doanh nhân. Đó là “tâm - tài - trí - dũng”. Con người hoạt động trong mỗi lĩnh vực chuyên môn khác nhau đều cần có tâm, tài, tức là phải có lòng đam mê, nhiệt huyết, phải có tâm nghề nghiệp. Tương tự, có tài, tức là phải có trình độ chuyên môn giỏi, thành thạo về lĩnh vực, về nghề nghiệp đang theo đuổi. Doanh nghiệp – người làm nghề kinh doanh, sống và làm việc, tồn tại và phát triển luôn gắn với cộng đồng người, cộng đồng trong doanh nghiệp và cộng đồng khách hàng càng cần có tâm, có tài. Song trên thương trường nên có tâm, tài là cần nhưng chưa đủ, mà còn phải có trí, có dũng để sáng tạo, thích ứng, vượt qua khó khăn, thách thức của cạnh tranh khốc liệt. Chính vì vậy, dự báo trước tính chất và mức độ cạnh tranh trong kinh doanh ở thế kỷ XXI, nên ngay từ những năm 80 của thế kỷ XX, các nhà kinh doanh của Nhật Bản trong tương lai được đào tạo với 5 tiêu 178 chuẩn rất cao: - Chuyên môn thành thạo - Khả năng sáng tạo độc lập cao - Luôn can đảm, dũng cảm trên thương trường - Am hiểu quốc tế sâu, rộng - Thông thạo ngoại ngữ. Với thế giới đang đổi thay rất mạnh mẽ cả về quy mô, cả về các lĩnh vực, việc đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo là cần và cấp thiết. Ở nước ta hiện nay, xây dựng và phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm. Đội ngũ doanh nhân – như đã được chỉ ra và được thừa nhận – là đội quân xung kích quan trọng nhất trên mặt trận kinh tế. Để xây dựng và phát triển kinh tế trong điều kiện mới, nước ta cần và phải có đội ngũ nhân lực có chất lượng cao, trong đó có đội ngũ doanh nhân. Vì vậy, trong đổi mới, nâng cao chất lượng giao dục đào tạo để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng, thì ngoài mục tiêu chung của ngành giáo dục – đào tạo và mục tiêu quan trọng khác, phải gắn và thể hiện rõ mục tiêu xây dựng, phát triển đội ngũ doanh nhân nước ta. Theo đó, các trường trung học chuyên nghiệp, đại học, cao đẳng, nhất là liên quan tới doanh nghiệp, kinh doanh, pháp luật, nhân lực, … ở các trường thuộc khối kinh tế, ngoài việc cung cấp cho người học các kiến thức chuyên môn, thiết thực, các kiến thức cơ bản về kinh tế,... cần tăng cường cung cấp cho người học các kiến thức hiện đại về quản lý, về kinh doanh, quản trị doanh nghiệp. Việc tiếp cận với những môn học mới, kiến thức hiện đại đó giúp cho người học ý thức được triết lý kinh doanh “vì lợi ích của người khác, của xã hội là cách lựa chọn vì mình khôn ngoan nhất”. Có thể coi đấy là hành trang cần có, thiết thực của mỗi doanh nhân. 179 KẾT LUẬN Phù hợp với thực hiện “Chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp” đã được xác định tại Đại hội X của Đảng, cần và phải có đội ngũ các nhà quản lý, điều hành các doanh nghiệp – một đội ngũ doanh nhân tương ứng. Tuy vậy, ở nước ta hiện nay nói chung, những điạ bàn tỉnh, thành có nhiều doanh nghiệp nói riêng, những vấn đề về doanh nhân, từ quan niệm, nhận thức, vị trí, vai trò, kỹ năng, tiêu chí phân loại, đánh giá về họ đến thực trạng và xu hướng vận động, phát triển đội ngũ này cần được tiếp tục nghiên cứu đầy đủ hơn, góp phần xây dựng một đội ngũ doanh nhân có đủ kỹ năng, trình độ, bản lĩnh điều hành một cách hiệu quả hệ thống doanh nghiệp Việt Nam phù hợp với điều kiện mới. Đồng Nai là địa bàn nhiều tiềm năng, là một tỉnh công nghịêp, sớm phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp với hệ thống đông đảo các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp trên địa bàn đã có đóng góp to lớn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh. Các doanh nghiệp ở Đồng Nai chắc chắn sẽ có đóng góp to lớn, hữu hiệu hơn nếu có một đội ngũ doanh nhân có chất lượng. Đề tài: “Đội ngũ doanh nhân Đồng Nai – Thực trạng và giải pháp phát triển” được lựa chọn, nghiên cứu với hy vọng đóng góp vào công cuộc xây dựng đội ngũ doanh nhân của Đồng Nai một cách thiết thực, hiệu quả. Phù hợp với đối tượng và phạm vi nghiên cứu, đề tài đã cố gắng bám sát và thực hiện được các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra, đó là: - Đã phân tích và làm rõ thêm mặt lý luận về doanh nhân trên các góc độ: o Quan niệm về doanh nhân, các tố chất cần thiết của doanh nhân; o Vị trí, vai trò của doanh nhân; o Tiêu chí, tiêu chuẩn phân loại, đánh giá doanh nhân o Về phát triển doanh nhân - Khái quát kinh nghiệm phát triển doanh nhân và rút ra bài học vận dụng đối với địa phương nói chung, Đồng Nai nói riêng. - Phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ doanh nhân ở Đồng Nai: o Về cơ cấu theo các loại hình doanh nghiệp, giới tính, địa bàn... o Đánh giá mặt mạnh, yếu và nguyên nhân chủ yếu. - Đề xuất phương hướng và các nhóm giải pháp nhằm phát triển đội ngũ doanh nhân ở Đồng Nai đến năm 2020. 180 Đề tài đã phân tích và làm rõ tính hệ thống, tính nhất quán giữa các đề xuất được đưa ra, đảm bảo tính thiết thực của giải pháp. Ở nước ta nói chung, với các địa phương nói riêng, để có được bức tranh đúng đắn, rõ nét, đầy đủ về đội ngũ doanh nhân, cần có nhận thức chung với các tiêu chí, tiêu chuẩn và phương pháp đánh giá, xếp loại doanh nhân một cách có cơ sở khoa học, có tính pháp lý cao, có tác động hữu hiệu tới phát triển kinh tế - xã hội. Ở nước ta cũng như ở mỗi địa bàn tỉnh, thành, trong đó có tỉnh Đồng Nai, vấn đề doanh nhân còn khá mới mẻ lại chưa được nghiên cứu một cách hệ thống, cơ bản. Hơn nữa chưa có tư liệu, số liệu thống kê có tính pháp lý, vì vậy đề tài khó tránh những khiếm khuyết, thiếu sót. Tuy vậy, với tư cách đề tài khoa học, việc đề xuất các giải pháp và kiến nghị (có bản kiến nghị kèm theo) cho vấn đề nghiên cứu đã được đưa ra và đã cố gắng luận giải như những định hướng, những ý tưởng, gợi mở có cơ sở và căn cứ xác đáng. Việc ứng dụng và triển khai ý tưởng, gợi mở đó cần phải có đề án tương ứng, với không gian, thời gian, biện pháp, tổ chức một cách cụ thể. 181 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt: 1. Morits A. (1990), Chế tạo tại Nhật Bản, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (11/2003), Báo cáo đánh giá tình hình thi hành Luật doanh nghiệp, Hội nghị Chính phủ tổng kết 4 năm thi hành Luật doanh nghiệp, Hà Nội. 3. Bộ kế hoạch và đầu tư (MPI), cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), Trung tâm hỗ trợ kĩ thuật DNNVV tại Hà Nội (TAC-HN) (2006), Kết quả khảo sát doanh nghiệp năm 2005 tại 30 tỉnh, thành phố phía Bắc, Nxb Bưu điện, Hà Nội. 4. Câu lạc bộ Doanh nhân Việt Nam (2004), Doanh nhân Việt Nam xưa và nay, Nxb Thống kê. 5. CIEM (2001), Tinh thần kinh doanh của doanh nhân Việt Nam và chính sách, biện pháp nhằm phát huy tinh thần kinh doanh trong sự nghiệp phát triển đất nước. 6. CIEM (2001), Quản lí và tinh thần kinh doanh. 7. CIEM (8/2002), Kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của CHLB Đức, Hà Nội. 8. CIEM-GTZ (2006), 6 năm thi hành Luật doanh nghiệp - Những vấn đề nổi bật và bài học kinh nghiệm, Hà Nội. 9. CIEM-UNDP (2005), Báo cáo kết quả khảo sát về đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam, Hà Nội. 10. Chung Ju Yung (2004), Không bao giờ thất bại, tất cả là thử thách, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh. 11. Nguyễn Cúc (2000), Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam đến năm 2005, Nxb CTQG, Hà Nội. 182 12. Tô Xuân Dân, Vũ Trọng Lâm (ch.b) (2003), Cơ chế chính sách đặc thù phát triển thủ đô Hà Nội - Một số định hướng cơ bản, Nxb Khoa học - Kĩ thuật, Hà Nội. 13. Trần Quốc Dân (2008), Doanh nghiệp, doanh nhân và văn hóa, Nxb CTQG, Hà Nội. 14. Diêu Dương, Hạ Tiểu Lâm, Khu vực kinh tế tư nhân Trung Quốc: Chính sách, quá trình phát triển và những trở ngại trước mắt, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 287 - tháng 4/2002. 