Hoàn thiện công bố thông tin trên thị trường chứng khoán

Đấy là về phần các DN, còn các nhà đầu tư thì sao? Những vấn đề về công bố thông tin trên thị trường đang thật sự trở thành nỗi lo chung của các nhà đầu tư khi họ không biết đâu mới là thông tin thất sự, đâu chỉ là tin đồn? Động cơ của việc tung tin đồn cũng rất đa dạng, từ việc cạnh tranh không lành mạnh đến đầu cơ, trục lợi. Tin đồn cũng có nhiều dạng, có thể kể ra đây một số loại tin đồn như: Tin đồn liên quan đến pháp luật: Đó là việc tung ra tin đồn về sự bỏ trốn của những người có trách nhiệm trong công ty. Có thể lấy ví dụ về sự vụ ầm ĩ của ngân hàng Á Châu (ACB) trong năm 2003 vừa qua làm ví dụ. Hay một loại tin đồn khác liên quan đến pháp luật là doanh nghiệp nằm trong tầm ngắm của các cơ quan hành pháp. Tin đồn theo kiểu “tát nước theo mưa” : lợi dụng một số sự kiện được nhà đầu tư quan tâm để mưu lợi như công bố đối tác chiến lược hay tung tin đồn ngược với tin thật Ví dụ như trường hợp sau khi công bố đối tác chiến lược , mua cổ phần của nhau giữa Kinh đô và Eximbank thì xuất hiện tin đồn Kinh đô bán cổ phần cho Eximbank. Với một số nhà đàu tư có kinh nghiệm, loại tin đồn này không có tác dụng nhưng đối với các nhà đầu tư không chuyên thì nên cẩn thận. Một loại hình tin đồn khác không kém phần trên TTCK: tin đồn “bán khống”, không phải thuật ngữ bán khống short selling mà đây là tin đồn rao bán những cái chưa có. Khi thị trường khan hiếm hàng thì những thông tin rao bán cổ phiếu của những DN chưa phát hành thường gây xáo động trong các nhà đầu tư. Tuy vậy , đây cũng có thể là một thủ thuật kích cỡ giá cổ phiếu nhằm tạo cơn sốt săn lùng trên thị trường. Đấy là một số loại tin đồn trên TTCK xuất hiện một cách không chính thống trên thị trường VN. Đây có thể là do mục tiêu không tốt của một số cá nhân trên thị trường nhưng khi những thông tin đó lại do những giới truyền thông của chúng ta “ lên tiếng” liệu có đáng tin? Một nguồn thông tin khá đáng tin cậy, đang tồn tại hàng ngày hàng giờ trên thị trường của chúng ta là báo giới. Có thể thấy những tờ Đầu tư chứng khoán, hay những chuyên mục chứng khoán ngày càng được bán chạy trên các sạp báo. Không dám nói đến những tờ báo uy tín và chất lượng thì những nguồn thông tin do báo chí đưa ra với những tiêu đề kiểu như : thị trường khủng hoảng, nhà đầu tư bỏ chạy hay ồ ạt bán tháo . trở thành tin giật gân trên thị trường. Nó tác động mạnh mẽ đến nhà đầu tư, gây hoang mang, dẫn đến những quyết định bất lợi cho nhà đầu tư và thị trường. Thậm chí có tờ báo không theo sát diễn biến của thị trường nhưng vẫn điềm nhiên đưa tin, thêm nữa yếu tố không khách quan cũng làm giảm độ tin cậy nơi báo giới. Nói về truyền thông của VN thời kì TTCK không thể không nói đến một kênh khác không kém phần quan trọng: đó là từ cơ quan quản lý Ủy Ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN). Có thể kể ra một vài sự cố về công bố thông tin của UBCKNN như: việc năm 2007 vừa rồi, công bố thông tin trái ngươc hoàn toàn với công bố của Ngân hàng thế giới (WB) về số vốn đầu tư gián tiếp mà các nhà đầu tư nước ngoài đổ vào VN, UBCKNN công bố 1 tỷ trong khi WB công bố là 4 tỷ. Nguồn thông tin gần như trái ngược với thông tin của WB đưa ra đã tác động khá mạnh đến tâm lý của những nhà đầu tư trong nước, phiên 24/4, họ tiếp tục bán ra số lượng lớn cổ phiếu và mua vào rất ít, bảng điện tử đỏ rực ngay từ phiên khớp lệnh đầu tiên. Hay như sự vụ của công ty ATIP vào khoảng tháng 9/2007 vừa qua, theo thông tin từ UBCKNN, ATIP là DN nước ngoài được thành lập và hoạt động tại bang Nevada (Mỹ). Ngày 4/7/2001, ATIP được Bộ KH - ĐT cấp Giấy phép số 2153/GPĐC1 hợp tác liên doanh theo hình thức Hợp đồng chia sản phẩm với TCty Dầu khí VN để tìm kiếm, thăm dò, thẩm lượng, phát triển và sản xuất dầu khí tại lô 102 và 106 thuộc thềm lục địa VN. Sau đó, Cty ATIP đã ký hợp đồng bán một phần vốn liên doanh cho Petronas (Malaysia), hiện Cty ATIP chỉ còn nắm giữ 10%. Ngày 26/1/2007, Chủ tịch Hội đồng Quản trị ATIP đã ký quyết định số 1/QĐ phát hành nội bộ (phát hành riêng lẻ) cho 93 cán bộ công nhân

doc43 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1024 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoàn thiện công bố thông tin trên thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và đa số là các công ty nhỏ, không tiêu biểu cho ngành kinh tế then chốt. Tuy nền kinh tế vẫn tăng trưởng với tốc độ cao trong các năm qua và hoạt động của các công ty đều lạc quan nhưng do TTCK còn quá nhiều mặt yếu, nhất là trong công bố thông tin và cách điều hành thị trường dẫn đến các rủi ro quá lớn nên các nhà đầu tư cũ lần lượt xa rời thị trường trong khi các nhà đầu tư tiềm năng thì e ngại tham gia do sức hấp dẫn của TTCK ngày càng kém đi. Mặt khác chất lượng hàng hóa chưa cao và các chính sách khuyến khích người đầu tư tham gia vào thị trường chưa thật hấp dẫn cũng làm cho thị trường CK yếu kém. Tuy nhiên NĐ 144/2003 /NĐ-CP về ck và TTCK được Thủ tướng Chính Phủ ký ban hành đc các nhà quản lý và giới đầu tư, kinh doanh CK kỳ vọng sẽ tạo động lực giúp TTCK hồi phục và phát triển. Điểm nổi bật của NĐ này là tách bạch hoạt động phát hành chứng khoán với hoạt động niêm yết chứng khoán. NĐ đã quy định cụ thể hơn về hoạt động của quỹ đầu tư CK. Năm 2004: Năm 2004 là một năm hoạt động khá thành công của thị trường chứng khoán Việt Nam nhờ Chính phủ đã kịp thời ban hành và triển khai một loạt chủ trương, chính sách phát triển thị trường chứng khoán cũng như đẩy mạnh hơn nữa tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Thị trường cổ phiếu sau một thời gian dài rơi vào tình trạng trầm lắng đã có sự hồi phục và tăng trưởng mạnh mẽ. Chỉ số VN-Index đã tăng từ 166,94 điểm vào cuối năm 2003 lên gần 280 điểm vào hồi đầu tháng 4 (tăng 67,7%) và hiện đang đứng ở mức khá ổn định là 230 điểm. Việc giá cổ phiếu tăng mạnh đã làm cho các nhà đầu tư quan tâm hơn đến thị trường chứng khoán. Trên thị trường không chính thức, các hoạt động mua bán cổ phiếu diễn ra hết sức sôi động với hơn 100 loại cổ phiếu được giao dịch khá thường xuyên, tiêu biểu là cổ phiếu của Công ty Sữa Việt Nam, Giống Cây trồng miền Nam, Dầu Tường An, Dược Hậu Giang, Bảo Minh. Bên cạnh đó, với nỗ lực đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và được khích lệ bởi sự tăng trưởng trở lại của thị trường chứng khoán, các đợt đấu giá bán cổ phần ra công chúng đã thu hút sự quan tâm rất lớn của công chúng và giới đầu tư. Các đợt phát hành trái phiếu Chính phủ cũng đã diễn ra đều đặn với mức độ thành công vượt hẳn so với năm trước. Trên thị trường giao dịch, nghiệp vụ mua bán trái phiếu có kỳ hạn (repo) đã giúp tăng tính thanh khoản cho thị trường trái phiếu và thực sự đem lại lợi ích cho các đối tượng tham gia mua bán trái phiếu. Các đơn vị chiếm thị phần lớn trên thị trường trái phiếu cũng thu được lợi nhuận đáng kể từ nghiệp vụ này, nổi bật là Công ty Chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Cùng với