Đồ án Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường EU và các giải pháp thúc đẩy

Dệt may là một mặt hàng xuất khẩu chiến lược quan trọng của Việt Nam. Trong những năm gần đây ngành dệt may đã vươn lên vị trí thứ 2 trong các ngành đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu (sau ngành dầu khí). Tuy nhiên trên thị trường thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng hàng dệt may Việt Nam cũng đang đứng trước nhiều khó khăn thách thức đặc biệt là sự cạnh tranh của hàng dệt may Trung Quốc và Ấn Độ.

doc68 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1758 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường EU và các giải pháp thúc đẩy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ững sản phẩm này chiếm tới hơn 70% giá trị kim ngạch. Các sản phẩm đòi hỏi kỹ thuật phức tạp, chất lượng cao như: váy, comple, các bộ quần áo vettông Việt Nam chưa sản xuất được hoặc sản xuất rất ít. Điều này khiến sản phẩm dệt may Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng EU. 2.2. Về hình thức xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may từ Việt Nam sang EU dự đoán có 10 năm kinh nghiệm, nhưng chủ yếu vẫn là xuất khẩu qua các doanh nghiệp trung gian của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan... Hơn nữa, cho đến nay phần lớn các nhà sản xuất hàng dệt may của Việt Nam chủ yếu vẫn làm gia công cho nước ngoài nên chưa hiểu rõ được các thị trường cụ thể, chưa có nhiều khách hàng truyền thống và chưa xác định được mặt hàng truyền thống ở EU... Hình thức xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường EU được các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sử dụng chủ yếu là xuất khẩu thông qua gia công (chiếm tỷ trọng gần 80%). Theo phương thức này các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nhập nguồn nguyên liệu bán thành phẩm của các doanh nước ngoài để chế biến thành phẩm rồi giao lại cho họ để nhập khẩu vào thị trường EU. Hình thức này đem lại hiệu quả kinh tế rất thấp do các doanh nghiệp chỉ nhận được phí gia công và phụ thuộc hoàn toàn vào đơn đặt hàng gia công của nước ngoài dẫn đến tình trạng rất thụ động trong sản xuất. 2.3. Về xây dựng thương hiệu sản phẩm. Hiện nay có rất ít doanh nghiệp dệt may Việt Nam xây dựng được thương hiệu cho sản phẩm của mình trên thị trường EU cũng như thị trường thế giới. Các nhãn hiệu sản phẩm dệt may của Việt Nam hầu như không được người tiêu dùng biết đến. Trong khi người tiêu dùng Châu Âu rất chú trọng đến thương hiệu sản phẩm. Họ thường gắn những thương hiệu nổi tiếng với sự đảm bảo về uy tín và chất lượng. Vì thế xây dựng thương hiệu cho mình là điều kiện không thể thiếu đối với bất cứ doanh nghiệp xuất khẩu dệt may nào muốn kinh doanh trên thị trường EU. Việc quảng bá sâu rộng đồng loạt, thương hiệu của các hàng hóa này bao gồm các thị trường trong nước và thị trường quốc tế là công việc hết sức quan trọng nhằm thu hút sự chú ý của người tiêu dùng. Đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn chưa nhận thức đúng vấn đề này ngoài những nguyên nhân chủ quan do chính doanh nghiệp thì còn rất nhiều những nguyên nhân khách quan khác mà bản thân các doanh nghiệp không giải quyết nổi đó là những rào cản trong xây dựng, bảo hộ thương hiệu hiện nay, là các chính sách thuế, giải quyết tranh chấp quyền sở hữu công nghiệp và công tác hỗ trợ xúc tiến thương mại cho doanh nghiệp ở nước ngoài,… mà những vấn đề này thuộc lĩnh vực quản lý của Nhà nước.  Việc bó khung chi phí quảng cáo đó ảnh hưởng đến khả năng mở rộng thị trường của doanh nghiệp do khung chi phí quảng cáo hiện nay 10% là không phù hợp với ngành dệt may đặc biệt các doanh nghiệp mới thành lập thì 10% là con số quá nhỏ bộ và bất cập. Vì vậy các doanh nghiệp này đó phải cố gắng xây dựng thương hiệu bằng hai lần chi phí: một lần cho chi phí quảng cáo, một lần đóng thuế thu nhập cho khoản vượt khung. Vì vậy, xây dựng thương hiệu cho hàng Việt thêm khó khăn hơn so với thương hiệu ngoại, từ việc xây dựng thương hiệu không được hoặc chậm sẽ dẫn đến những mất mát to lớn trong việc cạnh tranh trên thị trường.  Không ngừng sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh, nhưng các doanh nghiệp chưa coi trọng việc đăng ký thương hiệu sản phẩm của mình. Các doanh nghiệp còn vắng mặt tại các hội chợ, các cuộc thi tại hội chợ trong nước kể cả đi ra nước ngoài, mà những cơ hội này tuy có tốn chi phí nhưng là để nhằm quảng bá thương hiệu của doanh nghiệp một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất.  2.4. Về mẫu mã và chất lượng sản phẩm . Hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam hiện nay con nghèo nàn, đơn điệu về chủng loại mẫu mã, chất lượng hàng còn thấp chưa đồng đều. Các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may chưa chú trọng đến việc cải tiến mẫu mã và nâng cao chất lượng sản phẩm của mình. Hầu hết họ chỉ tập trung sản xuất một số mặt hàng quen thuộc và dễ tiêu thụ, sử dụng công nghệ lạc hậu. Điều này làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường EU. 2.5 Khó khăn từ phía thị trường EU. EU là một trong số những thị trường có đòi hỏi rất cao về các tiêu chuẩn như: an toàn cho người sử dụng, tiêu chuẩn chất lượng, và tiêu chuẩn về lao động…Nếu doanh nghiệp dệt may vi phạm hoặc cố tình vi phạm thì có thể bị EU loại khỏi danh sách cấp giấy phép hoặc tịch thu các chứng chỉ chất lượng, tiêu chuẩn đã được EU cấp. Có thể nói đây là khó khăn lớn đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam chậm đầu tư và cải tiến về công nghệ. Ngoài ra khả năng cạnh tranh của hàng dệt may các quốc gia trên thị trường EU chịu ảnh hưởng rất lớn của một số tổ chức và hiệp hội của người tiêu dùng. Điển hình như hiệp hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên thị trường EU có ảnh hưởng rất lớn đến khách hàng EU, đứng ra bênh vực quyền lợi của khách hàng khi bị xâm phạm, khuyến cáo những sản phẩm có thể không an toàn khi sử dụng, ảnh hưởng tới sức khoẻ hoặc gây ô nhiễm môi trường. Những sản phẩm nằm trong danh sách khuyến cáo của tổ chức này có thể bị người tiêu dùng tẩy chay. 2.6. Về đối thủ cạnh tranh. Trên thị trường EU hàng dệt may Việt Nam phải đối mặt với khá nhiều đối thủ cạnh tranh. Trong đó hai đối thủ lớn nhất là Trung Quốc và Ân Độ. Hai quốc gia này được dự đoán sẽ thống lĩnh ngành dệt may thế giới. Sau khi EU dỡ bỏ hạn ngạch, thị phần hàng dệt may của Trung Quốc trên thị trường EU tăng từ 18% lên 29% còn Ân Độ tăng khoảng 9%. Nó còn tạo cơ hội giảm giá cho