Hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty sản xuất - Xuất nhập khẩu dệt may Vinateximex

Lời nói đầu Nhìn sâu hơn, hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty thực chất là việc chào hàng tới các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh nước ngoài, sau khi có được đơn đặt hàng và hợp đồng xuất nhập khẩu Công ty sẽ thu mua hoặc đặt cho các đơn vị nội bộ tổng Công ty thực hiện đơn hàng, mua định kỳ hoặc mua bất thường với các Công ty và doanh nghiệp trong và ngoài ngành. Trong tình hình hiện nay, các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đã thực sự đem lại lợi nhuận cao cho các Công ty, doanh nghiệp thì các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cũng phải cạnh tranh quyết liệt không chỉ là với các doanh nghiệp trong nước mà còn là các doanh nghiệp nước ngoài. Các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất trước kia nay đã tự mình tìm kiếm thị trường và xuất khẩu mặt hàng của mình. Trong khi hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty chỉ là mua sản phẩm của các Công ty, doanh nghiệp trong nước để bán lại cho các đối tác nước ngoài. Công ty sản xuất - xuất nhập khẩu dệt may được thành lập trên cơ sở hợp thống nhất công ty thuơng mại số 1 và công ty xuất nhập khẩu dệt may theo quyết định số 87/QD-HDQT của hội đồng quản trị tổng công ty dệt may VIÊT NAM ngày 21 –12 –2006 Tên giao dich quốc tế: THE GARMENT –TEXTILES IN PORT –EXPORRT AN PRODCTION CORPORRATION . Tên viết tắt: VINATEXIMEX Trụ sở công ty đặt tại: Số 20 đường Lĩnh Nam – quận Hoàng Mai – Tp. Hà Nội. Công ty được thành lập với chức năng là đơn vị sản xuất kinh doanh phụ thuộc của Tổng công ty Dệt may Việt Nam (hiện nay đổi thành Tập đoàn dệt may Việt Nam, gọi tắt là tập đoàn dệt may). Các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty chịu sự giám sát, chỉ đạo của tập đoàn theo chiến lược phát triển chung vào theo như các chỉ tiêu kế hoạch hàng năm mà công ty được giao. Trong điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty do hội đồng quản trị tập đoàn quy định, công ty có nhiệm vụ kinh doanh trong các ngành nghề lĩnh vực sau: - Công nghiệp dệt may: kinh doanh nguyên liệu, vật tư, thiết bị, phụ tùng, phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm và các sản phẩm cuối cùng của ngành dệt may; sản xuất kinh doanh hàng dệt may gồm các chủng loại xơ sợi vải, hàng may mặc dệt kim chỉ khâu, khăn bông len, thảm đay tơ, tơ tằm. Kinh doanh nguyên liệu bông xơ; kiểm nghiệm chất lượng bông xơ phục vụ cho sản xuất kinh doanh và nghiên cứu khoa học. - Xuất nhập khẩu: Hàng dệt may (gồm các chủng loại bông xơ, sợi, vải, hàng may mặc, dệt kim, chỉ khâu, khăn bông, len, thảm, đay tơ, tơ tằm, nguyên liệu), thiết bị phụ tùng ngành dệt may, phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm; Hàng công nghệ thực phẩm; Nông, lâm, hải sản; Thủ công mỹ nghệ; Ô tô, xe máy, các mặt hàng tiêu dùng khác; Trang thiết bị văn phòng; Thiết bị tạo mẫu thời trang; Phương tiện vận tải, vật liệu điện, điện tử, cao su. - Dịch vụ: Thi công, lắp đặt hệ thống điện dân dụng, công nghiệp phục vụ ngành dệt may; Thi công lắp đặt hệ thống điện lạnh; Tư vấn, thiết kế quy trình công nghệ, bố trí máy móc thiết bị cho ngành dệt may, da giầy; lắp đặt hệ thống điện công nghiệp, hệ thống cẩu, thang nâng hạ, thang máy; sản xuất kinh doanh sửa chữa lắp đặt cc sản phẩm cơ khí và máy móc thiết bị công nghiệp. Thực hiện các dịch vụ thương mại và công việc có tính chất công nghiệp dịch vụ đào tạo nghề may công nghiệp; Uỷ thác mua bán xăng dầu; kinh doanh kho vận, kho ngoại quan; Dịch vụ du lịch, khách sạn, nhà hàng, văn phòng, vận tải, du lịch lữ hành trong nước. PHẦN I GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY PHẦN II THỰC TRẠNG KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY Phần III Phương hướng phát triển, kế hoạch kinh doanh và giải pháp thực hiện