tốc độ tăng trưởng khá cao của nền kinh tế Việt Nam, tình hình hoạt động kinh doanh của phần lớn các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán cũng đạt những kết quả khả quan, đặc biệt các công ty này đã có những tiến bộ đáng kể trong công tác công bố thông tin. Năm 2004 cũng chứng kiến sự tham gia mạnh mẽ hơn của các quỹ đầu tư chứng khoán như VEIL, PXP Fund, VF1, giúp cho thị trường hoạt động ổn định hơn. Bên cạnh những thành công trên, thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm 2004 cũng bộc lộ một số mặt hạn chế. Số lượng công ty niêm yết mới và nhà đầu tư tham gia thị trường còn hạn chế. Tình trạng thiếu minh bạch về thông tin vẫn xảy ra. Năm 2005: Tổng doanh số huy động qua thị trường đạt trên 5000 tỷ đồng . TTCK VN chứng kiến sự ra đời của TTGD CK Hà Nội .Mặc dù số lượng hang hóa giao dịch trên thị trường này chưa nhiều song đây cũng là 1 bước quan trọng nhằm hoàn thiện mô hình TTCK VN. Năm 2006: Đây là năm đánh dấu sự tăng trưởng về mọi mặt và đánh dấu sự phát triển mạnh nhất của TTCK trong sáu năm lịch sử hình thành. TTCK VN trong năm qua đánh dấu bằng sự tăng trưởng về mọi mặt từ số lượng ccác công ty mới niêm yết ,số lượng các công ty chứng khoán mới ra đời ,quỹ đầu tư đến tổng giá trị vốn hóa trên thị trường, chỉ số index, giá trị và khối lượng CK giao dịch bình quân hằng ngày của các nhà đầu tư trong nước đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường. Tuy nhiên với nhiều yếu tố tác động khác nhau TTCK VN trong 6 tháng đầu năm 2007 có sự chuyển mình sang giai một giai đoạn phát triển ổn định và bền vững hơn. Diễn biến thị trường 6 tháng đầu năm 2007 có thể chia thành 2 giai đoạn: giai đoạn tăng giá lien tục của thị trường đầu năm với những dấu hiệu đã được báo trước từ cuối năm 2006 cho đến giữa tháng 3 năm 2007 và một giai đoạn điều chỉnh tiếp sau đó để có một thị truờng ổn định hơn. Tính tới cuối tháng 12/2006 TTCK VN tăng 139, mức tăng cao nhất trong các nước tiếp đó là TTCK Thượng Hải, Thâm Quyến của TQ tăng 111,95%. Từ tháng 1/2007 đến đầu tháng 3/2007: Giai đoạn bùng nổ : VN index của 2 sàn Hà Nội và TpHCM, giá cổ phiếu OTC tăng khá mạnh: Đỉnh điểm HASTC–index ngày 19/3/2007 là 459,36 điểm tăng 90% so với 29/12/2006 giá trị giao dịch đạt 510,3 tỷ đồng (31,9 triệu $) Tại sàn giao dịch TpHCM có 107 công ty niêm yiết và đăng ký gao dịch 2 chứng chỉ quỹ. Tại sàn giao dịch Hà Nội có: 86 công ty niêm yiết và đăng ký giao dịch. Tổng giá trị vốn hóa thị trường của CP niêm yết: 300000 tỷ đồng (20 tỷ $) Tăng 30% so với 2006. Tổng giá trị mua trung bình của nhà đầu tư nước ngoài tại HosTC : 15,44 ngàn tỷ đồng (965 triệu $) chiếm 30% tổng giá trị giao dịch của HOSTC Mức giao dịch bình quân 1 ngày: 359 tỷ đồng (22,4 tr $) Giai đoạn này các doanh nghiệp chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp niêm yiết có quy mô lớn ,có thương hiệu kết quả kinh doanh tốt như: VNM(12,7 triệu CP), PPC(11,5triệu CP), VSH(9,6 triệu CP). Nguyên nhân: Sự tăng trưởng này chủ yếu do sự tăng giá của các loại CP chứ ko phải tăng khối lượng CP do có thêm công ty niêm yiết trên sàn như vào thời điểm cuối năm 2006. Trong giai đoạn này có 1 số yếu tố khách quan cho sự tăng trưởng trên như: Số lượng cổ phiếu còn được phép mua của các cổ phiếu Blue –chips trên thị trường dành cho nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn nhiều tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài mua vào. Việc VN ra nhập WTO cũng như hành lang pháp lý về chứng khoán và TTCK tạo tiền đề tốt cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào thị trường. Giai đoạn quý I/2007 là thời điểm các công ty niêm yiết công bố kết quả tài chính của năm 2006(lợi nhuận của các công ty trên sàn TPHCM tăng trưởng trung bình khoảng 49% so với năm 2005). Hầu hết các công ty đặc biệt là các công ty blue-chíp có tốc độ tăng trưởng tốt về doanh thu và lợi nhuận. Sự tăng trưởng nóng trên thị trường niêm yết dần tác động đến thị trường OTC và các đợt IPO làm cho giá cổ phiếu của các công ty cùng ngành với các công ty trên sàn tăng theo (giá đấu bình quân IPO ở giai đoạn này khá cao, ở mức 15-16 lần so với giá trị khởi điểm.) Việc nhiều nhà đầu tư thu được khoản lợi nhuận lớn từ TTCK cũng tạo tiếng vang lớn thu hút thêm các nhà đầu tư mới tham gia vào thị trường làm số lượng tài khoản tăng lên từ 106.000 vào cuối năm 2006 đến 200000 vào đầu năm 2007. Giai đoạn điều chỉnh giữa tháng 3 năm 2007: Chỉ số giá chứng khoán của 2 sàn HN, TP.HCM và giá cả trên thị trường OTC đều giảm mạnh cuối tháng 3, 4 sau đó dao động xung quanh mức 1000 điểm với VN-INĐEX, 300 điểm với HASTC - INDEX Số lượng công ty niêm yết và đăng ký giao dịch: HOSTC: 107 công ty, 2 chứng chỉ quỹ và HASTC là 87 công ty. Tổng giá trị vốn hóa trên thị trường cổ phiếu niêm yết tại sàn TPHCM t6/2007: 207,4 nghìn tỷ đồng (13tỷ $) giảm 23,3 % so với 12/3/2007. Tổng giá trị mua trung bình của nhà đầu tư nước ngoài tại HoSTC giảm đáng kể: 12,8 nghìn tỷ đồng (801 triệu $) chiếm khoảng 17% tổng giao dịch HOSTC Giá trị giao dịch bình quân 1 ngày khoảng 170,8 tỷ (10,7triệu $) giảm 52% so với giai đoạn 1. Đợt IPO diễn ra khá ảm đảm thậm chí có những cổ phiếu giá trúng nhỉnh hơn giá khởi điểm không đáng kể. Giai đoạn từ 7/2007 đến gần cuối năm 2007: Tính đến giai đoạn nay đã có 202 công ty chứng khoán niêm yết tại sở GDCK và trung tâm GDCK. Tổng giá trị vốn hóa trên thị trường đối với cổ phiếu niêm yết là 310 nghìn tỷ đồng (19,5 triệu $) chiếm 36% GDP 2006. Quy mô thị trường trong thời gian qua tăng nhanh do số lượng giao dịch cổ phiếu tăng (khoảng 8 lần). Việc điều chỉnh giá trong thời gian qua là phù hợp, là kết quả của một loạt các giải pháp của chính phủ bộ ngành và cơ quan quản lý. Các đợt phát hành IPO và phát hành thêm giai đoạn 6 tháng đầu năm 2007: Cung về CK tăng lên rõ rệt . Hầu hết các công ty đều có kế hoạch phát hành thêm cổ phiếu đặc biệt là các ngân hang thương mại cổ phần. Trong 6 tháng đầu năm mới chỉ có hơn 40 doanh nghiệp được tổ chức đấu giá cổ phần hóa nhưng cung cấp cho thị trường một lượng lớn hàng hóa . Việc cung tăng lên nhanh chóng trong khi mức cầu lại bị hạn chế do chủ trương thắt chặt tín dụng của NHNN tạo nên sự điều chỉnh của thị trường. Đầu năm 2008: Khác hẳn với sức nóng ngùn ngụt đầu năm ngoái, thị trường chứng khoán Việt Nam năm nay lại lạnh một cách tê tái, chỉ số chứng khoán liên tục giảm, khối lượng giao dịch ít, nhà đầu tư chán nản. Mặt khác, gần Tết, lượng tiền được đầu tư ở nhiều lĩnh vực khác có khả năng sinh lời cao như mua bán hàng Tết, đầu tư bất động sản... Vì vậy, lượng tiền đổ vào chứng khoán ít đi, thị trường chứng khoán lạnh là điều dễ hiểu. Lợi nhuận mang lại của các kênh đầu tư khác như vàng, bất động sản vào năm 2007 cao... Chính việc này làm cho một số vốn đầu tư chuyển sang vàng và bất động sản. Điều này dẫn đến vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán đã ít (so với cung cổ phiếu) lại càng ít hơn. Thêm nữa, do tâm lý