Giáo trình Đường lối quân sự - Bài 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Dân quân tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là lực lượng vô địch, là bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận kẻ thù nào dù hung bạo đến đâu hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó thì địch nào cũng phải tan rã”, điều đó đã nói lên vị trí, vai trò rất quan trọng của dân quân du kích trước đây và dân quân tự vệ ngày nay trong đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, xây dựng lực lượng dân quân tự về, lực lượng dự bị động viên và động viên công nghiệp quốc phòng là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa chiến lược của đất nước nhằm chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Do đó, cần phải giáo dục, quán triệt và tổ chức thực hiện nhiệm vụ này một cách thường xuyên, ngay từ thời bình, trở thành ý thức trách nhiệm thường trực của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Đối với lực lượng sinh viên-những chủ nhân tương lai trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo mục tiêu lí tưởng xã hội chủ nghĩa, nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước cần phải học tập, nghiên cứu toàn diện để gánh vác sứ mệnh đưa Việt Nam sánh vai cùng các cường quốc năm châu. Trong đó, cần có sự hiểu biết và nhận thức đúng và rõ về vị trí, vai trò của công tác xây dựng lực lượng Dân quân tự vệ, lực lượng Dự bị động viên và động viện công nghiệp quốc phòng. Qua đó, nhằm góp phần công sức, trí tuệ của mình vào thực hiện nhiệm vụ Bảo vệ vững chắc Tổ quốc, tạo môi trường hoàn bình, ổn định cho sự nghiệp CNH, HĐH và công cuộc đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh sớm trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2045.

doc25 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 04/01/2022 | Lượt xem: 394 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Đường lối quân sự - Bài 9, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiến đấu, phục vụ chiến đấu trong khu vực phòng thủ dưới sự chỉ huy của người chỉ huy cơ quan quân sự cấp trên trực tiếp; tham gia xây dựng, củng cố cơ sở chính trị trong thời chiến và làm nòng cốt cùng nhân dân đấu tranh chính trị. - Ba là, thực hiện nhiệm vụ huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị, pháp luật, hội thi, hội thao, diễn tập. Huấn luyện chính tri, pháp luật đẩm bảo cho lực lương DQTV nhận thức rõ nhiệm vụ trung thành với Tổ quốc, nhân dân; huấn luyện quân sự đẩm bảo những kỹ năng chiến đấu cần thiết đủ sức hoàn thành nhiệm vụ; thông qua kiểm tra, diễn tập nhằm đánh giá khả năng chiến đấu, kịp thời bổ sung, hoàn thiện các phương án. - Bốn là, tham gia thực hiện các biện pháp về chiến tranh thông tin, chiến tranh không gian mạng theo quy định của pháp luật, quyết định của cấp có thẩm quyền. - Năm là, phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh, cháy, nổ; tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ; bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường và nhiệm vụ phòng thủ dân sự khác theo quy định của pháp luật. Dân quân tự vệ là lực lượng nòng cốt tại chỗ thực hiện nhiệm vụ phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch họa; tìm kiếm, cứu nạn ở cơ sở theo kế hoạch của Ủy ban nhân dân các cấp; phối hợp với lực lượng khác trên địa bàn làm nhiệm vụ bảo vệ và phòng, chống cháy rừng, bảo vệ môi trường và phòng, chống dịch bệnh; phối hợp với kiểm lâm và lực lượng khác trong công tác bảo vệ và phòng, chống cháy rừng. - Sáu là, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về QP, AN; tham gia xây dựng địa phương, cơ sở vững mạnh toàn diện, thực hiện chính sách xã hội. Dân quân tự vệ phải gương mẫu chấp hành và có trách nhiệm tham gia tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; có trách nhiệm phối hợp với lực lượng khác tham gia các cuộc vận động, phong trào của địa phương xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện. - Bảy là, thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật. Những nhiệm vụ của dân quân tự vệ được quy định cụ thể bằng luật, đó là những nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên trong mọi điều kiện, hoàn cảnh đối với lực lượng dân quân tự vệ. Cùng với thực hiện nhiệm vụ chức năng, nhiệm vụ theo quy định; đồng thời DQTV cũng đồng thời phải hoàn thàng trách nhiệm công dân đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 2. Nội dung xây dựng dân quân tự vệ a) Phương châm xây dựng Xây dựng dân quân tự vệ theo hướng “Vững mạnh, rộng khắp, coi trọng chất lượng là chính”. - Vững mạnh: Được thể hiện là chất lượng phải toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, trình độ chính trị, quân sự và chuyên môn nghiệp vụ, biên chế trang bị hợp lí, thống nhất, có kỷ luật nghiêm, cơ động nhanh sẵn sàng chiến đấu tốt. Mỗi tổ chức, chiến sĩ dân quân tự vệ phải luôn vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và mục tiêu lí tưởng xã hội chủ nghĩa. - Rộng khắp: Lực lượng dân quân tự vệ được xây dựng ở hầu hết các làng, bản, xóm, ấp, xã, phường, các tổ chức kinh tế, chính trị xã hội, ở đâu có tổ chức Đảng, chính quyền và có dân đều phải có tổ chức dân quân tự vệ, kể cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trường hợp các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không đủ điều kiện (không có tổ chức Đảng) tổ chức dân quân tự vệ nếu có yêu cầu thì Giám đốc doanh nghiệp đề nghị và được Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương) đồng ý thì công dân được tham gia dân quân tự vệ ở địa phương (nơi cư trú). Giám đốc doanh nghiệp phải đảm bảo thời gian và tạo điều kiện cho công dân tham gia dân quân tự vệ hoạt động. - Coi trọng chất lượng là chính: Chỉ tuyển chọn đưa vào đội ngũ những công dân có lí lịch rõ ràng, có hộ khẩu thường trú tại địa phương, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, chấp hành đúng các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các quy định của địa phương, có sức khỏe phù hợp (Điều 10, Luật DQTV). b) Tổ chức, biên chế, trang bị của lực lượng dân quân tự vệ (Điều 10, Luật DQTV) Tổ chức, biên chế, vũ khí trang bị của lực lượng dân quân tự vệ phải phù hợp với tính chất, yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng-an ninh thời bình, thời chiến, đặc điểm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và điều kiện cụ thể của từng bộ, ngành, địa phương và cơ sở, cụ thể: - Về quy mô tổ chức DQTV: a) Thôn tổ chức tổ, tiểu đội, trung đội dân quân tại chỗ; b) Cấp xã tổ chức trung đội dân quân cơ động, cấp xã ven biển, đảo tổ chức trung đội dân quân cơ động và tiểu đội hoặc trung đội dân quân biển. Căn cứ yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, quân sự, cấp xã tổ chức khẩu đội cối, tổ hoặc tiểu đội dân quân trinh sát, thông tin, công binh, phòng hóa, y tế; cấp xã trọng điểm về quốc phòng tổ chức tiểu đội hoặc trung đội dân quân thường trực. c) Cơ quan, tổ chức tổ chức tiểu đội, trung đội, đại đội hoặc tiểu đoàn tự vệ. Cơ quan, tổ chức có phương tiện hoạt động trên biển tổ chức tiểu đội, trung đội, hải đội, hải đoàn tự vệ. d) Trên cơ sở các đơn vị dân quân tự vệ quy định tại các khoản 1, 2, 3 điều này, căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, cấp huyện có thể tổ chức đại đội dân quân tự vệ cơ động, trung đội dân quân tự vệ phòng không, pháo binh, trung đội dân quân thường trực. Trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh) tổ chức đại đội Dân quân tự vệ phòng không, pháo binh; cấp tỉnh ven biển tổ chức hải đội dân quân thường trực. Chú ý: + Bộ trưởng BQP quy định quy mô, tổ chức, biên chế đơn vị DQTV; quyết định cấp xã trọng điểm về quốc phòng và kế hoạch, thẩm quyền quyết định mở rộng lực lượng Dân quân tự + Quy mô lực lượng Dân quân tự vệ có thể được mở rộng trong trường hợp: Khi thực hiện lệnh động viên cục bộ, tổng động viên; Khi ban bố tình trạng khẩn cấp do thảm họa, dịch bệnh nguy hiểm hoặc tình hình đe dọa nghiêm trọng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. - Về tổ chức DQTV: Tổ; Tiểu đội, khẩu đội; Trung đội; Đại hội, hải đội; Tiểu đoàn, hải đoàn. - Tổ chức chỉ huy quân sự cơ sở gồm: a) Thôn đội; b) Ban chỉ huy quân sự cấp xã; c) Ban chỉ huy quân sự cơ quan, tổ chức ở cơ sở nơi có tổ chức lực lượng tự vệ, có lực lượng dự bị động viên và nguồn sẵn sàng nhập ngũ theo quy định của pháp luật. - Ban chỉ huy quân sự bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ban Đảng ở Trung ương, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, Kiểm toán nhà nước, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, cơ quan Trung ương của tổ chức chính trị - xã hội, tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập (sau đây gọi chung là Ban chỉ huy quân sự bộ, ngành Trung ương). - Dân quân tự vệ được chia thành 2 lực lượng: lực lượng nòng cốt (lực lượng chiến đấu) và lực lượng rộng rãi (lực lượng phục vụ chiến đấu). + Lực lượng dân quân tự vệ nòng cốt: Bao gồm dân quân tự vệ bộ binh, binh chủng và dân quân tự vệ biển (đối với vùng biển) được tổ chức thành lực lượng cơ động và lực lượng tại chỗ. Đối với xã (phường) thuộc địa bàn trọng điểm về quốc phòng an ninh, biên giới, ven biển, hải đảo có yêu cầu chiến đấu cao thì được xem xét tổ chức lực lượng dân quân tự vệ thường trực. Nhiệm vụ của lực lượng cơ động chiến đấu, tiêu hao, tiêu diệt, chi viện cho lực lượng chiến đấu tại chỗ, khi cần thiết có thể cơ động chiến đấu trền địa bàn địa phương khác. Nhiệm vụ của lực lượng chiến đấu tại chỗ là chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu trên địa bàn địa phương theo kế hoạch, phương án, khi cần thiết có thể tăng cường cho lực lượng chiến đấu cơ động. + Lực lượng dân quân tự vệ rộng rãi: Gồm cán bộ, chiến sĩ dân quân tự vệ nòng cốt đã hoàn thành nghĩa vụ dân quân tự vệ và công dân trong độ tuổi quy định (nam từ đủ 18 đến hết 45 nữ từ đủ 18 đến hết 40 tuổi). Nhiệm vụ phục vụ chiến đấu, vận chuyển tiếp tế, khắc phục hậu quả chiến đấu, bảo vệ và sơ tán nhân dân. - Về cơ cấu và chức năng của cán bộ cơ sở, phân đội: Cơ cấu biên chế ban chỉ huy quân sự được tổ chức ở xã, phường, thị trấn, các doanh nghiệp của địa phương và các nghành của Nhà nước gồm 3 người: chỉ huy trưởng, chính trị viên và phó chỉ huy trưởng. Ban chỉ huy quân sự cơ sở chịu trách nhiệm làm tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền cấp mình tổ chức triển khai công tác hoạt động dân quân tự vệ. Cấp xã, phường, thị trấn chỉ huy trưởng là thanh viên ủy ban nhân dân, là đảng viên, thường nằm trong cơ cấu ủy địa phương. Các cơ sở khác, chỉ huy trưởng có thể kiêm nhiệm hoặc không kiêm nhiệm. Bí thư đảng ủy, bí thư chi bộ các cơ sở kiêm chính trị viên chịu trách nhiệm về công tác Đảng, công tác chính trị trong quân tự vệ. Phó chỉ huy trưởng ở xã, phường là cán bộ chuyên trách, các phó chỉ huy cơ sở còn lại là chuyên trách hoặc kiêm nhiệm. Xã đội trưởng, chính trị viên xã đội, xã đội phó và tương đương do chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã sau khi đã thống nhất với huyện đội trưởng. Thôn đội trưởng, trung đội trưởng, tiểu đội trưởng, khẩu đội trưởng dân quân tự vệ do huyện đội trưởng bổ nhiệm theo đề nghị của xã đội trưởng. Cơ cấu cán bộ tiểu đoàn, đại đội gồm chỉ huy trưởng, chính trị viên, phó chỉ huy trưởng. Cấp trung đội, tiểu đội và tương đương có một cấp trưởng, một cấp phó. - Vũ khí trang bị của dân quân tự vệ: Vũ khí trang bị cho dân quân tự vệ từ các nguồn do Bộ Quốc phòng cấp, các địa phương tự chế tạo, hoặc thu được của địch. Song dù từ nguồn nào thì vũ khí trang bị đó cũng đều là tài sản của Nhà nước giao cho dân quân tự vệ quản lí. Do vậy, phải được sự đăng kí, quản lí, bảo quản chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích và đúng quy định của pháp luật. c) Giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự với dân quân tự vệ - Giáo dục chính trị: Giáo dục chính trị cho lực lượng dân quân tự vệ là một nội dung quan trọng hàng đầu nhằm làm cho dân quân tự vệ nâng cao nhận thức về chính trị, lập trường tư tưởng vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng. Trên cơ sở đó phát huy tinh thần trách nhiệm, sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ, bảo vệ quê hương, làng xóm, địa phương, đơn vị mình. Nội dung giáo dục cần tập trung không ngừng tăng cường bản chất cách mạng và ý thức giác ngộ giai cấp cho cán bộ, chiến sĩ dân quân tự vệ trên cơ sở đó thường xuyên nâng cao cảnh giác cách mạng, nhận rõ bản chất âm mưu thủ đoạn của kẻ thù. Giáo dục truyền thống dân tộc, tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa; mục tiêu, lí tưởng của Đảng; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn; quán triệt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhiệm vụ củng cố quốc phòng – an ninh; chống “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; công tác quốc phòng địa phương, xây dựng lực lượng nhân dân. Một số nội dung cơ bản về Hiến pháp, Pháp luật, Pháp lệnh dân quân tự vệ, nội dung phương pháp tiến hành vận động quần chúng. - Huấn luyện quân sự: + Hằng năm, lực lượng dân quân tự vệ được huấn luyện theo nội dung, chương trình do Bộ quốc phòng quy định, nội dung huấn luyện phải sát với cơ sở do chỉ huy quân sự địa phương các cấp xác định cụ thể. Huấn luyện toàn diện cả kĩ chiến thuật, cả bộ binh và binh chủng, chuyên môn kĩ thuật + Dân quân tự vệ nòng cốt được huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị, pháp luật theo chương trình cơ bản của từng đối tượng phù hợp với nhiệm vụ và địa bàn hoạt động. + Thời gian huấn luyện hằng năm được quy định: 15 ngày đối với dân quân tự vệ năm thứ nhất; 12 ngày đối với dân quân tự vệ cơ động, dân quân tự vệ biển, dân quân tự vệ phòng không, pháo binh, công binh, trinh sát, thông tin, phòng hóa, y tế; 07 ngày đối với dân quân tự vệ tại chỗ; 60 ngày đối với dân quân thường trực. + Chương trình, nội dung, thời gian đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cán bộ và huấn luyện chiến đáu với dân quân tự vệ phải đáp ứng cho nhiệm vụ trong các tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, tình trạng chiến tranh; việc tổ chức diễn tập, hội thi, hội thao dân quân tự vệ hằng năm hoặc định kỳ phải là hoạt động thường xuyên. 