docx34 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1683 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty sản xuất - Xuất nhập khẩu dệt may Vinateximex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ty hoạt động với chức năng cung cấp các yếu tố sản xuất, phân phối sản phẩm và tư vấn xây lắp ngành dệt may. Giai đoạn 2001-2005 được coi là giai đoạn có sự chuyển biến quan trọng trong hoạt động kinh doanh của công ty. Theo chỉ đạo của tổng công ty, nhằm tranh thủ được những lợi ích đem lại trong việc Việt Nam tích cực tham gia ngày càng sâu các liên kết kinh tế khu vực,công ty đã được phép tiến hành các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Về sự phát triển của công ty xuất nhập khẩu dệt may Cũng trong chiến lược tận dụng nhũng lợi thế của quốc gia nói chung và nghành dệt may nói riêng, ngày 14 tháng 7 năm 2000 công ty xuất nhập khẩu dệt may đã được thành lập, tiền thân của nó là ban xuất nhập khẩu của tổng công ty. Như vậy công ty xuất nhập khẩu chỉ mơí chính thức thành lập được 5 năm (từ năm 2001-2005) nhưng sự phát triển của nó đã băt đầu từ nhũng năm trước đó khi còn là một phòng ban của tổng công ty . Tuy công ty được thành lập với cái tên xuất nhập khẩu dệt may nhưng nó cũng tiến hành các hoạt động kinh doanh nội địa, theo số liệu năm 2005 thì doanh thu từ các hoạt động kinh doanh nội địa chiếm tới 23,24% tổng doanh thu, đạt 104.28 tỷ. Có thể nói việc Tổng Công ty Dệt may quyết định thành lập công ty XNK dệt may hay quyết định cho phép công ty thương mại số 1 tham gia lĩnh vực dệt may xuất nhập khẩu là những quốc sách mang tính chiến lược, phù hợp với xu thế hợp tác kinh tế quốc tế, xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới như hiện nay. Doanh thu và kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty dịch vụ và thương mại số 1 tăng liên tục trong các năm 2001-2005. Riêng với công ty xuất nhập khẩu doanh thu và kim ngạch xuất nhập khẩu cũng tăng liên tục tăng trong các năm 2001-2004, nhưng đến năm 2005 cả doanh thu và kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty đều giảm so với năm 2004. Sự sụt giảm đó đánh giá là khó khăn chung tác động đến ngành dệt may như: - Việc WTO xoá bỏ hạn ngạch dệt may cho nước thành viên, đã tạo thuận lợi cho các cường quốc dệt may như Trung Quốc, Ấn Độ tăng nhanh lượng hàng xuất khẩu và khả năng cạnh tranh. - Chi phí đầu vào như xơ, sợi tổng hợp tăng và lên xuống thất thường do biến động của giá dầu thế giới, giá cả điện nước, chi phí vận chuyển tăng tăng làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may Việt Nam. - Hạn hán kéo dài tại khu vực miền Trung, phía Bắc thuỷ điện Hoà Bình thiếu nước phát điện làm cho nhiều doanh nghiệp dệt may bị cắt điện. - Giá cả các mặt hàng tiêu dùng tăng ảnh hưởng đến phần lớn bộ phận dân cư gây khó khăn trong tiêu thụ. - Năm 2005 các ngân hàng tiếp tục giảm hạn mức cho vay và đồng thời tăng lãi suất đối với doanh nghiệp dệt. Nhận định được những khó khăn trước mắt của ngành nói chung và của 2 công ty nói riêng, tổng công ty đã ra quyết định hợp nhất hai công ty thành công ty sản xuất - xuất nhập khẩu dệt may. Quyết định hợp nhất hai công ty cũng là để hai công ty có thể tận dụng được thế mạnh của nhau, khắc phục