các nhà sản xuất Trung Quốc và Ân Độ gây áp lực lớn đối với sản phẩm dệt may Việt Nam. Việc EU tái áp đặt hạn ngạch đối với Trung Quốc sẽ tạo ra những tác động trái ngược: một mặt vừa là cơ hội để Việt Nam thu hút thêm khách hàng, mặt khác có khả năng các doanh nghiệp Trung Quốc sẽ tìm cách chuyển tải bất hợp pháp qua Việt Nam hoặc đổ vào tiêu thụ tại thị trường Việt Nam qua buôn lậu. 2.7.Thiết bị sản xuất và nguyên phụ liệu. Ngành dệt kém phát triển làm cho ngành may bị “mang tiếng” là gia công. Trong khi vải là nguyên liệu phụ và là yếu tố chính quyết định sức cạnh tranh của sản phẩm may, nó lại chỉ chiếm 12,3% trong các sản phẩm may xuất khẩu của Việt Nam. Việc đổi mới máy móc, công nghệ giữa ngành dệt với ngành may còn nhiều khập khiễng. Hiện nay trên cả nước ngành may đã đổi mới được 95% máy móc, thiết bị, đã đưa 30% máy có chất lượng cao, tự động hoá vào sản xuất như máy cắt chỉ tự động, ráp sơ đồ tự động, trải vải tự động… thì ngành dệt may cũng mới chỉ đổi mới được 30-35% trang thiết bị, nhiều thiết bị nhập khẩu của Trung Quốc và ấn Độ từ những năm 1970-1975 đến hiện nay vẫn còn tồn tại. Những thiết bị mà các doanh nghiệp dệt may của chúng ta nhập từ Đức, Pháp, Thuỵ Sỹ…chỉ chiếm khoảng 30-35%. Do đó năng suất dệt vải của Việt Nam mới chỉ bằng 30% năng suất dệt vải của Trung Quốc. Các doanh nghiệp nước ngoài rất ngại đầu tư vào trong nước do số vốn bỏ ra lớn, hiệu quả thu được lại thấp. Số doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào chỉ đếm trên đầu ngón tay mặc dù nhà nước đã có chính sách ưu đãi về thuế, hỗ trợ phí thuê đất, giảm bớt thủ tục hành chính. Ngành dệt kém phát triển dẫn đến ngành may phải làm gia công, tỷ lệ vải xuất khẩu, phục vụ xuất khẩu của các doanh nghiệp còn thấp chỉ đạt trên 30% mà những sản phẩm này lại bị hạn chế về mẫu mã, chất lượng, thời điểm giao hàng. Nói đến yếu kém của ngành dệt không thể không nói đến hạn chế của ngành trồng bông. Năng suất bông hiện nay của Việt Nam thấp chỉ bằng 60-70% so với các nước trong khu vực, và mới đáp ứng được 10-15% nhu cầu dệt, đặc biệt với xơ tổng hợp các doanh nghiệp của chúng ta vẫn phải nhập khẩu 100%. Đây quả là nghịch lý lớn vì diện tích để cho việc trồng cây bông của nước ta là khá lớn vào khoảng 200.000 ha, thêm nữa nhiều vùng có tập quán trồng bông rất lâu đời vậy mà năng suất trồng bông của chúng ta rất thấp từ đó gây ảnh hưởng tới việc cung cấp nguyên liệu cho ngành dệt may. Mặt khác sợi bông Việt Nam có nhược điểm là ngắn, chất lượng thấp nên chỉ dệt được vải thấp cấp. Mỗi năm Việt Nam chỉ sản xuất được khoảng 400 triệu mét vải, bằng 1/50 so với Trung Quốc, 1/30 của ấn Độ, 1/15 của Inđônêxia. Hàng năm các doanh nghiệp của chúng ta phải nhập khẩu 400-500 triệu mét vải để phục vụ cho may xuất khẩu và tiêu dùng ở trong nước. Theo số liệu thống kê của Tổng công ty Dâu tằm tơ Việt Nam (Viseri) diện tích dâu tằm của Việt Nam vào khoảng 25.000 ha, đứng thứ 2 trên thế giới (chỉ sau Trung Quốc). Trên lý thuyết thì với diện tích trồng dâu như vậy Việt Nam có thể trở thành một trung tâm sản xuất kén, tơ nguyên liệu có hạng. Thế nhưng, hiện nay chúng ta vẫn phải nhập tơ tổng hợp từ Trung Quốc để se tơ và dệt lụa với số lượng trên 200 tấn/năm- đây cũng là một nghịch lý nữa trong vấn đề nguyên liệu cho ngành dệt bởi nghề trồng dâu, nuôi tằm từ xưa đến nay vẫn được coi là một nghề truyền thống của dân tộc ta 2.8.Tiêu chuẩn xanh- sạch. Trong ngành Dệt-May Việt Nam, cho đến nay, việc sản xuất các sản phẩm “xanh- sạch” chưa được quan tâm đúng mức. Một số nhà quản lý, điều hành doanh nghiệp còn chưa được trang bị kiến thức hoặc hiểu biết còn hạn chế về những yêu cầu “xanh-sạch” đối với các sản phẩm dệt- may xuất khẩu. Ngoài ra, phần lớn các công ty, xí nghiệp trong dây chuyền nhuộm- hoàn tất vẫn còn sử dụng một số hoá chất, chất trợ, thuốc nhuộm và các công nghệ gây ô nhiễm môi trường. Có thể nêu lên vài ví dụ nổi bật sau đây: Trong hồ sợi, ngày càng sử dụng nhiều PVA làm tăng tải lượng COD (nhu cầu oxy hoá học) trong nước thải và PVA khi xử lý vi sinh. Nước thải rũ hồ thông thường chứa 4000- 8000 mg/l COD. Kỹ thuật “giảm trọng” polieste bằng kiềm được áp dụng phổ biến làm sản sinh một lượng lớn terephtalat và glycol trong nước thải sau sử dụng 5-6 lần, đưa COD có thể lên tới 80.000 mg/l. Trong thành phần nước thải của các công ty, nhà máy dệt – nhuộm hiện nay, có khoảng 300- 400 mg/l COD (đó vượt tiêu chuẩn nước thải loại B 3- 4 lần) dự đoán sẽ tăng lên mức 700- 800mg/l và có thể còn tăng hơn nữa trong tương lai. Nếu như tình hình ô nhiễm môi trường, trước hết là ô nhiễm nước thải không được kiểm soát, thì các doanh nghiệp dệt- nhuộm phải đương đầu với nhiều vấn đề nghiêm trọng, phải tốn rất nhiều kinh phí cho việc xử lý môi trường, mới đáp ứng được các tiêu chuẩn quy định về môi trường, cũng như để phát triển sản xuất, xuất khẩu bền vững, đáp ứng các yêu cầu của tiêu chuẩn “Eco friendly” về môi trường. V. Xu hướng phát triển thị trường dệt may EU và mục tiêu phát triển của Việt Nam. 1. Mục tiêu xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam trong những năm tới. Trong những năm tới hàng dệt may vẵn được xem là mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn đóng góp một phần quan trọng vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Dự đoán đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU ước đạt 1,8 tỷ USD. Các thị trường xuất khẩu chính của hàng dệt may Việt Nam vẫn là EU, Mỹ, Nhật Bản. Hiện nay hàng dệt may Việt Nam mới chỉ chiếm 5% thị phần tại thị trường Nhật, 3,2% thị phần tại Mỹ và 1,4% thị phần tại thị trường EU đứng thứ 12 trong các nước xuất khẩu vào EU. Đồng thời thị trường Mỹ, tuy là một thị trường mới của xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam nhưng lại rất hứa hẹn bởi có nhu cầu rất lớn. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cần có những chiến lược đúng đắn để khai thác những thị trường rộng lớn và giàu tiềm năng này đặc biệt là thị trường EU. Bên cạnh đó cần tích cực nghiên cứu, tìm kiếm thị trường mới như thị trường các nước Đông Âu. Tiềm năng của Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất hàng dệt may là rất lớn. Do Châu Âu kiểm soát việc nhập khẩu hàng dệt may bằng mức quota nhập khẩu trong khuôn khổ các hiệp định không ưu đãi về hàng dệt may của EU. Nếu các hiệp định hàng dệt may của EU có tính ưu đãi hơn thì việc xuất khẩu hàng dệt may vào EU sẽ còn tăng lên rất nhiều. Mục tiêu phát triển tới năm 2010 của tổng công ty dệt may là: + Đến năm 2010 toàn ngành có mức tăng trưởng bình quân là 14%/năm, kim ngạch xuất khẩu đạt 4000 triệu USD. +Nâng cao trình độ công nghệ, đạt được sự tiến bộ như các nước trong khu vực và tương đương với Hồng Kông, Đài Loan. +Tạo việc làm cho khoảng 2 triệu lao động xã hội với mức thu nhập bình quân khoảng 100USD/người/tháng. 2. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU. Trong thời gian tới các doanh nghiệp sẽ tiếp tục phải đương đầu với sự cạnh tranh gay gắt tại các thị trường lớn, vì vậy vấn đề sống đối với các doanh nghiệp hiện nay là phải tự vạch ra cho mình chiến lược sản xuất và xuất khẩu phù hợp với từng thị trường. Bên cạnh những giải pháp đã và đang thực hiện nhằm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm như tăng năng suất lao động, kiểm soát chi phí, giảm giá thành, tăng cường hợp tác các chuỗi liên kết, đổi mới công tác tiếp thị sản phẩm, các doanh nghiệp phải tự tìm ra được những "thị trường ngách", "thị trường khe", tận dụng lợi thế từ những đơn hàng nhỏ mà các đối thủ cạnh tranh không quan tâm đến. "Giành được nhiều đơn hàng nhỏ, nhưng có giá trị gia tăng lớn thì ngành dệt may Việt Nam sẽ đạt được mục tiêu", Sau 5 năm thực hiện Hiệp định hàng dệt may, EU đã trở thành thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu tăng lên rất nhanh, nhưng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU lại đang gặp rất nhiều khó khăn: +Thiếu bạn hàng tiêu thụ trực tiếp, không ký được hợp đồng xuất khẩu trực tiếp với các bạn hàng mà EU phải thông qua trung gian nên gần 80% lượng hàng dệt may xuất khẩu sang EU phải qua trung gian là nước thứ 3, do đó hiệu quả kinh tế thấp. Phần gia công cho các nước khác (không thuộc ASEAN) xuất sang thị trường EU thì chúng ta không được hưởng ưu đãi thuế quan dành cho Việt Nam. +Số lượng hàng hoá mà EU dành cho các doanh nghiệp của Việt Nam còn quá thấp so với nhiều nước và so với khu vực, chỉ bằng 5% của Trung Quốc, 10-20% của các nước ASEAN +Số hạn ngạch bị hạn chế thành nhiều nhóm hàng so với các nước khác như: Thái Lan chỉ có 20 nhóm hàng bị áp dụng hạn ngạch, Singapore có 8 nhóm hàng, trong khi đó Việt Nam giai đoạn 1993-1995 thì có tới 106 nhóm hàng, còn giai đoạn 1996-1998 có 54 nhóm hàng, từ 1998 đến nay thì có 29 nhóm hàng. +Sản phẩm xuất khẩu chỉ tập trung vào một số sản phẩm truyền thống như: áo jackét, áo sơ mi và quần tây. Các sản phẩm có yêu cầu kỹ thuật phức tạp, chất lượng cao thì Việt Nam chưa sản xuất được hoặc sản xuất với một tỷ lệ rất thấp. Các nhà đầu tư của EU đã vào Việt Nam rất sớm ngay sau khi Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam được ban hành năm 1987. Đến 30-11- 2005, với 740 dự án, tổng vốn đăng ký lên đến 9,94 tỷ USD, EU đang là một trong các nhà đầu tư hàng đầu tại Việt Nam. Rất nhiều tập đoàn lớn hàng đầu của EU như: Shell (Hà Lan), BP (Anh), Total Elf Fian (Phỏp), Siemen (Đức), Nokia (Thụy điển), Alcatel (Phỏp), Electrolux (Thụy Điển), Metro (Đức)… đã có mặt và kinh doanh khá thành công tại Việt Nam. Việc Trung Quốc ký hiệp định thương mại với EU và là một thành viên của WTO sẽ là yếu tố không thuận trong các cố gắng cạnh tranh thị phần của Việt Nam. Theo tính toán, kim ngạch giày dép và may mặc của Trung Quốc sẽ tăng đến 5 tỷ USD. Một khó khăn nữa mà ngành sản xuất dệt may Việt Nam đang gặp phải cho đến nay, hầu hết thiết bị sản xuất hàng dệt may được nhập khẩu từ Đài Loan và Hàn Quốc, chủ yếu là công nghệ của thập kỷ 70, 80 nên tuổi thọ ngắn trong khi phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đều có quy mô nhỏ nên khả năng cạnh tranh và hiệu quả không cao. Thị trường dệt may EU đã mở ra đối với Việt Nam, nhưng liệu hàng Việt Nam sẽ có chỗ đứng vững chắc tại thị trường EU sau khi Trung Quốc - một nước có ngành dệt may phát triển, tham gia WTO và hàng dệt may của Trung Quốc cũng sẽ được hưởng thuế ưu đãi khi vào thị trường EU. Hơn nữa, nhìn về tương lai sau năm 2004, hàng dệt may Việt Nam sẽ vào thị trường EU với điều kiện như thế nào khi mà EU sẽ xóa bỏ hạn ngạch dệt may đối với các thành viên WTO vào ngày 31-12-2004, còn các nước không thuộc WTO thì áp dụng ra sao còn là điều chưa rõ. Quan hệ thương mại Việt Nam - EU đang chuyển sang một thời kỳ mới gắn liền với những chuyển biến kinh tế của hai phía. Triển vọng của mối quan hệ này phụ thuộc đường lối, chính sách và những định hướng dài hạn trong chính sách thị trường, những phương sách cụ thể nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập thị trường EU cũng như tạo sự lôi cuốn các doanh nghiệp EU vào thị trường Việt Nam. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tăng cường hoạt động thông tin về thị trường EU, áp dụng nhiều biện pháp hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng xuất nhập khẩu với EU và đặc biệt khuyến khích các mặt hàng có lợi thế trên thị trường EU là việc làm cần thiết để duy trì thị trường giàu tiềm năng này. Bên cạnh đó, cần thúc đẩy việc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất hàng xuất khẩu đạt các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế nhằm vượt qua những rào cản kỹ thuật của thị trường EU nói riêng và thế giới nói chung. Trong nhiều năm qua, kim ngạch xuất khẩu và thị phần hàng dệt may Việt Nam trên thị trường EU bị giảm nghiêm trọng. Khả năng cạnh tranh hàng dệt may Việt Nam giảm làm cho kim ngạch và thị phần xuất khẩu giảm. Điều này có thể do những nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan như đã trình bày ở phần trên. Qua tìm hiểu, em xin trình bày một số giải pháp nhăm nâng cao khả năng cạnh tranh hàng dệt may Việt Nam trên thị trường EU 2.1. Nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí và bán với giá cả cạnh tranh nhất. 2.1.1 Nâng cao chất lượng hàng dệt may xuất khẩu. Một trong những rào cản lớn đối với hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU đó là chất lượng. Vì thế nâng cao chất lượng sản phẩm là một trong những giải pháp quan trọng tăng khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam. Trước hết cần nâng cao chất lượng hàng dệt may Việt Nam theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm của các doanh nghiệp đạt chứng chỉ quản lý chất lượng ISO 9000, chứng chỉ về trách nhiệm xã hội SA 8000, chứng chỉ về môi trường ISO14000. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng như: áo sơ mi, quần âu, comple, vettông, quần áo dệt kim, quần áo thể thao. Trong quá trình sản xuất và xuất khẩu, mọi công đoạn phải được thực hiện theo các qui định và được giám sát chặt chẽ theo những tiêu chuẩn thống nhất, hạn chế và loại bỏ ngay những sản phẩm lỗi nhờ hệ thống giám sát ở các khâu sản xuất và xuất khẩu. Khách hàng EU đặc biệt quan tâm tới hàng dệt may của doanh nghiệp đạt chất lượng tiêu chuẩn quốc tế vì có tới 80% tiêu chuẩn chất lượng của EU dựa trên tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Như vậy tiêu chuẩn chất lượng quốc tế trở thành tiêu chí đánh giá gián tiếp hàng dệt may, đồng thời là phương tiện nâng cao khả năng cạnh tranh hàng dệt may Việt Nam trên thị trường EU. Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cần từng bước tiến tới thoả mãn các tiêu chuẩn này để góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh và phát triển thương hiệu hàng dệt may Việt Nam trên thị trường EU. Ngoài các tiêu chuẩn trên, hiện nay EU đang áp dụng các chính sách kiểm soát về dư lượng kim loại và dư lượng hoá chất có trong sản phẩm và coi đây như một tiêu chí về chất lượng hàng dệt may. Để vượt qua rào cản này các doanh nghiệp cần nghiên cứu và thực hiện các tiêu chuẩn về nhãn hiệu sinh thái của EU. Đây sẽ là yếu tố tạo ra sự khác biệt với các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. 2.1.2 Đa dạng hoá hàng dệt may xuất khẩu. Trong những năm gần đây hàng dệt may Việt Nam đã có những thay đổi đáng kể về kiểu dáng, mẫu mã… Tuy nhiên những thay đổi này vẫn chưa theo kịp nhu cầu thị trường và xu hướng thời trang hiện đại. Ví dụ như: mặt hàng áo sơ mi, quần âu, áo jacket của Việt Nam chỉ thay đổi chút ít về màu sắc còn kiểu dáng, chất liệu vải thay đổi rất ít, các chủng loại hàng nhiều năm qua gần như không thay đổi. Chính sự thiếu đa dạng đã làm giảm rất nhiều khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng. Để khắc phục hạn chế này trong thời gian tới các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần chú trọng đến khâu thiết kế nhằm đa dạng hoá chủng loại và tạo ra những sản phẩm mới theo kịp xu hướng thời trang thế giới. Đa dạng hoá sản phẩm trước tiên phải bắt đầu từ công đoạn thiết kế, nên công tác đào tạo đội ngũ các nhà thiết kế cần được đầu tư và quan tâm đúng mức. Các ý tưởng thiết kế cần phải xuất phát từ khả năng sáng tạo của các nhà thiết kế Việt Nam, tránh sao chép rập khuôn theo mẫu mã nước ngoài. ý tưởng thiết kế phải xuất phát từ nhu cầu thị hiếu của khách hàng EU, và mang tính thương mại tức là sản xuất ra sản phẩm để xuất khẩu và cạnh tranh trên thị trường chứ không phải để trình diễn trên sân khấu hay các cuộc thi thời trang. Thực tế cho thấy rằng nhu cầu sử dụng hàng dệt may trên thị trường EU rất đa dạng và phong phú. Thị trường gồm nhiều nhóm khách hàng với những yêu cầu khác nhau khi mua sản phẩm dệt may với mục đích sử dụng khác nhau. Thậm chí vào những khoảng thời gian ngắn theo mùa trong năm như đầu thu hoặc cuối thu, đầu mùa xuân hoặc cuối mùa xuân cũng đòi hỏi những chủng loại hàng khác nhau. Sự thay đổi thời tiết ở các quốc gia EU rất rõ ràng, vì thế hàng dệt may cần có nhiều chủng loại hơn nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng EU. Các doanh nghiệp cần đưa ra được những bộ sưu tập thời trang theo mùa với nhiều chất liệu đa dạng cho mỗi chủng loại sản phẩm. Nếu làm được như vậy hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam sẽ mang tính chuyên nghiệp hơn tạo sự thu hút đối với khách hàng EU. Dần dần hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam sẽ trở nên hoà nhập hơn với xu hướng thời trang thế giới, đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. 2.2 .Giải pháp hoàn thiện hệ thống nghiên cứu và thu thập thông tin về thị trường EU. Ngày 1- 5 - 2004 liên minh Châu ÂU kết nạp thêm 10 quốc gia nâng tổng số thành viên thành 25 nước hình thành nên một thị trường chung rộng lớn. Cùng với nó chính sách thương mại của EU cũng có nhiếu thay đổi như: loại bỏ chế độ hạn ngạch đối với hàng dệt may, điều chỉnh hệ thống thuế và các nguyên tắc cạnh tranh… Những yếu tố này ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng cạnh tranh hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường EU, cho nên chúng ta cần nắm bắt và cập nhập liên tục các thông tin về thị trường giàu tiềm năng này. Với đặc thù là một thị trường chung gồm nhiều nước thành viên khác nhau nên nhu cầu của thị trường này rất đa dạng.Vì thế việc nghiên cứu thị trường là rất quan trọng. Trên cơ sở nghiên cứu và đánh giá những thông tin thị trường để tiến hành phân chia thị trường EU thành các đoạn thị trường tương ứng với những nhóm khách hàng khác nhau. Với nhóm khách hàng ưa thích kiểu dáng, hàng dệt may Việt Nam muốn cạnh tranh được với các đối thủ cạnh tranh phải có nhiều kiểu dáng khác nhau. Với nhóm khách hàng lựa chọn hàng dệt may theo thương hiệu thì hàng dệt may Việt Nam cần xây dựng và phát triển thương hiệu. Xét trên tiêu chí chất lượng có thể phân chia thị trường hàng dệt may EU thành các đoạn thị trường tương ứng với các nhóm khách hàng sau: Nhóm khách hàng mua hàng dệt may xa xỉ, đắt tiền rất thích những sản phẩm dệt may có sự kết hợp giữa sản xuất thủ công và hiện đại nhờ những hoạ tiết, chi tiết băng thêu, ren, móc, đan bằng tay, đồng thời những sản phẩm này được làm bằng những chất liệu có chất lượng tốt. Với những nhóm khách hàng có nhu cầu hàng dệt may với giá cả trung bình thì đòi hỏi về chất lượng của chất liệu sản phẩm bình thường . Nghiên cứu và đánh giá lại thị trường hàng dệt may EU không chỉ nhằm xác định nhu cầu khách hàng, mà còn nhận biết các đối thủ cạnh tranh và chiến lược cạnh tranh của họ đối với hàng dệt may Việt Nam. Hiện nay có khoảng hơn 40 quốc gia xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU, hàng dệt may của mỗi quốc gia có những khả năng cạnh tranh, những lợi thế cạnh tranh và những hạn chế tương đối giống nhau do các quốc gia này đều là các quốc gia đang hoặc khém phát triển. Cho nên hàng dệt may nào có chiến lược cạnh tranh đúng đắn, tạo ra sự khác biệt sẽ đem lại khả năng cạnh tranh lớn cho hàng dệt may của quốc gia đó. 2.3. Giải pháp mở rộng hệ thống kênh phân phối. Hiện nay,hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đưa hàng của mình sang thị trường các nước thông qua hình thức nhận may gia công hay dùng hệ thống kênh phân phối đơn giản. Điều này đã làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam. Vì vậy mở rộng hệ thống kênh phân phối một trong những giải pháp quan trọng giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam không chỉ trên thị trường EU mà trên cả thị trường thế giới. Để làm được điều này ta cần thực hiện các biên pháp sau: 2.3.1. Đa