Giải pháp huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới

Từ năm 2006 trở lại đây là một thời kỳ mới trong thu hút đầu tư nước ngoài và nhu cầu nhõn lực chất lượng cao đang tăng lên nhanh chóng. Nhà sản xuất bộ vi xử lý lớn nhất thế giới Intel đó đầu tư 1 tỉ đôla vào Việt Nam và sẽ cần 3000 lao động trong đó có gần 1.000 kỹ sư, chủ yếu là thuộc ngành điện tử, tin học, tự động hoỏ. Tập đoàn Grờnasa của Nhật Bản – một trong những công ty hàng đầu thế giới về thiết kế, sản xuất vi mạch, năm 2007 đó triển khai xõy dựng trung tõm thiết kế tại Việt Nam, với nhu cầu cần tuyển khoảng 1000 kỹ sư để thiết kế bỏn dẫn. Tập đoàn Foxconn của Đài Loan cũng đó bắt đầu đầu tư vào Việt Nam. Đây là một tập đoàn công nghệ cao vào loại lớn nhất của Đài Loan với giỏ trị tài khoản trờn thị trường chứng khoỏn là 70 tỷ USD, chuyờn sản xuất cỏc sản phẩm liên quan đến điện thoại di động, cụm chi tiết mỏy tớnh, thiết bị viễn thông, điện tử tiờu dựng. Tập đoàn này dự kiến trong năm năm tới sẽ đầu tư vào Việt Nam 5 tỷ USD và sử dụng trên 50 000 lao động.

doc46 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1189 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
196 827,290,300 367,849,633 5 Vĩnh Phúc 18 780,620,000 170,234,000 6 Long An 39 647,153,180 171,365,000 7 Hậu Giang 2 629,000,000 349,700,000 8 Thừa Thiên - Huế 8 560,591,348 186,716,348 9 Đà Nẵng 16 430,927,895 107,131,250 10 Ninh Bình 5 403,335,652 121,730,900 11 Đồng Nai 64 301,628,584 144,966,863 12 Hải Phòng 47 270,411,797 121,276,315 13 Hải Dương 33 251,776,088 96,488,088 14 Quảng Nam 16 209,951,300 107,125,000 15 Bắc Ninh 28 204,083,069 113,299,869 16 Hưng Yên 26 167,078,000 60,869,500 17 Dầu khƯ 4 140,770,000 140,770,000 18 Lâm Đồng 11 128,225,183 55,637,500 19 Ninh Thuận 4 109,104,566 31,500,000 20 Thái Nguyên 1 100,000,000 30,000,000 21 Hà Tây 13 81,552,341 41,258,233 22 Bình Phước 25 76,225,000 68,223,000 23 Bình Định 10 65,462,500 36,650,000 24 Hà Nam 5 51,600,000 24,400,000 25 Tây Ninh 18 51,485,000 15,836,300 26 Quảng Ninh 6 40,500,000 29,750,000 27 Cần Thơ 5 28,450,000 25,450,000 28 Lào Cai 2 28,410,000 9,430,000 29 Thái Bình 2 27,000,000 20,700,000 30 Đồng Tháp 4 25,210,000 20,960,000 31 Bắc Giang 10 25,153,000 18,720,000 32 Khánh Hòa 8 25,014,932 16,064,932 33 Tiền Giang 4 16,300,000 9,650,000 34 Săc Trăng 2 15,497,000 5,497,000 35 Bình Thuận 7 14,602,500 11,312,500 36 Thanh Hóa 5 12,115,000 10,215,000 37 Hà Giang 1 10,000,000 5,000,000 38 Cao Bằng 3 6,780,812 5,625,000 39 Đắk Lắk 1 6,000,000 2,000,000 40 Nghệ An 2 5,850,000 4,700,000 41 Quảng Ngãi 2 5,750,000 5,750,000 42 Nam Định 2 4,200,000 3,984,801 43 Hòa Bình 2 3,880,000 3,380,000 44 Phú Yên 4 3,770,125 2,590,000 45 Quảng Trị 2 3,145,000 1,520,000 46 Gia Lai 1 1,500,000 500,000 47 Lạng Sơn 3 1,020,000 1,020,000 48 Sơn La 2 550,000 530,000 49 Phú Thọ 1 500,000 400,000 50 Trà Vinh 1 500,000 500,000 51 Bến Tre 1 300,000 300,000 Tổng số  1,144 9,753,532,583 3,809,270,761 Bảng 2. Vốn FDI cấp mới theo địa phương (USD) Tính từ đầu năm, Hàn Quốc đang tiếp tục giữ vị trí đứng đầu trong 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với số vốn đăng ký 2,44 tỷ USD, chiếm 25% tổng vốn đăng ký. British Virgin Islands đứng thứ 2 với số vốn đăng ký 1,73 tỷ USD, chiếm 17,8% tổng vốn đăng ký... STT Đối tác Số dự án Tổng vốn đầu tư Vốn điều lệ 1 Hàn Quốc 328 2,442,023,406 897,133,723 2 BritishVirginIslands 43 1,737,742,724 683,020,564 3 Singapore 71 1,377,305,000 444,339,000 4 Đài Loan 169 975,320,078 405,166,378 5 Nhật Bản 131 657,477,807 223,587,107 6 Ấn Độ 4 533,430,000 160,268,000 7 Trung Quốc 85 301,145,206 153,381,894 8 Thái Lan 17 269,439,000 65,408,000 9 Hoa Kỳ 50 258,636,895 139,885,750 10 Hồng Kông 48 162,531,407 70,076,708 11 Malaysia 32 152,309,358 91,319,750 12 Canada 6 145,022,466 43,517,900 13 Hà Lan 9 144,339,625 101,555,508 14 Pháp 15 136,092,600 93,837,000 15 Cayman Islands 2 70,380,000 20,050,000 16 Samoa 10 54,800,000 43,200,000 17 Italia 3 48,531,250 4,531,250 18 CHLB Đức 10 46,760,500 19,309,000 19 Vương quốc Anh 16 42,010,868 24,505,868 20 Australia 25 36,697,754 27,364,812 21 Brunei 12 36,221,421 18,021,421 22 Ma Cao 1 18,000,000 18,000,000 23 Phần Lan 2 17,100,000 5,600,000 24 New Zealand 1 15,000,000 15,000,000 25 Cộng hòa SĐc 5 13,312,500 9,312,500 26 Indonesia 4 12,300,000 5,700,000 27 Belize 1 10,000,000 6,000,000 28 Liên bang Nga 4 9,771,000 2,221,000 29 Philippines 4 6,220,000 6,164,000 30 Slovenia 2 4,000,000 2,000,000 31 Ireland 1 3,800,000 1,140,000 32 Đan Mạch 6 3,433,090 2,160,000 33 Na Uy 1 3,200,000 1,200,000 34 Panama 2 2,500,000 1,250,000 35 Thụy Điển 4 1,340,000 850,000 36 Israel 2 1,120,000 1,120,000 37 Campuchia 1 1,000,000 200,000 38 Mauritius 1 800,000 400,000 39 Thổ Nhĩ Kỳ 1 600,000 180,000 40 Thụy Sỹ 2 350,000 200,000 41 Channel Islands 2 310,000 110,000 43 Bỉ 2 268,848 268,848 44 Cayman Island 1 250,000 100,000 45 Tây Ban Nha 3 230,000 230,000 46 Hungary 1 130,000 130,000 47 British West Indies 1 100,000 100,000 48 Pakistan 1 100,000 100,000 49 Bungary 1 50,000 25,000 50 Nam Phi 1 29,780 29,780 Tổng số 1,144 9,753,532,583 3,809,270,761 Bảng 3. Vốn FDI cấp mới theo quốc gia đầu tư (USD) Số dự án có quy mô tương đối lớn được cấp giấy chứng nhận đầu tư đã tăng hơn 50% so với cùng kỳ năm trước. Riêng một số dự án có quy mô vốn đầu tư lớn đã chiếm khoảng 55% tổng vốn đăng ký cả nước trong 10 tháng đầu năm 2007. Quy mô vốn đầu tư trung bình cho một dự án đạt 8,5 triệu USD/dự án, cao hơn so với bình quân của cùng kỳ năm trước (6,7 triệu USD/dự án). Khó khăn, vướng mắc trong huy động vốn FDI vào Việt Nam Mất cân đối về ngành nghề, vũng lãnh thổ Mục đích cao nhất của các nhà đầu tư là lợi nhuận. Do đó những lĩnh vực, ngành, dự án có tỷ suất lợi nhuận cao đều được các nhà đầu tư rất quan tâm, còn những dự án, lĩnh vực mặc dù rất cần thiết cho dân sinh, nhưng không đưa lại được lợi nhuận thỏa đáng thì không thu hút được đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài trong khi lựa chọn địa điểm để triển khai dự án đầu tư thường tập trung vào những nơi có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi, do đó các thành phố lớn, những địa phương có cảng biển, cảng hàng không, các tỉnh đồng bằng là nơi tập trung nhiều dự án đầu tư nước ngoài nhất. Trong khi đó, các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, những địa phương cần được đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, mặc dù Chính phủ và chính quyền địa phương có những ưu đãi cao hơn, nhưng không được các nhà đầu tư