những tồn tại, cùng chung sức để thực hiện mục tiêu phát triển. Các kết quả kinh doanh của công ty năm 2006 được nêu trong phần thực trạng hoạt động của công ty sẽ minh chứng cho tầm nhìn chiến lược của quyết định đó. II. Mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh và tổ chức bộ máy quản trị. 1. Cơ cấu tổ chức sản xuất kinh doanh của công ty theo không gian hoạt động. Các đơn vị trực tiếp tham gia hoạt động kinh doanh của công ty gồm có: - Phòng xuất nhập khẩu vật tư - TTSX và kinh doanh chỉ - Phòng kinh doanh nội địa - Trung tâm thương mại dệt may - Phòng xuất nhập khẩu dệt may - Phòng phát triển dự án - Phòng xuất nhập khẩu tổng hợp - Trung tâm thiết kế mẫu - Văn phòng đại diện tại Tp. HCM - Văn phòng đại diện tại Tp. Hải Phòng. Những nét đáng chú ý về hoạt động các đơn vị kinh doanh của công ty có thể điểm qua như sau: * Phòng xuất nhập khẩu dệt may: Là phòng xuất khẩu chủ lực của công ty, chiếm 81,1% tổng kim ngạch xuất khẩu và luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch về cả doanh thu và xuất khẩu. Khăn bông là mặt hàng xuất khẩu chính của phòng nhưng luôn phải cạnh tranh quyết liệt với các công ty tư nhân. Mặt hàng dệt kim cũng được duy trì, mặc dù việc kinh doanh mặt hàng này cũng gặp không ít khó khăn về nguồn cung trong nước không ổn định , các yếu tố kỹ thuật, mẫu sản phẩm nhưng đến nay kim ngạch cũng đạt mức khá. Về xuất khảu sản phẩm may mặc vẫn còn nhiều khó khăn do tình hình cạnh tranh trên thị trường và khó khăn trong việc tìm nơi đặt sản xuất để kịp hàng theo hợp đồng xuất khẩu. * Phòng kinh doanh vật tư Là phòng có doanh thu cao nhất công ty, chiếm 32,58% tổng doanh thu. Các mặt hàng mà phòng kinh doanh là: bông, tơ sợi tổng hợp, hoá chất, thuốc nhuộm… trong đó bông là mặt hàng chủ lực của phòng. * Phòng kinh doanh tổng hợp Mặt hàng chủ lực của phòng được chia làm 3 nhóm: - Mặt hàng thiết bị và phụ tùng máy may đã cung cấp cho nhiều dự án trong và ngoài ngành và đã chiếm được thị phần lớn trên thị trường. - Mặt hàng quần áo bảo hộ lao động: mặt hàng này có chất lượng đảm bảo và với tinh thần phục vụ tốt đã được khách hàng tín nhiệm. Tính đến nay, phòng đã có hơn 60 khách hàng mua hàng trải dài khắp cả nước. - Mặt hàng công nghệ cao như điều hoà, thang máy, máy vi tính, máy phát điện,… đã dần tham gia vào các dự án của các ngành. * Phòng xúc tiến và phát triển dự án Đây là phòng được đánh giá cao về tinh thần làm việc, nhiều khi phòng còn phải làm việc ngoài giờ để giải quyết các sự vụ phát sinh trong quá trình đưa thiết bị vào phục vụ đúng tiến độ của dự án. Ngoài ra việc khai thác thêm một số mặt hàng khác cũng được phòng xúc tiến mạnh mẽ như vải địa kỹ thuật, một số thiết bị lẻ, xuất khẩu vải… * Trung tâm thương mại dệt may Trung tâm được công ty giao quyền chủ động về giá cả trong kinh doanh, công ty chủ chốt chi phí và hiệu quả. Các cán bộ trung tâm, đặc biệt là Giám đốc trung tâm rất chủ động, đã tìm được những khách hàng nghiêm túc như: Công ty dệt may Gia Định, Hợp tác xã dệt Duy Trinh… * Văn phòng đại diện Tp. HCM Cán bộ và nhân viên của văn phòng rất năng động, đã đem lại kết quả kinh doanh cao, nếu tính tỷ lệ doanh số trên đầu người thì đây là một trong hai đơn vị đạt cao nhất 10 tỷ/người/năm. 2. Cơ cấu bộ máy quản trị của công ty. Bộ máy quản trị của công ty được thiết lập theo sơ đồ sau: Sơ đồ bộ máy công ty Tổng giám đốc Phó TGĐ Văn phòng đại diện Tp. Hải Phòng Văn phòng đại diện Tp. HCM Phòng XNK dệt may Trung tâm SXKD chỉ Phòng tổ chức hành chính Phòng kinh doanh nội địa TT thương mại dệt may Phòng XNK vật tư Phòng