3. Một số biện pháp xây dựng lực lượng dân quân tự vệ trong giai đoạn hiện nay a) Thường xuyên giáo dục, quán triệt sâu rộng các quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác dân quân tự vệ. b) Phát huy sức mạnh tổng hợp trên địa bàn để xây dựng lực lượng dân quân tự vệ. c) Thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các chế độ chính sách của Đảng và Nhà nước đối với lực lượng dân quân tự vệ. Dân quân tự vệ là lực lượng chiến đấu tại chỗ ở địa phương, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân ở địa phương, cơ sở, là thành phần quan trọng của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Việc xây dựng lực lượng dân quân tự vệ là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. II. XÂY DỤNG LỰC LƯỢNG DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN Lực lượng dự bị động viên là nhân tố góp phần quyết định đến thắng lợi trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và đảm bảo sức mạnh của quân đội đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống. Trong tình hình hiện nay cần phải nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân trong việc xây dựng và huy động lực lượng dự bị động viên nhằm tăng cường tiềm lực quân sư. Tiềm lực quân sự bao gồm cả hai yếu tố cơ bản: Con người và vũ khí, trang bị , trong đó con người là nhân tố giữ vai trò quyết định. Nước ta có tiềm lực quân sự mạnh một phần nhờ nguồn nhân lực trẻ dồi dào. Nhà nước Việt Nam quan tâm xây dựng đội ngũ sĩ quan đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá XII đã xác định rõ tiêu chuẩn chung của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam là: Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân và Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam; có phẩm chất đạo đức; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; phát huy dân chủ, giữ nghiêm kỷ luật quân đội; tôn trọng và đoàn kết với nhân dân, với đồng đội; có trình độ chính trị, khoa học quân sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Luật cũng đã điều chỉnh kéo dài tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan nhằm tiết kiệm nhân lực trong đào tạo, sử dụng, phát huy những kiến thức, kinh nghiệm của sĩ quan, nhất là sĩ quan chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ khoa học có trình độ cao mà vẫn giữ được tính đặc thù của lao động quân sự. Luật cũng điều chỉnh chính sách đối với sĩ quan, xác định quân đội là “ngành lao động đặc biệt” làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Luật Nghĩa vụ quân sự sửa đổi được thông qua tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá XII đã tăng thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự từ 18 tháng lên 24 tháng. Quy định này nâng cao trình độ quân nhân, nâng cao khả năng SSCĐ, chiến đấu. Các thanh niên sau khi phục vụ quân đội sẽ là lực lượng dự bị hùng hậu, sẵn sàng động viên bổ sung cho lực lượng thường trực khi cần. Công tác xây dựng lực lượng dự bị động viên bao gồm nhiều nội dung, với sự tham gia của nhiều lực lượng, thành phần. Cho nên để làm tốt công tác này phải được tiến hành theo trình tự, thống nhất, chấp hanh theo đúng luật định. 1. Khái niệm, vị trí vai trò của lực lượng dự bị động viên a) Khái niệm - Khái niệm: Lực lượng dự bị động viên bao gồm quân nhân dự bị và phương tiện kĩ thuật được đăng ký, quản lý và sắp xếp vào đơn vị dự bị động viên để sẵn sàng bổ sung cho lực lượng thường trực của Quân đội nhân dân. LLDBĐV là kế hoạch bổ sung cho lực lượng thường trực của quân đội nhằm duy trì tiềm lực quân sự, là yếu tố góp phần quyết định sự thắng lợi trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. - Thành phần của LLDBĐV: + Quân nhân dự bị gồm: Sĩ quan dự bị, quân nhân chuyên nghiệp dự bị và hạ sĩ quan binh sĩ dự bị. + Phương tiện kĩ thuật gồm phương tiện vận tải, làm đường, xếp dỡ, thông tin liên lạc, y tế và một số phương tiện khác. Danh mục phương tiện kĩ thuật do Chính phủ quy định. - Quân nhân dự bị, phương tiện kĩ thuật trong kế hoạch biên chế cho lực lượng thường trực của quân đội, thông qua các đơn bị dự bị động viên. Trong thời bình lực lượng dự bị động viên được đăng ký, quản lí, huấn luyện theo chương trình quy định và sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ được giao. b) Vị trí, vai trò công tác xây dựng lực lượng dự bị động viên - Công tác xây dựng và huy động lực lượng dự bị động viên giữ vị trí rất quan trọng trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; là một trong những nhiệm vụ cơ bản nhất góp phần xây dựng tiềm lực quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, bảo đảm nguồn nhân lực bổ sung, mở rộng lực lượng quân đội khi đất nước chuyển sang trạng thái chiến tranh. - Lực lượng dự bị động viên phối hợp chặt chẽ với Dân quân tự vệ, Công an làm tăng thêm sức mạnh chiến đấu trên các địa bàn trong khu vực phòng thủ đảm bảo vững chắc của thế trận quốc phòng ở địa phương, cơ sở. - Công tác xây dựng lực lượng dự bị động viên là biểu hiện quán triệt quan điểm về sự kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế với nhiệm vụ xây dựng và củng cố quốc phòng, quốc phòng với kinh tế. - Lực lượng dự bị động viên được xây dựng để bổ sung cho lực lượng thường trực của quân đội. Lực lượng dự bị động viên được xây dựng tốt sẽ làm nòng cốt cho cả xây dựng, phát triển kinh tế xã hội và trong thực hiện chiến lược quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc. 2. Những quan điểm, nguyên tắc xây dựng lực lượng dự bị động viên a) Xây dựng lực lượng dự bị động viên đảm bảo đủ, chất lượng cao, xây dựng toàn diện nhưng có trọng tâm trọng điểm - Việc tổ chức xây dựng lực lượng dự bị động viên ở nước ta là một vấn đề quan trọng, quan hệ đến vận mệnh quốc gia, đặc biệt khi phải đối phó với chiến tranh quy mô lớn. Do đó ngay từ thời bình phải xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu theo kế hoạch xác định mới có khả năng giành thắng lợi khi có lệnh động viên. - Xây dựng lực lượng dự bị động viên phải có chất lượng cao. Chất lượng cao của lực lượng dự bị động viên được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực: Chính trị, tinh thần, tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trang bị, khả năng đảm bảo hậu cần kĩ thuật. Trong đó, yêu cầu đầu tiên là phải xây dựng lực lượng dự bị động viên vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực hoàn thành nhiệm vụ, trong đó tập trung vào khâu quản lí, giáo dục, tạo nguồn để xây dựng lực lượng dự bị động viên có chất lượng cao. - Cùng với xây dựng lực lượng dự bị động viên vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức, phải nâng cao trình độ toàn diện cho cán bộ chiến sỹ. Việc huấn luyện quân sự cho lực lượng dự bị động viên phải được tiến hành nghiêm túc theo chương trình của Bộ Quốc phòng. b) Xây dựng lực lượng dự bị động viên phải phát huy sức mạnh tổng hợ của cả hệ thống chính trị - Xây dựng lực lượng dự bị động viên là nhiệm vụ chính trị thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, là cuộc vận động chính trị sâu sắc trong quần chúng để thực hiện nghĩa vụ bảo vệ chế độ. Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng từ Trung ương đến cơ sở, được thể chế hoá bằng các văn bản pháp luật của cơ quan lập pháp, sự điều hành của Chính phủ, chính quyền địa phương các cấp, sự hiệp đồng thực hiện giữa các đơn vị quân đội, cơ quan quân sự với các cơ quan trong hệ thống chính quyền, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội và sự chăm lo xây dựng của toàn xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng đối với các lực lượng dự bị động viên là từ Trung ương đến cơ sở, được thể hiện trên các mặt công tác, từ bước chuẩn bị đến bước thực hành động viên. - Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và của mọi công dân để xây dựng lực lượng dự bị động viên vững mạnh. Đó là yếu tố cơ bản nhất luôn đảm bảo cho lực lượng dự bị động viên cơ số lượng hợp lí, chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu trong mọi tình huống. c) Xây dựng lực lượng dự bị động viên phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng các cấp ở địa phương, bộ, ngành - Xuất phát từ vị trí tầm quan trọng của việc xây dựng lực lượng dự bị động viên như trên nên xây dựng lực lượng dự bị động viên phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Đây là nguyên tắc cơ bản nhằm đảm bảo cho lực lượng này luôn có nội dung, phương hướng, mục tiêu xây dựng đúng đắn, nhằm đảm bảo sức mạnh của quân đội đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. - Sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng lực lượng dự bị động viên được thể hiện trên mọi mặt, trên tất cả các khâu, các bước, từ chuẩn bị đến thực hành động viên lực lượng. (Điều 3 Luật DBĐV 2019 xác định 6 nguyên tắc: 1. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự quản lý tập trung, thống nhất của Chính phủ và sự chỉ huy, chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. 2. Xây dựng lực lượng dự bị động viên vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có trình độ chiến đấu cao và được quản lý chặt chẽ. 3. Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân. 4. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh; phù hợp với tình hình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. 5. Xây dựng, huy động đơn vị dự bị động viên bảo đảm đủ quân số, phương tiện kỹ thuật dự bị; đúng tiêu chuẩn, thời gian; bảo đảm bí mật, an toàn theo quy định của pháp luật và kế hoạch dược phê duyệt. 6. Ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ trong xây dựng, huy động lực lượng dự bị động viên). 3. Nội dung xây dựng lực lượng dự bị động viên a) Tạo nguồn, đăng ký, quản lí lực lượng dự bị động viên - Tạo nguồn: + Là cơ sở quan trọng nhất để lập kế hoạch xây dựng và huy động lực lượng dự bị động viên (KN). + Biện pháp tạo nguồn đối với sĩ quan dự bị, cơ quan quân sự địa phương quản lý chắc số sĩ quan phục viên, xuất ngũ. Hằng năm, lựa chọn những đồng chí tuổi đời còn trẻ, có sức khoẻ, phẩm chất năng lực tốt đưa họ vào tạo nguồn. Số cán bộ chuyên môn kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân (y tế, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải) có thể phục vụ lợi ích quôc phòng khi có chiến tranh. Hằng năm, tuyển chọn số hạ sĩ quan có phẩm chất năng lực tốt trước khi xuất ngũ cho đi huấn luyện, đào tạo họ thành sĩ quan dự bị. + Nam sinh viên từ các trường đại học, sau khi tốt nghiệp được đào tạo thành sĩ quan dự bị. Bộ Quốc phòng phối hợp với Bộ GD&ĐT thực hiện liên kết đào tạo theo nhu cầu chuyên môn kĩ thuật. Sau khi tốt nghiệp, chuyển một số sang quân đội, số còn lại đưa vào ngạch (lực lượng) dự bị động viên. + Đối với hạ sĩ quan, chiến sĩ, nhân viên chuyên môn sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự phục viên, xuất ngũ có đủ điều kiện về phẩm chất, năng lực, sức khoẻ đưa họ vào nguồn. Ngoài ra đưa cả số thanh niên đã được tuyển chọn xếp vào diện sẵn sàng nhập ngũ vào nguồn quân dự bị. - Đăng kí quản lí nguồn: + Việc đăng kí, quản lí lực lượng dự bị động viên phải có kế hoạch thường xuyên, chặt chẽ và chính xác, đăng kí quản lí cả con người và phương tiện kĩ thuật. + Đối với quân nhân dự bị, được tiến hành đăng kí, quản lí tại nơi cư trú, do Ban chỉ huy quân sự xã (phường), Ban chỉ huy quân sự huyện (quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh) thực hiện. Đăng kí quản lí phải chính xác theo từng chuyên ngành quân sự, độ tuổi, loại sức khỏe, hoàn cảnh gia đình, trình độ văn hóa, nhận thức về chính trị, trình độ hiểu biết về quân sự, chuyên môn, nghiệp vụ. Đối với phương tiện kĩ thuật phải đăng kí, quản lí chính xác thường xuyên cả số lượng và chất lượng, tình trạn kĩ thuật của từng phương tiện. - Tổ chức, biên chế đơn vị dự bị động viên: + Tổ chức, biên chế lực lượng dự bị động viên là tổ chức sắp xếp quân nhân dự bị, phương tiện kĩ thuật thành từng đơn vị dự bị động viên theo kế hoạch để quản lí, huấn luyện nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu. Các đơn vị dự bị động viên phải duy trì đủ quân số, trang bị và phương tiện kĩ thuật. Hiện nay, đơn vị dự bị động viên được tổ chức theo các loại hình: đơn vị biên chế thiếu, đơn vị biên chế khung thường trực, đơn vị không có khung thường trực, đơn vị biên chế đủ và đơn vị chuyên môn thời chiến. Khi sắp xếp quân nhân dự bị vào các đơn vị phải theo nguyên tắc: + Sắp xếp người có trình độ chuyên nghiệp quân sự, chuyên môn kĩ thuật phù hợp với chức danh biên chế, nếu thiếu thì sắp xếp người có trình độ chuyên ngiệp quân sự, chuyên môn kĩ thuật