quan tâm. Tình trạng đó đã dẫn đến một nghịch lý: những địa phương có trình độ phát triển cao thì thu hút được đầu tư nước ngoài nhiều, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt quá tốc độ tăng trưởng trung bình của cả nước. Trong khi đó, những vùng có trình độ kém phát triển thì có ít dự án đầu tư nước ngoài, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp. Nếu không có sự điều chỉnh nguồn vốn đầu tư của Nhà nước, thì sự chênh lệch về trình độ phát triển của các vùng kinh tế ngày càng tăng thêm. Đây là vấn đề không chỉ xảy ra ở nước ta, mà cả ở các nước khác như Trung Quốc, Thái Lan, Malaixia … Nguyên tắc sinh lợi chi phối hoạt động đầu tư nước ngoài đã dẫn đến những yêu cầu của nhà đầu tư nước ngoài đối với Chính phủ, trong đó có việc bảo hộ sản phẩm của họ bằng hang rào thuế quan và phi thuế quan, để đạt được tỷ suất lợi nhuận trung bình. Điều đó không phù hợp với xu thế tự do hóa thương mại và đầu tư, gây ra tác động tiêu cực đối với việc đổi mới công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Đối với các dự án đầu tư của TNCs, nhất là dự án công nghệ cao, một số TNCs đòi hỏi Chính phủ có những ưu đãi vượt ra khỏi khuôn khổ pháp lệnh hiện hành. Do vậy, đứng trước hai sự lựa chọn hoặc đáp ứng yêu cầu của TNCs, hy sinh lợi ích về tài chính để có thể thu hút được công nghệ cao của Thế giới, đào tạo được một đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề, thì sẽ tạo ra tiền lệ không bình thường và làm mất cân đối trong các ưu đãi đầu tư; hoặc nếu không chấp nhận đòi hỏi của TNCs công nghệ cao thì họ sẽ thực hiện dự án của mình tại nước khác, do đó khó nâng cao được trình độ công nghệ đất nước và xây dựng đội ngũ công chức có năng lực tiếp cận trình độ của Thế giới. Yếu kém trong chuyển giao công nghệ Nhìn chung công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thường cao hơn mặt bằng công nghệ trong cùng ngành và cùng loại sản phẩm ở nước ta. Tuy vậy, một số trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt Nam, cũng như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu nên đã nhập vào Việt Nam một số máy móc thiết bị có công nghệ lạc hậu, thậm chí là những phế thải của các nước khác. Tính phổ biến của việc nhập thiết bị máy móc là giá cả được ghi trong hóa đơn thường cao hơn giá trung bình của thị trường Thế giới. Nhờ vậy, một số nhà đầu tư nước ngoài có thể lợi dụng để khai tăng tỷ lệ góp vốn trong các liên doanh với bên Việt Nam. Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam được thực hiện thông qua các hợp đồng và được cơ quan quản lý Nhà nước về khoa học và công nghệ chuẩn y. Tuy vậy, đây là một hoạt động cực kỳ khó khăn đối với các nước tiếp nhận đầu tư nói chung, kể cả Việt Nam, bởi khó có thể đánh giá chính xác giá trị thực của từng loại công nghệ trong những ngành khác nhau, đặc biệt những ngành công nghệ cao. Do vậy, thường phải thông qua thương lượng theo hình thức mặc cả đến khi hai bên có thể chấp nhận được, thì ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ. Nguyên nhân dẫn tới khó khăn, vướng mắc Chưa có sự nhất trí cao trong quan điểm và nhận thức đối với FDI Chủ trương thu hút nguồn lực từ bên ngoài bao gồm nguồn vốn nước ngoài và đặc biệt là vốn FDI là một bộ phận quan trọng trong đường lối đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Các thành quả của hoạt động đầu tư nước ngoài là một biểu hiện rõ rệt của đường lối và chủ trương đúng đắn đó, bởi nó phù hợp với xu thế toàn cầu hóa kinh tế thế giới. Tuy nhiên, cho đến nay vấn đề quan điểm và nhận thức đối với đầu tư nước ngoài vẫn chưa được sự nhất trí cao trong các cơ quan Nhà nước, các công cụ truyền thông đại chúng. Việc cụ thể hóa đường lối chính sách của Đảng bằng lật pháp, chính sách và các văn bản pháp quy khác nhau chưa trở thành một hệ thống bảo đảm tính nhất quán và ổn định. Một vài công trình nghiên cứu lý luận còn coi đầu tư nước ngoài như một công cụ để áp đặt chủ nghĩa thực dân mới của những nước lớn đối với các nước đang phát triển, trong đó có nước ta, mà chưa thấy được tính độc lập và tự chủ của các nước nhận đầu tư; trên cơ sở một hệ thống luật pháp được hình thành để bảo đảm lợi ích dân tộc trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Hoạt động đầu tư nước ngoài thường xuyên đụng chạm đến vấn đề chính trị và an ninh, quốc phòng, việc xử lý đối với nhiều dự án lớn vừa phải bảo đảm an ninh, chính trị, quốc phòng của đất nước vừa phải đứng trên lợi ích toàn cục theo phương châm gắn kinh tế vói an ninh và quốc phòng, trong đó phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm. Cũng không ít trường hợp lo ngại các thế lực thù địch quốc tế sử dụng đầu tư nước ngoài như một công cụ “diễn biến hòa bình”, làm chệch hướng phát triển của đất nước, làm thay đổi bản chất xã hội và thường nhấn mạnh các mặt tiêu cực của kinh tế thị trường nói chung, cũng như của hội nhập kinh tế quốc tế. Việc xử lý mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực là cần thiết đối với một nước có dân số khá lớn như nước ta. Nếu nhấn mạnh nội lực đến mức “ta có thể tự làm lấy” các dự án lớn và hạn chế đầu tư nước ngoài trong một số ngành quan trọng thì sẽ dẫn đến tình trạng kìm hãm sự phát triển kinh tế nói chung và giảm sút số lượng vốn đầu tư nước ngoài và hiệu quả của việc sử dụng vốn đầu tư nước ngoài. Vấn đề độc lập tự chủ kinh tế thường được nêu ra trong hoạt động đầu tư nước ngoài. Cũng có những ý kiến cho rằng, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, nhất là các TNCs có thể lũng đoạn thị trường về một hoặc một số sản phẩm nhất định, tìm cách nâng giá, như truờng hợp đã xảy ra đối với giá thuốc chữa bệnh ở nước ta, để thu được lợi nhuận cao nhất. Trong lĩnh vực tài chính và tiền tệ, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các doanh nghiệp trong lĩnh vực bảo hiểm có thể lợi dụng sơ hở của pháp luật để đầu cơ tiền tệ, gây ra bất ổn trên thị trường tài chính – tiền tệ. Thực tế đã xảy ra một số trường hợp cá biệt theo hướng tiêu cực, nhưng nhìn chung các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, kể cả TNCs hoạt động trên thị trường nước ta đều coi trọng việc nâng cao độ tin cậy của họ đối với khách hàng, lấy chữ tín làm trọng, nên đã hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và đóng góp ngày càng lớn hơn vào tăng trưởng kinh tế của đất nước. Thể chế và luật pháp còn nhiều nhược điểm Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội thông qua vào ngày 29-12-1987, được dư luận quốc tế đánh giá là một trong những luật đầu tư thông thoáng nhất vào