XNK tổng hợp Trung tâm thiết kế mẫu Phòng phát triển dự án Phòng tài chính kế toán Phòng kế hoạch tổng hợp Phó TGĐ thường trực Phó TGĐ Phó TGĐ Theo sơ đồ bộ máy quản trị của công ty: cấp quản trị cao nhất là Tổng giám đốc, sau đó là các phó tổng giám đốc rồi đến trưởng các phòng, chi nhánh và trung tâm đại diện, cấp thấp nhất là nhân viên các phòng ban. Quan hệ giữa các cấp quản trị từ cấp cao nhất là tổng giám đốc tới các nhân viên các phòng ban đó là quan hệ chỉ đạo của cấp trên đối với cấp dưới. Nhân viên các phòng, trung tâm có nhiệm vụ báo cáo kết quả thực hiện và tham mưu cho người quản lý của phòng, trung tâm mình. Người quản lý của các phòng có nhiệm vụ báo cáo các kết quả và các hoạt động của phòng, trung tâm mình, tham mưu cho người quản lý trực tiếp của phòng ban mình là các phó giám đốc phụ trách hoặc tổng giám đốc đối với các phòng ban do Tổng giám đốc trực tiếp chỉ đạo. Về chức năng và nhiệm vụ của một số chức danh quan trọng trong bộ máy quản trị của công ty. - Tổng giám đốc do Tổng giám đốc Tổng công ty bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng và kỷ luật sau khi thông qua Hội đồng quản trị Tổng công ty. Tổng giám đốc công ty là đại diện pháp nhân, có quyền cao nhất trong công ty, chịu trách nhiệm trước tổng công ty và pháp luật về mọi hoạt động của đơn vị mình quản lý. * Tổng giám đốc công ty có nhiệm vụ và quyền hạn như sau: - Nhận vốn (kể cả công nợ), đất đai, tài nguyên và các nguồn lực khác do Tổng công ty giao để quản lý và sử dụng theo mục tiêu, nhiệm vụ được giao, sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn. Giao các nguồn lực đã nhận cho các đơn vị trực thuộc Công ty theo phương án đã được Tổng công ty duyệt. - Được quyền ký hợp đồng kinh tế, khiếu kiện hợp đồng theo uỷ quyền của Tổng giám đốc Tổng công ty đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty: nhượng bán, thuê và cho thuê tài sản thực hiện theo quy định tại Quy chế tài chính của Tổng công ty đối với đơn vị hạch toán phụ thuộc. - Được quyền ký hợp đồng vay vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty theo uỷ quyền của Tổng giám đốc Tổng công ty. - Trên cơ sở chiến lược phát triển của Tổng công ty, xây dựng chiến lược phát triển, kế hoạch dài hạn và hàng năm, dự án hợp tác và đầu tư với nước ngoài, dự án liên doanh của Công ty trình Tổng công ty phê duyệt. - Điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty và chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc Tổng công ty về kết quả kinh doanh của Công ty. - Ban hành Quy chế tiền lương, tiền thưởng, nội quy về khen thưởng, kỷ luật, Quy chế lao động áp dụng trong Công ty…, phù hợp với Quy chế tài chính của Tổng công ty đối với đơn vị hạch toán phụ thuộc và phù hợp với bộ Luật lao động. - Đề nghị Tổng giám đốc Tổng công ty bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật Phó Tổng giám đốc, Kế toán trưởng Công ty. - Bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng và kỷ luật các cán bộ chức danh thuộc quyền (Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng…, Trưởng và Phó các đơn vị trực thuộc Công ty). - Khen thưởng, kỷ luật, quyết định tuyển dụng, ký hợp đồng lao động, bố trí, điều động, cho thôi việc đối với lao động trong Công ty theo quy định của bộ Luật Lao động và theo định biên đã được Tổng giám đốc Tổng công ty phê duyệt. - Báo cáo với Tổng công ty và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, Báo cáo tài chính tổng hợp, Bảng cân đối tài sản của Công ty (theo pháp lệnh báo cáo, thống kê). - Chịu sự kiểm tra, giám sát của Tổng công ty và