chuẩn bị Tết sắp đến gần, các nhà đầu tư cần tiền mặt để mua sắm, áp lực tiền mặt này đã làm các nhà đầu tư viết vào tờ phiếu bán CP của mình. Việc chấp nhận cắt lỗ của các nhà đầu tư cũng là điều dễ hiểu khi trong tình hình hiện nay có khá nhiều nhà đầu tư đang sẵn sàng rời bỏ hẳn thị trường. Thêm nữa, khi mà lượng cầu thấp vì nhiều yếu tố chi phối, nhất là việc trở lại của thị trường bất động sản cộng thêm giá vàng lên cao trong nhiều ngày qua đã khiến cho nhiều người ở vào trạng thái thăm dò. Thị trường chứng khoán tự do (OTC) hình thành tự phát và đi vào “vận hành” trước cả thị trường chính thức 2 - 3 năm. Tuy nhiên, đến tận thời điểm này, Bộ Tài chính mới bắt tay vào xây dựng một văn bản pháp lý dưới dạng Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ để tăng cường quản lý thị trường OTC ? “Bộ Tài chính đang triển khai xây dựng Đề án Quản lý giao dịch trên thị trường OTC theo hướng tất cả các loại cổ phiếu muốn mua bán phải qua Trung tâm Lưu ký”. Một trong những giải pháp cơ bản nhất để quản lý thị trường OTC là mở rộng thị trường tập trung; trong đó, trọng tâm là phải khẩn trương quản lý công ty đại chúng và việc chào bán chứng khoán ra công chúng, yêu cầu các công ty cổ phần đáp ứng tiêu chuẩn công ty đại chúng đăng ký ngay hồ sơ công ty đại chúng, làm cơ sở để quản lý các doanh nghiệp này theo quy định pháp luật về chứng khoán Quản lý có tính chuyên nghiệp về các phương tiện thông tin đại chúng trong việc công bố thông tin. Thực trạng công bố thông tin trên TTCK Thành quả. Từ khi ra đời cho đến nay, TTCK VN đã trải qua nhiều cột mốc quan trọng. Đánh dấu cho những mốc quan trọng đó, chính là việc ban hành nghị định 144/2003/NĐ-CP làm cơ sở cho những quy định, nguyên tắc trong công tác thực hiện giao dịch trên TTCK. Sau đó là sự ra đời của Luật Chứng khoán 2006 và các nghị định, thông tư bổ sung hoàn thiện thêm khung pháp lý cho TTCK nói chung và nghị định 144 nói riêng. Đầu tiên, nói về cơ sở pháp lý của công tác công bố thông tin trên TTCK, sự ra đời của 2 thông tư hướng dẫn: Thông tư số : 57/2004/TT-BTC (hướng dẫn thi hành việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán cho nghị định 144-2003) và Thông tư số: 38/2007/TT-BTC(hướng dẫn thi hành việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán cho luật CK- 2006) đã cho thấy vai trò của vấn đề công bố thông tin trên TTCK là thế nào. Thông tư 38 đã quy định rõ các yêu cầu đối với từng đối tượng, chủ thể trên thị trường. Điều này chứng tỏ một sự quan tâm lớn của Chính phủ với chính sách phát triển TTCK. Thứ hai, đó là việc thực hiện được bản cáo bạch chuẩn hóa theo tiêu chuẩn quốc tế. Điều này có được là do khi VN gia nhập WTO, theo tiêu chuẩn quốc tế, bản cáo bạch, yếu tố quan trọng cung cấp thông tin cho nhà đầu tư cũng được thay đổi và thực hiện theo yêu cầu quốc tế nhằm đem lại cái nhìn toàn diện về tình hình kinh doanh của một DN. Với quy định về việc phân tích, tổng hợp, báo cáo và cung cấp thông tin trên TTCK đã được quy định rõ trong văn bản quy định 47- 2000/QĐ- UBCK1 của Chủ tịch Ủy ban chứng khoán Nhà nước, các đối tượng, chủ thể gồm: khối DN chung (công ty niêm yết), các định chế tham gia thị trường chứng khoán (công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ), và cơ quan quản lý (Sở giao dịch, trung tâm giao dịch) đã thực hiện theo đúng yêu cầu của bản quy định về công bố thông tin: thông tin định kì, thông tin bất thường và thông tin theo yêu cầu đúng thời hạn và yêu cầu của các cơ quan quản lý cấp cao. Thứ ba, việc TTCK ngày càng trở thành đề tài sâu rộng trong đời sống, các thông tin về giao dịch cũng được niêm yết chính thức trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng giúp các nhà đầu tư nắm được tình hình giá cả CK trên thị trường vào từng thời điểm. Chúng ta có thể thấy thông tin về chứng khoán xuất hiện tràn ngập trên các phương tiện truyền thông: báo đài, ti vi, internet.. Việc phổ biến rộng rãi này một mặt đem lại thông tin mới nhất cho nhà đầu tư một cách nhanh chóng nhưng cũng đôi khi trở thành mặt hạn chế sẽ được trình bày rõ hơn ở phần dưới. Thêm nữa, khi thị trường chứng khoán đã trở thành một kênh huy động vốn quan trọng, để trở thành hàn thử biểu của nền kinh tế thì những kiến thức về chứng khoán ngày càng phải được phổ biến rộng rãi, riêng về điều này thì công tác công bố thông tin có khá nhiều ưu điểm: các kênh thông tin kiến thức về chứng khoán ngày càng được mở rộng, các chuyên đề, chuyên mục về chứng khoán không còn xa lạ với người dân. Việc tiếp cận thông tin trở nên dễ dàng, các nhà đầu tư có thể search thông tin về một công ty mà họ có nhu cầu đầu tư đơn giản chưa từng thấy, chỉ với một thao tác gõ phím “ thị trường chứng khoán” và “tên doanh nghiệp”. Thứ tư, khi thị trường rơi vào khủng hoảng, những thông tin tốt được đưa ra kịp thời trấn an nhà đầu tư. Được biết, hệ thống thông tin của TTCK Mỹ được Uỷ ban Chứng khoán (UBCK) Mỹ quản lý, giám sát dựa trên một bộ khung pháp luật công bằng, nghiêm minh và minh bạch. Yếu tố quản lý chuyên nghiệp và kiểm soát thông tin chặt chẽ đã giúp TTCK Mỹ (tuy ra đời sau một số TTCK ở châu Âu) vươn lên ở vị trí dẫn đầu. Một điều rất đáng quan tâm ở thị trường này đó là sự xuất hiện của các công ty bảo vệ người đầu tư. Những công ty này có khả năng giúp nhà đầu tư có sức mạnh chống lại các hành vi công bố thông tin sai trái, thông tin không trung thực làm ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà đầu tư. Ngay cạnh chúng ta, TTCK Trung Quốc cũng đi theo mô hình của TTCK Mỹ với việc thành lập UBCK Nhà nước Trung Quốc (năm 1992) nhằm thẩm tra tính chính xác và minh bạch đối với những thông tin được công bố chính thức trên TTCK. Hiện nay TTCK Trung Quốc cũng đã trở thành một thị trường có uy tín và sức mạnh ở quy mô toàn cầu. Vậy chúng ta thì sao? Các nhà quản lý của chúng ta đang từng bước hoàn thiện dần khung pháp lý, các giải pháp hoàn thiện khuôn khổ, pháp lý, thực hiện các cam kết WTO, tổ chức và điều hành TTCK theo chuẩn mực quốc tế, đảm bảo tính minh bạch, công khai của thị trường. Sự ra đời của Nghị định số 36/2007/NĐ-CP ngày 8/3/2007 quy định mức tiền phạt đối với hành vi cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật sẽ chịu mức phạt từ 20-50 triệu đồng. Mặc dù trong thời gian qua TTCK nước ta đã trải qua không ít vụ việc mà thông tin vẫn còn chưa minh bạch theo đúng với nguyện vọng nhà đầu tư và quy định của pháp luật nhưng những chính sách mới này đã thể hiện phần nào sự hoàn chỉnh của hệ thống luật pháp nói chung và của công bố thông tin nói riêng. Đối với từng sàn giao dịch và trung tâm giao dịch, các trung tâm sẽ từng bước cải thiện việc công bố thông tin bằng việc hoàn thiện các website niêm yết của các công ty đại chúng và cơ sở dữ liệu của mình. Hạn chế Phải nói rằng Thị trường chứng khoán (TTCK) ngày nay đã đi vào đời sống của người dân Việt Nam. Họ có thể ngồi nói chuyện hằng ngày hàng giờ về thị trường chứng khoán. Nhưng nhìn nhận chung thì