thời gian đó. Đã bốn lần Quốc hội điều chỉnh và sửa đổi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000. Chính phủ đã ban hành các nghị định hướng dẫn Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam như Nghị định số 18/NĐ-CP ngày 16-4-1993, Nghị định số 12/NĐ-CP ngày 18-2-1997, Nghị định số 10/1998/NĐ-CP ngày 23-1-1998, Nghị định số 24/2000/NĐ-CP ngày 31-7-2000 và gần đây là Nghị định số 27/2003/NĐ-CP ngày 19-3-2003 để sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2000/NĐ-CP. Chính phủ cũng đã thường xuyên đề ra các chủ trương đổi mới với hoạt động đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên hệ thống pháp luật của nước ta vẫn còn nhiều bất cập. Tính minh bạch, nhất quan và sự ổn định của luật pháp là nhược điểm lớn nhất, đồng thời cũng là đòi hỏi bức xúc của các nhà đầu tư nước ngoài. Sự thiếu minh bạch của luật pháp đã tạo ra những kẻ hở cho tệ nạn nhũng nhiễu, lộng quyền và gây phiền hà của các công chức trong bộ máy Nhà nước. Tình trạng không nhất quán và không ổn định của luật pháp kéo theo sự thay đổi khó lượng trước đối với các doanh nghiệp, đã làm cho những dự tính ban đầu của họ không thực hiện được trong kinh doanh. Các văn bản pháp quy từ luật, pháp lệnh cho đến nghị định, thông tư chưa bảo đảm nhất quán về nội dung và thời hiệu thi hành. Nhiều nội dung của luật và pháp lệnh còn dừng lại ở định hướng chung, thiếu cụ thể, phải chờ nghị định của Chính phủ, thậm chí thông tư của Bộ mới có hiệu lực. Do vậy, sau khi đã có luật và pháp lệnh phải đợi nhiều tháng, thậm chí cả năm mới áp dụng vào cuộc sống. Sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa các luật với nhau, giữa luật và pháp lệnh với nghị định và thông tư đã làm cho các đối tượng thi hành gặp nhiều khó khăn, đồng thời cũng là kẽ hở để “lách luật” trong các hoạt động không hợp pháp. Tình trạng “phép vua thua lệ làng” là hiện tượng phổ biến trong việc một số cơ quan trung ương và chính quyền địa phương tự ý ban hành các văn bản trái luật hoặc không thi hành nghiêm chỉnh luật pháp. Điều đáng lưu ý là khi phát hiện ra những hành vi cụ thể thì không được Chính phủ ra quyết định kịp thời xử lý. Việc thực thi pháp luật không nghiêm, những tổ chức và cá nhân vi phạm pháp luật không được xử lý kịp thời bằng hình thức kỷ luật hành chính, hoặc truy tố trước pháp luật nếu có các hành vi nghiêm trọng. Đối chiếu với các cam két quốc tế đa phương và song phương thì hệ thống luật pháp nước ta còn phải sửa đổi, bổ sung nhiều. Nhiệm vụ đó được đặt ra cách đây 6 năm, nhưng xem ra một số công việc tiến hành chậm hơn nhiều so với tiến độ cần thiết. Môi trường kinh doanh chưa đủ hấp dẫn Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, trong những năm qua, môi trường kinh doanh tại Việt Nam đã được cải thiện, tuy vậy chi phí kinh doanh cao là một trong những nguyên nhân chính hạn chế đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Những nét cụ thể bao gồm: Tiện ích cung cấp điện, nước, dịch vụ viễn thông tại Việt Nam thiếu, không ổn định và chất lượng thấp Cho đến gần đây, sản xuất điện năng thuộc trách nhiệm duy nhất của Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN). Sự tham gia của khối tư nhân trong việc sản xuất điện năng đã được phép thực hiện trong vài năm qua, tuy nhiên, phân phối điện vẫn thuộc thẩm quyền của EVN. Giá điện năng do Chính phủ quy định và có sự khác biệt giữa những người sử dụng và giữa các khu vực. Nhiều doanh nghiệp đầu tư nước ngoài phải đầu tư bổ sung để nâng cấp việc cung ứng điện (xây dựng hệ thống truyền tải hoặc mua máy phát điện). Hầu hết các ý kiến phàn nàn từ các nhà đầu tư nước ngoài là về hệ thống hai giá và chi phí điện năng cao duy trì trong thời gian dài. Chi phí điện năng cao hơn so với Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, nhưng thấp hơn Philipin, Xinhgapo, Ấn Độ, Trung Quốc. Giá điện tại Việt Nam tiếp tục tăng do quá trình sản xuất và phấn phối điện năng còn chưa ổn định và hiệu quả. Chi phí điện năng cao và tình trạng mất điện đôi khi xảy ra không chỉ làm giảm tính cạnh trang về chi phí của Việt Nam, mà còn tạo nên hình ảnh tiêu cực đối với nhà đầu tư là những người cho rằng họ phải trợ cấp hoạt động kinh doanh không hiệu quả của các công ty Việt Nam. Cung cấp nước sạch và hệ thống thoát nước sử dụng nước sạch, chất lượng hệ thống cung cấp, thoát nước vẫn còn thấp so với tiêu chuẩn khu vực. Việc tiếp cận nước sạch và chất lượng nước đều không phù hợp. Hầu hết hệ thống cung cấp nước đều trong điều kiện tồi. Ở khu vực đô thị, chỉ 70% dân số được sử dụng nước sạch. Khu vực nông thôn, tỷ lệ này chỉ 11%. Nước cung cấp thường bị ô nhiễm và tổn thất trong việc phân phối rất cao. Mức tổn thất trong phân phối trung bình là 40%. Trong một số tỉnh, tỷ lệ này có thẻ vượt quá 50%, chủ yếu là do hệ thống phan phối nước cũ và hết hạn sử dụng. Nhiều thành phố và khu vực đô thị không có hệ thống xử lý nước thải và hệ thống thoát nước đầy đủ. Kết quả, một số công ty phải đầu tư bổ sung vào hệ thống cung cấp và thoát nước. Chi phí viễn thông còn cao so với phần lớn các nước trong khu vực và chất lượng dịch vụ còn hạn chế. Những năm gần đây, Việt Nam đã đạt được thành tựu to lớn trong ngành viễn thống. Tuy nhiên, theo các nhà đầu tư, cước viễn thống quốc tế của Việt Nam còn cao hơn một số nước trong khu vực như Ấn Độ, Malaixia, Philipin, Xingapo, Thái Lan và bình quân ở khu vực này. Nguyên nhân chính của chi phí cao và chất lượng thấp trong ngành viễn thông là thiếu tính cạnh tranh, theo đó dẫn đến năng suất thấp và hoạt động kinh doanh kém hiệu quả. Xóa bỏ cơ chế độc quyền trong ngành viễn thống, nhưng vẫn đảm bảo an ninh thông tin được xem như là phương thức hiệu quả để giải quyết vấn đề này. Chất lượng, độ tin cậy của kết cấu hạ tầng và các tiện ích thấp hơn tiêu chuẩn Kết cấu hạ tầng của Việt Nam vẫn chưa phù hợp và không đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế về các khía cạnh sẵn có, chi phí và chất lượng. Mặc dù cải thiện mạnh trong hơn 10 năm qua, nhưng khả năng sẵn có và chất lượng kết cấu hạ tầng của Việt Nam vẫn dưới mức trung bình trong khu vực và ASEAN4. Theo kết quả điều tra do Viện nghiên cứu phát triển Đức (GDI) thực hiện, hơn 2/3 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải dùng đường bộ để vận tải hàng hóa của mình. Hầu hết các nhà đầu tư được phỏng vấn để chỉ trích điều kiện hệ thống đường bộ nghèo nàn là một trở ngại trong kinh doanh. Đồng thời cho biết, chi phí vận tải biển của Việt Nam còn cao hơn nhiều so với bình quân chung ở khu vực và hầu hết các nước quanh