Đội ngũ trí thức Việt Nam với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước

Đội ngũ trí thức Việt Nam với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nướcPhần mở đầu Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam được coi là cột mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để đưa nước ta trở thành một nước tiên tiến nhanh chóng, hoà nhập vào dòng tiến hoá chung của nhân loại, chúng ta chỉ có một con đường là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Đảng ra cũng xác định rằng để thực hiện được những mục tiêu của sự nghiệp đổi mới, không chỉ bằng nhiệt tình và lòng dũng cảm như trước đây mà cần phải phát huy hoạt động trí tuệ và tài năng sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân. Đội ngũ trí thức là đại biểu tập trung cho trí tuệ dân tộc. Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta thì trí thức tham gia trực tiếp và chủ yếu vào nâng cao dân trí, là bộ phận nguồn lực khoa học kỹ thuật, trí thức góp phần lớn lao vào việc phát triển lực lượng sản xuất. Đảng và Nhà nước ta đánh giá cao vai trò của đội ngũ Trí thức trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên không phải mọi cấp, mọi người dân hay một bộ phận không nhỏ trí thức chưa nhận thức được đầy đủ và sâu sắc vai trò của đội ngũ trí thức trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Đây là một thực trạng đã và đang tồn tại ở nước ta. Phần 1 Đảng Cộng sản Việt Nam với vấn đề trí thức I. Nhận thức của Đảng về vị trí và vai trò của trí thức trong sự nghiệp cách mạng II. Tình hình đội ngũ trí thức nước ta trước thời kỳ đổi mới (1986) Phần 2 Trí thức trong công cuộc đổi mới đất nước I. Công cuộc đổi mới và những vấn đề đặt ra đối với trí thức. II. Chính sách của Đảng đối với trí thức trong công cuộc đổi mới III. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy tiềm năng trí thức trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta

doc44 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1898 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đội ngũ trí thức Việt Nam với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g dân trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đưa sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng thuộc tính công nghiệp là một công việc không thể thiếu vắng người trí thức. (Hiện ở nông thôn Việt Nam còn trên 2,2 tỷ ngày công/năm chưa được sử dụng). Bốn là, đẩy mạnh hoạt động khoa học và công nghệ trên địa bàn nông nghiệp và nông thôn. Trong cả nước hiện có 31 cơ quan khoa học - công nghệ đang đẩy mạnh các hoạt động phục vụ nông nghiệp và nông thôn với khoảng 7.000 cán bộ (trong đó có 510 người có trình độ trên đại học, 3.700 người có bằng đại học). Thành tích đáng kể là đã tạo được 33 giống lúa mới, 6 giống ngô mới, mở rộng sản xuất thử 16 giống ưu thế lại để nạc hoá đầu lợn, sinh hoá đàn bò và nâng cao năng suất đàn gia cầm… Các công trình tưới tiêu, thau chua, rửa mặn đất phèn, nuôi tôm thương phẩm, đánh bắt cá biển, chế biến gạo, càphê, hạt điều, chè, thuỷ sản, v.v… đã có nhiều tiến bộ. Tuy nhiên, lực lượng trí thức tham gia ở chương trình này còn quá mỏng. Trước mắt, cần lưu ý: -Xây dựng hệ thống nghiên cứu, triển khai gọn nhẹ gắn chặt với sản xuất nông nghiệp hơn nữa; -Đào tạo đội ngũ cán bộ phục vụ nông thôn phải cân đối hớn (Hiện tỷ lệ đại học/trung cấp/sơ cấp ở Việt Nam là 1/7/8, của thế giới là 1/2/4). Một số lĩnh vực nghiên cứu nông nghiệp chưa có cán bộ đầu đàn. -Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nghiên cứu nông nghiệp và nông thôn (hiện tại còn quá nghèo nàn, lạc hậu); -Tăng đầu tư chuyển giao công nghệ trong nông thôn và nông nghiệp (hiện còn quá thấp, chỉ bằng 1/10-1/15 mức đầu tư ở các nước trong khu vực và trên thế giới). Năm là, tham gia chương trình khuyến nông. Các trung tâm khuyến nông ở tỉnh, thành phố hiện chỉ có hơn 1000 cán bộ, ở các trạm khuyến nông cấp huyện mới có khoảng 800 cán bộ trong biên chế Nhà nước. Trí thức cần tham gia chương trình khuyến nông với các hình thức thích hợp với chức năng của mình là: Tập huấn về công nghệ mới. Tổ chức tham guan khoa học kỹ thuật. Xây dựng câu lạc bộ phổ biến tri thức mới; Bồi dưỡng cán bộ xã, thôn về sản xuất, khẳng định, v.v… *Nâng cao dân trí làm cơ sở cho việc tăng trưởng kinh tế. Dân trí là vấn đề hết sức cơ bản trong bài toán tăng trưởng kinh tế. Dân trí không đơn thuần là vấn đề “được đi học”, mà là sự hiểu biết về khoa học, về công nghệ, về sản xuất, về quản lý, về đạo đức và pháp luật để ứng dụng vào lao động sản xuất, vào dịch vụ xã hội, vào mọi công việc liên quan đến sự phát triển văn hoá và văn minh. Nói đến dân trí là đề cập tới vấn đề trí thức và thông tin với tư cách là một yếu tố quan trọng trong nguồn nhân lực. Bất kỳ nước đang phát triển nào, nếu biết đề cao yếu tố “tri thức” và “thông tin”, bỏ qua chiến lược phát triển tuần tự, chuyển sang áp dụng chiến lược nhảy vọt, tập trung các ngành công nghệ cao và dựa vào chúng để tiến hành công nghiệp hoá thì hoàn toàn có thể rút ngắn được thời gian công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mình. Chính sự tận dụng và phát huy những thành quả của cuộc cách mạng của khoa học và công nghệ mới đã làm “cất cánh” nhiều quốc gia” Trần Xuan Phương: Những đặc trưng chủ yếu cùa cuộc cách mạng công nghệ mới. Trung tâm thông tin tư liệu khoa học và công nghệ quốc gia thuộc Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường (Tài liệu tham khảo, 8-1996) . Nói đến tăng trưởng kinh tế là phải nói đến dân trí, đến tri thức của con người, đến nguồn tài nguyên trí tuệ củaqg; do đó, phải nói đến yếu tố giáo dục như là một lĩnh vực phải có sự đầu tư thích đáng. Báo cáo của Ngân hàng thế giới trong các năm vừa qua đều nói đến quá trình nâng cao trí tuệ con người tỏng mối quan hệ với tăng trưởn kinh tế, và giáo dục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế là điều chắc chắn. Cứ đến trường thêm một năm có thể làm tăng hơn 10% tiền công. ở Hàn Quốc, một năm học thêm sẽ làm cho sản lượng trang trại tăng 2%, còn ở Malaixia là 5%. Giáo dục góp phần vào tăng trưởng kinh tế thông qua cả tăng năng suất lao động của mỗi cá nhân nhờ nâng cao trình độ và quan điểm của họ lẫn tích luỹ kiến thức. Vai trò của giáo dục có thể được tính bằng cách so sánh sự khác biệt giữa sản phẩm của một cá nhân làm ra trong cùng một đơn vị thời gian trước và sau khi cá nhân đó học một khoá đào tạo với chi phí cho khoá đào tạo. Kết quả này gọi là tỷ suất lợi nhuận xã hội khi đầu tư vào giáo dục, mặc dù nó chưa phản ánh được tất cả các lợi ích xã hội và những ảnh hưởng bên ngoài. Thực tế cho thấy, “tỷ suất lợi nhuận giáo