tương ứng. + Sắp xếp quân dự bị hạng một trước, nếu thiếu thì sắp xếp quâm dự bị hạng hai. Săp xếp những quân nhân dự bị cư trú gần nhau vào từng đơn vị. b) Giáo dục chính trị, huấn luyện diễn tập, kiểm tra đơn vị dự bị động viên - Giáo dục chính trị: + Giáo dục chính trị là nhiệm vụ hàng đầu trong xây dựng lực lượng dự bị động viên, làm cho cán bộ, chiến sĩ nâng cao nhận thức về chính trị, có lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định mục tiêu, lí tưởng (vị trí, vai trò). + Nội dung giáo dục: Cần tập trung vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quan điểm quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, xây dựng lực lượng dự bị động viên, âm mưu thủ đoạn của kẻ thù đối với cách mạng, truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta. Giáo dục chính trị phải thường xuyên liên tục cho tất cả các đối tượng; được thực hiện xen kẽ trong từng giai đoạn, từng đợt huấn luyện, diễn tập. - Công tác huấn luyện: + Phương châm huấn luyện: “Chất lượng, thiết thực, hiệu quả, tập trung có trọng tâm trọng điểm”. + Nội dung huấn luyện gồm kĩ thuật bộ binh, binh chủng; chiến thuật từng người đến cấp đại đội, công tác hậu cần, băng bó cứu thương và hoạt động chống “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ. Có thể huấn luyện tập trung tại đơn vị dự bị động viên hoặc phân tán tại các địa phương, cơ sở; vận dụng sáng tạo linh hoạt những phương pháp huấn luyện thích hợp sát đối tượng, sát thực tế. + Hàng năm, sau khóa huấn luyện, lực lượng dự bị động viên sẽ tham gia hợp luyện, diễn tập. Kết thúc diễn tập, tổ chức rút kinh nghiệm để kịp thời bổ sung, nâng cao chất lượng huấn luyện, giáo dục trong các đơn vị. Cùng với huấn luyện diễn tập, chế độ kiểm tra thực hiện nhiệm vụ được tiến hành theo quy định nhằm giúp lãnh đạo, chỉ huy nắm được thực trạng tổ chức, xây dựng lực lượng dự bị động viên để có chủ trương biện pháp sát đúng. - Bảo đảm hậu cần, kĩ thuật, tài chính cho xây dựng lực lượng dự bị động viên. Vật chất kĩ thuật, kinh phí là yếu tố rất quan trọng để đảm bảo xây dựng lực lượng dự bị động viên gồm vũ khí trang bị, hậu cần kĩ thuật và tài chính. Yêu cầu phải bảo đảm đúng mức, đủ để triển khai xây dựng lực lượng dự bị động viên chất lượng ngày càng cao. Việc đảm bảo vật chất, kinh phí hàng năm Chính phủ giao chỉ tiêu nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành, địa phương thực hiện. 4. Một số biện pháp xây dựng lực lượng dự bị động viên a) Thường xuyên giáo dục sâu rộng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, những quan điểm của Đảng, Nhà nước đối với lực lượng dự bị động viên. - Vị trí: Là biện pháp cơ bản, chủ yếu nhất làm cơ sở để xây dựng LLDBĐV đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. - Nội dung: Quán triệt đầy đủ, sâu sắc và toàn diện về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, những quan điểm của Đảng, Nhà nước đối với lực lượng dự bị động viên: Luật Dự bị động viên; Pháp lệnh Dự bị động viên, b) Thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự và các cơ quan chức năng làm tham mưu và tổ chức thực hiện. - VỊ trí: Là biện pháp quan trọng có ý nghĩa quyết định chất lượng công tác xây dựng LLDBĐV. - Nội dung: + Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng (các cấp uỷ đảng). + Phát huy vai trò, hiệu quả, hiệu lực quản lý của nhà nước, các cấp chính quyền địa phương. + Thường xuyên thực hiện tốt, có hiệu quả chức năng tham mưu của cơ quan, cán bộ quân sự các cấp. c) Thường xuyên củng cố, kiện toàn, bồi dưỡng cơ quan và đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng lực lượng dự bị động viên. - Vị trí: Đây là giải pháp trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng công tác xây dựng LLDBĐV. - Nội dung: + Xây dựng cơ quan, cán bộ đúng, đủ về số và chất lượng theo qui định. + Tuyển chọn, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ theo đúng tiêu chuẩn, tiêu chí, có đủ phẩm chất và năng lực. d) Thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với lực lượng dự bị động viên. - Vị trí: Là giải pháp góp phần đảm bảo cho đội ngũ cán bộ là công tác dự bị động viên yên tâm công tác và phát huy tốt vai trò trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ. - Nội dung: + Thực hiện đúng, đủ, không sai phạm các chế độ, chính sách. + Đảm bảo công bằng, nghiêm minh, đúng người, đúng việc. + Chú trọng đầu tư, tăng cường chính sách đãi ngộ đối với cán bộ ở các vùng trọng điểm, thên chốt, vùng sâu, xa, biên giới, rừng núi, biển đảo. Xây dựng lực lượng dự bị động viên là nhiệm vụ hết sức quan trọng, nhằm nâng cao sức mạnh cho lực lượng vũ trang trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đó là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cuả cả hệ thống chính trị ở nước ta. III. ĐỘNG VIÊN CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG Tiềm lực quân sự là nòng cốt của tiềm lực quốc phòng được xây dựng trên nền tảng của tiềm lực chính trị - tinh thần, tiềm lực kinh tế và tiềm lực khoa học và công nghệ. Tiềm lực quân sự không chỉ thể hiện ở khả năng duy trì, hoàn thiện và không ngừng phát triển sức mạnh chiến đấu, trình độ sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang mà còn biểu hiện ở nguồn dự trữ về sức người, sức của phục vụ cho nhiệm vụ quân sự. Nhà nước Việt Nam xây dựng tiềm lực quân sự theo kế hoạch chiến lược thống nhất, phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Năng lực chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang thể hiện ở tổ chức, biên chế, trang bị, cơ sở bảo đảm hậu cần, nghệ thuật quân sự và khoa học - kỹ thuật thường xuyên được quan tâm duy trì, hoàn thiện và không ngừng phát triển để đáp ứng các yêu cầu của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Tiềm lực quân sự còn thể hiện ở khả năng động viên công nghiệp, nông nghiệp, khoa học - kỹ thuật, giao thông vận tải và các ngành dịch vụ công cộng khác để đáp ứng yêu cầu quốc phòng. Xây dựng tiềm lực quân sự được gắn chặt với quá trình CNH, HĐH đất nước. Các thành tựu trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học công nghệ, văn hoá tư tưởng... là cơ sở để xây dựng lực lượng vũ trang, phát triển khoa học nghệ thuật quân sự, khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Nhà nước Việt Nam chủ trương gắn việc xây dựng tiềm lực quân sự với việc xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần, tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học và công nghệ, coi đó là yêu cầu tất yếu trong xây dựng tiềm lực của nền QPTD, bảo đảm khả năng huy động tạo thành sức mạnh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. 