TTCK còn nhiều mặt yếu , mà trong phạm vi bài nghiên cứu chúng tôi chỉ muốn đề cập đến vấn đề trong công bố thông tin. So với các nước trên thế giới, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam ra đời muộn, nhưng đã có sự tăng trưởng vượt bậc. Số doanh nghiệp (DN) tham gia niêm yết ngày một tăng theo tốc độ gia tăng của TTCK. Tính đến nay, Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM (HOSE) đã thu hút 150 DN niêm yết. Số DN niêm yết tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HASTC) cũng lên tới 130 đơn vị. Chứng khoán phát triển đã nhanh chóng thu hút nhiều nhà đầu tư tham gia, tạo điều kiện thuận lợi cho các DN huy động vốn qua thị trường. Tuy nhiên, có một thực trạng đang được nhiều người quan tâm hiện nay là thông tin đưa ra từ các DN còn hạn chế và thiếu tính chuyên nghiệp. Trong khi đây lại là yếu tố quan trọng rất cần thiết đối với nhà đầu tư để giúp họ nắm được tình hình hoạt động, cũng như chiến lược phát triển của DN - nơi nhà đầu tư muốn gửi vốn. Mỗi ngày chúng ta “thu lượm” được không biết bao nhiêu thông tin về TTCK. Như đã phân tích, các nguồn thông tin mà nhà đầu tư thu thập được có thể chính thống, không chính thống nhưng về cơ bản đều liên quan đến đối tượng Doanh nghiệp mà họ quan tâm. Chưa xét đến độ đúng sai của thông tin nhưng chính sự bàn tán đó làm cho “thương hiệu” của Doanh nghiệp đi lên. Truyền thông của DN phần nào đã tác động tích cực đến thị trường tạo nên thương hiệu của mình. Nhưng đáng tiếc, sau khi có những cảm nhận đơn sơ đó, những nhà đầu tư cá thể (chiếm phần lớn 90% nhà đầu tư trên thị trường) lại gặp phải nhiều rào cản trên con đường tìm kiếm thông tin đó. Quá ít và một chiều, mô tả mà nhiều giải thích, nhiều thông tin thường xuyên “đá” nhau. Đó là những đặc điểm dễ nhận dạng của thông tin mà hàng ngày chúng ta “tiêu hóa”. Một nhà đầu tư phát biểu “ Nếu chỉ đọc những thông tin về công bố kết quả kinh doanh, tôi nghĩ có thể tưởng tượng ngay đến một nền kinh tế, nơi mà DN nào cũng có mức lợi nhuận cực kì dễ dàng và cao”. Nhưng thực tế liệu có đúng như vậy? Nghĩ đi nghĩ lại, thì có lẽ từ trước đến giờ chúng ta quen xem những báo cáo thị trường, những bản cáo bạch, những đoạn quảng cáo về DN mà quên di mất DN đang kinh doanh như thế nào? Đang làm gì với những số liệu đó? Chúng ta ngày ngày quay trong biết bao chỉ số , bao nhiêu thước đo từ các bảng giá mà thực sự không ai có điều kiện tiếp xúc thực tế để biết DN đó làm ăn ra sao. Những hiện tượng “làm giá”, “giao dịch nội gián” cũng xuất phát từ đó. Có một công thức như mặc định trên TTCK: Chỉ cần một thương hiệu vừa đủ đến tai nhà đầu tư+ Một bản cáo bạch đẹp+ Những hoạt động truyền thông bình thường như trên = Giá cổ phiếu sẽ lên, Doanh nghiệp sẽ có lợi. Thực tế này đem đến một cảm nhận hơi có phần tiêu cực: “các DN chỉ có trách nhiệm công bố thông tin theo luật đinh, các thông tin mà nhà đầu tư thích chứ không có ý định công bố các tin tức liên quan đến quá trình hoạt động của Doanh nghiệp. Ngay cả bản thân các thông tin công bố của DN cũng không hoàn toàn tuân thủ đúng luật định, có rất nhiều bản cáo bạch sai nguyên tắc. Nếu so sánh với nước ngoài, có thể lấy ví dụ những tập đoàn rất trẻ như Google hay lâu năm như Ford, khi nhắc đến họ người ta đều biết đến từng giai đoạn phát triển, lớn mạnh và trưởng thành cũng như chiến lược trong từng giai đoạn của mỗi tập đoàn. Chính sự công khai này làm cho nhà đầu tư có thể yên tâm hơn về những quyết định đầu tư của mình và những kế hoạch truyền thông lúc đó của DN mới thực sự có hiệu quả. Đấy là về phần các DN, còn các nhà đầu tư thì sao? Những vấn đề về công bố thông tin trên thị trường đang thật sự trở thành nỗi lo chung của các nhà đầu tư khi họ không biết đâu mới là thông tin thất sự, đâu chỉ là tin đồn? Động cơ của việc tung tin đồn cũng rất đa dạng, từ việc cạnh tranh không lành mạnh đến đầu cơ, trục lợi. Tin đồn cũng có nhiều dạng, có thể kể ra đây một số loại tin đồn như: Tin đồn liên quan đến pháp luật: Đó là việc tung ra tin đồn về sự bỏ trốn của những người có trách nhiệm trong công ty. Có thể lấy ví dụ về sự vụ ầm ĩ của ngân hàng Á Châu (ACB) trong năm 2003 vừa qua làm ví dụ. Hay một loại tin đồn khác liên quan đến pháp luật là doanh nghiệp nằm trong tầm ngắm của các cơ quan hành pháp. Tin đồn theo kiểu “tát nước theo mưa” : lợi dụng một số sự kiện được nhà đầu tư quan tâm để mưu lợi như công bố đối tác chiến lược hay tung tin đồn ngược với tin thật Ví dụ như trường hợp sau khi công bố đối tác chiến lược , mua cổ phần của nhau giữa Kinh đô và Eximbank thì xuất hiện tin đồn Kinh đô bán cổ phần cho Eximbank. Với một số nhà đàu tư có kinh nghiệm, loại tin đồn này không có tác dụng nhưng đối với các nhà đầu tư không chuyên thì nên cẩn thận. Một loại hình tin đồn khác không kém phần trên TTCK: tin đồn “bán khống”, không phải thuật ngữ bán khống short selling mà đây là tin đồn rao bán những cái chưa có. Khi thị trường khan hiếm hàng thì những thông tin rao bán cổ phiếu của những DN chưa phát hành thường gây xáo động trong các nhà đầu tư. Tuy vậy , đây cũng có thể là một thủ thuật kích cỡ giá cổ phiếu nhằm tạo cơn sốt săn lùng trên thị trường. Đấy là một số loại tin đồn trên TTCK xuất hiện một cách không chính thống trên thị trường VN. Đây có thể là do mục tiêu không tốt của một số cá nhân trên thị trường nhưng khi những thông tin đó lại do những giới truyền thông của chúng ta “ lên tiếng” liệu có đáng tin? Một nguồn thông tin khá đáng tin cậy, đang tồn tại hàng ngày hàng giờ trên thị trường của chúng ta là báo giới. Có thể thấy những tờ Đầu tư chứng khoán, hay những chuyên mục chứng khoán ngày càng được bán chạy trên các sạp báo. Không dám nói đến những tờ báo uy tín và chất lượng thì những nguồn thông tin do báo chí đưa ra với những tiêu đề kiểu như : thị trường khủng hoảng, nhà đầu tư bỏ chạy hay ồ ạt bán tháo.. trở thành tin giật gân trên thị trường. Nó tác động mạnh mẽ đến nhà đầu tư, gây hoang mang, dẫn đến những quyết định bất lợi cho nhà đầu tư và thị trường. Thậm chí có tờ báo không theo sát diễn biến của thị trường nhưng vẫn điềm nhiên đưa tin, thêm nữa yếu tố không khách quan cũng làm giảm độ tin cậy nơi báo giới. Nói về truyền thông của VN thời kì TTCK không thể không nói đến một kênh khác không kém phần quan trọng: đó là từ cơ quan quản lý Ủy Ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN). Có thể kể ra một vài sự cố về công bố thông tin của UBCKNN như: việc năm 2007 vừa rồi, công bố thông tin trái ngươc hoàn toàn với công bố của Ngân hàng thế giới (WB) về số vốn đầu tư gián tiếp mà các nhà đầu tư nước ngoài đổ vào VN, UBCKNN công bố 1 tỷ trong khi WB công bố là 4 tỷ. Nguồn thông tin gần như trái ngược với thông tin của WB đưa ra đã tác động khá mạnh đến tâm lý của những nhà đầu tư trong nước, phiên 24/4, họ tiếp tục bán ra số lượng lớn cổ phiếu và mua vào rất ít, bảng điện tử đỏ rực ngay từ phiên khớp lệnh đầu tiên. Hay như sự vụ của công ty ATIP vào khoảng tháng 9/2007 vừa qua, theo thông tin từ UBCKNN, ATIP là DN nước ngoài được thành lập và hoạt động tại bang Nevada (Mỹ). Ngày 4/7/2001, ATIP được Bộ KH - ĐT cấp Giấy phép số 2153/GPĐC1 hợp tác liên doanh theo hình thức Hợp đồng chia sản phẩm với TCty Dầu khí VN để tìm kiếm, thăm dò, thẩm lượng, phát triển và sản xuất dầu khí tại lô 102 và 106 thuộc thềm lục địa VN. Sau đó, Cty ATIP đã ký hợp đồng bán một phần vốn liên doanh cho Petronas (Malaysia), hiện Cty ATIP chỉ còn nắm giữ 10%. Ngày 26/1/2007, Chủ tịch Hội đồng Quản trị ATIP đã ký quyết định số 1/QĐ phát hành nội bộ (phát hành riêng lẻ) cho 93 cán bộ công nhân viên. Sau khi mua cổ phiếu ATIP, những cán bộ, công nhân viên của Cty đã bán lại cho các nhà đầu tư bên ngoài, giao dịch trên thị trường tự do. Theo báo cáo kết quả kiểm tra của UBCKNN, đến ngày 12/3/2007 thì số lượng các nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu ATIP là 251 người. Đáng nói là ATIP đã gửi thông tin đến các phương tiện thông tin đại chúng về việc cổ phiếu ATIP đã niêm yết chính thức tại sàn chứng khoán NYSE-Euronext; thưởng 10.000 cổ phiếu ATIP cho đội tuyển bóng đá VN... Trong bản thông cáo đó, chỉ có các thông tin rất chung chung về cổ phiếu ATIP như sức mua lớn, tiềm năng... khiến khá nhiều NĐT tỏ ra phấn khởi về thông tin này và kỳ vọng về ATIP. Tuy nhiên, theo tìm hiểu của phóng viên, Euronext có nhiều sàn dành cho các DN có quy mô khác nhau, cổ phiếu ATIP niêm yết là sàn hạng ba dành cho những DN quy mô nhỏ, vốn điều lệ khoảng 225.000 EUR (khoảng hơn 4 tỷ đồng), điều kiện niêm yết tại đây cực kỳ đơn giản, cụ thể chỉ cần một DN đã niêm yết khác giới thiệu, những quy định về công bố thông tin ở sàn này cũng đơn giản và thậm chí báo cáo tài chính của DN không cần kiểm toán. Như vậy có thể thấy khoảng cách khá xa giữa những gì ATIP công bố và qua đó tạo ra kỳ vọng quá lớn cho nhà đầu tư với thực tế giao dịch cũng như thông tin về cổ phiếu này trên sàn Euronext. Việc công bố thông tin cho cổ đông VN của ATIP không hề bị một quy định hay chế tài nào ở VN ràng buộc. Thực tế, trong Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn chưa đề cập đến đối tượng DN 100% vốn nước ngoài thành lập và hoạt động ở nước ngoài chào bán cổ phiếu ở VN. Để bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư VN, ngăn ngừa những thiệt hại có thể phát sinh, đồng thời tăng cường tính minh bạch trên TTCK, UBCK NN đã có công văn yêu cầu ATIP công bố công khai các thông tin về vốn, tình hình tài chính, kết quả kinh doanh, điều lệ Cty ATIP, tình hình niêm yết và các giao dịch trên sàn chứng khoán Nyse, Euronext. Tuy nhiên, cho đến nay Atip vẫn chưa công bố các thông tin này. Thị trường chứng khoán Việt Nam còn non trẻ nên rất nhạy cảm và dễ bị tổn thương với những nguồn thông tin trên thị trường, nhất là thông tin do những chuyên gia, tổ chức có tên tuổi đưa ra. Nói đến đây hẳn chúng ta cũng nhìn ra được phần nào những hạn chế của vấn đề thông tin trền TTCK hiện nay, trước tiên đó là lượng thông tin mà nhà đầu tư có để mà xử lý. Cán cân đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập “ cân bằng thông tin”. Hiện tượng “ bất đối xứng thông tin” xuất hiện ngày càng nhiều gây ra những hiện tượng như “làm giá” hay “nội gián”.. Điều thứ hai đáng nói đó là trình độ xử lý thông tin. Xử lý thông tin là kĩ thuật, vừa là nghệ thuật. Với cùng một thông tin, so sánh, kiểm tra chéo giữa các nguồn thông tin khác nhau nhiều khi không quá khó hay đòi hỏi nhiều nguồn nhân lực (thời gian và tiền bạc) song mang lại hiệu quả rất rõ ràng. Xem xét các số liệu, chỉ tiêu kinh doanh, chỉ tiêu tài chính có thể thực hiện một cách đơn giản và nhanh chóng bằng nhiều công cụ xử lý thông tin. Ta có thể đưa ra một ví dụ điển hình trong trình bày số liệu thống kê. Đồ thị 1 và 2 đều miêu tả một chỉ số quen thuộc , VNIndex. Dựa trên hình dạng của đồ thị , ta có thể nhanh chóng kết luận rằng chỉ số VNIndex trong tình huống ở đồ thị 2 biến động lớn hơn rất nhiều so với tình huống ở đồ thị 1: Đồ thị 1 Đồ thị 2 Thực ra không phải vậy. Cả hai đồ thị đều mô tả cùng một giai đoạn vận động của VNIndex. Điểm khác biệt là tỷ lệ ở trục tung của hai đồ thị đã được điều chỉnh có chủ đích. Nhưng khi tâm lý bày đàn áp đảo trên thị trường thì năng lực xử lý phân tích có lẽ không mấy hữu dụng. Tâm lý số đông nhiều khi đã che mắt các nhà đầu tư. Nhưng liệu có chắc số đông là đúng? Nhưng đây lại là một hiện tượng tâm lý rất phổ biến trên sàn giao dịch của chúng ta. Sau cùng, hạn chế nữa là công bằng thông tin thấp, một điều cực kì đáng trăn trở ở Việt Nam mà để có được điều này phải có sự công bằng văn minh kinh doanh thực hiện theo. Rõ ràng thông tin là một giá trị, và quyền sở hữu , quyền ngăn chặn người khác tiếp cận thông tin chính xác đã trở thành một thứ quyền lực ghê gớm và trở thảnh một mảng tối trên thị trường. Một hạn chế nữa không thể không nói đến trong công tác công bố thông tin của thị trường chứng khoán Việt Nam, đó là hạn chế về công nghệ. Chính sự yếu kém này đã gây ra không ít tổn thất về vật chất cũng như niềm tin trên thị trường nơi các nhà đầu tư. Ở các DN, mặt hạn chế này được thể hiện ở sự thiếu quan tâm với các nguồn thông tin được công bố ra của mình. Hơn một nửa số DN niêm yết trên sàn giao dịch không có website chính thức hay không hoạt động được. Với cấp cao hơn, đó là UBCKNN, thì đó là sự buông lỏng hay hạn chế trong việc quản lý các phần mềm công nghệ ví dụ như việc kết quả bảng điện tử bị hacker sửa chữa Chính việc này nêu lên thực trạng đáng quan tâm ở thị trường của chúng ta hiện nay. Một thực trạng cần phải nói thêm khi bàn về thị trường chứng khoán VN trong thời gian vừa qua, đó là sự lỏng lẻo, thiếu chặt chẽ của các văn bản luật, các thông tư quy định hướng dẫn đối với việc ban hành, thực hiện công bố thông tin. Thực trạng mà chúng ta thấy trên thị trường đó là nhiều công ty đại chúng không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công bố thông tin của mình, trong khi các quy định của các thông tư văn bản xử phạt thì còn có phần nhẹ nhàng so với những thiệt hại thực sự mà những sự vi phạm này gây ra. Thêm nữa, thị trường OTC gần như đóng băng do thiếu sự quản lý thiếu đồng bộ của nhà nước đã gây không ít hoang mang cho nhà đầu tư. Để kết cho vấn đề này, chúng tôi xin được đưa ra ý kiến của ông Nguyễn Sơn, Trưởng ban Phát triển thị trường, UBCK, được đăng trên báo Đầu tư chứng khoán, về vấn đề này: “quy định đã ban hành và đi vào cộng đồng DN nhưng mức độ vi phạm vẫn nhiều, sự hiểu biết của họ về thực hiện nghĩa vụ còn hạn chế. Ngay trong quy định người đại diện pháp luật và công bố thông tin là tổng giám đốc hoặc nhân viên được ủy quyền, nhưng tại nhiều DN vẫn có những nhân vật khác như phó tổng giám đốc đưa thông tin và gây ra sự sai lệch thông tin đáng kể. Còn về công tác quản lý giám sát hoạt động, nói chung còn rất sơ khai, đội ngũ nhân lực mỏng, công nghệ yếu. Chúng tôi hy vọng, Ban Giám sát thị trường ra đời có thể thu thập, xử