dục rất cao ở những nước có thu nhập vừa và thấp. Tình hình mỗi nước một khác, nhưng nhìn chung, ở các nền kinh tế chưa phổ cập giáo dục cơ sở, tỷ suất lợi nhậun của giáo dục tiểu học là cao nhất, sau đó là giáo dục trung học và cuối cùng là đại học. Rất thú vị là những nước đã phổ cập giáo dục tiểu học có mức tăng trưởng cao đều có xu hướng cho thấy tỷ suất lợi nhuận của giáo dục trung học lại cao hơn của giáo dục tiểu học” Phùng Minh Lại: Đầu tư vào con người và sự tăng trưởng, Trung tâm Thông tin tư liệu khoa học và công nghệ quốc gia thuộc Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường (Tài liệu tham khảo 4-1997), tr 4-5 .. *Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học. Nếu coi số lượng nhà khoa học và kỹ sư tính trên triệu dân như một chỉ số của tài nguyên trí tuệ thì ta chú ý bảng sau đây: Số lượng nhà khoa học và kỹ sư tính trên triệu dân Paul Kennedy: Chuẩn bị cho thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.307. Nhật Bản 3548 Mỹ 2685 Châu Âu 1632 Châu Mỹ latinh 209 Các nước Arập 202 Châu á (trừ Nhật Bản) 99 Châu Phi 53 Khi phân tích yếu tố nào làm cho châu Phi không tăng trưởng được, Paul Kennedy đã viết rằng, hoàn cảnh dẫn đến sự tồi tệ là “dầu tư hoàn toàn không tương xứng về nhân lực và yếu kém trong việc triển khai giáo dục, đào tạo, quản lý khẳng định, tìm hiểu khoa học và năng lực kỹ thuật. Theomotj báo cáo, chi phí cho nghiên cứu khoa học tính theo đầu người ở châu Phi không đạt một USD trong khi ở Mỹ là 200 USD một người; vì vậy, người châu Phi luôn luôn lê lết đằng sau phần còn lại của thế giớivề khoa học” Paul Kennedy: Chuẩn bị cho thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 305-306 . ở nhiều nước châu Phi (malauy, Zămbia, Lêxôthô, Xômali) chi phí cho giáo dục đã giảm đi; vì vậy, sau vài thập kỷ, rất ít trẻ được đến trường. Tuy người dân ham học nhưng cũng không vượt qua trình độ trung học, ngoại trừ một số nhỏ. Ví dụ Ănggôla có 2.400.000 học sinh ở tiểu học trong năm học 1982-1983, nay chỉ còn 150.000 ở trung học và 4.700 theo mức học cao hơn. Ngược lại, ở Thụy Điển, với số dân ít hơn một chút, đã có 570.000 học sinh trung học và 179.000 ở mức cao học. Trong số 5.000.000 dân ở Burundi chỉ có 218 nhà khoa học và kỹ sư (1984). Trong khi những nhà khoa học Phi khẩn thiết kêu gọi các cấp lãnh đạo hãy “trực tiếp nắm lấy khoa học và công nghệ như là nhân tố chủ chốt của thay đổi xã hội”, thì do hoàn cảnh lên năm quyền (các cuộc đảo chính quân sự) và đấu tranh để giữ đất nước, họ làm cho chiến lược lấy khoa học như động cơ thúc đẩy cùng trở nên vô vọng Paul Kennedy: Chuẩn bị cho thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 305-306 . Về vấn đềe xây dựng đội ngũ khoa học và công nghệ ở Việt Nam, ta có thể khẳng định rằng, đến nay ta đã có một lực lượng khoa học và công nghệ có đủ sức đóng góp cho việc tiếp thu và sáng tạo khoa học và công nghệ, xây dựng nền tảng cho công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Đội ngũ nghiên cứu trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học và công nghệ đã có nhiều đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, đã đào tạo được không ít cán bộ khoa học có trình độ trên đại học. Qua các nghiên cứu cơ bản về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên của đất nước, các nhà khoa học Việt Nam đã kiến nghị nhiều phương án phát triển sản xuất theo vùng và lãnh thổ, đã tiếp thu vf làm chủ một số công nghệ cao, tạo ra nhiều giống cây, vật njôi có chất lượng cao trong sản xuất nông nghiệp. Chính nhờ lực lượng khoa học vf công nghệ Việt Nam mà nhiều công nghệ tiên tiến đã được chuyển giao và áp dụng trong một số lĩnh vực như viễn thông, dầu khí, điện lực, xi măng, giao thông - vận tải, trong mtọ số ngành công nghiệp (dệt, may, chế biến lương thực, thực phẩm vấcc nông sản khác). Các doanh nghiệp với những công nghệ tiên tiến đã tạo nên bộ mặt mới cho nền công nghiệp Việt Nam và góp phần to lớn cho tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua. Lực lượng khoa học và công nghệ Việt Nam trong những năm qua đã có vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực, phát triển văn hoá, bảo tồn, giữ vững và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh những ưu điểm đó, phải nói đến những mặt bất cập, yếu kém cần khắc phục. Cụ thể là: Một là, năng lự đội ngũu khoa học và công nghệ còn non yếu, nhất là năng lực triển khai công nghệ, thích nghi, cải tiến và tiến tới tạo ra công nghệ mới có hiệu quả cao cho sản xuất; chưa phát huy được năng lực tư vấn cho các doanh nghiệp trong lựa chọn và muabán công nghệ. Đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ đang lao hoá, thiêu cán bộ đầu đàn thực sự và sự lãng phí chất xám hiện tại đang diên ra khá nghiêm trọng. Hai là, hệ thống nghiên cứu, triển khai khoa học và công nghệ còn nhiều bất cập, các nguồn lực bị dàn mỏng do không tập trung theo những ưu tiên hợp lý, không đáp ứng được yêu cầu đổi mới công nghệ của sản xuất - khẳng định hiện tại, yêu cầu củ công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước trong tương lai, vf cũng chưa đáp ứng được nhu cầu xây dựng luận cứ khoa học cho đường lối phát triển, cho việc giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội, văn hoá cấp bách đặt ra tỏng công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Ba là, chất lượng các kết quả nghiên cứu nói chung chưa cao, nhiều đề tài và kết quả nghiên cứu còn chưa đúng với chuẩn mực của một đề tài nghiên cứu khoa học; Sự lạm phát các văn bằng Thạc sĩ, Tiến sĩ khá nghiêm trọng, v.v… Đây là những khuyết, nhược điểm về chất lượng trong hoạt động khoa học và công nghệ làm hạn chế sự phát triển chất lượng nghiên cứu và khả năng hội nhập của khoa học Việt Nam với cộng đồng khoa học quốc tế. (Vấn đề này, chúng tôi sẽ trình bày kỹ ở chương nói về thực trạng của đội ngũ trí thức). 