1. Khái niệm, nguyên tắc, yêu cầu động viên công nghiệp quốc phòng - Công nghiệp quốc phòng: Là một phần quan trọng của thực lực và tiềm lực QP, AN; là bộ phận của công nghiệp quốc gia có nhiệm vụ: Nghiên cứu, phát triển, sản xuất, bảo dưỡng, sửa chữa lớn, cải tiến, hiện đại hoá vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự, vật tư kỹ thuật và các sản phẩm khác phục vụ quốc phòng; Tham gia phát triển KT-XH, góp phần thực hiện CNH, HĐH đất nước. - Theo đường lối, quan điểm quốc phòng toàn dân của Đảng: Quân đội hiện nay chỉ quản lý Tổng cục công nghiệp quốc phòng; bao gồm những cơ sở nghiên cứu, sản xuất, sửa chữa lớn, cải tiến, hiện đại hoá vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự, vật tư kỹ thuật được nhà nước đầu tư phục vụ quốc phòng, an ninh, làm nòng cốt xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng do Bộ Quốc phòng trực tiếp quản lý. - Lực lượng đông đảo hơn là những cơ sở sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, kinh tế xã hội được Nhà nước đầu tư xây dựng năng lực sản xuất phục vụ quốc phòng theo quy định của pháp luật động viên công nghiệp và toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân có năng lực được sắp xếp theo kế hoạch động viên của toàn bộ đất nước (trừ những doanh nghiêp của nước ngoài). Trong thời bình sản xuất, kinh doanh phát triển đất nước; thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo quản, sản xuất thử để duy trì năng lực thiết bị dây chuyền; tham gia nghiên cứu, sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ phục vụ quốc phòng, an ninh theo đặt hàng của Bộ Quốc phòng; thực hiện nhiệm vụ động viên công nghiệp theo quy định của pháp luật động viên công nghiệp; Lực lượng này là tiêm lực to lớn của công nghiệp quốc phòng toàn dân tạo nên nên sức mạnh quân sự quốc gia. a) Khái niệm - Động viên công nghiệp quốc phòng là huy động một phần hoặc toàn bộ năng lực sản xuất, sửa chữa trang bị cho quân đội của doanh nghiệp công nghiệp ngoài lực lượng quốc phòng, nhằm huy động mọi nguồn lực của đất nước hoặc một số địa phương phục vụ cho quốc phòng, nhằm giành thế chủ động, bảo toàn, phát huy tiềm lực mọi mặt của quốc gia, duy trì ổn định sản xuất và đời sống của nhân dân, giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt nam Xã hội chủ nghĩa. - Nội hàm khái niệm trên thể hiện: + Đối tượng động viên: Gồm tất cả các bộ ngành: Công nghiệp sản xuất, chế biến, sửa chữa; đảm bảo công trình, đảm bảo xã hội; Bộ Giao thông, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Y tế + Thời điểm động viên: Được chuẩn bị từ thời bình, là việc làm thường xuyên từ Trung ương tới địa phương. + Hình thức động viên: Có thể tổng động viên hoặc cục bộ. Nếu xảy ra chiến tranh trong tương lai, đó sẽ là cuộc chiến tranh tổng lực, hiện đại, đối phương chủ yếu sử dụng vũ khí công nghệ cao, bất ngờ tiến công từ xa vào các mục tiêu trọng yếu trên phạm vi cả nước, bằng pháo binh, không quân, tên lửa hành trình Vì vậy động viên công nghiệp quốc phòng chúng ta phải được chuẩn bị từ thời bình, đảm bảo cho đất nước luôn ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. b) Nguyên tắc động viên công nghiệp quốc phòng - Động viên công nghiệp quốc phòng được tiến hành trên cơ sở năng lực sản xuất, sửa chữa đã có của các doanh nghiệp công nghiệp, Nhà nước chỉ đầu tư thêm trang thiết bị chuyên dùng để hoàn thiện dây truyền sản xuất, sửa chữa trang bị cho quân đội. - Việc lựa chọn, giao nhiệm vụ động viên công nghiệp quốc phòng cho các doanh nghiệp công nghiệp phải đảm bảo tính đồng bộ theo nhu cầu sản xuất, sửa chữa trang bị của quân đội và phù hợp với năng lực sản xuất, sửa chữa trang bị của doanh nghiệp. - Nhà nước đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp công nghiệp, người lao động trong chuẩn bị và thực hành động viên công nghiệp quốc phòng c) Yêu cầu động viên công nghiệp quốc phòng. - Chuẩn bị và thực hành động viên công nghiệp quốc phòng phải đảm bảo bí mật, an toàn, tiết kiệm, hiệu quả, đúng kế hoạch, nhanh chóng tăng cường sức mạnh về mọi mặt, sẵn sàng đối phó với các tình huống chiến tranh. + Đây là yêu cầu cơ bản có tính quyết định đến kết quả hoàn thành nhiệm vụ động viên công nghiệp quốc phòng. Trước hết về kế hoạch động viên công nghiệp quốc phòng của các cấp theo quy định của Nhà nước thuộc tài liệu tuyệt mật, vì vậy việc xây dựng, quản lí, khai thác kế hoạch phải tuân thủ chặt chẽ quy định của pháp luật; các doanh nghiệp công nghiệp phải có trách nhiệm thực hiện chế độ quản lí, sử dụng, bảo mật theo đúng quy định. + Nhiệm vụ động viên công nghiệp quốc phòng được giao cho các ngành, cơ quan, doanh nghiệp từ thời bình; phù hợp với năng lực của các thành phần được giao, theo cơ cấu khu vực, trong một tổng thể chung nhằm đáp ứng với nhiệm vụ chiến đấu của lực lượng vũ trang trong mọi tình huống nhưng cũng tạo điều kiện cho doanh nghiệp thuận lợi trong quá trình sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội của địa phương, khu vực; tạo nên sức mạnh quốc gia, kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược; xây dựng, phát triển kinh tế gắn với tăng cường, củng cố quốc phòng an ninh. + Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, việc đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả là một yêu cầu rất quan trọng, nhất là trong điều kiện ngân sách đảm bảo cho động viện công nghiệp quốc phòng của Nhà nước và Bộ Quốc phòng còn hạn hẹp. Khi có lệnh động viên công nghiệp quốc phòng, nếu không đảm bảo đủ số lượng, đúng thời gian quy định theo kế hoạch được giao sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến khả năng hoàn thành nhiệm vụ của quân đội. Thực hiện tốt công tác chuẩn bị cho động viên công nghiệp quốc phòng vừa là trách nhiệm thực hiện nghiêm luật định, vừa là trách nhiệm chính trị với Đảng, Nhà nước, Tổ quốc và nhân dân. + Các đơn vị cơ quan Quân đội theo nhiệm vụ, theo nguồn được phân công phải thường xuyên phối kết hợp với các cơ quan, doanh nghiệp được phân công; rà soát bổ sung điều chỉnh kịp thời nhằm cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ chung; kịp thời tham mưu cho lãnh đạo chỉ huy tổ chức thực hiệ nhiệm vụ. - Chuẩn bị và thực hành động viên công nghiệp quốc phòng phải đảm bảo cho yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của các địa phương trong thời chiến. + Đây là một yêu cầu quan trọng trong chuẩn bị và thực hành động viên công nghiệp quốc phòng xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của các địa phương trong thế trần quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. + Trong chiến tranh tiến công, kẻ thù sẽ dùng thủ đoạn chia cắt thế chiến lược của ta. Vì vậy, muốn hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, chúng ta phải tính toán ngay