vùng. Việt Nam có lực lượng lao động trẻ nhưng thiếu lao động có trình độ chuyên môn quản lý và kỹ thuật Việt Nam có một lực lượng lao động hơn 40 triệu người, hàng năm tăng thêm từ 1,3 đến 1,5 triệu người. Chi phí lao động tương đối thấp so với các nước khác trong khu vực tuy nhiên vẫn có những bất cập nhất định trong vấn đề lao động. Lực lượng lao động qua đào tạo tương đối thấp. Lực lượng nhân công không có chuyên môn kỹ thuật dư thừa trong khi đó lại thiếu lao động có chuyên môn kỹ thuật. Chất lượng nhân công qua đào tạo là một vấn đề khác. Vấn đề này là kết quả của hệ thống giáo dục và đào tạo chưa phù hợp. Theo kết quả phỏng vấn nhiều nhà đầu tư nước ngoài cho thấy sự thiếu nhận thức kinh doanh, quản lý và kỹ thuật là những hạn chế chính của lao động Việt Nam. Theo kết quả điều tra do JBIC thực hiện, 43.3% người Nhật Bản cho biết tuyển dụng nhân viên quản lý trong nước là một thách thức. Vấn đề này được xếp thứ ba trong số các vấn đề quan trọng mà các nhà đầu tư nước ngoài phải đối mặt sau chất lượng kết cấu hạ tầng và hệ thống luật pháp. Thị trường lao động Việt Nam vẫn nằm trong giai đoạn hình thành và chưa phát triển. Sự chuyển dịch lao động giữa các ngành kinh tế khác nhau tương đối thấp so với các nước khác, cụ thể giữa Nhà nước và khối tư nhân. Việc yêu cầu các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải tuyển dụng lao động trong nước thông qua các cơ quan tuyển dụng được phép đã hạn chế tính linh hoạt của thị trường lao động. Việc hạn chế tuyển dụng lao động nước ngoài ở tỷ lệ dưới 3% đã cũng hạn chế sử dụng chuyên gia, kỹ thuật viên cao cấp của nước ngoài. Thiếu linh kiện, nguyên vật liệu và công nghiệp hỗ trợ trong nước Do ngành công nghiệp trong nước chưa phát triển, việc sử dụng linh kiện và nguyên vật liệu vẫn còn hạn chế. Kết quả, hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kinh doanh trong ngành sản xuất như điện tử, ô-tô, xe máy phải nhập khẩu linh kiện và hàng bán thành phẩm. Do chi phí nguyên vật liệu trong ngành sản xuất là nhân tố lớn nhất trong cấu thành chi phí, tình trạng không sẵn có các linh kiện và nguyên vật liệu trong nước dẫn đến chi phí sản xuất cao và giảm lợi thế cạnh tranh của Việt Nam. Hệ thống thuế nhập khẩu chưa hợp lý cũng góp phần làm cho chi phí linh kiện và nguyên vật liệu cao. Theo kết quả phỏng vấn vói cơ quan thẩm quyền và các công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp khác nhau, vấn đề thiếu công nghiệp hỗ trợ và nhà cung cấp trong nước là một trong những nguyên nhân chính làm số lượng lớn các nhà đầu tư tiềm năng không chọn đặt các cơ sở của họ tại Việt Nam. Tệ tham nhũng ảnh hưởng lớn đến môi trường kinh doanh của khu vực đầu tư nước ngoài, đặc biệt là FDI Chính phủ Việt Nam nhận thức được vấn đề tham nhũng và tác hại của nạn tham nhũng gây ra cho nền kinh tế quốc dân. Chính phủ đã ban hành các biện pháp để khắc phục tình trạng này và đã có chương trình thực hiện Luật thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng mới được Quốc hội thông qua. Tuy nhiên, nạn tham nhũng vẫn là một vấn đề được bàn đến của Việt Nam và tiếp tục trở thành nhân tố ngăn trở vốn đầu tư nước ngoài mà đặc biệt là FDI đối với Việt Nam. Các công đoạn thực hiện quản lý Nhà nước đối với đầu tư nước ngoài còn nhiều bất cập Quy hoạch đầu tư nước ngoài còn nhiều hạn chế Công tác quy hoạch phát triển đầu tư nước ngoài và trên cơ sở đó lập kế hoạch 5 năm, hàng năm để xác định nhu cầu vốn đầu tư nước ngoài, thị trường đối tác, cơ cấu ngành và vùng lãnh thổ đóng vai trò quan trọng và là khâu đầu tiên để thực hiện đường lối của Đảng, đối với chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Quy hoạch đầu tư nước ngoài có phạm vi trên cả nước, bao gồm cả quy hoạch phát triển các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu kinh tế mở, khu công nghệ cao. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì và phối hợp với các Bộ tổng hợp và chuyên ngành để xây dựng quy hoạch đầu tư nước ngoài. Công tác quy hoạch đầu tư nước ngoài đã được triển khai thực hiện ở các cấp, các ngành. Tuy vậy, công tác này cũng còn những hạn chế: Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có đầu tư nước ngoài còn mang tính kế hoạch hóa tập trung thiếu các dự báo khoa học. Do vậy, nhiều quy hoạch còn dựa trên ý chí chủ quan, không phù hợp với diễn biến của đầu tư nước ngoài trên thị trường thế giới. Quy hoạch đầu tư nước ngoài của nước ta áp dụng trong một thời gian tương đối dài, trong khi đó tình hình Thế giới lại biến động thường xuyên và có khi đột biến; các dòng vốn quốc tế bao gồm vốn đầu tư nước ngoài khoảng 1500 tỷ USD/ngày đã chu chuyển dưới tác động của nhiều nhân tố, đòi hỏi các nước tiếp nhận đầu tư nước ngoài phải điều chỉnh chiến lược của mình để thích ứng với sự biến động đó. Đáng tiếc là các quy hoạch đầu tư nước ngoài ở nước ta lại không được điều chỉnh kịp thời. Quy hoạch đầu tư nước ngoài của từng địa phương được hình thành tùy thuộc vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội do chính quyền cấp tỉnh và thành phố đề ra, chưa quan tâm đầy đủ đến kinh tế của vùng – lãnh thổ. Do vậy, chưa có sự liên kết của nhiều tỉnh, thành phố trong một khu vực, làm cho hiệu quả kinh tế - xã hội của các dự án đầu tư nước ngoài nói riêng, cũng như của các dự án đầu tư nói chung giảm sút hiệu quả kinh tế - xã hội theo quan điểm vùng – lãnh thổ. Quy hoạch đầu tư nước ngoài của từng ngành kinh tế kỹ thuật thường chịu tác động về lợi ích cục bộ của các tổng công ty Nhà nước (Tổng công ty 91), trong đó tình trạng độc quyền và xu thế bảo hộ còn khá rõ rệt. Do vậy, nó không phù hợp với tự do hóa thương mại và đầu tư quốc tế. Đây là một trong những nguyên nhân chưa tận dụng được cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài trong một số ngành như xi măng, sắt thép, điện lực ... trong thời gian qua. Hoạt động xúc tiến đầu tư còn hạn chế, chưa trở thàh hoạt động chủ yếu của các cơ quan quản lý Nhà nước Thông tin trinh bày trong các tài liệu về xúc tiến đầu tư k bao quát được nhu cầu mà nhà đầu tư cần biết, như kết cấu hạ tầng và các chi phí, lao động và giá cả, các tiện ích có sẵn và khả năng tiếp cận một thị trường đầy tiềm năng. Các thông tin về dự án đầu tư không đủ độ mềm dẻo cần thiết được cung cấp để các nhà đầu tư tham khảo, mà thường khẳng định trên cơ sở lợi ích của bên Việt Nam, không quan tâm đầy đủ đến lợi ích của nhà đầu tư. Chất lượng của các trang thông tin điện tử kể cả của Bộ Kế hoạch Đầu tư nói chung là thấp, không được cập nhật thông tin đầy đủ. So với trang thông