2.2. Vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước để từ nay đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp là một sự nghiệp vĩ đại, đòi hỏi sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Để tiến hành hồi sự công nghiệp hoá, hiện đại hóa, những nước tư bản phát triển trước đây đã phải mất hàng trăm năm. Đối với những nước đi sau, như những nước thuộc thời kỳ thứ ba ở Đông Nam á cũng phải mất gần nửa thế kỷ với biết bao khó khăn. Nước ta bước vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa trong lúc nền khoa học và công nghệ trên thế giới đã có những thành công kỳ diệu thể hiện sự ra đời của một nền văn minh mới: văn minh trí tuệ hay văn minh tin học. Đương nhiên, chúng ta sẽ có nhiều thuận lợi dể rút ngắn khoảng ách củ giai đoạn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Nhưng đó mới chỉ là những tiền đề khách quan, còn phải tính đến những thách thức vô cùng quan trọng trong việc chuyển hoá những nhân tố ngoại sinh thành sự phát triển nội sinh. Chính khẩu chuyển hoá này vừa đòi hỏi nhân dân ta một tinh thần dũng cảm vượt qua những thử thách có tính thời đại để giữ vững định hướng chc, vừa đặt ra cho nhân dân ta những yếu tố sáng tạo mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử phát triển của nhân loại. Thế giới đã toàn cầu hoá nhiều mặt của đời sống xã hội. Đây là cả một vấn đề lớn, vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn, đòi hỏi sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta và sự kiên định, dũng cảm của toàn thể nhân dân ta. Nhân tố con người là cực kỳ quan trọng, nhưng ở đây, là con người được hiểu không như là một lao động đơn giản mà với tư cách là con người có trí tuệ và là nhân cách văn hoá, có bản lĩnh văn hoá dân tộc, có lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Tóm lại, chỉ có con người Việt Nam mang bản sắc dân tộc trong văn hoá Việt Nam, là chủ thể về trí tuệ và văn hoá Việt Nam mới thực sự giữ vai trò quyết định sự thành công của công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta. Trong nhân tố con người phải nói đến trí thức hay con người trí tuệ, đồng thời cũng phải đề cập đến văn hoá, tức con người có phẩm chất văn hoá, nhân cách văn hoá, bản lĩnh văn hoá. Con người là một phạm trù lịch sử, là sản phẩm của lịch sử, nhưng đồng thời lại là con người tạo ra lịch sử. Hơn nữa, đối với chủ nghĩa xã hội, thì như Hồ Chí Minh đã từng nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có những con người xã hội chủ nghĩa”. Trong quan hệ mật thiết với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa vì sự phát triển chủ nghĩa xã hội, con người Việt Nam nói chung và trí thức Việt Nam nói riêng là nội lực trí tuệ và văn hoá của toàn dân tộc. Đó là nội lực trí tuệ và văn hoá của toàn xã hội, nội lực trí tuệ và văn hoá từng ngành, nội lực trí tuệ và văn hoá của đông đảo nhân dân và của từng cá nhân cụ thể. Đây là quan điểm có ý nghĩa lý luận cần được quán triệt khi nói đến vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức. Nếu không thấy được tầm quan trọng của việc nâng cao không ngừng trí tuệ và nền văn hoá chung của toàn xã hội thì cũng sẽ không thấy được động lực phát triển xã hội cũng như động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Nhờ vào sức mạnh văn hoá truyền thống, Việt Nam đã chiến thắng những tên đế quốc đầu sỏ nhất để giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc, đưa nước ta lên vị thế một nước được cả nhân loại tiến bộ thừa nhận là có tiềm năng phát triển to lớn. Đến nay, đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hóa, nội lực đó phải được phát huy mạnh mẽ bằng những chính sách mới của Đảng. Nếu không, đất nước sẽ không tranh khỏi tình trạng tụt hậu về nhiều mặt. Sau 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện và đạt được những thành tựu vô cùng quan trọng, Đảng và Nhà nước ta đã tỏ ra vô cùng sáng suốt khi ban hành và thực hiện nhiều Nghị quyết có quan hệ đến việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, khai thác và phát triển tiềm năng trí tuệ và nguồn lực con người Việt Nam, đặc biệt là hai Nghị quyết: Nghị quyết Hội nghị làn thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII), số 02-NQ/HNTW về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000 và về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000; Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Có thể nói, đó là những Nghị quyết đặt nền tảng cho chiến lược con người và chiến lược xây dựng và phát triển văn hoá trong suốt thời kỳ cnnh đất nước. Trong nội dung về định hướng chiến lược phát triển Giáo dục và Đào tạo, phát triển khoa học và công nghệ, Đảng ta đã khẳng định vai trò động lực của văn hó mà khâu quyết định là nguồn lực con người, coi việc “phát huy đầy đủ năng lực nội sinh của dân tộc, lấy phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học và công nghệ làm yếu tố cơ bản, coi đó là khẩu đột phá” Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII), Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr.9 .. Còn trong nội dung về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng ta lại khẳng định rõ hơn nguồn lực con người cũng như tiềm lực văn hoá của Tổ Quốc. Bế mạc Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ năm (khoá VIII); đồng chi Tổng bí thư Lê Khả Phiêu phát biểu: “kinh nghiệm vô giá mà chúng ta khái quát được trong lịch sử lâu dài và đầy khắc nghiệt của dân tộc ta là: nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết định nhất là nguồn lực con người Việt Nam; là sức mạnh nội sinh của chính bản thân dân tộc Việt Nam” Đảng Cộng sản Việt Nam : văn kiện Hội nghị lần thứ năm, Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr 53, 57. . Đó là những định hướng quan trọng có quan hệ rất trực tiếp đến sự thành bại của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta. Đó cũng là sự thể hiện tầm trí tuệ cao của Đảng ta, của cả dân tộc ta khi bắt tay vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ năm (khoá VIII), Đảng ta đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức trong khối đại đoàn kết dân tộc là công nhân, nông dân và trí thức “Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng” Đảng Cộng sản Việt Nam : văn kiện Hội nghị lần thứ năm, Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr 53, 57. . Tuy nhiên, không phải ai cũng thấy được vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức trong lịch sử phát triển của xã hội hói chung, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa nói riêng, nếu không xuất phát từ một quan điểm lý luận rõ ràng về người trí thức cũng như mối quan hệ giữa đội ngũ trí thức với các giai cấp và tầng lớp xã hội khác, trước hết là mối quan hệ giữa trí thức với công nhân và nông dân khối đại đoàn kết dân tộc. Xuyên suốt lịch sử dân tộc đến đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, ta thấy có sự nhất quán trong nhận định về vị trí, vai trò người trí thức đối ới đất nước cũng như sự nghiệp cách mạng. Nhưng trong diễn biến lịch sử đôi khi vẫn không có sự nhất quán vào lúc này hay lúc khác, ở người này hay người khác. Điều đó không chỉ xảy ra ở nước ta mà còn thấy ở hầu khắp các nước trên thế giới, không chỉ thấy ở thời điểm lịch sử hiện nay mà cũng có thể nói ở mọi thời kỳ khác nhau của lịch sử nhân loại. Cho nên, không phải ngẫu nhiên một nhà khoa học lịch sử. Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Nga, GS.TS, Poljakov Juri Alekssandrovich, khi nói về giới trí thức Nga trong thời kỳ rối loạn đã đặt câu hỏi cho bài viết của mình là người khởi xướng hay nạn nhân? Thật ra, cũng có thể đặt câu hỏi trên cho giới trí thức nói chung ở nhiều nước khác nhau trong những thời kỳ lịch sử khác nhau. Bởi lẽ, chúgn ta đa từng chứng kiến những khởi xướng vĩ đại của người trí thức, đồng thời cũng lại được chứng kiến cả những tai hoạ, của lịch sử rơi vào người trí thức. ở đội ngũ trí thức nói chung, trong đó có đội ngũ trí thưc Việt Nam nói riêng vẫn cần được hiểu sâu sắc thực chất họ là ai, họ quan trọng như thế nào, vì sao họ lại có vị trí quan trọng và mối quan hệ giữa họ với nhân dân và dân tộc cũng như với tiến trình phát triển của mỗi dân tộc và nhân loại nói chung. Do đó, cần phải thấy rõ vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta. Vai trò của trí thức trong lãnh đạo và quản lý đất nước, điều hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Nói đến vai trò của trí thức trong lãnh đạo và quản lý đất nước, điều hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa hoàn toàn không có nghĩa là coi trí thức như một tầng lớp xã hội đứng ngoài hoặc đứng cao hơn người lãnh đạo và quản lý đất nước. Khi phê phán quan điểm xen trí thức như mộtgc thì đồng thời cũng cần phê phán quan điểm coi trí thức như một giới thượng đẳng đứng ngoài hoặcc đứng trên các giai cấp xã hội. Trí thức cũng chỉ là những con người bình thường trong nhân dân, họ có thể tham gia sản xuất như một công nhân thực thụ, họ cũng có thể là nhà bác học nhờ những sáng tạo văn hoá có giá trị của mình. Đương nhiên, họ cũng có thể trở thành nhà lãnh đạo, thậm chí là người lãnh đạo cao nhất nắm nhiều quyền lực trong tay. Tóm lại, người trí thức vốn có mặt ở mọi lĩnh vực của cuộc sống và trong thực tế có những cá nhân tỏng họ đã từng là những người lãnh đạo, quản lý đất nước ở những thời đại khác nhau. Có điều là ngày nay, do thời đại phát triển khoa học và công nghệ, trí lực, trí tuệ, trí thức đã trở thành nguồn gốc của phát triển thì vai trò của trí thức được chú ý hơn, được xem là lực lượng hạt nhân trên mọi lĩnh vực cuộc sống, trong đó nó có vị trí đặc biệt quan trọng trong lãnh đạo, quản lý đất nước và điều hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Cách mạng tháng Tám năm 1945 vừa thành công Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài “Nhân tài và kiến quốc” Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 4, tr.99 . để căn dặn cán bộ và nhân dân ta: “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển thêm nhiều”… Người kêu gọi nhân dân ta, ai có tài năng và sáng kiến về những việc như kiến thiết ngoại giao, kiến thiết kinh tế, kiến thiết quân sự, kiến thiết giáo dục thì sẵn lòng hănghái giúp ích nước nhà. Không phải chỉ có một lần mà sau đó Người còn nhiều lần kêu gọi nhân tài ra kiến thiết nước nhà. Cuối năm 1946, Người lại viết bài với nhan đề”Tìm người tài đức” nói rõ một lần nữa: “Nước nhà cần phải kiến thếit. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bực tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận. Nay muốn sửa chữa điều đó, và trọng dụng những kẻ hiền năng, các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việ ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết”. Chỉ nhắc lại một vài ví dụ trên, chúng ta không những thấy rõ thái độ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trân trọng người có tài, có đức như thế nào, mà còn thấy Người có cả những biện pháp cụ thể nhằm phát hiện người có tài, có đức để báo cáo cho Chính phủ biết mà tìm đến. Không phảimọi người trong đội ngũ trí thức đều là những người có tài, có đức, nhưng có thể khẳng định, người có tài đức thực sự nếu được phát hiện, được đào tạo, được giao việc thì sẽ trở thành những trí thức có nhiều khả năng kiến thiết nước nhà. Cho nên, khi nói đến trí thức, người ta không quên nhắc đến người cso tài hoặc hiền tài. ở đây, nói đến vai trò trí thức trong lãnh đạo và quản lý đất nước, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến người cso tài, có đức không chỉ tham gia vào công việc kiến thiết đất nước như một trí thức bình thường, mà thực sự là người có tài đức đủ sức gánh vác những công việc trọng đại củađất nước như Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏivới cương vị người lãnh đạo, người quản lý hoặc người điều hành công việc ở tầm vĩ mô. Đó là cán bộ các cấp của Đảng được giao phó trọng trách đặc biệt ở nhiều lĩnh vực kiến thiết đất nước. Đó là nhân viên, viên chức Nhà nước các cấp có trọng trách quản lý đất nước. Đó là cán bộ đoàn thể đại diện trực tiếp hạơc gián tiếp của dân tham gia vào việc giám sát, theo dõi nhiều công việc có liên quan đến quốc kế dân sinh. Đó là những cán bộ có trách nhiệm xây dựng hạ tầng cơ sở, phát triển kinh tế, đảm bảo đời sống của công nhân, nông dân, trí thứ và nhiều tầng lớp nhân dân. 1. Trí thức với sự lãnh đạo của Đảng Tại buổi lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ; thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều… Hễ còn có một người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ. Cho nên Đảng vừa lo tính công việc lớn như đổi nền kinh tế và văn hoá lạc hậu của nước ta thành một nền kinh tế và văn hoá tiên tiến, đồng thời lại luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sồng hằng ngàycủa nhân dân. Cho nên Đảng ta vĩ đại vì nó bao trùm cả nước, đồng thời vì nó gần gũi tận trong lòng của mỗi đồng bào”.14 Sđd, T.10, tr.l 4,5 . Cũng tại buổi lễ kỷ niệm đó, Người còn nới: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” . Điều đó chứng tỏ Đảng ta không chỉ ý thứ được tầm quan trọng của văn hoá, thấy sự cần thếit phải xây dựng văn hoá từ trong Đảng, mà còn thấy rõ vai trò củ trí thức đối với sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới hiện nay. Xây dựng văn hó từ trong Đảng là gì, nếu không phải là việc nâng cao tầm trí tuệ trong lãnh đạo và trong mỗi đảng viên của Đảng, Đó là một yêu cầu cấp bách đòi hỏi Đảng phải nhìn lại đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp của Đảng, nhất là đội ngũ cán bộ cấp cao so với yêu cầu mới của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ thật nhanh chóng và mạnh mẽ như hiện nay. Với thời đại mới hiện nay, mọi lĩnh vự cuộc sống đều đòi hỏi tầm nhìn trí tuệ, sự phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế cũng như tiến bộ xã hội đều dựa trên cơ sở “chất xám”, sự cạnh tranh và cả cuộc đấu tranh về ý thức hệ đảm bảo thành công việc xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng không chỉ yêu cầu bản lĩnh và lòng yêu nước, yêu chế độ mà còn