từ khi làm kế hoạch, hoàn thành công tác đảm bảo chiến đấu thường xuyên, liên tục, vững chắc, dài ngày trên các mặt trận, các vùng chiến lược. Thực hiện động viên công nghiệp quốc phòng đáp ứng yêu cầu của chiến tranh là trách nhiệm chính trị với mỗi doanh nghiệp; đối với nhiệm vụ động viên công nghiệp quốc phòng của doanh nghiệp nhà nước phải luôn luôn xác định rõ vị trí vai trò chủ đạo trong thực hiện nhiêm vụ. + Tổng cục công nghiệp Quốc phòng với vai trò nòng cốt của công nghiêp quốc phòng của quốc gia phải tham mưu cho Bộ Quốc phòng, cho Đảng, Nhà nước đẻ xây dựng, tổ chức triển khai thực hiện thắng lợi nhiệm vụ động viên công nghiệp quốc phòng; tổ chức tốt công tác kiểm tra giúp đỡ những doanh nghiệp được phân công là yêu cầu cơ bản, có tính quyết định đến kết quả công tác động viên công nghiệp quốc phòng của các cấp, các nghành phải theo đúng quy định của nhà nước và tuân thủ nghiêm quy định của pháp luật. 2. Một số nội dung động viên công nghiệp quốc phòng a) Chuẩn bị động viên công nghiệp quốc phòng - Pháp lệnh số 09/2003/PL-UBTVQH11(Điều 8) về động viên công nghiệp quốc phòng, ngày 25 tháng 02 năm 2009 quy định chuẩn bị động viên công nghiệp bao gồm các nội dung: Khảo sát, lựa chọn doanh nghiệp công nghiệp có khả năng sản xuất, sửa chữa trang bị; xây dựng kế hoạch động viên công nghiệp; giao chỉ tiêu động viên công nghiệp; hoàn chỉnh dây chuyền sản xuất, sửa chữa trang bị; quản lý, duy trì dây chuyền sản xuất, sửa chữa trang bị; bồi dưỡng chuyên môn cho người lao động và diễn tập động viên công nghiệp; dự trữ vật tư: - Khảo sát, lựa chọn doanh nghiệp công nghiệp có khả năng sản xuất, sửa chữa trang bị (Điều 10 PL): Nội dung khảo sát năng lực sản xuất, sửa chữa của các doanh nghiệp công nghiệp bao gồm: Đặc điểm tình hình; cơ cấu tổ chức, số lượng, chất lượng cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác; nhiệm vụ sản xuất, công suất thiết kế, công suất thực tế; số lượng, chất lượng trang thiết bị hiện có; phương hướng sản xuất và đổi mới công nghệ. Căn cứ vào nhu cầu sản xuất, sửa chữa trang bị của Quân đội và kết quả khảo sát năng lực sản xuất, sửa chữa của các doanh nghiệp công nghiệp. Thủ tướng Chính phủ quyết định các doanh nghiệp công nghiệp đủ điều kiện động viên công nghiệp; Bộ trưởng BQP quản lý danh mục các doanh nghiệp công nghiệp đủ điều kiện động viên công nghiệp (Điều 11 PL). + Đặc điểm tình hình, cơ cấu tổ chức, số lượng, chất lượng cán bộ, công nhân, viên chức và người lao động khác, nhiệm vụ sản xuất, công suất thiết kế, công suất thực tế, số lượng, chất lượng trang bị trang thiết bị hiện có, phương hướng sản xuất và đổi mới công nghệ. Căn cứ vào nhu cầu sản xuất, sửa chữa trang bị của quân đội và kết quả khảo sát năng lực sản xuất, sửa chữa của các doanh nghiệp công nghiệp, Chính phủ quyết định các doanh nghiệp công nghiệp đủ điều kiện động viên công nghiệp quốc phòng. + Xây dựng kế hoạch động viên công nghiệp quốc phòng (Điều 12 PL) quy định: Căn cứ để  xây dựng kế hoạch nhà nước về động viên công nghiệp: Đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân; dự báo quy mô chiến tranh, phương thức tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc; nhu cầu và thực lực trang bị của Quân đội; dự báo mức tiêu hao trang bị trong chiến tranh; khả năng sản xuất, sửa chữa trang bị của các doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng và bảo đảm từ các nguồn khác; kết quả khảo sát năng lực sản xuất, sửa chữa trang bị của các doanh nghiệp công nghiệp. Quyết định của Bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, tổng công ty, kế hoạch thông báo quyết định động viên công nghiệp quốc phòng; quyết định di chuyển địa điểm, kế hoạch chỉ huy điều hành; kế hoạch đảm vật tư cho sản xuất, sửa chữa trang bị theo chỉ tiêu động viên công nghiệp quốc phòng; kế hoạch nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ phục vụ động viên công nghiệp quốc phòng (nếu có) theo quy định của pháp luật về công tác nghiên cứu khoa học; kế hoạch đảm bảo kinh phí cho động viên công nghiệp quốc phòng. Trên cơ sở kế hoạch của cấp trên, các doanh nghiệp công nghiệp lập kế hoạch động viên công nghiệp quốc phòng cho doanh nghiệp của mình. Nội dung gồm: Kế hoạch bảo dưỡng trang thiết bị do nhà nước giao; kế hoạch thông báo quyết định động viên công nghiệp quốc phòng; kế hoạch di chuyển địa điểm; kế hoạch chỉ huy điều hành; kế hoạch đảm bảo vật tư cho sản xuất. sửa chữa trang bị theo yêu cầu động viên công nghiệp quốc phòng; kế hoạch sản xuất, sửa chữa trang bị; kế hoạch ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ phục vụ động viên công nghiệp quốc phòng (nếu có) theo quy định của pháp luật về công tác nghiên cứu khoa học; kế hoạch đảm bảo vật tư, kinh phí. + Giao chỉ tiêu động viên công nghiệp quốc phòng. Căn cứ vào năng lực, khả năng hoàn thành nhiệm vụ của các doanh nghiệp, công tác bảo đảm để giao nhiệm vụ theo chỉ tiêu cụ thể. Đối với doanh nghiệp phải xác định chỉ tiêu không chỉ là pháp lệnh mà còn là nhiệm vụ chiến đấu được giao. + Hoàn chỉnh dây truyền sản xuất, sửa chữa trang thiết bị: Theo nhiệm vụ được giao, khả năng của doanh nghiệp, báo cáo kịp thời những đề nghị cần thiết, khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ. + Quản lý, duy trì dây truyền sản xuất: Quản lý, duy trì dây truyền sản xuất; tập trung theo dõi kiểm tra dây chuyền mới triển khai. + Bồi dưỡng chuyên môn, kỹ thuật cho người lao động và diễn tập động viên công nghiệp quốc phòng: Huấn luyên, bổ túc, bồi dưỡng chuyên môn cho người lao động nhất là những thành phần mới. + Dự trữ vật chất: Tích cực khai thác vật tư cần quan tâm chú ý đến nguồn vật tư tại chỗ, có kế hoạch cụ thể đảm bảo cho các tình huống khác nhau, đảm bảo vật tư trong mọi tình huống. b) Thực hành động viên công nghiệp quốc phòng (Điều 20). Thực hành động viên công nghiệp bao gồm: Quyết định và thông báo quyết định động viên công nghiệp; tổ chức di chuyển địa điểm đối với doanh nghiệp công nghiệp phải di chuyển; tổ chức bảo đảm vật tư, tài chính; tổ chức thực hiện nhiệm vụ sản xuất, sửa chữa trang bị; giao, nhận sản phẩm động viên công nghiệp. - Quyết định và thông báo quyết định động viên công nghiệp quốc phòng (do Chính phủ quy định). Tùy theo tình hình cụ thể để công bố lệnh trang trọng, nghiêm túc; trong tình huống khẩn trương không thể tổ chức công bố thì bằng mọi cách phải làm cho tất cả mọi người nhận rõ nhiệm vụ được giao. - Tổ chức di chuyển địa điểm đối với doanh nghiệp công nghiệp phải di chuyển: Công tác tổ chức phải chặt chẽ, chu đáo; đảm bảo, bí mật, an toàn đung kế hoạch. Kế hoạch phải được bổ sung kịp thời, phù hợp với tình hình. - Tổ chức bảo đảm vật tư, tài chính: Kịp thời báo