dạng trong việc sử dụng hệ thống kênh phân phối hàng dệt may. Hiện nay hệ thông kênh phân phối hàng dệt may được sử dụng chủ yếu trên thị trường EU là các kênh phân phối ngắn với những tổ hợp thương mại bán lẻ, siêu thị bán lẻ lớn. Những doanh nghiệp này thường muốn ký những hợp đồng tiêu thụ sản phẩm trực tiếp với các nhà sản xuất hàng dệt may mà không cần qua các trung gian thương mại, làm giảm chi phí kinh doanh và rút ngắn thời gian giao hàng. Bên cạnh hệ thống các tổ hợp thương mại, siêu thị lớn thị trường EU còn có hệ thống các trung gian thương mại khác như các nhà buôn nhập khẩu, sau đó bán cho các đại lý bán lẻ khác. Ngoài ra các nhà sản xuất hàng dệt may EU cũng nhập khẩu hàng dệt may về bán. Phần lớn những hàng dệt may này được các nhà sản xuất đặt hàng tại các nước thực hiện may gia công. Nghiên cứu cho thấy rằng các kênh bán lẻ có vai trò rất quan trọng trong hệ thống kênh phân phối hàng dệt may trên thị trường EU. Những kênh bán lẻ này không chỉ có hệ thống các siêu thị các cửa hàng khắp các quốc gia trong EU mà còn có các siêu thị, cửa hàng trên khắp thế giới. Thông qua hệ thống này hàng dệt may Việt Nam có thể tiếp cận với thị trường EU một cách nhanh chóng và hiệu quả. Hàng dệt may Việt Nam hiện nay mới chỉ tiếp cận thị trường EU thông qua các hợp đồng đặt may gia công của các nhà sản xuất EU hoặc qua những trung gian thương mại của Hàn Quốc, Đài Loan Hồng Công… Như vậy hệ thống kênh phân phối của hàng dệt may Việt Nam rất hẹp ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh. Trước tình hình đó hàng dệt may Việt Nam nên thay đổi cách thức tiếp cận các kênh phân phối sao cho phù hợp với xu thế phát triển trên thị trường EU như thực hiện đa dạng hoá các kênh phân phối hàng dệt may trên thị trường EU chủ động tiếp cận với những nhà phân phối lớn. Nếu hàng dệt may Việt Nam được đưa vào các kênh phân phối này sẽ không chỉ tiêu thụ trên thị trường EU mà còn phục vụ cho nhiều thị trường khác trong khu vực và trên thế giới thông qua mạng lưới các siêu thị cửa hàng của hệ thống này. Đặc biệt khi hệ thống kênh phân phối được mở rộng sẽ tăng cường ảnh hưởng của hàng dệt may Việt Nam với các đối thủ cạnh tranh và khách hàng EU, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh hàng dệt may Việt Nam trên thị trường EU. 2.3.2. Thực hiện liên kết chuỗi trong phân phối hàng dệt may.. Hiện nay trên thế giới hình thức liên kết tạo thành chuỗi trong sản xuất và phân phối sản phẩm là hình thức được sử dụng rộng rãi và rất thành công. Thực tế ở Việt Nam cũng như các quốc gia đang phát triển các doanh nghiệp dệt may thường có qui mô nhỏ và vừa, năng lực sản xuất nhỏ không đáp ứng được những đơn đặt hàng của các nhà nhập khẩu EU. Cho nên việc hình thành các chuỗi trong sản xuất và bán hàng là điều hết sức quan trọng nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế tự do hoá thương mại. Theo đó mỗi doanh nghiệp trong một chuỗi sẽ bổ sung năng lực cho nhau, các sản phẩm của các doanh nghiệp được bổ sung giá trị tạo ra sức mạnh to lớn trong cạnh tranh. Để đáp ứng những yêu cầu của các nhà phân phối hàng dệt may trên thị trường EU các doanh nghiệp Việt Nam nên liên kết thành chuỗi các nhà cung cấp để đáp ứng lượng đặt hàng lớn trong thời gian ngắn. Đây càng là yếu tố hết sức quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam. Hiện nay các doanh nghiệp chưa làm tốt công tác tổ chức mạng lưới tiêu thụ nội địa. Để  tổ chức tốt chúng ta cần phải tạo ra được không gian cho người đến mua bán như: chợ, siêu thị, chợ đầu mối, trung tâm thương mại, sàn giao dịch điện tử,… và phải có được sự liên kết tạo được quy trình từ doanh nghiệp sản xuất cho đến phân phối bán lẻ. Các doanh nghiệp phải tìm hiểu đầu tư nghiên cứu thị trường cho từng thời điểm, từng khu vực. Lấy ví dụ có nhiều doanh nghiệp trước đây chỉ quen đưa hàng ra nước ngoài, khi muốn quay trở lại khai thác thị trường nội địa thì trở nên lúng túng, không biết bắt đầu từ đâu. Thời gian đầu, rất khó khăn vì doanh nghiệp cung cấp chưa xác định khẩu vị, tìm hiểu thị hiếu của khách hàng, đặc biệt là các tỉnh phía Bắc. Sau những nghiên cứu và phản hồi, công ty mới nắm được “quy luật” và thị hiếu tiêu dùng của từng vùng.   Một khó khăn nữa cũng cần thấy là thiết lập kênh phân phối, hệ thống bán lẻ. Do quen với việc xuất khẩu những container hàng có khối lượng lớn, thanh toán nhanh gọn, bây giờ phải bán từng gói sản phẩm, thu về toàn bạc lẻ đó làm nhiều doanh nghiệp ngần ngại. Muốn thiết lập được mạng lưới tiêu thụ thì thái độ doanh nghiệp phải thực sự cầu thị, kiên trì tìm hiểu nhu cầu của khách hàng từng vùng, nhằm đưa ra những sản phẩm phù hợp. Có như vậy mớí có thể vừa tiêu thụ tốt cho người sản xuất vừa phục vụ tốt cho người tiêu dùng và đủ mạnh để đương đầu với các tập đoàn quốc tế khi mở cửa hội nhập. Chúng ta nên tạo lập ra chuỗi các siêu thị như Co-op Mart. Co-op Mart không chỉ được khách hàng trong nước biết đến, xem đây là một trong những điểm mua sắm uy tín mà nhiều bạn hàng từ các nước cũng đã đến đặt hàng. Nhiều đơn hàng của các nhà phân phối trên thế giới đã đến với Saigon Co-op thông qua những mặt hàng đang bày bán tại các siêu thị. Muốn được như vậy các doanh nghiệp này yêu cầu sự hỗ trợ từ Nhà nước về mặt bằng phù hợp và sự hỗ trợ về vốn để xây dựng hệ thống bán lẻ như hệ thống Sogoshosha của Nhật, các hệ thống này đã có sự hỗ trợ rất lớn của các ngân hàng, làm cho sự phát triển hệ thống càng vững mạnh và rộng khắp hơn, tiến tới xây dựng các cửa hàng mẫu (như chuỗi 7-eleven của Nhật) và nhân rộng các mẫu này theo nguyên tắc chuyển nhượng đặc quyền kinh tiêu. Nếu thiếu các kênh tiêu thụ chuyên nghiệp theo hệ thống bán lẻ và bán buôn theo chuỗi phát triển các đại lý phân phối theo từng cấp sẽ gây khó khăn rất lớn cho quá trình phát triển thị trường. 