lý thông tin bước đầu để chuyển lên Thanh tra tiến hành điều tra sớm”. Tóm lại, có 2 vấn đề lớn nhất đó là: Các thông tin chính thống vẫn còn nhiều vi phạm: sai phạm về nội dung, thời hạn và trách nhiệm của người công bố thông tin.. Nguyên nhân: Thứ nhất, TTCK còn mới, phức tạp, các đối tượng công bố thông tin hiểu biết về nghĩa vụ của mình hạn chế, và các văn bản chuyên sâu về công bố thông tin cũng chưa đầy đủ. Thứ hai, việc tập huấn tuyên truyền và mức độ tiếp cận của DN đại chúng hạn chế, nhân sự công bố thông tin của DN chưa thống nhất, có trường hợp né tránh phát hành ra công chúng bằng cách phát hành riêng lẻ. Thứ ba, việc xử lý vi phạm mới dừng ở mức độ hạn chế, tạo tính răn đe và chủ yếu đánh giá mức độ vi phạm, hậu quả với NĐT để xử lý. Bên cạnh những thông tin chính thống vẫn còn có những thông tin không được công bố chính thức làm các nhà đầu tư hoang mang. Nguyên nhân: Doanh nghiệp không thực sự hiểu rõ tầm quan trọng của việc quan hệ với nhà đầu tư. Nhà đầu tư bị “xói mòn thông tin” Quan hệ Doanh nghiệp- Nhà đầu tư lỏng lẻo: Thiếu trách nhiệm từ Doanh nghiệp và vô tâm về quyền lợi của mình của các nhà đầu tư. Giải pháp hoàn thiện công bố thông tin trên TTCK Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam: Định hướng phát triển thị trường trái phiếu Định nghĩa thị trường trái phiếu: Thị trường trái phiếu là một bộ phận của thị trường tài chính, đây là nơi diễn ra hoạt động mua bán, trao đổi các công cụ nợ dài hạn, bao gồm trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu doanh nghiệp. Thị trường trái phiếu thường cóquy mô rất lớn, song hàng hóa trên thị trường này thay đổi liên tục: trái phiếu mới phát hành sẽ thay thế cho trái phiếu đáo hạn, và quá trình đó diễn ra không ngừng. Đối tượng tham gia thị trường trái phiếu rất đa dạng, bao gồm Chính phủ, các trung gian tài chính, các doanh nghiệp sản xuất-thương mại-dịch vụ, và các cá nhân. Vai trò thị trường trái phiếu: Đây là một kênh huy động vốn dài hạn rất tiềm năng, có thể huy động từ nhiều đối tượng khác nhau (quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, các tập đoàn tài chính, ...). Do vậy, doanh nghiệp sẽ chủ động hơn trong việc quản trị tài chính, bằng cách thực hiện việc mua đi bán lại trái phiếu của chính mình trên thị trường thứ cấp. Và đây cũng là kênh huy động mang lại nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp: khi phát hành trái phiếu, tổ chức phát hành có thể áp dụng các loại lãi suẩt linh hoạt, thậm chí thấp hơn lãi suất cho vay của Ngân hàng thương mại (do bớt đi được chi phí trung gian) và khi trả lãi, doanh nghiệp cũng có thể áp dụng nhiều cách trả lãi khác nhau sao cho phù hợp với đặc điểm dòng tiền của dự án (thông qua việc lựa chọn phát hành các loại trái phiếu khác nhau). Tóm lại, thị trường trái phiếu có khả năng huy động được nguồn lực đáng kể cho nền kinh tế. Thực trạng thị trường trái phiếu Việt Nam: Hiện tại các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa chú ý và cũng không có nhiều kinh nghiệm trong việc thu hút vốn qua kênh trái phiếu này. Thị trường trái phiếu Việt Nam chưa phát triển, lượng vốn huy động chưa tương xứng với tiềm năng vốn có, giao dịch trái phiếu thiếu sôi động, thậm chí thị trường có lúc gần như "đóng băng", tính thanh khoản của trái phiếu còn thấp, chi phí vốn cao. Những hạn chế này cản trở rất lớn đến hoạt động phát hành trái phiếu của Chính phủ, cũng như của các doanh nghiệp. Thị trường trái phiếu Việt Nam thiếu vắng sự xuất hiện của các nhà tạo lập thị trường trái phiếu-các nhà đầu tư có tổ chức luôn nắm giữ một lượng trái phiếu đủ lớn và sẵn sàng mua bán, môi giới để tạo tính thanh khoản cho thị trường. Định hướng phát triển thị trường trái phiếu VN: Bộ Tài Chính, Ngân hàng Nhà Nước, và các cơ quan như Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính nên xem xét việc thành lập, quản lý và điều hành công ty định mức tín nhiệm bởi hoạt động định mức tín nhiệm rất cần thiết cho thị trường trái phiếu, đặc biệt là thị trường thứ cấp (định mức tín nhiệm là cơ sở để trái phiếu Việt Nam thu hút các nhà đầu tư nước ngoài). Trung tâm giao dịch chứng khoán nên tham khảo ý kiến của các nhà làm luật và các tổ chức tham gia thị trường chứng khoán để thành lập một sàn giao dịch trái phiêú giữa các nhà môi giới. Sàn giao dịch trái phiếu này phải tạo được môi trường giao dịch có hiệu quả cho các nhà tạo lập thị trường, vì trái phiếu không thể áp dụng một phương thức giao dịch giống như giao dịch cổ phiếu. Bộ tài chính và Ngân hàng Nhà nước cần phải cụ thể hoá các tiêu chuẩn phê duyệt phát hành trái phiếu công ty, trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu của các tổ chức tín dụng. Trong thời gian tới sẽ nâng cao tỷ trọng trái phiếu trên GDP, gắn việc phát hành trái phiếu với phát triển thị trường chứng khoán, tăng cường khả năng quản lý, giám sát để thị trường hoạt động an toàn, có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu hội nhập của khu vực và quốc tế. Định hướng phát triển thị trường giao dịch cổ phiếu chưa niêm yết: Thị trường chứng khoán tự do (OTC) hình thành tự phát và đi vào "vận hành" trước cả thị trường chính thức. Tuy vậy, đến tận thời điểm này, Bộ tài chính mới bắt tay xây dựng một văn bản pháp lý dưới dạng Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ để tăng cường quản lý thị trường OTC. Bộ tài chính cũng đang triển khai xây dựng Đề án Quản lý giao dịch trên thị trường OTC theo hướng tất cả các loại cổ phiếu muốn mua bán đều phải qua Trung tâm lưu ký. Cách tốt nhất để quản lý thị trường OTC là mở rộng thị trường chứng khoán có tổ chức, thu hẹp thị trường tự do, trọng tâm là khẩn trương quản lý các công ty đại chúng và việc chào bán chứng khoán ra công chúng, yêu cầu các công ty cổ phần đáp ứng tiêu chuẩn công ty đại chúng, đăng ký ngay hồ sơ công ty đại chúng làm cơ sở đê quản lý các doanh nghiệp này theo quy định của pháp luật về chứng khoán. (Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội theo mô hình thị trường phi tập trung: Việc này có ý nghĩa rất quan trọng đối với sàn Hà Nội bởi nó mang đến ý kiến xác định được mô hình chuẩn và hiệu quả, làm cơ sở cho Trung tâm phát triển bền vững lâu dài và chắc chắn theo đúng lộ trình đến năm 2010 như định hướng của Chính phủ thành thị trường OTC hiện đại Các nhà chức trách cũng nên xem xét kỹ lưỡng về phương thức giao dịch (biên độ dao động giá, giá tham chiếu, ...) Tóm lại, để phát triển thị trường giao dịch cổ phiếu chưa niêm yết, các nhà làm luật cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống văn bản luật và ban hành những hướng dẫn và quản lý , giám sát hoạt động giao dịch chứng khoán chưa niêm yết tại công ty chứng khoán, và đặc biệt, phải có sự thống nhất giữa các nhà khoa học, các nhà quản lý, các cấp lãnh đạo. Định hướng phát triển thị trường cổ phiếu niêm yết: Hoàn thiện khung pháp lý và chính sách đảm bảo Nhà nước thống nhất quản lý việc phát hành chứng khoán ra công chúng