các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước đối với việc thực hiện nhiệm vụ điều hành của mình. - Chăm lo, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, điều kiện làm việc của người lao động theo quy định của bộ Luật lao động. - Được áp dụng các biện pháp vượt thẩm quyền của mình trong trường hợp khẩn cấp (thiên tai, địch hoạ…) và chịu trách nhiệm về những quyết định đó, đồng thời phải báo cáo ngay với Tổng công ty và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải quyết tiếp. - Được quyền thành lập, sáp nhập, giải thể các đơn vị trực thuộc Công ty theo yêu cầu, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Công ty trên cơ sở phê duyệt của Tổng công ty. - Thành lập các Hội đồng tư vấn về các lĩnh vực: giá, các dự án đầu tư, khen thưởng, kỷ luật… theo quy định hiện hành. - Cùng Chủ tịch Công đoàn xây dựng và ký kết Thoả ước lao động tập thể theo quy định của bộ Luật lao động và Luật công đoàn. * Phó tổng giám đốc: Có nhiệm vụ giúp Tổng giám đốc điều hành một hoặc một số lĩnh vực của công ty theo sự phân công của Tổng giám đốc công ty. Chịu trách nhiệm trước tổng giám đốc công ty và trước pháp luật về những công việc được giao. Phó tổng giám đốc công ty do Tổng giám đốc tổng công ty bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng và kỷ luật trên cơ sở đề nghị của tổng giám đốc công ty. * Kế toán trưởng: giúp tổng giám đốc công ty chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác tài chính, kế toán, thống kê của công ty có các quyền và nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Kế toán trưởng do tổng giám đốc tổng công ty bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng và kỷ luật theo đề nghị của tổng giám đốc công ty. * Trưởng các phòng chuyên môn, nghiệp vụ: có chức năng tham mưu, giúp việc cho tổng giám đốc trong quản lý và điều hành công việc theo như các kế hoạch đã đề ra. - Khi thay đổi tổng giám đốc công ty, tổng giám đốc mới có quyền và trách nhiệm đề xuất lên Tổng giám đốc tổng công ty việc bổ nhiệm lại chức danh phó tổng giám đốc công ty, kế toán trưởng công ty. Các chức danh thuộc thẩm quyền quyết định của tổng giám đốc cũ hết hiệu lực. Tổng giám đốc mới xây dựng phương án nhân sự để ra quyết định bổ nhiệm hoặc bổ nhiệm lại theo quy trình và thủ tục hiện hành. III. Những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật chủ yếu của công ty 1. Đặc điểm về sản phẩm và lĩnh vực kinh doanh của công ty Các hoạt động kinh doanh chủ yếu của công ty là kinh doanh thương mại và xuất nhập khẩu. Các hoạt động sản xuất và dịch vụ chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng doanh thu của công ty. Trong hoạt động xuất khẩu mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm khăn bông, dệt kim và các sản phẩm may. Hoạt động xuất khẩu của công ty cx phải chịu áp lực cạnh tranh rất lớn về giá với các doanh nghiệp tư nhân và với các cường quốc về dệt may như Ấn Độ, Trung Quốc. Về hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Các mặt hàng nhập khẩu gồm: thiết bị và máy dệt, may; nguyên vật liệu ngành dệt may và các ngành khác nhưng chủ yếu là nguyên liệu ngành dệt may như là bông, sợi, vải, thang máy và một số mặt hàng như máy vi tính, điện thoại, máy fax… Trong xu thế hội nhập hiện nay rất nhiều công ty trong nước đang và sẽ tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Vởy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty cũng đang phải cạnh tranh quyết liệt trên thị trường. Hoạt động kinh doanh nội địa của công ty vẫn chủ yếu là phục vụ, đáp ứng các công ty trong