2.4.Xây dựng thương hiệu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường EU. 2.4.1 Đăng ký thương hiệu hàng dệt may của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam trên thị trường EU Hiện nay, sản phẩm của một số doanh nghiệp dệt may Việt Nam ngày càng có chất lượng cao và uy tín trên thị trường EU. Những sản phẩm này đã thu hút được nhiều khách hàng EU bởi giá cả hợp lý và chất lượng tốt không thua kém gì so với chất lượng hàng dệt may Trung Quốc hay ấn Độ. Bên cạnh đó khách hàng EU quen sử dụng hàng dệt may có thương hiệu, họ quan niệm những hàng dệt may không có thương hiệu thường gắn với chất lượng sản phẩm thấp, không có tính thời trang. Các loại sản phẩm này chỉ chiếm khoảng 10% thị phần hàng dệt may EU. Điều này cho thấy các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần đăng ký thương hiệu cho sản phẩm của mình. Việc đăng ký thương hiệu trên thị trường EU hoàn toàn dễ dàng nhanh chóng, và thuận tiện, lệ phí đăng ký rẻ. Khi đã đăng ký thương hiệu các doanh nghiệp sẽ hạn chế được hàng giả, hàng nhái, đồng thời tránh bị các doanh nghiệp nước ngoài đăng ký trước thương hiệu. Đây là bài học của nhiều doanh nghiệp, nhiều sản phẩm có uy tín ở Việt Nam. Khi hàng dệt may của doanh nghiệp trở nên quen thuộc với khách hàng EU, mức độ cạnh tranh gay gắt trên thị trường EU việc đăng ký thương hiệu hàng dệt may không chỉ là điều kiện pháp lý mà còn là biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường EU. 2.4.2 Từng bước xây dựng thương hiệu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường EU. Để tạo dựng một thương hiệu cho sản phẩm của mình là vấn đề không đơn giản đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Xây dựng một thương hiệu không chỉ đơn giản là gắn cho sản phẩm dệt may một cái tên, biểu tượng, hình vẽ…mà cần có thời gian dài tạo lòng tin với người tiêu dùng thông qua việc thực hiện những cam kết với khách hàng như cam kết về chất lượng sản phẩm, dịch vụ khách hàng, đa dạng sản phẩm, chất liệu và tính thời trang. Những cam kết này cần có thời gian để khách hàng nhận thấy, luôn giữ vững và không ngừng nâng cao. Đây là điều khó thực hiện đối với các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam trên thị trường EU, tuy nhiên các doanh nghiệp có thể từng bước thực hiện chắc chắn từng cam kết, đồng thời tăng cường các biên pháp xúc tiến thương mại nhằm cung cấp thông tin hình ảnh hàng dệt may Việt Nam đến với từng người tiêu dùng EU qua các kênh thông tin khác nhau. Có như vậy các doanh nghiệp Việt Nam mới có thể phát triển được thương hiệu hàng dệt may trên thị trường EU. 2.5. Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại. Trong những năm gần đây, lượng sản phẩm dệt may Việt Nam xuất sang thị trường EU tương đối lớn, tuy nhiên người tiêu dùng lại biết rất ít về hàng dệt may Việt Nam. Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này là do các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thực hiện không hiệu quả hoạt động xúc tiến. Hoạt động xúc tiến không hiệu quả sẽ gây khó khăn cho việc tạo dựng thương hiệu và giảm tính cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam. Để khắc phục tình trạng này ta có thể thực hiện một số biện pháp như : 2.5.1 Giải pháp về thành lập các trung tâm thương mại tại nhiều quốc gia trên thị trường EU. Các doanh nghiệp cần thành lập các trung tâm thương mại Việt Nam tại những thị trường lớn, tiêu thụ nhiều sản phẩm dệt may của Việt Nam như: Đức, Anh, Pháp, ý, Tây Ban Nha nhằm mục đích trưng bày, giới thiệu hàng dệt may. Tại đây các doanh nghiệp có thể trực tiếp ký kết các hợp đồng với các nhà phân phối trên thị trường EU, đồng thời tiến hành thu thập thông tin về thị hiếu tiêu dùng của khách hàng EU. Việc trưng bày sản phẩm tại các trung tâm thương mại cũng là một hình thức quảng cáo rất tốt, chi phí rẻ. Mặt khác, giữa các quốc gia EU không còn đường biên giới ngăn cách nên người tiêu dùng có thể tự do đi lại, đây là điều kiện thuận lợi cho các trung tâm thương mại thu hút khách hàng từ các quốc gia khác nhau trong EU. 2.5.2 Tổ chức hoặc tham gia hội trợ triển lãm, hội nghị , hội thảo Tại đây các doanh nghiệp có điều kiện thể hiện ưu thế và khả năng về mọi mặt của mình trước các nhà nhập khẩu và người tiêu dùng EU. Tuy nhiên hoạt động này chỉ thực sự đem lại hiệu quả khi doanh nghiệp có thể duy trì quan hệ với bạn hàng và thành viên, cập nhập thông tin phản hồi về sản phẩm và thị trường … 2.5.3 Tiến hành các hoạt động tuyên truyền , quảng cáo Tuyên truyền quảng cáo có nhiều loại như: Quảng cáo sản phẩm dịch vụ, quảng cáo thể thức hoạt động sản xuất kinh doanh, quảng cáo theo vùng lãnh thổ, quảng cáo theo loại thị trường… Có nhiều hình thức quảng cáo do đó các doanh nghiệp cần lựa chọn hình thức tuyên truyền quảng cáo sao cho phù hợp nhất, mang lại hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp của mình, có thể có ích đối với những hàng hoá được phân phối rộng rãi trong phạm vi một khu vực cụ thể và có thể tiếp cận một đối tượng người tiêu dùng cụ thể. Thực hiện công tác quảng cáo thường có các bước: Xác định mục tiêu quảng cáo, thiết lập chương trình và thực hiện mục tiêu cuối cùng là đánh giá hiệu quả công tác quảng cáo và đề ra các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền quảng cáo tiếp theo. 2.6.Nhóm giải pháp về nguồn cung ứng 2.6.1 Thiết bị sản xuất và nguyên phụ liệu cho ngành dệt may. Trong chiến lược tăng tốc ngành dệt may được chính phủ phê duyệt thì đến năm 2010, năng lực cung cấp bông xơ nội địa sẽ buộc phẩi tăng lên 70%. Sản xuất vải cũng phải tăng nhanh để cung cấp nguyên liệu cho ngành may, đặc biệt là vải chất lượng cao dành cho xuất khẩu, nhằm tăng tỷ trọng FOB lên 75% vào năm 2010. Bởi vì tăng tốc dệt- may cũng có nghĩa là tăng tốc ngành dệt, do vải nguyên liệu là khâu đột phá quan trọng quyết định việc tăng tỷ lệ hàng FOB, đây là tham vọng của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu là một phần quan trọng trong chiến lược phát triển tăng tốc ngành dệt- may. Diện tích trồng bông công nghiệp sẽ phải tăng lên 60.000 ha vào năm 2010 và 15.000 tỷ đồng. Đây quả là một nhiệm vụ khó vì cây bông vốn là một cây rất “khó tính”, luôn luôn đòi hỏi “chân ngâm nước, đầu đội nắng”, lại chỉ cần một cơn gió ác là đã tả tơi, độ rủi ro rất cao. Do đó nếu nhà nước không có biện pháp trợ giá kịp thời thì cây bông khó mà cạnh tranh với những cây dễ tính, cho lợi nhuận cao khác. Trong khi đó Trung Quốc ngay từ những năm 1998, 1999 đã trợ giá cho mỗi kilôgam bông trong nước là 0,6 USD, ngoài ra họ còn hỗ trợ cho hàng xuất khẩu thông qua tỷ giá, cuớc phí vận tải nên hàng dệt may của Trung Quốc dễ dàng đánh bại của các nước khác. Ngoài ra ngành dệt may cũng cần có những nhà máy, xí nghiệp chuyên sản xuất phụ liệu kể cả việc đưa các cơ sở sản xuất vào các khu dân cư, tận dụng nguồn nhân công nhàn rỗi. Bên cạnh đó phải phát triển kéo sợi, dệt kim, in hoa, nhuộm và hoàn tất, cũng như đầu tư vào các sản phẩm dệt công nghiệp, và các sản phẩm khác. Chủ động về nguyên, phụ liệu chính là tiếp thêm sức mạnh để cho sự phát triển bền vững của ngành dệt may khi việt nam hội nhập AFTA, và WTO. 2.6.2. Nguồn vốn. Trong chiến lược tăng tốc cho ngành dệt may cnầ có một số giải