15. Thielen D. (1999), 12 bí quyết thành công của công ti Microsoft, Nxb Thống kê, Hà Nội. 16. Lê Đăng Doanh, Nguyễn Thị Kim Dung (1998), Nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo hộ sản xuất trong nước, Nxb Lao động, Hà Nội. 17. Vũ Tiến Dũng (2009), Tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong kết cấu xã hội – giai cấp thời kỳ đổi mới, Luận án tiến sĩ triết học. 18. Nghiêm Xuân Đạt, Tô Xuân Dân, Vũ Trọng Lâm (ch.b) (2003), Phát triển và quản lí các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, Nxb Khoa học - Kĩ thuật, Hà Nội. 19. Nghiêm Xuân Đạt, Nguyễn Minh Phong (ch.b) (2002), Hà Nội trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb CTQG, Hà Nội. 20. Trần Bạch Đằng, Vấn đề bóc lột của kinh tế tư bản tư nhân và đảng viên làm kinh tế hiện nay, Tạp chí Phát triển kinh tế 3/2003. 21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự Thật, Hà Nội. 22. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, khóa II - Nghị quyết Trung ương về Nhiệm vụ kế hoạch 3 năm (1958-1960) về phát triển và cải tạo kinh tế quốc dân. 23. Đảng Lao động Việt Nam (1960), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III. 24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự Thật, Hà Nội. 25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, tập I, Nxb Sự Thật, Hà Nội. 183 26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII - Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự Thật, Hà Nội. 27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII - Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Nxb Sự Thật, Hà Nội. 28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X: "Về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 21/12/2008. 34. Nguyễn Chí Định (2001), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH ở Đồng Nai, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Hà Nội. 35. Đồng Nai 10 năm xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội (1975-1985). 36. Đồng Nai 20 năm xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội (1975-1995). 37. Đồng Nai 25 năm xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội (1975-2000). 38. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 39. Nguyễn Thu Hà (2002), Buôn bán cũng cần có đầu óc chính trị, Báo Thương mại số 12, 13,14Hoàng Văn Hải (2006), Phát triển tinh thần doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Đề tài khoa học cấp bộ, Trường Đại học Thương mại, Hà Nội. 40. Hoàng Văn Hải (2001), Đổi mới công tác hoạch định chiến lược kinh doanh của các DNNN trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Hà Nội. 184 41. Trịnh Thị Mai Hoa (2006), Kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến trình hội nhập, Nxb Thế giới, Hà Nội. 42. Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ Việt Nam (12/2005), Báo cáo phát triển Việt Nam 2006: Kinh doanh¸ Hà Nội. 43. Hồ Chí Minh (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. 44. Trần Hữu Huỳnh (2003), “Xây dựng hệ thống giám sát doanh nghiệp”, Nghiên cứu Lập pháp, số tháng 1-2003. 45. IFC, MPI, WB (2008), Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam, tháng 12/2008. 