tin của các cơ qun xúc tiến đầu tư trong khu vực thì chất lượng còn kém nhiều. Trang thông tin điện tử cần được lập cả tiếng Anh, tiếng Việt và một số ngôn ngữ phổ thông để nhà đầu tư có thể chọn được ngôn ngữ thích hợp, kết nối vào hệ thống thông tin của họ. Chưa có kinh phí riêng và chuyên viên đủ trình độ để thự hiện xúc tiến đầu tư. Các hoạt động xúc tiến đầu tư thường kết hợp với các đoàn đi công tác ở nước ngoài, hoặc được tổ chức hội thảo tại các thành phố lớn trong nước do lãnh đạo chính quyền tỉnh, thành phố chủ trì, mà chưa trở thành một hoạt động thường xuyên do các cơ quan chuyên trách thực hiện. Sau khi tiến hành xúc tiến đầu tư cũng chưa tổ chức theo dõi để đánh giá kết quả. Trong một số trường hợp, cuộc hội thảo về xúc tiến đầu tư mang nặng tính hình thức, chỉ để tuyên truyền, quảng bá tiềm năng và thế mạnh của từng địa phương, đôi khi những người tham dự chỉ để có được một số thông tin cần thiết, bởi họ không phải là các nhà đầu tư tiềm năng. Thủ tục hành chính còn kha phức tạp trong các khâu từ thẩm định cấp giấy phép đầu tư, triển khai dự án đầu tư và quản lý dự án đầu tư nước ngoài. Thủ tục hành chính trong khâu thẩm định, cấp giấy phép đầu tư còn khá phức tạp và có những nội dung quy định trong hồ sơ là không cần thiết. Trong nền kinh tế thị trường, như thông lệ nhiều nước đang áp dụng thì việc quyết định các dự án đầu tư trước hết thuộc quyền của các nhà đầu tư. Các cơ quan quản lý Nhà nước cần hướng dẫn để họ thực hiện các dự án theo đúng định hướng chiến lược phát triển và trong khuôn khổ pháp luật. Công đoạn triển khai dự án đầu tư còn nhiều thủ tục hành chính rất phức tạp, một số công chức Nhà nước vẫn tư duy theo cơ chế “xin - cho” kiểu cũ, chủ đầu tư phải xin phép và phải được cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành cho phép thì mới được triển khai dự án, mà về bản chất, việc xây dựng doanh nghiệp trước hết thuộc trách nhiệm của chủ đầu tư và cũng là vấn đề quan tâm hàng đầu gắn liền với lợi ích thiết thân của họ. Các thủ tục hành chính trong khâu quản lý dự án, so với thông lệ quốc tế, còn khá nặng nề. Tình trạng tùy tiện của cơ quan thừa hành như một số chi cục thuế, hải quan ở các cửa khẩu, quản lý thị trường ở địa phương, đã làm cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài gặp rất nhiều khó khăn, một số trường hợp gây thiệt hại lớn về vật chất đối với họ. Thiếu sự thống nhất trong quản lý Nhà nước của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố đối với đầu tư nước ngoài Nhận thức về chức năng quản lý Nhà nước của chính quyền cấp tỉnh, thành phố đối với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài vẫn còn nhiều chỗ chưa được thống nhất. Do vậy, hiện nay vẫn có xu hướng muốn phân cấp nhiều hơn để gia tăng quyền hạn của chính quyền địa phương trong cấp phép đầu tư, giám sát, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật. Xu hướng chung của Thế giới hiện đại là phi tập trung hóa để phù hợp với tính phức tạp của các quan hệ kinh tế - xã hội và tính đa dạng về bản sắc văn hóa, phong tục, điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh kinh tế của từng địa phương. Phân cấp cho chính quyền địa phương một số chức năng và quyền hạn vốn trước đây là của các cơ quan trung ương là sự thể hiện khuynh hướng đó. Tuy vậy, vấn đề đáng lưu ý là phân cấp cái gì, vào lúc nào cần được đặt trên cơ sở nâng cao hiệu năng quản lý Nhà nước. GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TRONG THỜI GIAN TỚI Các giải pháp chung đối với đầu tư nước ngoài Đẩy nhanh đổi mới và mở cửa Việc hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang ở vào giai đoạn mới, một số chính sách và luật pháp kinh tế đã được hình thành trước đó hoặc không còn thích hợp với điều kiện hiện tại, hoặc cần được bổ sung để hoàn chỉnh. Công cuộc đổi mới đã được thực hiện nhanh chóng trong thời kỳ 1986-1996, thậm chí lúc đầu chỉ dừng lại ở các chủ trương theo hướng mạnh dạn chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong khi vẫn duy trì nhiều yếu tố của hệ thống pháp luật cũ, mới bắt đầu xây dựng một số luật pháp phù hợp với cơ chế thị trường. Nhưng do yếu tố chính trị thể hiện sự quyết tâm chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm trỗi dậy lực lượng sản xuất của các tầng lớp dân cư vốn bị kìm hãm. Thị trường đã được khởi động và tăng trưởng nhanh chóng bởi có được môi trường thuận lợi cho đầu tư và kinh doanh, khuyến khích mọi người dân tham gia làm giàu một cách chinh đáng cho mình và cho đất nước. Song, khi hệ thống pháp luật theo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã hình thành thì vấn đề cải cách hànhc hính được tiến hành chậm, một số tình trạng hành chính, quan liêu nảy sinh đã làm ảnh hưởng không tốt đến động lực tăng trưởng đã có được trong thời kỳ đầu của đổi mới. Tiếp tục hoàn thiện thể chế và luật pháp phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế Nghị quyết Trung ương 9 đã đặt ra mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khắc phục nguy cơ tụt hậu của nước ta so với thế giới và khu vực, đưa Việt Nam ra khỏi nhóm nước đang phát triển có thu nhập thấp. Do đó, trong những năm tới, nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển là rất lớn. Để đạt mục tiêu GDP tăng gấp đôi vào năm 2010, sơ bộ ước tính nhu cầu tổng vốn đầu tư phát triển của kế hoạch 5 năm 2006 – 2010 khoảng 1580 đến 1960 ngàn tỷ đồng, tương đương 117 – 124 tỷ USD, chiếm 38% GDP. Đây là một nhiệm vụ khó khăn, một mặt đòi hỏi phải xây dựng đồng bộ và hoàn thiện cơ bản thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mặt khác cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và các giải pháp đồng bộ nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả Luật doanh nghiệp áp dụng thống nhất nhằm bảo đảm quyền bình đẳng, tự do đầu tư kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh và tạo sự hấp dẫn cho các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, mở thêm các kênh mới trong thu hút đầu tư nước ngoài. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh không ngừng được cải thiện theo hướng phù hợ với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, không phân biệt, tạo luật “cùng một sân chơi chung” cho các hình thức đầu tư, các thành phần kinh tế, thể hiện hàng loạt các đạo luật mới được ban hành, hoặc sửa đổi, bổ sung. Những khác biệt về điều kiện đầu tư như gia nhập thị trường, các yếu tố đầu vào giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài đã được thu hẹp đáng kể, thậm chí nhiều chính sách đã được hòa đồng. Tuy nhiên, do các luật liên quan đến đầu tư được ban hành riêng lẻ, lại chưa có sự nhất quán về nội dung, phạm vi điều chỉnh nên trên thực tế chưa thực sự tạo được một “sân chơi” bình đẳng, còn thiếu nhất quán, minh bạch. Tình trạng phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư đã hạn chế việc phát huy các nguồn lực. Những bất cập của hệ thống pháp luật tách biệt theo thành phần kinh tế càng bộc lộ rõ hơn trước sự phát triển năng động, đa dạng của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Do đó, việc xây dựng Luật đầu tư áp dụng thống nhất cho các nhà đầu tư là yêu cầu thiết yếu và bức xúc nhằm tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, củng cố niềm tin của các nhà đầu tư. Trong quá trinh chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, nước đã ký kết nhiều hiệp định song phương, đa phương liên quan đến hoạt động đầu tư như những cam kết trong khuôn khổ AFTA, hiệp định khung về đầu tư khu vực ASEAN, Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ, Hiệp định tự do hóa, khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản và đang đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Việc ký kết và thực hiện các cam kết quốc tế này một mặt vừa đòi hỏi Việt Nam phải mở cửa thị trường, xóa bỏ các rào cản thuế quan, phi thuế quan hoặc các trợ cấp không phù hợp với thông lệ quốc tế; mặt khác vẫn phải duy trì một số chính sách bảo hộ sản xuất trong nước có điều kiện, có thời gian, mở cửa thị trường theo lộ trình xác định. Cuộc cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên Thế giới và khu vực đang diễn ra ngày càng gay gắt nhất là khi Trung Quốc gia nhập WTO. Trong bối cảnh đó, các nước trong khu vực đang cải cách mạnh mẽ môi trường đầu tư theo hướng tự do hóa chính sách đầu tư, thương mại với các đối tác kinh tế lớn nhằm tranh thủ nguồn vốn đầu tư, công nghệ. Hệ thống luật pháp về đầu tư nước ngoài của nước ta trước đây được coi là hấp dẫn, thông thoáng, nay giảm dần tính cạnh tranh so với những chuyển biến mới về chính sách thu hút đầu tư của các nước trong khu vực và Thế giới. Việc Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 8 đã thông qua và ban hành Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp mới thể hiện rõ ràng, minh bạch hơn chính sách bảo đảm đầu tư, khuyến khích ưu đãi đầu tư; đơn giản hóa thủ tục hành chính để tăng cường sức hấp dẫn đối với đầu tư trong và ngoài nước. Các giải pháp cụ thể nhằm tăng cường huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Thực hiện nhất quán các chính sách đầu tư nước ngoài Trên cơ sở coi kinh tế đầu tư nước ngoài là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế, thì các chính sách đầu tư nước ngoài cần phải đáp ứng được đòi hỏi nâng cao sức mạnh cạnh tranh của đất nước trong bối cảnh có nhiều nước tham gia vào thị trường đầu tư nước ngoài và cải thiện rõ rệt chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Theo đó, mọi sự thay đổi chính sách chủ yếu phải tạo thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư và kinh doanh của các doanh nghiệp. Chính sách nâng cấp đầu tư nước ngoài nhằm vào một số đối tượng cụ thể, ví dụ TNCs hàng đầu Thế giới trong các ngành công nghệ cao cần được hình thành trên cơ sở khảo sát đòi hỏi của họ. Tổ chức OECD đã đưa ra một số khuôn khổ chính sách áp dụng trong hoạt động đầu tư của TNCs tại các nước đang phát triển. Để thu hút TNCs này, các chính sách của nước ta cần lưu ý đến các quy định đó của OECD. Các chính sách của Chính phủ cần được áp dụng thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ. Chính quyền địa phương chỉ được phép đưa ra các ưu đãi riêng trong khuôn khổ luật pháp cho phép; chấm dứt tình trạng vi phạm pháp luật bằng các ưu đãi phi lý làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư chung, đồng thời tác động tiêu cực đến nguồn thu ngân sách địa phương. Chính sách của Chính phủ hướng vào khắc phục những hạn chế của đầu tư nước ngoài nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ và chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế nước ta. Tăng cường các biện pháp hỗ trợ giảm chi phí kinh doanh Đối với xuất nhập khẩu và hải quan: Cần tiếp tục đơn giản hóa thủ tục và quy định để đẩy nhanh thời gian thông quan; xem xét lại phạm vi áp dụng quy định về Giấy chứng nhận xuất xứ cho một lô hàng, áp dụng một bộ hồ sơ cho khai báo nhập khẩu; từng bước áp dụng thông quan điện tử, cho phép áp dụng kho ngoại quan ở những nơi đủ điều kiện và xuất khẩu lớn. Trong việc xuất khẩu, hệ thống phân bổ hạn ngạch giữa doanh nghiệp tư nhân và nước ngoài vẫn chưa minh bạch, dẫn đến áp dụng tùy tiện, tạo cơ hội cho tham nhũng. Vì thế, cần thiết có biện pháp đảm bảo sự minh bạch hơn trong phân bổ hạn ngạch. Nhà đầu tư được quyền trực tiếp xuất khẩu, nhập khẩu thiết bị, hàng hóa, nguyên liệu phục vụ sản xuất, kinh doanh, được trực tiếp ký hợp đồng quảng cáo với các tổ chức được quyền hoạt động quảng cáo để quảng bá sản phẩm của mình. Đối với thuế, phí và lệ phí Cơ chế hai giá vẫn tồn tại trong hoạt động quảng cáo, phí dịch vụ cảng biển ... cần sớm nghiên cứu dỡ bỏ. Tiếp tục nghiên cứu bổ sung những quy định về thuế như miễn giảm thuế, miễn thuế thu nhập cao những khoản phụ cấp bằng hiện vật cho cán bộ Việt Nam làm việc trong các liên doanh và các chuyên gia nước ngoài đến Việt Nam công tác. Nghiên cứu áp dụng các phương pháp khấu trừ chi phí hợp lý để tính thu nhập chịu thuế mà các nước trong khu vực đã và đang áp dụng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có điều kiện sớm thu hồi vốn hoặc áp dụng để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các vùng khó khăn, các ngành cần đặc biệt khuyến khích đầu tư. Chính sách tài chính và lao động Tổ chức triển khai thực hiện quy định hướng dẫn về thế chấp giá trị quyền sử dụng đất gắn với tài sản trên đất. Xem xét việc cho phép các tổ chức cho vay nước ngoài được nhận thế chấp quyền sử dụng đất để tạo điều kiện cho các nguồn vốn vào Việt Nam. Cần mở rộng chức năng hoạt động của cơ quan đăng ký giao dịch để đăng ký quyền sử dụng đất. Sớm hoàn chỉnh quy định pháp luật về giao dịch có đảm bảo. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư các hoạt động công ích và có chính sách miễn, giảm tiền thuê đất đối với các hoạt động này. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải có trách nhiệm hỗ trợ nhà đầu tư thực hiện đền bù giải phóng mặt bằng để sớm triển khai dự án có hiệu quả. Nhà đầu tư chịu trách nhiệm về giá trị, chất lượng thiết bị nhập khẩu tạo tài sản cố định, trừ thiết bị cũ không được nhập khẩu. Song, bên cạnh đó, cần thực hiện đăng ký bảo hiểm tài sản và bảo hiểm khác theo quy định. Nhà đầu tư được tự mình quyết định việc tuyển dụng lao động theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh. Để nâng cao trình độ cho người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các cơ sở đào tạo cần nghiên cứu đổi mới nội dung chương trình đào tạo, đáp ứng được yêu cầu về kỹ năng, nghề nghiệp cho người lao động Việt Nam; nghiên cứu nhu cầu thị trường lao động nước ngoài để tổ chức cung cấp lao động có hiệu quả. Có chính sách ưu đãi đặc thù với đào tạo, giáo dục, y tế, nhất là đào tạo nghề. Đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư Quản lý Nhà nước đối với đầu tư nước ngoài phải đặt trọng tâm vào hoạt động xúc tiến đầu tư. Sự chuyển biến về nhận hức đó được thể hiện thông qua việc thường xuyên sửa đổi, bổ sung chính sách theo hướng khuyến khích đầu tư; đồng thời bằng nhiều phương thức khác nhau để quảng bá rộng rãi các chính sách đó trên phạm vi toàn cầu. Nội dung của xúc tiến đầu tư là hệ thống các giải pháp tiếp thị tổng hợp về chiến lược sản phẩm, giá phí và các ưu đãi đầu tư. Hoạt động xúc tiến đầu tư cần làm nổi bật các lợi thế so sánh của Việt Nam, đồng thời cũng nêu ra những bất lợi và các giải pháp để khắc phục những bất lợi đó, nhằm làm cho các nhà đầu tư nhận biệt đúng cơ hội và lợi ích họ sẽ thu được. Kinh nghiệm thực tế của nước ta đã chỉ ra rằng, phương thức xúc tiến đầu tư có hiệu quả nhất là tạo môi trường thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư đang thực hiện dự án đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Khi gặp khó khăn trong triển khai dự án các cơ quan Nhà nước tìm cách giúp đỡ họ khắc phục, bảo đảm kinh doanh thuận lợi và có hiệu quả. Tác dụng lan tỏa của các nhà đầu tư đang hoạt động đối với các nhà đầu tư tiềm năng lớn hơn nhiều so với bất kỳ cuộc vận động đầu tư nào. Cần hình thành một tổ chức xúc tiến đầu tư cấp quốc gia và các tổ chức ở địa phương, các đại diện ở những thị trường chính có đủ biên chế, kinh phí để thực hiện tốt nhất chiến lược xúc tiến đầu tư. Cho đến nay, nhìn chung hoạt động xúc tiến đầu tư của nước ta còn khác bị động, chưa thường xuyên, không đủ cán bộ có năng lực và thiếu kinh phí, do đó thường làm theo từng đợt, chưa trở thành công việc hàng ngày của các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài. Cải cách thủ tục hành chính đảm bảo minh bạch, đơn giản và nhất quán Các cơ quan Nhà nước cần có tư duy đúng về hoạt động đầu tư và kinh doanh, trước hết là lợi ích và trách nhiệm của nhà đầu tư và doanh nghiệp. Trên cơ sở đó mọi thủ tục hành chính cần hướng vào việc tạo thuận lợi cho các dự án đầu tư, cũng như hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các thủ tục hành chính được thực hiện với thời gian ngắn nhất và chi phí thấp nhất. Đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính mạnh mẽ, phải đơn giản hóa thủ tục đầu tư theo một số hướng: dự án đầu tư nước ngoài đến 20 triệu USD nếu không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì chỉ cần đăng ký theo mẫu để được chứng nhận đầu tư, xem xét ưu đãi mà không cần hồ sơ trong 7 ngày; nhà đầu tư, nếu thành lập tổ chức kinh tế gắn với dự án đầu tư cụ thể, thì việc làm thủ tục đăng ký kinh doanh và đăng ký đầu tư nên thực hiện đồng thời tại một cơ quan Nhà nước; nội dung thẩm tra dự án chỉ nên tập trung vào điều kiện mà dự án phải đáp ứng, sự phù hợp quy hoạch, tiến độ góp vốn và tính chất dự án, nhu cầu sử dụng đất, giải pháp bảo vệ môi trường; thực hiện đăng ký dự án đầu tư qua mạng Internet và cơ quan Nhà nước trả lời cho nhà đầu tư về quyết định của mình đối với từng dự án; việc cấp giấy phép đầu tư cũng phải được công khai hóa để tránh tình trạng lợi dụng, sách nhiễu nhà đầu tư trước khi trao giấy phép. Việc triển khai thực hiện dự án bao gồm các thủ tục về cấp đất, giải tỏa, đền bù đất đai, xây dựng công trình, nhập khẩu vật tư thiết bị, đánh giá tác động môi trường ..., cần đơn giản theo hướng các cơ quan chức năng hướng dẫn nhà đầu tư thực hiện đúng những quy định của luật pháp có liên quan, theo dõi quá trình xây dựng xí nghiệp. Trong trường hợp phát hiện vi phạm pháp luật, trước hết hướng dẫn nhà đầu tư khắc phục tình trạng đó, chỉ áp dụng việc xử phạt đối với trường hợp nghiêm trọng hoặc ngoan cố không chịu sửa chữa theo hướng dẫn của cơ quan Nhà nước. Cần chấm dứt tình trạng “giấy phép con” khá tùy tiện do thông tư của các Bộ quy định. Việc thực hiện hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được bắt đầu bằng thủ tục đăng ký với cơ quan Nhà nước để nộp thuế, hoạt động xuất nhập khẩu, bảo vệ môi trường; phòng chống cháy, nổ. Khi cần thiết các cơ quan này có thể tiến hành kiểm tra đánh giá doanh nghiệp đã có đủ điều kiện, trang thiết bị phù hợp với quy định của pháp luật; hướng dẫn và yêu cầu bổ sung để đảm bảo đủ điều kiện kinh doanh. Cần áp dụng các phương thức tiến bộ về nghiệp vụ doanh nghiệp tự tính và nộp thuế, cuối kỳ đối chiếu nộp bổ sung hoặc được thoái thuế; đăng ký kế hoạch xuất nhập khẩu cả năm và áp dụng biện pháp trừ dần khi thực hiện; có chế tài xử lý khi phát hiện vi phạm. Hoạt động thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp là cần thiết, những trước hết phải hướng vào mục đích làm cho các doanh nghiệp tự giác tôn trọng luật phát, tránh tình trạng lợi dụng thanh tra, kiểm tra gây khó khăn cho hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Việc xử lý các hành vi phạm pháp cần thực hiện đúng trình tự và hình phạt đã được quy định. Cần có sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thanh tra, kiểm tra và áp dụng các phương thức tiến bộ để vừa bảo đảm thực hiện nghiêm minh luật phát, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh của doanh nghiệp. Tăng cường hợp tác, phân công và phân cấp Thực tế quản lý Nhà nước ở cấp Trung ương đối với đầu tư nước ngoài đã cho thấy, để nâng cao hiệu năng của các cơ quan Nhà nước, cần xác định rõ chức năng, quy định cụ thể phạm vi quyền hạn của từng Bộ, mỗi việc chỉ nên do một Bộ chịu trách nhiệm giải quyết, hoặc phải được hỏi ý kiến theo “cơ chế thỏa thuận”, thực chất là tham gia quyết định. Việc thực hiện chức năng của từng Bộ, cũng như hợp tác liên ngành tùy thuộc vào phẩm chất và năng lực của công chức Nhà nước, những người hàng ngày nhân danh Nhà nước để ra các quyết định đối với từng trường hợp, từng sự việc trong những hoàn cảnh cụ thể. Nếu đội ngũ công chức Nhà nước không đủ phẩm chất, thiếu kiến thức và năng lực chuyên môn, thiếu tinh thần