và quản lý các công ty đại chúng, áp dụng quy định quản trị công ty đối với các công ty đại chúng. Phát triển thị trường giao dịch chứng khoán: chuyển Trung tâm Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh thành Sở giao dịch chứng khoán, thực hiện việc niêm yết và giao dịch cổ phiếu cho các công ty lớn. Phát triển các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán: Ban hành các quy định để tạo cơ sở pháp lý cho các công ty chứng khoán tái cơ cấu theo hướng tăng quy mô vốn, phát triển nguồn nhân lực, mở rộng phạm vi và mạng lưới cung cấp dịch vụ, tăng cường áp dụng công nghệ thông tin trong cung cấp dịch vụ chứng khoán. Xây dựng và thực hiện kế hoạch gắn kết cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước với việc niêm yết trên thị trường chứng khoán, chuyển đổi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty cổ phần và niêm yết trên thị trường chứgn khoán, bán bớt cổ phần Nhà nước không cần nắm giữ tại các công ty niêm yết theo Danh mục lĩnh vực, ngành nghề Chính phủ quy định. Điều hoà IPO đảm bảo mục tiêu thực hiện chủ trương kế hoạch cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, đồng thời cân đối cung cầu theo tình hình thị trường tại từng thời điểm. Chưa đánh thuế thu nhập từ đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân trong năm 2008. Giải pháp hoàn thiện việc công bố thông tin trên thị trương chứng khoán: Quản lý vĩ mô: Quản lý Nhà nước Để TTCK Việt Nam phát triển lành mạnh, các thông tin được minh bạch hóa trước khi đến tay nhà đầu tư thì rất cần sự quan tâm của nhà nước mà trước nhất là UBCK nhà nước . Đầu tiên phải tăng cường kiểm tra, giám sát, quản lý chặt chẽ việc cung cấp thông tin từ các công ty chứng khoán, các công ty tham gia niêm yết và từ các phương tiện thông tin đại chúng. Nếu phát hiện tổ chức nào đưa thông tin sai lệch ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư cũng như tâm lý của các nhà đầu tư làm thị trường khủng hoảng hoặc kém minh bạch thì UBCK nhà nước phải kiên quyết xử lý với biện pháp mạnh. UBCK nhà nước nên tổ chức lực lượng thanh tra với số lượng lớn và có chất lượng để giải quết công việc hiệu quả hơn khi mà quy mô của thị trường đang phát triển khá nhanh. Hơn thế nữa các chế tài xử phạt cần phải phù hợp với thực tiễn, phải đủ mạnh để răn đe đối với những đối tượng có hành vi vi phạm giao dich trên thị trường. Về phía UBCK nhà nước trước mắt cơ quan này nên đưa ra các khuyến cáo cho các công ty ,sau này khi thị trường phát triển hơn thì các công ty chứng khoán cần có chứng chỉ bảo đảm an ninh mạng. Các cấp quản lý cần có thêm những chế tài về vấn đề công bố thông tin và bảo mật thông tin. Cải thiện thông tin, minh bạch hoá thị trường Nghị định số 36/2007/NĐ-CP ngày 8/3/2007 quy định mức tiền phạt đối với hành vi cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật sẽ chịu mức phạt từ 20-50 triệu đồng. Tuy nhiên, trong thời gian qua TTCK nước ta đã trải qua không ít vụ việc mà thông tin vẫn còn chưa minh bạch theo đúng với nguyện vọng nhà đầu tư và quy định của pháp luật. Hơn nữa số tiền phạt còn thấp. Nhiều đại biểu là các nhà khoa học, nhà quản lý, nhà đầu tư trong lĩnh vực tài chính tại hội thảo đã đề xuất các giải pháp hoàn thiện khuôn khổ, pháp lý, thực hiện các cam kết WTO, tổ chức và điều hành TTCK theo chuẩn mực quốc tế, đảm bảo tính minh bạch, công khai của thị trường. Chúng ta cần phải học tập việc quản lý giám sát của các nước đi trước về TTCK và phải xây dựng một khung pháp lý chặt chẽ, thống nhất. Được biết, hệ thống thông tin của TTCK Mỹ được Uỷ ban Chứng khoán (UBCK) Mỹ quản lý, giám sát dựa trên một bộ khung pháp luật công bằng, nghiêm minh và minh bạch. Yếu tố quản lý chuyên nghiệp và kiểm soát thông tin chặt chẽ đã giúp TTCK Mỹ (tuy ra đời sau một số TTCK ở châu Âu) vươn lên ở vị trí dẫn đầu. Một điều rất đáng quan tâm ở thị trường này đó là sự xuất hiện của các công ty bảo vệ người đầu tư. Những công ty này có khả năng giúp nhà đầu tư có sức mạnh chống lại các hành vi công bố thông tin sai trái, thông tin không trung thực làm ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà đầu tư. Ngay cạnh chúng ta, TTCK Trung Quốc cũng đi theo mô hình của TTCK Mỹ với việc thành lập UBCK Nhà nước Trung Quốc (năm 1992) nhằm thẩm tra tính chính xác và minh bạch đối với những thông tin được công bố chính thức trên TTCK. Hiện nay TTCK Trung Quốc cũng đã trở thành một thị trường có uy tín và sức mạnh ở quy mô toàn cầu. Nâng cấp cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin: Hoàn thiện nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin tại Sở giao dịch chứng khoán, TTGDCK để thực hiện giao dịch từ xa, đưa màn hình nhập lệnh về các công ty  chứng khoán. Tích cực triển khai thực hiện dự án hiện đại hóa công nghệ thông tin ngành chứng khoán, tiến tới tự động hóa toàn bộ các hoạt động giao dịch, thanh toán, công bố thông tin, giám sát thị trường theo các chuẩn mực quốc tế. Các hoạt động nâng cấp công nghệ thông tin tại các Sở giao dịch chứng khoán, TTGDCK, TTLKCK phải gắn kết với nâng cấp công nghệ thông tin tại các công ty chứng khoán, thành viên lưu ký. Vi mô Phát triển hoàn thiện công tác IR ở thị trường Việt Nam: Cung cấp những thông tin tài chính, kinh doanh và những báo cáo đánh giá,  phân tích một cách trung thực, khách quan và chi tiết. Tiếp nhận và phản hồi thắc mắc từ phía nhà đầu tư. Hình thức giúp nhà đầu tư đến gần với doanh nghiệp hơn. Việc tổ chức buổi giao lưu trực tiếp với nhà đầu tư cần mang tính định kỳ, và với những sự kiện mang tính trọng đại như thay đổi mô hình chiến lược, mở rộng phát triển kinh doanh sẽ phải tổ chức một cách rộng rãi trên các phương tiện thông tin. Hoàn thiện công tác xây dựng website của các doanh nghiệp để có thể cung cấp thông tin một cách cụ thể và cập nhật hàng ngày cho nhà đầu tư. Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM và Báo Đầu tư Chứng khoán của cơ quan Báo Đầu tư đã chính thức phát động Cuộc bình chọn "Báo cáo thường niên “ vừa qua nhằm khuyến khích các DN nâng cao chất lượng báo cáo thường niên, qua đó tăng cường khả năng tiếp cận của nhà đầu tư đối với DN niêm yết. Cuộc bình chọn “Báo cáo thường niên” dự kiến được tổ chức hàng năm. So với các nước trên thế giới, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam ra đời muộn, nhưng đã có sự tăng trưởng vượt bậc. Số doanh nghiệp (DN) tham gia niêm yết ngày một tăng theo tốc độ gia tăng của TTCK. Tính đến nay, Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM (HOSE) đã thu hút 150 DN niêm yết. Số DN niêm yết tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HASTC) cũng lên tới 130 đơn vị. Chứng khoán phát triển đã nhanh chóng thu hút nhiều nhà đầu tư tham gia, tạo điều kiện thuận lợi cho các DN huy động vốn qua thị trường. Tuy nhiên, có một thực trạng đang được nhiều người quan tâm hiện nay là thông tin đưa ra từ các DN còn hạn chế và thiếu tính chuyên nghiệp. Trong khi đây lại là yếu tố quan trọng rất