46. Matsushita K. (1998), Quyết đoán trong kinh doanh, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 47. Kim Woo Choong (1995), Bạn muốn thành công trong cuộc sống, Nxb Thống kê, Hà Nội. 48. Huỳnh Tấn Kiệt (2000), Giải quyết việc làm cho người lao động ở tỉnh Đồng Nai - Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Hà Nội. 49. Vũ Trọng Lâm (2005), Những giải pháp chủ yếu nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Hà Nội (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Thành phố), Hà Nội. 50. Phạm Vũ Luận (2003), Những giải pháp cơ bản nhằm tăng cường quản lí nhà nước đối với thương nhân trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội. 51. Phạm Vũ Luận (2004), Quản trị doanh nghiệp thương mại, Nxb Thống kê. 52. Thái Nguyễn Bạch Liên, Năm 2002 nhìn lại: Kinh tế tư nhân ở Trung Quốc, Tạp chí Phát triển kinh tế 1/2003. 53. Vũ Đăng Minh (2004), Xây dựng và phát triển đội ngũ giám đốc doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. 54. Hammer M. và Champy J (1999), Tái lập công ti, Nxb TP Hồ Chí Minh. 55. MPDF (1997), Khu vực tư nhân mới nổi lên và sự nghiệp công nghiệp hóa ở Việt Nam. 56. Porter M (1996), Chiến lược cạnh tranh, Nxb Khoa học Kĩ thuật, Hà Nội. 57. Nguyễn Đình Nam (2001), Một số ý kiến về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, Tạp chí Kinh tế và phát triển số 46. 58. Nhà xuất bản Trẻ (2006), Tư duy lại tương lai, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh. 185 59. Nguyễn Văn Nghệ (2001), Những xu hướng cơ bản trong quá trình hình thành và phát triển thị trường vật tư nông nghiệp ở các tỉnh miền Đông Nam bộ hiện nay, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Hà Nội. 60. Nguyễn Bá Ngọc, Trần Văn Hoan (2002), Toàn cầu hóa: Cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. 61. Tô Phán (2005), Công bằng với doanh nhân, Báo Lao Động. 62. Nguyễn Minh Phong (2004), Phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội, Nxb CTQG, Hà Nội. 63. Nguyễn Thị Kim Phương (2004), Giám đốc doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ, Phân viện Hà Nội - Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội. 64. Trần Minh Phúc (2000), Đổi mới quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Hà Nội. 65. Phạm Ngọc Quang – Đinh Quang Ty (2006), Góp phần nhận diện cơ cấu xã hội ở nước ta qua 20 năm đổi mới, Tạp chí Triết học, số 3/2006. 66. Võ Minh Quang (2004), Xây dựng mô hình xóa đói giảm nghèo bền vững vùng dân tộc thiểu số của tỉnh Đồng Nai, Đồng Nai. 67. Dương Trung Quốc (10/2004), Tôi là nhà buôn, Hội thảo "Xây dựng đội ngũ doanh nhân trong thời kì CNH, HĐH đất nước" do VCCI, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Học viện CTQG Hồ Chí Minh tổ chức 10/2004. 68. Thái Quang Sa (1999), Cạnh tranh cho tương lai, Trung tâm Thông tin khoa học - kĩ thuật hóa chất, Hà Nội. 69. Trương Tấn Sang (2003), Phát huy những thành tựu, tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, Báo Doanh nghiệp số 43, tháng 10/2003. 70. Phạm Văn Sáng (2002), Lộ trình tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đối với những sản phẩm công nghiệp chủ yếu trên địa bàn Đồng Nai, Đồng Nai. 71. Phạm Văn Sáng (2003), Phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn tỉnh Đồng Nai, Luận án tiến sỹ kinh tế, Hà Nội. 72. Đào Xuân Sâm (2001), Tìm hiểu thái độ của xã hội đối với thị trường và kinh doanh, Nxb Thống kê, Hà Nội. 73. Sở Khoa học và Công nghệ TP Hồ Chí Minh (2004), Khảo sát về doanh nhân trên địa bàn TP Hồ Chí Minh. Nguyễn Văn Thường (ch.b) (2003), 186 Tăng trưởng kinh tế Việt Nam - Những rào cản cần phải vượt qua, Nxb Lí luận chính trị, Hà Nội. 74. Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đồng Nai, Viện Quản lý kinh tế Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2005), Việt Nam gia nhập WTO: tác động tới nền kinh tế Đồng Nai và những giải pháp để thích ứng với quá trình hội nhập, Nxb LLCT, Hà Nội. 75. Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đồng Nai, Viện Quản lý kinh tế Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2005), Xây dựng lộ trình CNH – HDDH nền kinh tế Đồng Nai đến năm 2020, Ncb LLCT, Hà Nội. 76. Nguyễn Văn Tám (2000), Phát triển công nghiệp nông thôn ở huyện Nhơn Trạch tỉnh Đồng Nai theo hướng CNH, HĐH, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Hà Nội. 77. Nguyễn Công Thành (2000), Sắp xếp lại và đổi mới quản lý DNNN tỉnh Đồng Nai, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Hà Nội. 78. Nguyễn Văn Thắng (2006), Phát triển đội ngũ doanh nhân trên địa bàn quận Cầu Giấy thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và Quản lí, Học viện CTQG Hồ Chí Minh. 79. Tia sáng - Bộ Khoa học và công nghệ, ngày 19/02/2008. 80. Tổng cục Thống kê (2005), Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2002, 2003, 2004, Nxb Thống kê, Hà Nội. 81. Vũ Quốc Tuấn (2001), Doanh nghiệp, doanh nhân trong cơ chế thị trường, Nxb CTQG, Hà Nội. 82. Trung tâm Thông tin và tư vấn doanh nghiệp (2007), Doanh nghiệp tư nhân làm thế nào để thoát khỏi mô hình "gia đình trị", Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội. 83. Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2004, 2005, 2006, Nxb Thống kê, Hà Nội. 84. UBND TP Biên Hòa (1997), Tổng hợp kết quả điều tra xã hội học về lao động việc làm trên địa bàn thành phố Biên Hòa, Đồng Nai. 85. VCCI (2004), Kỉ yếu hội thảo về ngày doanh nhân. 86. VCCI (2005), Kỉ yếu hội thảo về tính cộng đồng của doanh nhân Việt Nam. 87. VCCI (2003), Bác Hồ với doanh nghiệp và doanh nhân Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội. 187 88. VCCI (2008), Doanh nghiệp Việt Nam 2007, Nxb CTQG, Hà Nội. 89. Viện Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh (2005), Doanh nhân Việt Nam trên địa bàn TPHCM – Hiện trạng và giải pháp phát triển (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Thành phố). 90. Viện Khoa học Nông nghiệp miền Nam (2002), Dự án "Xây dựng mô hình phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế hệ thống sản xuất nông nghiệp tại huyện Xuân Lộc tỉnh Đồng Nai", TP Hồ Chí Minh. 91. VNCI (2008), Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2008 của Việt Nam, Hà Nội. 92. VNCI (2008), Dữ liệu chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2008 của Việt Nam, Hà Nội. 93. Hồ Văn Vĩnh, Nguyễn Quốc Thái (ch.b) (2005), Mô hình phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 94. Vietbao.vn ngày 13/10/2005. 95. VnExpress ngày 23/01/2007. 96. Vietnamese Daily ngày 22/01/2006. 97. Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 2. 98. 99. 100. 101. 102. 103. 104. 105. 106. 107. 108. 109. 110. Tài liệu tiếng nước ngoài: 188 111. Adam Smith (1978), An inquiry into the nature and causes of the wealth of nation . 112. OECD (1998), Fostering entrepreneurship. 113. David McClelland (1961), The achieving Society, Princeton University Press. 114. Joseph A. Schumpeter (1911), The theory of economic development. 115. Carton R.B., Hofer C.W. and Meek M.D., The entrepreneur and entrepreneurship - Operational definitions of their role in society. Paper presented at the annual International Council for small business conference, Singapore.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf160..pdf
Tài liệu liên quan