pháp lớn về nguồn vốn, nguồn nhân lực…Trong đó nguồn vốn được xem là giải pháp quan trọng bậc nhất. Để triển khai thực hiện chương trình này, ngành dệt may cần phải huy động một lượng vốn khoảng 30000 cho giai đoạn 2006-2010. Đây là một bài toán mà ngành dệt may trong nước đang gấp rút tìm phương án giải quyết, vì có như vậy việc nâng cao năng lực cạnh tranh mới thực hiện được. Để huy động nguồn vốn, trước tiên các công ty trong ngàng dệt may phải thay đổi mô hình quản lý tận dụng cơ sở vật chất sẵn có. Có thể nói, thực hiện cổ phần hoá và đẩy mạnh tiến độ cổ phần hoá là giải pháp cơ bản nhằm thu hút vốn đầu tư trong nước. Bên cạnh đó cần phải thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua các hình thức liên doanh cổ phần, nhằm tận dụng cơ sở hạ tầng sẵn có. 2.7. Nâng cao sức cạnh tranh. Muốn tăng sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam thì: tăng cường giá trị tăng thêm cho sản phẩm cuối cùng, hai là đầu tư vào sản xuất vải, nhưng việc làm này mất rất nhiều thời gian và tài chính bởi trước tiên phải đầu tư vào nông nghiệp, sau đó chế biến ra vải và cuối cùng là sản xuất ra quần áo. Cách thứ nhất tiết kiệm thời gian và hiệu quả hơn nếu xét theo điều kiện hiện tại của Việt Nam. Trạm kiểm soát cuối cùng là người tiêu dùng mua sản phẩm, thành thử mọi thứ đều phải tập trung để phục vụ người tiêu dùng, vì vậy vấn đề đầu tiờn hóy bắt đầu bằng sự ổn định chất lượng thường xuyên của sản phẩm. Người Việt Nam đều muốn mua các sản phẩm ngon, an toàn và những người Châu Âu - cũng vậy. Trước tình hình trên, đối mặt với thách thức là con đường duy nhất để phát triển sản xuất. Doanh nghiệp Việt Nam đã và đang chuẩn bị những gì? Thứ tự ưu tiên các công việc mà các doanh nghiệp dệt may nước ta phải làm là: +Một là: Đầu tư mới thiết bị và kỹ thuật sản xuất tiên tiến, nâng cao quy mô sản xuất. Kinh nghiệm cho thấy các Giám đốc doanh nghiệp sử dụng tốt vai trò của các chuyên gia tư vấn thì việc nhập máy móc về càng thành công bấy nhiêu. +Hai là: Củng cố thị phần trong nước; tổ chức hệ thống phân phối sản phẩm hợp lý; nghiên cứu thị trường chính xác để đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm. +Ba là: Nghiên cứu thị trường xuất khẩu: thị trường Mỹ, Nhật, EU, là các thị trường chính ngoài ra cần chú ý thị trường ASEAN, Trung Quốc, Campuchia, Lào, Trung Đông… +Bốn là:Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tổ chức dịch vụ quảng bá: vì thương hiệu nhiều mặt hàng Việt Nam chưa có, hoặc không đủ mạnh cũng là yếu tố làm hạn chế khả năng cạnh tranh trên thị trường +Năm là: Đầu tư cho nghiên cứu, thiết kế, đào tạo hệ thống quản lý trong các doanh nghiệp. 2.8.Giải pháp về tiêu chuẩn xanh-sạch Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng Dệt- May Việt Nam, để đối phó với những sức ép về sinh thái môi trường. Trước hết, các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu cần rà soát một cách kỹ lưỡng, cẩn thận những hoá chất, chất trợ, thuốc nhuộm đang sử dụng (bao gồm cả hàng nhập khẩu và sản xuất trong nước), phải biết rừ nguồn gốc, xuất xứ của chúng và cần có “hồ sơ” của từng loại hoá chất, chất trợ, từng mầu thuốc nhuộm. Đó là “Phiếu các số liệu an toàn” (safety data sheets) mà các hãng sản xuất hoá chất, thuốc nhuộm đều có. Thay thế vào đó là những hoá chất, chất trợ thân thiện với môi trường, các thuốc nhuộm biết rừ nguồn gốc xuất xứ, chất lượng tốt, loại mới, không độc hại và ít ô nhiễm môi trường. Song song với hoá chất, chất trợ, thuốc nhuộm (dùng cả trong nhuộm và in hoa) là công nghệ áp dụng và máy múc thiết bị tương ứng. Trong những năm qua, trong chiến lược tăng tốc, ngành Dệt- May đó chú trọng đáng kể đầu tư vào khâu nhuộm- hoàn tất. Nhiều loại máy móc, thiết bị tốt, mới, hiện đại đó được đầu tư chiều sâu, như các máy văng sấy Monforts, máy nhuộm liên tục Monforts ở Công ty Dệt Việt Thắng; các máy in lưới quay Stork, máy in lưới phẳng Buser ở hai Công ty Dệt- May thắng Lợi và Dệt 8- 3; các máy nhuộm “khí động lực” (Air- Jet) do được chế tạo ở Dệt kim Đông Xuân và Dệt 8-3; máy làm bóng trục mới của Công ty Dệt Nam Định, hệ thống máy xử lý trước- xử lý hoàn tất vải pha len của Công ty Dệt lụa Nam Định và Công ty 28 (Bộ Quốc phũng) ... Và gần đây nhất là dây chuyền thiết bị hiện đại của Công ty Nhuộm Yên Mỹ vừa đi vào sản xuất. Song về tổng thể, ngành nhuộm- in hoa- xử lý hoàn tất Việt Nam vẫn còn đang áp dụng các công nghệ và máy móc thiết bị “truyền thống”. Do vậy năng suất chưa cao, chất lượng chưa thật tốt và sử dụng nhiều hoá chất, thuốc nhuộm, tốn nhiều nước và năng lượng, giá thành cao đó làm giảm tính cạnh tranh trên thương trường. Ngoài ra, còn để lại hậu quả là lượng nước thải nhiều và bị ô nhiễm nặng nề, rất tốn kém khi phải xử lý nước thải. Để phát triển bền vững, tăng trưởng mạnh, cạnh tranh được với hàng dệt- may Trung Quốc và các nước khác vào các thị trường rộng lớn và “khó tính” như Mỹ, EU, Nhật Bản, đó đến lúc cần chuyển mạnh từ các công nghệ và thiết bị truyền thống sang loại hình sản xuất” thân thiện với môi trường”, sản xuất sạch hơn, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và đạt hiệu quả cao các hoá chất- chất trợ, thuốc nhuộm, hơi, điện, nước với các máy móc thiết bị phù hợp, nhất là các loại mới tiên tiến, hiện đại, vấn đề tiêu chuẩn hàng hoá và môi trường. Căn cứ vào các tiêu chuẩn và các yêu cầu sinh thái của hàng dệt- may nhập khẩu vào cỏá thị trường EU, Nhật Bản và Bắc Mỹ, ngành Dệt-May Việt Nam cần xây dựng ngay những tiêu chuẩn cấp nhà nước hoặc ít ra là cấp Bộ, cấp ngành để làm cơ sở phấn đấu cho các doanh nghiệp xuất khẩu, để nâng cao uy tín và sức cạnh tranh của hàng hoá chúng ta. Những tiêu chuẩn như thế sẽ tạo ra những sức ép “bên trong” nhằm tạo ra các sản phẩm “xanh-sạch” phù hợp. Gần đây, Trung Quốc bắt đầu chuyển hướng sản xuất gắn với bảo vệ môi trường. Đơn cử như sau: Bắt đầu từ năm 2003, tiêu chuẩn quốc gia mới GB18401- 2001 đối với formanđờhit thoát ra từ các sản phẩm dệt-may chính thức có hiệu lực thi hành. Tiờu chuẩn mới này qui định các giới hạn formanđờhit phân giải như sau: 20mg/kg đối với những sản phẩm dùng cho trẻ sơ sinh (dưới 24 tháng); 75 mg/kg cho các sản phẩm tiếp xúc trực tiếp với da và 300mg/kg đối với sản phẩm không tiếp xúc trực tiếp với da và dùng trong nhà. Các mức trong tiêu chuẩn này hoàn toàn đồng nhất với các ngưỡng giới hạn formanđờhit của “nhãn sinh thái” Oeko- tex standard 100 nổi tiếng ở Đức và Châu Âu. Trung Quốc đã xây dựng bộ tiêu chuẩn “nhãn xanh” (standard for green labelling) từ năm 2001, với kinh phí 3 triệu nhân dân tệ (khoảng 362.000 đô la Mỹ), đồng thời lập tổng sơ đồ quốc gia thực hiện tiêu chuẩn, quản lý và gíam sát thực hiện. Xia Qing, trưởng nhóm nghiên cứu tiêu chuẩn quốc gia ISO14020 cho biết, chương trình thực hiện tiêu chuẩn này sẽ hoàn thành trong năm 2004. Còn ở Việt Nam cho đến nay chưa ban hành tiêu chuẩn về nước thải ngành Dệt-May. Có ý kiến cho rằng, không cần tiêu chuẩn ngành là phi thực tế, chính những ý kiến này đó làm cản trở việc ban hành tiêu chuẩn nước thải công nghiệp. Ngành Dệt-Nhuộm thải ra môi trường loại nước thải có những đặc tính riêng mà trong tiêu chuẩn về nước thải công nghiệp nói chung không đề cập đến. Nước thải nhuộm thường có mầu đậm, đặc nhưng không cõ nghĩa là mức độc hại tỷ lệ thuận với mầu sắc để phải quy định độ mầu tính theo đơn vị Pt/Co tới 50, thậm chí giảm xuống 20 đơn vị là không cần thiết. Việc xử lý mầu nước thải theo tiêu chuẩn chung đó là rất tốn kém. Chính vì vậy, việc xây dựng và ban hành tiêu chuẩn quốc gia về nước thải ngành Dệt-Nhuộm với những chỉ tiêu ô nhiễm phù hợp, khả thi là hết sức cần thiết. Với những tiêu chuẩn như vậy cùng với các chế tài về thu phí nước thải, đồng thời có biện pháp giám sát, kiểm tra thường xuyên thỡ sẽ bảo vệ được môi trường sống, đồng thời gúp phần vào việc phát triển sản xuất ổn định, bền vững trong ngành Dệt-May. 2.9.Các chính sách khác của Chính phủ. 2.9.1. Biện pháp hỗ trợ vốn, tín dụng của nhà nước. Hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam sang thị trường EU đều có quy mô vừa và nhỏ nên khả năng cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu không cao. Vì thế để mở rộng quy mô sản xuất và nâng cao hiệu quả xuất khẩu các doanh nghiệp cần có sự hỗ trợ vốn của nhà nước thông qua hệ thống ngân hàng. Để thực hiện có hiệu quả hoạt động này nhà nước Việt Nam cần sử dụng có hiệu quả quỹ hỗ trợ xuất khẩu giúp các doanh nghiệp được vay vốn với lãi suất thấp để hiện đại hoá trang thiết bị máy móc và mở rộng sản xuất. Nhà nước phải đảm bảo bình đẳng trong quan hệ tín dụng ngân hàng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đơn giản hoá thủ tục vay vốn. Thực hiện lãi xuất ưu đãi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU có hiệu quả … Trong chính sách thuế, Nhà nước cần điều chỉnh thuế VAT của các mặt hàng vải hiện nay từ 10% xuống 5% để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào hai mặt hàng này, nhằm tạo nguồn nguyên liệu cho ngành may làm hàng xuất khẩu. Ngoài ra các loại thuế gián thu, thuế xuất- nhập khẩu phải được hoàn lại cho các doanh nghiệp dệt, khi các doanh nghiệp này cung cấp vải cho may xuất khẩu, kể cả cung cấp cho các doanh nghiệp liên doanh và 100% vốn nước ngoài để gia công xuất khẩu. Đồng thời giảm thuế thu nhập doanh nghiệp có tỷ lệ xuất khẩu lớn xuống còn 23-25%. 2.9.2 .Cải cách thủ tục hành chính. Cải cách thủ tụ hành chính, chấn chỉnh bộ máy hoạt động của các cơ quan quản lý góp phần quản lý, sử dụng và khai thác có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp. Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất, nhập khẩu. Cụ thể, một mặt cần đơn giản hoá các thủ tục nhập nguyên liệu, nhập mẫu hàng, nhập bản vẽ để thực hiện hợp đồng gia công xuất khẩu của các doanh nghiệp đỡ mất thời gian và ít gặp khó khăn trở ngại. Mặt khác hợp lý hoá công tác cấp giấy chứng nhận xuất xứ. Chính phủ nên chuyển việc cấp C/O hàng dệt may về Bộ Thương mại để thực hiện chế độ một cửa, giảm chi phí hành chính của doanh nghiệp và tăng cương công tác chống gian lận thương mại theo yêu cầu của EU. 2.9.3 Biện pháp hỗ trợ xuất, nhập khẩu. Trong thời gian tới Chính phủ cần phải kiên trì đàm phán để tăng hạn ngạch giúp daonh nghiệp dệt may tăng kim ngạch xuất khẩu, tiếp cận thị trường, chuẩn bị cho thơìi kỳ hậu hạn ngạch. Nhà nước nên sử dụng cơ chế phân bổ hạn ngạch theo hướng thúc đẩy các doanh nghiệp tiến ra thị trường phi hạn ngạch. Hiện nay tỷ lệ phân bổ hạn ngạch theo thành tích ất khẩu vào thị trường phi hạn ngạch còn thấp, và cũng chỉ dầnh 5% hạn ngạch thưởng cho các doanh nghiệp có hiệu quả vào thị trường phi hạn ngạch. Chính phủ có chính sách giúp các doanh nghiệp vào thị trường nước ngoài, đặc biệt là EU, do các doanh nghiệp bước đầu còn bỡ ngỡ, tốn kém trong chi phí giao dịch, tìm khách hàng, đơn hàng. Đồng thời, các thủ tục nên được đơn giản hoá để thông qua nhanh hàng xuất khẩu, giải phóng nhanh hàng nhập khẩu, giảm chi phí lưu kho và tạo điều kiện giao hàng đúng hẹn. Ngoài ra, cần nâng cao vai trò chủ đạo của tổng công ty trong hoạt động xu khẩu, phối hợp tốt giữa doanh nghiệp dệt và may. Sử dụng vải sản xuất trong nước để tăng tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm xuất khẩu, đủ điều kiện được cấp C/O để hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP). Đồng thời, tạo cơ chế thông thoáng để hiệp hội tiếp tục phản ánh nguyện vọng doanh nghiệp phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước để xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho ngàng dệt may, bảo vệ cho các doanh nghiệp chống lại các rào cản khi xâm nhập thị trường EU. Kết luận Dệt may là một mặt hàng xuất khẩu chiến lược quan trọng của Việt Nam. Trong những năm gần đây ngành dệt may đã vươn lên vị trí thứ 2 trong các ngành đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu (sau ngành dầu khí). Tuy nhiên trên thị trường thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng hàng dệt may Việt Nam cũng đang đứng trước nhiều khó khăn thách thức đặc biệt là sự cạnh tranh của hàng dệt may Trung Quốc và ấn Độ. Qua tìm hiểu một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường EU em hy vọng có thể đóng góp phần nào vào việc giải quyết những khó khăn trong xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường giàu tiềm năng này. Tuy nhiên do nguyên nhân khách quan và chủ quan nên bài của em còn nhiều khiếm khuyết do vậy em mong được sự góp ý của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn. Tài liệu tham khảo 1. Thị trường EU các quy định pháp lý liên quan đến chính sách sản phẩm trong Marketing xuất khẩu. 2. Tạp chí thị trường Việt Nam. 3. Tạp chí tài chính doanh nghiệp. 4. Tạp chí thương mại. 5. Tạp chí nghiên cứu kinh tế. 6. Tạp chí kinh tế và phát triển. 7. Tạp chí nghiên cứu Châu Âu. 8. Tạp chí thương nghiệp thị trường Việt Nam. 9. Tạp chí ngoại thương. 10. Tạp chí công nghiệp. 11. 12. 13. 14. 15. 16. 17. 18. 19. 20. 21.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35782.doc
Tài liệu liên quan