hợp tác thì trở thành lực cản lớn đối với việc nâng cao hiệu năng quản lý Nhà nước. Cần phải bảo đảm tính thống nhất trong cả nước về việc thực hiện luật pháp, nghiêm cấm việc chính quyền các cấp ban hành những quy định trái pháp luật Nhà nước, không thực hiện đầy đủ chỉ thị của các Bộ, kể cả lý do để tạo môi trường đầu tư hấp dẫn. Đồng thời, phải tôn trọng sắc thái địa phương, tính sáng tạo của từng cấp chính quyền trong việc vận dụng các quy định của luật pháp nhằm khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế của từng vùng lãnh thổ. Việc phân cấp quản lý cho chính quyền tỉnh, thành phố đối với hoạt động đầu tư nước ngoài phải đặt trong khuôn khổ đó và phải tại điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của doanh nghiệp. Không nên để vấn đề phân cấp trở thành cuộc mặc cả về quyền hạn và trách nhiệm giữa Trung ương với địa phương. Trên cơ sở đó, cần thống nhất quy định về mức vốn đầu tư và dự án đầu tư mà Chính phủ phân cấp cho Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố và ban quản lý khu công nghiệp và khu chế xuất; không nên duy trì tình trạng các ban quản lý khu công nghiệp và khu chế xuất được phân cấp nhiều hơn Ủy ban nhân cấp tỉnh và thành phố. Việc cạnh tranh giữa các địa phương để thu hút đầu tư nước ngoài cần được khuyến khích theo hướng cải tiến môi trường đầu tư, cải cách hànhc hính, giảm thiểu thủ tục không cần thiết, giúp đỡ nhà đầu tư giải quyết khó khăn trong triển khai dự án và trong kinh doanh. Đồng thời, không nên hướng vào việc tăng thêm ưu đãi và giảm thiểu các khoản thu của ngân sách đến mức triệt tiêu các lợi ích cần thiết của quốc gia. Thiết lập hệ thống thông tin quản lý Nhà nước đối với đầu tư nước ngoài Hiện nay, nhược điểm lớn nhất của các cơ quan Nhà nước là không kịp thời thu thập các thông tin cơ bản về đầu tư và kinh doanh của các doanh nghiệp, nên khó có được các quyết định đúng đắn trong xử lý các kiến nghị hoặc các vấn đề phát sinh của doanh nghiệp. Có thể nói rằng, trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, việc quản lý Nhà nước đối với đầu tư nước ngoài vẫn áp dụng phương pháp cổ điển. Để khắc phục tình trạng đó cần xây dựng Trung tâm thu thập và xử lý thông tin về đầu tư nước ngoài đặt tại Cục Đầu tư nước ngoài hoặc Trung tâm thông tin của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Trung tâm này được nối mạng với các cơ quan trung ương và chính quyền địa phương, tất cả doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, thu thập và xử lý thông tin về đầu tư nước ngoài trên Thế giới, nhất là các nước trong khu vực. Trung tâm nay cần có chế độ cung cấp thông tin hàng ngày cho các cơ quan tùy thuộc vào chức năng và nhu cầu của từng đơn vị, cũng như cho những người lãnh đạo để phục vụ việc ra các quyết định. Việc đầu tư kinh phí xây dựng Trung tâm thu thập và xử lý thông tin về đầu tư nước ngoài đã trở thành một đòi hỏi cấp thiết để nâng cao hiệu năng quản lý của Nhà nước; đồng thời quảng bá rộng rãi và minh bạch các chính sách, luật pháp của Nhà nước, các quyết định của cơ quan Nhà nước đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Các giải pháp thu hút FDI và tăng cường hiệu quả FDI đang được Chính phủ tiến hành Cùng với việc tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý và đơn giản hoá các thủ tục hành chính nhằm tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam, trong thời gian tới, Chính phủ tập trung thực hiện một số giải pháp sau: Thành lập bộ phận xúc tiến đầu tư ở nước ngoài Để thu hút đầu tư nước ngoài có hiệu quả hơn nữa, Bộ Kế hoạch – Đầu tư và Bộ Ngoại giao đã thống nhất trong việc định ra tiêu chuẩn cán bộ, hình thức hoạt động của bộ phận xúc tiến đầu tư nước ngoài. Theo kế hoạch, trong năm nay một số bộ phận xúc tiến đầu tư sẽ được thiết lập ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, San Francisco (Mỹ) và Trung Đông. Cải thiện cơ sở hạ tầng Chính phủ tiếp tục huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, trong đó có việc ban hành quy chế khuyến khích tư nhân đầu tư nâng cấp các công trình giao thông, cảng biển, dịch vụ viễn thông, cung cấp điện nước, phấn đấu không để xảy ra tình trạng thiếu điện cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Đào tào nguồn nhân lực Chính phủ Việt Nam trong thời gian tới sẽ tập trung đầu tư cho việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là đào tạo nghề nhằm đáp ứng như cầu đang tăng của các nhà đầu tư nước ngoài. Chính phủ sẽ vận động và phối hợp với các tổ chức quốc tế mở các lớp đào tạo về xúc tiến và quản lý đầu tư nước ngoài; phối hợp với các tổ chức trong và ngoài nước mở các trung tâm đào tạo lao động kỹ thuật cao. Từ năm 2006 trở lại đây là một thời kỳ mới trong thu hút đầu tư nước ngoài và nhu cầu nhân lực chất lượng cao đang tăng lên nhanh chóng. Nhà sản xuất bộ vi xử lý lớn nhất thế giới Intel đã đầu tư 1 tỉ đôla vào Việt Nam và sẽ cần 3000 lao động trong đó có gần 1.000 kỹ sư, chủ yếu là thuộc ngành điện tử, tin học, tự động hoá. Tập đoàn Grênasa của Nhật Bản – một trong những công ty hàng đầu thế giới về thiết kế, sản xuất vi mạch, năm 2007 đã triển khai xây dựng trung tâm thiết kế tại Việt Nam, với nhu cầu cần tuyển khoảng 1000 kỹ sư để thiết kế bán dẫn. Tập đoàn Foxconn của Đài Loan cũng đã bắt đầu đầu tư vào Việt Nam. Đây là một tập đoàn công nghệ cao vào loại lớn nhất của Đài Loan với giá trị tài khoản trên thị trường chứng khoán là 70 tỷ USD, chuyên sản xuất các sản phẩm liên quan đến điện thoại di động, cụm chi tiết máy tính, thiết bị viễn thông, điện tử tiêu dùng. Tập đoàn này dự kiến trong năm năm tới sẽ đầu tư vào Việt Nam 5 tỷ USD và sử dụng trên 50 000 lao động. Ba nhà  đầu tư nước ngoài từ lĩnh vực điện tử, tin học, viễn thông ở Mỹ, Nhật, Đài Loan với giá trị đầu tư trên 6 tỷ USD, triển khai mạnh mẽ các dự án trong năm 2006 – 2007 là sự mở đầu cho một làn sóng đầu tư mới vào Việt Nam trong 10-20 năm tới – đầu tư sản xuất và xuất khẩu dựa trên công nghệ cao Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Kinh tế đầu tư - Bộ môn Kinh tế Đầu tư trường ĐH KTQD - 2007 2. Tài liệu môn Đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ - Ths. Đinh Đào Ánh Thuỷ - 2006 3. Trang web Bộ kế hoạch và Đầu tư 4. Trang web Vnecomy 5. Trang web Bộ tài chính 6. Trang web Đảng Cộng sản Việt Nam 7. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong cơ chế thị thường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - NXB Chính trị quốc gia - 2006

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0236.doc
Tài liệu liên quan