cáo, đề nghi bổ sung, chi viện khi có thay đổi nhiệm vụ khi điều chỉnh kế hoạch, do địch gây ra. - Tổ chức thực hiện nhiệm vụ sản xuất, sửa chữa trang thiết bị: Tổ chức tốt vật tư, duy trì sản xuất thực hiện tốt công tác tuyên truyền thi đua nhằm tăng năng xuất, đảm bảo chất lượng. - Giao, nhận sản phẩm động viên công nghiệp quốc phòng: Công tác giao, nhận sản phẩm động viên công nghiệp quốc phòng phải đảm bảo chặt chẽ, an toàn, đảm bảo chất lượng, đúng chủng loại; khi giao nhận sản phẩm tương đương thay thế thì phải bàn giao chặt chẽ, hướng dẫn đầy đủ chi tiết, cụ thể. c) Một số biện pháp chính thực hiện động viên công nghiệp quốc phòng. - Nhà nước, Chính phủ quản lý, chỉ đạo chặt chẽ các Bộ, cơ quan ngang bộ, địa phương, tổng công ty, thực hiện nghiêm pháp lệnh động viên công nghiệp quốc phòng. Các bộ, cơ quan ngang bộ, địa phương, tổng công ty phối hợp hiệp đồng chặt chẽ thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ động viên công nghiệp quốc phòng. + Nội dung quản lý nhà nước về động viên công nghiệp bao gồm: Ban hành, hướng dẫn thi hành các văn bản quy phạm pháp luật về động viên công nghiệp; xây dựng chính sách, lập quy hoạch, kế hoạch và chỉ đạo, tổ chức thực hiện động viên công nghiệp; tổ chức, quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về động viên công nghiệp; nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ phục vụ động viên công nghiệp; tuyên truyền, giáo dục pháp luật về động viên công nghiệp; kiểm tra, thanh tra việc thi hành pháp luật về động viên công nghiệp; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về động viên công nghiệp; sơ kết, tổng kết về động viên công nghiệp. + Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về động viên công nghiệp; Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về động viên công nghiệp; hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện những quy định của pháp luật về động viên công nghiệp; các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Quốc phòng thực hiện quản lý nhà nước về động viên công nghiệp và tổ chức thực hiện nhiệm vụ động viên công nghiệp; Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về động viên công nghiệp và tổ chức thực hiện nhiệm vụ động viên công nghiệp; người đứng đầu tổng công ty trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức thực hiện nhiệm vụ động viên công nghiệp. - Các bộ, cơ quan ngang bộ, các địa phương, các tổng công ty cần quán triệt sâu sắc cho cán bộ, công nhân viên về Pháp lệnh, Nghị định, các văn bản hướng dẫn về động viên công nghiệp quốc phòng của Nhà nước và Chính phủ. - Các doanh nghiệp công nghiệp được lựa chọn và giao chỉ tiêu động viên công nghiệp quốc phòng cần chủ động lập kế hoạch động viên công nghiệp quốc phòng và sẵn sàng thực hiện kế hoạch, chỉ tiêu trên giao. - Nhà nước bảo đảm ngân sách cho nhiệm vụ động viên công nghiệp: + Điều 28 Pháp lệnh số 09/2003/PL-UBTVQH11 quy định: Trong thực hành động viên công nghiệp, các doanh nghiệp công nghiệp được: Bảo đảm phương tiện vận chuyển khi di chuyển đến địa điểm mới; bảo đảm kịp thời vật tư, trang thiết bị và kinh phí; ưu đãi về thuế, đất đai như các doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng; giảm hoặc miễn trách nhiệm tài sản theo quy định của pháp luật trong trường hợp do thực hiện quyết định động viên công nghiệp mà không thực hiện được hợp đồng kinh tế, thương mại, dân sự đang có hiệu lực vào thời điểm nhận quyết định động viên công nghiệp; hưởng chế độ, chính sách khác theo quy định của pháp luật. Khi kết thúc động viên công nghiệp các doanh nghiệp công nghiệp được bảo đảm phương tiện vận chuyển về địa điểm trước khi di chuyển và hỗ trợ kinh phí để phục hồi sản xuất. + Điều 29 Pháp lệnh số 09/2003/PL-UBTVQH11 quy định: Người lao động trực tiếp thực hiện nhiệm vụ động viên công nghiệp được miễn nghĩa vụ lao động công ích trong thời gian thực hành động viên công nghiệp; trong thời gian diễn tập và thực hành động viên công nghiệp mà bị tai nạn, ốm đau, bị thương, từ trần, hy sinh thì được hưởng chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật. - Tăng cường công tác diễn tập, kiểm tra, đôn đốc tổ chức thực hiện. KẾT LUẬN Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Dân quân tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là lực lượng vô địch, là bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận kẻ thù nào dù hung bạo đến đâu hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó thì địch nào cũng phải tan rã”, điều đó đã nói lên vị trí, vai trò rất quan trọng của dân quân du kích trước đây và dân quân tự vệ ngày nay trong đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, xây dựng lực lượng dân quân tự về, lực lượng dự bị động viên và động viên công nghiệp quốc phòng là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa chiến lược của đất nước nhằm chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Do đó, cần phải giáo dục, quán triệt và tổ chức thực hiện nhiệm vụ này một cách thường xuyên, ngay từ thời bình, trở thành ý thức trách nhiệm thường trực của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Đối với lực lượng sinh viên-những chủ nhân tương lai trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo mục tiêu lí tưởng xã hội chủ nghĩa, nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước cần phải học tập, nghiên cứu toàn diện để gánh vác sứ mệnh đưa Việt Nam sánh vai cùng các cường quốc năm châu. Trong đó, cần có sự hiểu biết và nhận thức đúng và rõ về vị trí, vai trò của công tác xây dựng lực lượng Dân quân tự vệ, lực lượng Dự bị động viên và động viện công nghiệp quốc phòng. Qua đó, nhằm góp phần công sức, trí tuệ của mình vào thực hiện nhiệm vụ Bảo vệ vững chắc Tổ quốc, tạo môi trường hoàn bình, ổn định cho sự nghiệp CNH, HĐH và công cuộc đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh sớm trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2045. HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU 1. Khái niệm, vị trí, vai trò, nội dung và biện pháp xây dựng lực lượng dân quân tự vệ. Làm rõ nội dung coi trọng chất lượng là chính trong phương châm xây dựng lực lượng dân quân tự vệ “Vững mạnh, rộng khắp, coi trọng chất lượng là chính”? 2. Những nội dung cơ bản xây dựng lực lượng dự bị động viên hiện nay. Để góp phần nâng cao chất lượng tạo nguồn dự bị động viên ở các địa phương trong tình hình hiện nay, theo em cần có những biện pháp cụ thể gì? 3. Những nguyên tắc động viên công nghiệp quốc phòng của Đảng và Nhà nước ta hiện nay? Ngày tháng 5 năm 2021 NGƯỜI BIÊN SOẠN Trung tá, ThS Phạm văn San

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docgiao_trinh_duong_loi_quan_su_bai_9.doc