cần thiết đối với nhà đầu tư để giúp họ nắm được tình hình hoạt động, cũng như chiến lược phát triển của DN - nơi nhà đầu tư muốn gửi vốn. Để đạt được những kết quả tốt, hơn bao giờ hết, sự minh bạch hóa của các công ty niêm yết qua báo cáo thường niên là rất cần thiết, trở thành cầu nối quan trọng giữa nhà đầu tư và DN. Báo cáo thường niên không chỉ giúp các DN chuyển tải những điểm nhấn trong kết quả hoạt động kinh doanh, tình hình tài chính, quản trị, thông điệp về chiến lược phát triển, mà còn góp phần để xây dựng hình ảnh, phát triển niềm tin, cũng như giá trị của công ty trên TTCK. Cuộc bình chọn báo cáo thường niên nhằm mục đích thúc đẩy khả năng sáng tạo và trình bày toàn diện trong việc cung cấp thông tin qua các báo cáo thường niên của DN. Qua đó, tăng cường khả năng tiếp cận của nhà đầu tư đối với DN, khuyến khích DN không ngừng nâng cao xây dựng hình ảnh qua một báo cáo thường niên chuyên nghiệp và hiệu quả cao. Vì vậy, mục tiêu của Cuộc bình chọn là bình chọn các DN có sự thể hiện báo cáo thường niên chuyên nghiệp, minh bạch, đáp ứng các chuẩn mực và cung cấp đầy đủ thông tin nhất cho các nhà đầu tư. Hội đồng tuyển chọn sẽ xét duyệt dựa trên những thông tin cơ bản được Quy định tại Mẫu báo cáo thường niên ban hành kèm theo Thông tư 38/2007/TT-BTC ngày 14/4/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn về việc công bố thông tin trên TTCK. Theo quy định, đối với một báo cáo thường niên, các DN phải chịu trách nhiệm về những thông tin mình đưa ra. Phải tăng cường tính công khai minh bạch và chất lượng quản trị công ty Thực hiện nghiêm Quy chế quản trị công ty áp dụng với các công ty niêm yết, công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ đầu tư. Áp dụng các chuẩn mực quốc tế và khuyến cáo của tổ chức quốc tế IOSCO trên cơ sở một hệ thống kế toán. Cải cách thủ tục hành chính trong xét duyệt hồ sơ phát hành, cấp phép niêm yết, cấp phép thành lập  và hoạt động của các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư chứng khoán; minh bạch hoạt động quản lý, giám sát thị trường  của cơ quan quản lý. Đầu tư giải pháp công nghệ trong đầu tư chứng khoán: Vấn đề được nhắc đến nhiều nhất hiện nay tại các công ty chứng khoán bên cạnh vốn, nguồn nhân lực chính là hạ tầng công nghệ. Đặc biệt là trong bối cảnh UBCKNN đang tập trung đầu tư công nghệ cho hệ thống giám sát giao dịch và công bố thông tin trên hai sàn giao dịch . Chính vì thế, phía các công ty chứng khoán thành viên cũng đầu tư công nghệ nhằm giúp cho nhà đầu tư nắm bắt được thông tin, giao dịch thuận tiện. Hiện nay, hầu hết các công ty chứng khoán tìm kiếm các phần mềm nhập ngoại - những phần mềm đã được sử dụng tại nhiều nước có thị trường chứng khoán phát triển mạnh như Anh, Úc, Mỹ, Hàn Quốc, Hồng Kông. Tuy nhiên, vấn đề không phải là đầu tư vào phần mềm là đủ, mà kèm theo đó là đội ngũ nhân sự vận hành nó và khách hàng có thực sự quen thuộc với các phần mềm ngoại nhập đó. Vì vậy, nhiều công ty lại rất quan tâm đến vấn đề này và có lẽ đã tự chọn cho mình một giải pháp công nghệ phù hợp cho mục tiêu phát triển của mình. 3. Kiến nghị: Do tính chất "cực kì nhạy cảm" với thông tin này của TTCK mà một trong những vấn đề rất trọng tâm trong thời gian tới là đẩy mạnh công tác giám sát. Trước đây, chúng ta tập trung phát triển thị trường theo hướng tập trung về số lượng, nhưng nay khi quy mô đã được mở rộng, TTCK VN sẽ tập trung phát triển về chất, một mặt nhằm loại bỏ các khiếm khuyết do sự tăng trưởng nóng để lại, mặt khác tạo sự phát triển bền vững cho thị trường. Thị trường Chứng khoán VN hiện nay cần một hệ thống thông tin minh bạch. Thị trường tồn tại vô số thông tin, sự xen lẫn giữa chính thống và không chính thống làm cho việc xác định của nhà đầu tư trở nên khó khăn hơn. Làm sao nhận biết được những thông tin ngoài luồng, để có thể đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn luôn là câu hỏi thường trực!! Trước hết, cần chuyên nghiệp hoá quá trình quản lý bằng cách hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật cho việc công bố thông tin, đưa ra các mức phạt nặng đối với các trường hợp vi phạm. Để thực hiện điều này, Ủy ban đang tập trung đầu tư nâng cao kiến thức chuyên môn, thu hút cán bộ có năng lực, trình độ. Nhưng bản thân nhà đầu tư cũng phải quan tâm đến việc nâng cao trình độ của mình và nhất là “không thờ ơ” với lợi ích của mình (ví dụ trong việc bắt các công ty thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công bố thông tin cũng như chiến lược kinh doanh). Tiếp đó, chúng ta nên học tập mô hình tiên tiến của các thị trường nước ngoài: thành lập các công ty chuyên biệt về thu thập và xác minh thông tin. Với sự tồn tại của những công ty này, hệ thống thông tin trên thị trường sẽ trở nên rõ ràng, minh bạch hơn, các nhà đầu tư sẽ có thêm rất nhiều thuận lợi để đưa ra các quyết định đúng đắn. Đặc biệt đối với thị trường mới như TTCK Việt Nam, hệ thống thông tin minh bạch sẽ giúp các nhà đầu tư nhỏ lẻ, thiếu chuyên nghiệp (chiếm số đông trong thị trường) hạn chế bớt rủi ro. Năm 2008, Chính phủ đề ra kế hoạch tăng trưởng kinh tế 9% và mong rằng TTCK sẽ góp sức vào mục tiêu đó. Lời kết TTCK vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro mà một trong những nguyên nhân chính đó là sự yếu và thiếu trong công tác công bố và xử lý thông tin. Thực tế này không những làm đau đầu các nhà quản lý mà còn làm đau đầu các nhà đầu tư khi là những người trực tiếp tham gia và đón nhận những thay đổi của thị trường. Hoạch định các chính sách hay xây dựng khung pháp lý là việc mà Chính phủ và nhà nước chúng ta đã làm, nhưng về bản thân các nhà đầu tư cũng cần chuẩn bị sẵn cho mình tâm lý và kiến thức để có thể đối phó với các biến động của thị trường một cách tốt nhất và có hiệu quả nhất. Trong phạm vi bài nghiên cứu này, chúng tôi không tham vọng kể ra được hết những vấn đề còn tồn tại trong công tác công bố thông tin trên thị trường chứng khoán cũng như đề xuất được giải pháp hoàn hảo nhất nhưng chúng tôi hi vọng đóng góp được một phần nhỏ trong sự phát triển chung của thị trường. Chúng tôi xin cám ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn, thạc sĩ Lê Trung Thành đã giúp chúng tôi hoàn thành tốt bài nghiên cứu khoa học này. Danh mục tài liệu tham khảo: Thị trường chứng khoán phân tích cơ bản - Tiến sĩ Trần Đăng Khâm Giáo trình phân tích và đầu tư chứng khoán- NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 2003-Thạc sĩ Lê Thị Mai Linh Phân tích và đầu tư chứng khoán- Học viện Tài chính- Chủ biên: PGSTS Nguyễn Văn Nam. Giáo trình thị trường chứng khoán-Nhà xuất bản Tài chính- Chủ biên: PGSTS Nguyễn Văn Nam, PGSTS Vương Trọng Nghĩa Báo đầu tư chứng khoán. Bộ kế hoạch và đầu tư. www. Saga.com www. Vietbao.com website của ủy ban chứng khoán nhà nước website của sở giao dịch Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh. www. Vietstock.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5981.doc
Tài liệu liên quan