đòi hỏi trình độ khoa học, sự hiểu biết về quy luật của xã hội và tự nhiên… Hơn bao giờ hết, để đảm bảohiệu quả sự lãnh đạo của Đảng trên tất cả các lĩnh vực củađời sống xã bội, nhất thiết phải “xây dựng văn hoá từ trong Đảng”, tức là lãnh đạo của Đảng nói chung, mỗi đảng viên được giao trọng trách của Đảng nói riêng, phải tự mình nâng cao trí lực, trí tuệ vf đương nhiên trước hết phải có đạo đức. Chính nhờ “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” nên dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta đã đánh thắng hai tên đế quốc to, giành độc lập, thống nhất cho Tổ quốc và đưa nước ta lên vị thế một nước có uy tín trên thế giới. Trong xây dựng kinh tế, kiến thiết đất nước, Đảng ta cũng đã vượt qua được những thử thách to lớn, thực hiện thành công công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và đang trên đà đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Tất cả những thành tựu trênđều chứng minh cho sự nhận định sáng suốt về Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ tối cao của Đảng. Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”, Đảng ta khẳng định: “Phải xây dựng văn hoá từ trong đảng, trong bộ máy Nhà nước như Bác Hồ đã dạy”. Thực hiện được yêu cầu trên cũng có nghĩa là Đảng ta thực sự là một đảng trí tuệ, đảng gắn với trí thức và trí thức hoá toàn Đảng. 2. Vai trò của trí thức tỏng quản lý đất nước. Trên thực tế, để lãnh đạo đất nước, Đảng phải coi trọng việc chuẩn bị về nhân sự thật tốt cho những người được Đảng giao phó trọng trách quản lý Nhà nước, về cả đức và tài, Đảng ta có thực sự là đạo đức, là ăn minh hay khong chủ yếu phụ thuộc vào đức và tài của những người nắm quyền hành quản lý đất nước. Đây là công tác cán bộ nhưng lại liên quan đến vai trò trí thức trong quản lý đất nước. Chung quanh vấn đề này có thể có hai cách hiểu khác nhau. Một là, vấn đề quan hệ giữa người trí thức và đội ngũ trí thức với người quản lý đất nước tức những người nắm quyền lực của Đảng và Nhà nước. Hai là, vấn đề nâng cao trí lực và sự hiểu biết của người quản lý đất nước để đủ tầm trí tuệ để đảm đương tốt được truyện ngắn mình phụ trách mà chúng ta thường gọi là trí thức hoá. Về vấn đề thứ nhất cho hay, bất cứ một Nhà nước nào muốn quản lý đất nước có hiệu quả nhất thiết phải sử dụng trí thức, trọng dụng nhân tài bằng nhiều hình thức, hoặc giao trọng trách cho trí thức thành người có quyền lực hoặc chỉ tham khảo ý kiến Họ như sử dụng chuyên gia. ở đây, người lãnh đạo quản lý đất nước, dù là nhà trí thức giỏi về một lĩnh vực nào đó cũng không thể nhân danh người trí thức để nắm quyền lực, bởi lẽ, quyền lực mà họ có là do Đảng hoặc nhân dân giao phó thông qua bầu cử trực tiếp như đối với Quốc hội, hoặc gián tiếp như đối với các thành viên của Chính phủ và chính quyền các cấp. Do đó, có người cho rằng, đã trở thành người lãnh đạo, quản lý đất nước thì người trí thức không thể nhân danh nhà trí thức để biểu lộ quan điểm riêng của mình về lĩnh vực chuyên môn mà họ am hiểu. Điều đó không ai qui định nhưng trong thực tế lại cho ta thấy rõ ranh giới về quyền hạn và trách nhiệm giữa người trí thức với người lãnh đạo, quản lý đất nước. Đương nhiên, đó là nói đến nhà trí thức với ý nghĩa chuyên môn hẹp, chứ không nói đến trí thức với ý nghĩa là người có tầm hiểu biết rộng. Một khi ý kiến của người trí thức biến thành trí tuệ của nhà lãnh đạo - quản lý, nó có thể trở thành quyền lực về mặt pháp lý, do đó trách nhiệm của họ càng nặng nề hơn. ý kiến đó đúng thì chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả to lớn, nhưng không đúng thì thật tai hại. Do đó, chúng ta cần quan tâm đến vấn đề thứ hai, tức là việc làm cho người lãnh đạo, quản lý đất nước đủ tầm trí tuệ so với trách nhiệm được giao. Người lãnh đạo, quản lý đất nước trân trọng nhà trí thức và tham khảo ý kiến họ. Nhưng theo ý kiến ấy mà quyết định sai thì trách nhiệm bao giờ và trước hết đặt trên vai người lãnh đạo, quản lý. Cho nên, Đảng đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý đất nước phải có đủ phẩm chất, đức độ, đồng thời phải đủ sáng suốt khi tham khảo các ý kiến và nhất là khi ra các quyết định. Để có được sự sáng suốt đó, người lãnh đạo, quản lý cần nâng cao không ngừng trí lực của mình, có những hiểu biết ngang tầm với chức trách mà mình phụ trách. Đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý phải trí thức háo cũng như nói tới trí thức háo công, nông hoàn toàn không có nghãi là họ thành người trí thức trong đội ngũ trí thức. Những nhà trí thức thực thụ ở cương vị lãnh đạo, quản lý đất nước cũng không thể đặt mình ở vị trí người trí thức để tự cho mình cái quyền được phát ngôn và ra quyết định mà không tính đến trách nhiệm lãnh đạo, quản lý của mình theo yêu cầu của Đảng và của Nhà nước. Quan hệ giữa người trí thức và đội ngũ trí thức với người lãnh đạo, quản lý đất nước là một vấn đề phức tạp và tế nhị. Về vấn đề này, chúng tôi chỉ muốn khẳng định: Một là, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, không thể không quan tâm đến việc xây dựng và củng cố đội ngũ trí thức. Họ là một lực lượng xã hội quan trọng, có vai trò trên nhiều lĩnh vực cuộc sống, đặc biệt trên lĩnh vực phát triển văn hoá, xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội. Hai là, trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh như hiện nay, muốn phát triển nhanh và bền vững, muốn tăng trưởng nền kinh tế của đất nước mình với tốc độ như các nước có nền công nghiệp cao, nhất là muốn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa, ngoài việc quan tâm xây dựng đội ngũ trí thức còn phải bằng nhiều cách trí thức hoá đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trí thức hoá Đảng, trí thức hoá công, nông theo ý nghĩa đã nói ở trên. III. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy tiềm năng của trí thức tổng công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Để phát huy tiềm năng của trí thức tỏng công cuộc đổi mới hiện nay, vấn đề cơ bản trước hết là phải xây dựng đội ngũ trí thức mạnh về số lượng và chất lượng. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, số lượng trí thức nước ta ngày một tăng lênh nhanh chóng và đang trở thành một tầng lớp xã hội đông đảo. Nhưng trước tình hình phát triển mới của đất nước, lực lượng đó cần phải tiếp tục tăng hơn nữa để đáp ứng yêu cầu của côgn cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa. ở nước ta hiện nay trên nhiều lĩnh vực củ công cuộc ở nhiều khu vực và thành phần kinh tế, nhiều ngành khoa học vẫn còn thêíu rất nhiều cán bộ khoa học chuyên môn. Để khắc phục tình trạng này, Đảng và Nhà nước cần phải tiếp tục đổi mới cơ chế đào tạo để đáp ứng yêu cầu tăng cường cán bộ cho các ngành kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Quá trình đào tạo, cần phải hết sức chú ý giải quyết tính đồng bộ trong cơ cấu nội bộ của đội ngũ trí thức giữa lực lượng trí thức nghiên cứu triển khai và lực lượng trí thức kỹ thuật thực hành, thiết kế công nghệ; giữa trí thức Khoa học xã hội - nhân văn và khoa học tự nhiên; giữa trí thức có trình độ cao và trí thức nói chung… vốn đang tồn tại rất nhiều bất cập. Đi đôi với vấn đề số lượng, việc nâng cao hơn nữa vấn đề chất lượng của đội ngũ trí thức cũng đang là một yêu cầu cấp bách. Để nâng cao chất lượng, cần phải chú ý tới hai nội dung cơ bản: Một là, trình độ học vấn chuyên môn, năng lực lao động sáng tạo; hai là, dự chín muồi về chính trị tư tưởng, trình độ giá ngộ xã hội chủ nghĩa của trí thức. Đối với nội dung thứ nhất, cần phải tiếp tục đổi mới công tác đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo trên mọi phương diện để khi ra trường người trí thức có đủ bản lĩnh, kiến thức để lao động và sáng tạo. Cần tránh khuynh hướng còn khá phổ biến hệin nay là tình trạng “loạn văn bằng” do một số trường đại học mở rộng cánh cửa đào tạo bằng mọi hình thức mà không tính đến chất lượng và hiệu quả đào tạo. Đối với nội dung thứ hai, cũng rất quan trọng bởi nó được quy định từ bản chất xã hội củ người trí thức. Đã là người trí thức nhân dân, trí thức xã hội chủ nghĩa thì không thể không nói đến phẩm chất chính trị, tư tưởng và trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu này đòi hỏi người trí thức không những cần nắm vững Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn phải nắm vững đường lối cách mạng của Đảng, giúp cho người trí thức luôn ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình trước những đòi hỏi của đất nước, của nhân dân. Hay nói như lời của cố vấn Phạm Văn Đồng: “Lý tưởng cao quý, Tổ quốc, nhân dân, sự nghiệp cách mạng sẽ giúp chúng ta có sức mạnh dũng cảm và nhiệt tình hơn” Phạm Văn Đồng, Vươn tới những đỉnh cao của sự nghiệp khoa học kỹ thuật, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1978, tr.24 . Hai nội dung trên đồng thời cũng là hai mặt của một vấn đề thống nhất trong con người trí thức xã hội chủ nghĩa. Việc thường xuyên rèn luyện và nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ chuyên môn không chỉ là nhiệm vụ đặt ra nhằm nâng cao chất lượng đối với trí thức, mà còn là một trong những nhân tố quan trọng góp phần hình thành và phát triển tính tích cực chính trị - xã hội của họ trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tiềm năng đội ngũ trí thức sẽ được phát huy tốt bởi vì Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới, hoàn thiện và cụ thể hoá hơn nữa các chủ trương, chính sách đối với trí thức. Thực tế cho thấy, những chính sách đổi mới của Đảng với trí thức phần nhiều còn dừng ở phương hướng chiến lược, nằm chung tỏng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, thể hiện qua các văn kiện Đại hội và các Nghị quyết khác của Đảng. Các quan điểm và chủ trương của Đảng cần phải nhanh chóng được Nhà nước thể chế hoá thành các chính sách, pháp lệnh, chỉ thị… về các văn bản pháp luật khác thì mới phát huy được tác dụng. Các chính sách đó phải phù hợp với từng nhóm ngành và đặc điểm hoạt động chuyên môn của trí thức trên các lãnh vực khác nhau. Những năm qua, đặc biệt là mấy năm gần đây, Đảng ta đã thật sự có nhiều đổi mới trong cách nhìn nhận. Tuy nhiên ở nhiều địa phương, đặc biệt là các địa phương xã các trung tâm khoa học, kinh tế, chính trị, đội ngũ trí thức vẫn chưa được đặt ở vị trí xứng đáng. Các cấp lãnh đạo Đảng và chính quyền ở nhiều địa phương còn chưa thật sự nhận thức được vai trò to lớn của người trí thức cũng như chưa biết tận dụng và phát huy tiềm năng trí tuệ quý báu của họ trong việc phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương mình. Họ chẳng những ít được tham gia tư vấn, hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội địa phương mà còn chưa tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để lao động và sáng tạo. Vì vậy, lãnh đạo Đảng và chính quyền các cấp cần thiết phải đổi mới thật sự quan điểm và cách nhìn nhận, đánh giá vai trò, vị trí của trí thức trong đời sống xã hội. Từ đóđề ra những chính sách đúng đắn trong việc ưu đãi, sử dụng họ sao cho phù hợp và sát thực, đạt hiệu quả cao. Hiện nay tình trạng “chảy chất xám” ra nước ngoài thậm chí ngay cả ở trong nước cũng đang là một sự thực nhức nhối. Song, trong hệ thống chính sách của mình, Đảng và Nhà nước vẫn chưa có những biện pháp tích cực và hữu hiệu để khắc phục tình trạng này. Trước những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường, chúng ta còn thiếu nhiều cán bộ khoa học có trình độ cao, nhiều cán bộ công nghệ có năng lực thực hành, cán bộ quản lý giỏi. Trong khi đó, ước tính có tới 1,5 vạn người đã tốt nghiệp đai học và 1.600 người có học vị cao chưa tìm được việc làm Nguyễn Trí Dũng - Chảy máu chất xám tại chỗ - một sự thật nhức nhối, Tạp chí Cộng sản, số 1-1995, tr.47 . Điều đó đã gây lãng phí rất lớn cho Đảng và Nhà nước. ở đây không chỉ lãng phí sức người, sức của đối với quá trình đào tạo ra được một người lao động có trình độ cao, mà còn để lãng phí một nguồn lao động có gía trị lớn cho xã hội. Mặt khác, cũng do tác động của cơ chế thị trường, “chất cám” hiện nay đnag thực sở trở thành hàng hoá và có xu hướng trôi dạt ra khỏi sự kiểm soát của Nhà nước. Lực lượng trí thức giỏi bỏ cơ quan Nhà nước đi làm thuê cho các doanh nghiệp nước ngoài ngày càng đông đảo. Nhiều nhân tài cũng chuyển sang khu vực kinh tế tư nhân. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, song nguyên nhân chính có lẽ vẫn là do những hấp dẫn về thu nhập cao ở các cơ sở đó. Để chủ động chống thất thoát lực lượng lao động này, Nhà nước cần nghiên cứu một cách đồng bộ và toàn diện các chính sách về đào tạo, sử dụng, đãi ngộ trí thức sao cho phù hợp với cơ chế mới. Cần ban hành những văn bản pháp luật quy định sự ràng buộc về pháp luật giữa cơ quan đào tạo, người được đào tạo và người sử dụng lao động. Khắc phục tình trạng Nhà nước chỉ biết bỏ kinh phí ra đào tạo, còn người sử dụng nghiễm nhiên sử dụng lao động đã được đào tạo mà không phải trả một khoản kinh phí nào. Trong đội ngũ trí thức nước ta, có tới một nửa là cán bộ công tác trong ngành Giáo dục và Đào tạo. Trong nền kinh tế thị trường, ngành Giáo dục và Đào tạo đang đứng trước những thách thức mới. Các trường sư phạm không tuyển được học sinh giỏi, vì đang có sự lệch lạc về tâm lý xã hội cho rằng, học giỏi mà đi sư phạm là một sự “lãng phí” tài năng. Sở dĩ ngành Giáo dục và Đào tạo không hấp dẫn người tài vì đời sốgn giáo viên quá khó khăn. Gần đây Nhà nước ta có quan tâm đến việc thực hiện các chính sách khuyến khích vật chất và tinh thần đối với giáo viên. Trong chế độ lương mới thực hiện từ năm 1993, lương của giáo viên được xếp cao hơn một bậc so với các ngành khác, nhưng trên thực tế thì lương của họ lại bị hạ thấp, vì không còn phụ cấp thâm niên và một số phụ cấp ưu đãi khác. Theo số liệu báo cáo về thu nhập 6 tháng đàu năm 1995 trong khu vực Nhà nước thì thu nhập của giáo dục xếp thứ 15/15 Báo Giáo dục và thời đại, ngày 14-11-1995 . Điều đó chứng tỏ chế độ lương mới vẫn chưa đem lại những đổi thay tích cực cho đời sống vật chất của bộ phận trí thức công tác ở ngành Giáo dục. Nhà nước cần có hệ thống chính sách đồng bộ và một chế độ tài chính đủ hiệu lực để đào tạo, sử dụng có hiệu quả năng lực của đội ngũ giáo viên. Cần phải đầu tư vào giáo dục và đầu tư để tái sản xuất mở rộng sức lao động, là đầu tư có lãi nhất. Có như vậy mới thể hiện đúng tinh thần “coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Trong các giải pháp nhằm phát huy tiềm năng của tri thức thì việc đổi mới sự lãnh đạo củ Đảng và quản lý của Nhà nước đối với trí thức là rất quan trọng. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với trí thức trước hết là phải xác định được những quan điểm và đường lối chiến lược đúng đăn,s có cơ sở khoa học về vị trí, vai trò của trí thức cũng như công tác xây dựng đội ngũ trí thức trong tình hình mới. Cần làm cho toàn Đảng, toàn dân quán triệt những quan điểm cơ bản đó. Sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của Đảng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội là điều cần khẳng định. Đối với các cơ sở tập trung đông đảo lực lượng trí thức, các tổ chức Đảng ở đó, nhất là các chi bộ phải chú trọng công tác xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh, toàn diện, đủ sức lãnh đạo công tác chuyên môn thật sự trở thành hạt nhân lãnh đạo chính trị của Đang ở cơ sở. Để tăng cường sức mạnh tổ chức Đảng ở những cơ sở đó, cần nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng và của từng đảng viên. Muốn vậy, Đảng phải “trí thức hoá’ đội ngũ của Đảng trên các nền nâng cao dân trí để đưa trí tuệ của Đảng ngang tầm với trí tuệ của thời đại. Đảng cần chú ý kết nạp trí thức trẻ vào Đảng và đề bạt vào các vị trí lãnh đạo những cán bộ trẻ có năng lực, giỏi chuyên môn. Vì người lãnh đạo ở các cơ quan khoa học, văn hoá - nghệ thuật, các trường đại học… không những là người vững vàng về lập trường chính trị mà còn phải có trình độ chuyên môn, nắm vững được chuyên môn. Có như vậy Đảng mới có thể giữ vững được vị trí lãnh đạo của mình trước sự phát triển của khoa học công nghệ và những đổi thay to lớn của đất nước. Trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng, Đảng cần tạo điều kiện để trí thức có thể làm tốt các chức năng phê phán, phản biện, chức năng phát hiện và dự báo tương lai. Trí thức cần được thu hút vào các tổ chức và hoạt động xã hội - chính trị đa dạng. Ngoài việc tham gia các tổ chức có tính chất Nhà nước như Mặt trận Tổ quốc, Liên hiệp công đoàn và các tổ chức, đoàn thể khác, trí thức còn cần được tập hợp vào các tổ chức có tính chất nghề nghiệp, qua đó có thể thu hút được đông đảo lực lượng trí thức bao gồm ở tất cả các ngành, các cấp, các thành phần kinh tế. Hướng họ cùng phấn đấu cho một sự nghiệp chung của đất nước, sự nghiệp đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Đỏi mới sự lãnh đạo của Đảng phải gắn liền với việc đổi mới sự quản lý của Nhà nước đối với công tác trí thức. Sự đổi mới đó cần được thể hiện ở các mặt: -Nhà nước cần thể chế hoá kịp thời các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng đối với trí thức và tổ chức triển khai kịp thời việc thực hiện các chính sách đó. Cần thiết sửa đổi, bổ sung những chế độ, chính sách nào đã qua thực tiễn vẫn bộc lộ những điểm còn bất hợp lý, nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ để phát huy trí tuệ và tiềm năng của đội ngũ trí thức. -Nhà nước cũngcần kiện toàn và đổi mới công tác quản lý khoa học và đội ngũ cán bộ khoa học, văn hoá, nghệ thuật, như khoa học hoá các hoạt động hành chính của Nhà nước, sắp xếp tổ chức lại các cơ quan nghiên cứu khoa học hợp lý, tập trung xây dựng có trọng điểm các cơ quan nghiên cứu có chức năng thực hiện được những nhiệm vụ phát triển khoa học công nghệ thành những tập thể khoa học vững mạnh, giải tán các cơ quan hoạt động không có hiệu quả, hợp nhất các viện, các trung tâm có cùng chức năng nghiên cứu… Công tác đào tạo đại học hiện nay có nhiều biểu hiện chứng tỏ sự quản lý của Nhà nước còn lỏng lẻo, chưa khoa học. Việc Nhà nước chủ trương đa dạng hoá các hình thức học tập và các loại hình đào tạo đại học là phù hợp với những yêu cầu của nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Nhưng trong quá trình thực hiện còn nảy sinh nhiều biểu hiện tiêu cực từ khâu tuyển chọn đến học tập, thi cử… Nhà nước cần xem xét lại vấn đề này để đổi mới hơn nữa hình thức và nội dung đào tạo, bao hàm chất lượng cao cho đội ngũ trí thức tương lai. Cùng với việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, bản thân người trí thức cũng cần phải tự đổi mới cả trong nhận thức cũng như trong hoạt động sáng tạo. Người trí thức chân chính không thể không trăn trở trước thực tế: dân tộc ta cần cù, chịu khó, nước tagiàu tài nguyên, chúng ta có nhiều tiềm năng trí tuệ, nhưng hiện nay vẫn chưa ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Từ đó mà xác định cho mình trách nhiệm nâng cao tri thức, góp phần đưa đất nước đi lên con đường phát triển văn minh, giàu mạnh. Họ hiểu hơn ai hết chân lý của thời đại: “Trí thức là yếu tố chủ yếu của cuộc cách mạng ngày nay”. Đảng và Nhà nước đã dành cho trí thức những vị trí vẻ vang, đồng thời cũng là trách nhiệm rất nặng nề trong việc thực hiện những mục tiêu chiến lược của Đảng trong giai đoạn đổi mới đất nước. Hiện nay, cơ chế mới cũng mở ra cho trí thức những con đường lập nghiệp và khả nang sáng tạo phong phú. Người trí thức ngoài việc rèn luyện không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, còn cần phải xây dựng cho mình bản lĩnh chính trị vững vàng, một tác phong làm việc khoa học, chủ động, sáng tạo và lối sống giản dị lành mạnh, ra sức phấn đấu vươn lên “trở thành người chiến sĩ dũng cảm, trung thực trên mặt trận khoa học kỹ thuật, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc” Báo Nhân dân, ngày 16/3/1981. , xứng đáng là người lao động chân chính trong chế độ mới - chế độ xã hội chủ nghĩa. Tóm lại: chính sách của Đảng đối với trí thức thực chất là chính sách về xây dựng và sử dụng có hiệu quả những tiềm năng trí tuệ của trí thức phục vụ cho những mục tiêu chiến lược của Đảng và lợi ích của quốc gia, của dân tộc. Việc xây dựng và thực hiện các chính sách đối với trí thức có liên quan mật thiết đến chất lượng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, vì nó là một bộ phận của các chiến lược chung đó. Bởi vậy, Đảng đã từng bước đỏi mới những chủ tửơng, chính sách đối với đội ngũ trí thức, nhằm đáp ứng những dòi hỏi của thực tiễn đã và dang đặ ra. Những đổi mới dó có tác dụng tích cực trong việc hình thành và phát triển một đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhứng phẩm chất, trí tuệ và chính trị - tư tưởng mới. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, thể hiện tính nhất quán và đúng đắn trong những chủ trương và chính sách đối với trí thức của Đảng, chúng ta cũng phải thẳng thắn mà đánh giá rằng phần nào nó có tản mạnh, nhiều giải pháp đặt ra còn thiếu đồng bộ… dẫn đến làm nẩy sinh không tí những tiêu cực, hạn chế đến việc phát huy tiềm năng của trí thức. Để khắc phục, Đảng cần phải tiếp tục hoàn thiện hơn nữa chính sách đối với trí thức. Năm 1957, Đảng có công bố “chính sách của Đảng lao động Việt Nam đối với trí thức”. Văn kiện đó đã có một tiếng vang, có sức thu hút khá lớn, động viên tập hợp trí thức trong giai đoạn cách mạng lúc bấy giờ. Trong tình hình hiện nay, Đảng cũng dần có một số văn kiện mới về trí thức một cách chính thức và toàn diện hơn nhằm động viên đến mức cao nhất tiềm năng và trí tuệ của đội ngũ trí thức nước ta trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, giàu mạnh. Trong gần nửa thế kỷ qua, cùng với sự trưởng thành của cách mạng và phát triển đi lên của đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đội ngũ trí thức Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh và có những đóng góp xứng đáng vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ một tầng lớp xã hội nhỏ bé, đến này đội ngũ trí thức nước ta đã là một lực lượng khá đông đảo, có cơ cấu phong phú đa dạng và đang trở thành động lực mạnh mẽ trong công cuộc đổi mới đất nước. Sự trưởng thành củ đội ngũ trí thức Việt Nam là kết quả của quá trình đào tạo, rèn luyện của Đảng và của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Nắm vững và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm nhận thức được vị trí và vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức trong mọi giai đoạn cách mạng. Quan điểm nhất quán của Đảng là đánh giá cao tinh thần yêu nước, tinh thần cách mạng của trí thưc Việt Nam, coi trí thức là một bộ phận củ cách mạng, là nguồn vốn trí tuệ vô cùng quý báu của dân tộc. Đảng đã nhiều lần khẳng định: cách mạng rất cần trí thức, không có trí thức thì không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội được. Từ nhận thức đó, Đảng đã xác định việc xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh đủ sức giải quyết những vấn đề của đất nước và thời đại đặt ra là nhiệm vụ chiến lược lâu dài trong suốt hành trình của Đảng và của cách mạng Việt Nam. Trong từng giai cấp cách mạng, Đảng đã đề ra những chủ trương và chính sách phù hợp để đoàn kết, tập hợp lực lượng trí thức xung quanh Đảng, động viên họ thực hiện những nhiệm vụ cách mạng của Đảng giao phó. Thực tiễn đa chứng minh rằng trí thức nước ta đã tỏ ra xứng đáng là “động lực của cách mạng”, là lực lượng lao động quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng từ năm 1986 đến nay đã đạt được những thành tựu quan trọng, tạo được những tiền đề để chuyển sang một giai đoạn phát triển mới với những vận hội mới. đó là xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế - xã hội, là cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới và đường lối đổi mới của Đảng mở ra những khả năng chưa từng có để phát huy mọi nguồn lực của đất nước. Để có thể “đi tắt, đón đàu”, rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu về kinh tế, chúng ta phải xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức thành mộ lực lượng xã hội vững mạnh. Đó là những nhà lãnh đạo quản lý giỏi, những nhà khoa học và công nghệ năng động, uyên bác, những cán bộ văn hoá, giáo dục tài năng… Nếu không có một đội ngũ trí thức như vậy thì chúng ta không thểthực hiện được công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, không thể hoà nịp vào tiến trình phát triển chung của nhân loại. Nhận thức được tầm quan trọng của trí thức tỏng sự nghiệp đổi mới, trong thời gian gần đây, cùng với những cải cách quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Đảng đã có nhiều đổi mới tỏng công tác trí thức. Trong nhận thức mới, Đảng đã khẳng định trí thức là một tần lớp xã hội độc lập và là một chủ thể bình đẳng trong khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức - nền tảng của chế độ mới xã hội chủ nghĩa; trí thức là động lực của sự phát triển đất nước. Những nhận thức đúng đắn đó là tạo cơ sở cho việc hoạch định các chính sách của Đảng đối với trí thức. Từ Đại hội VI đến nay, Đảng đã từng bước hoàn thiện các chính sách đó để đảm bảo những lợi ích vật chất vf tinh thàn cho trí thức nhằm phát huy mạnh mẽ những tiềm năng của họ trong công cuộc đổi mới. Có thể nói mục tiêu của các chính sách của Đảng với trí thức trong giai đoạn hiện nay là tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để sử dụng và phát huy cao nhất năng lực củ đội ngũ trí thức, mở rộng đào tạo bồi dưỡng để nhanh chóng xây dựng được một đội ngũ trí thức có trình độ chuyên môn cao, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý chí phấn đấu vì sự nghiệp phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để những chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng đi vào thực tiễn, Đảng cần phải tăng cường đổi mới hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng cũng như sự quản lý của Nhà nước đối với công tác trí thức. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là một nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển của đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mục lục Trang Lời mở đầu Phần 1 Đảng Cộng sản Việt Nam với vấn đề trí thức I. Nhận thức của Đảng về vị trí và vai trò của trí thức trong sự nghiệp cách mạng II. Tình hình đội ngũ trí thức nước ta trước thời kỳ đổi mới (1986) Phần 2 Trí thức trong công cuộc đổi mới đất nước I. Công cuộc đổi mới và những vấn đề đặt ra đối với trí thức. II. Chính sách của Đảng đối với trí thức trong công cuộc đổi mới III. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy tiềm năng trí thức trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCNXH (34).doc
Tài liệu liên quan