nội bộ Tổng công ty. - Về hoạt động sản xuất của công ty: Tận dụng máy móc, trang thiết bị và mặt bằng hiện có, công ty đã tổ chức cho xưởng sản xuất chỉ đi vào hoạt động, chỉ sản xuất ra một phần để phục vụ hoạt động thiết kế và sản xuất hàng mẫu của trung tâm thiết kế mốt, phần còn lại được bán ra thị trường. Hoạt động thiết kế mẫu còn nhiều khó khăn nhưng bước đầu đã đạt được những thành công, giúp công ty quảng bá được thương hiệu. 2. Đặc điểm về lao động. Tổng số CBCNV của Công ty hiện nay là 190 người trong đó có 9 người hợp đồng lao động ngắn hạn, 7 người hợp đồng vụ việc. Lao động nữ có 102 người chiếm tỷ lệ 54% trong tổng số lao động Lao động quản lý (từ tổ trưởng trở lên) có 33 người chiếm tỷ lệ 17,5% trong tổng số lao động. - Về trình độ: Lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ chiếm tỷ lệ khá cao (159 người, tỷ lệ 84% trong tổng số lao động). Lao động có trình độ PTTH trở xuống hầu hết đảm nhiệm các công việc có tính chất phục vụ như lái xe, bảo vệ, tạp vụ, nấu ăn, nhân viên giao nhận hàng hoá. Cụ thể: Lao động có trình độ trên đại học: 2 người, chiếm tỷ lệ 1,1% Lao động có trình độ Đại học: 142 người, chiếm tỷ lệ 75% Lao động có trình độ Cao đẳng: 7 người, chiếm tỷ lệ 3,7% Lao động có trình độ Trung cấp: 8 người, chiếm tỷ lệ 4,2% Lao động có trình độ PTTH trở xuống: 30 người, chiếm tỷ lệ 16% Nghiệp vụ kế toán có 34 người trong đó cán bộ quản lý có 4 người. Trong số này có 21 người đảm nhiệm công việc đúng ngành nghề. Nghiệp vụ quản trị kinh doanh có 41 người trong đó cán bộ quản lý có 7 người. Trong số này có 35 người đảm nhiệm công việc đúng ngành nghề. Nghiệp vụ ngoại thương có 24 người, trong đó có 5 cán bộ quản lý. Trong số này có 20 người đảm nhiệm công việc đúng ngành nghề. Nghiệp vụ ngoại ngữ có 10 người, trong đó 9 người làm nghiệp vụ ngoại thương. Các chuyên môn nghiệp vụ như luật, kỹ thuật cơ điện, vi tính, công nghệ Sợi, Dệt, May, thiết kế thời trang chiếm tỷ lệ thấp (12%) do đặc thù của Công ty là kinh doanh thương mại, xuất nhập khẩu. Các chuyên môn, nghiệp vụ khác (cơ khí, động lực, giao thông, sư phạm…) có 23 người chiếm tỷ lệ 12% trong tổng số lao động, hầu hết số lao động này đang đảm nhiệm công việc kinh doanh. Với chức năng nhiệm vụ chính của Công ty là kinh doanh thương mại, xuất nhập khẩu thì nhu cầu lao động có trình độ chuyên môn cao về ngoại thương và ngoại ngữ là rất lớn. Tuy nhiên, tỷ lệ lao động có chuyên môn về hai ngành này còn thấp so với yêu cầu. Hơn nữa, lao động có trình độ chuyên môn về hai ngành này lại phần lớn ở độ tuổi xấp xỉ 50 và trên 50. CBCNV được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ chiếm tỷ lệ lớn nhưng trình độ chưa cao, chỉ có khoảng 50% đáp ứng được yêu cầu của công việc. - Về độ tuổi: Dưới 35 tuổi: 70 người chiếm tỷ lệ 36,8% Từ 35 - 50 tuổi: 88 người chiếm tỷ lệ 46,2% Trên 50 tuổi: 32 người chiếm tỷ lệ 17% 3. Đặc điểm về trang thiết bị Vì hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu của công ty là kinh doanh xuất nhập khẩu và kinh doanh thương mại thế nên số vốn đầu tư cho trang thiết bị phục vụ cho kinh doanh là không lớn. Các phòng đều được trang bị đầy đủ các máy, thiết bị cần thiết để thực hiện chức năng của mình như máy fax, máy điện thoại, máy vi tính và mạng nội bộ, mạng internet, máy phôtô, máy in… Điểm đáng chú ý là số máy và thiết bị của xưởng sản xuất chỉ và trung tâm thiết kế mẫu mang tính đặc trưng là máy và trang thiết bị phục vụ sản xuất. Nhìn chung trang thiết bị của các phòng, trung tâm được trang bị đều đảm bảo và sẽ được thay thế, bổ sung khi yêu cầu của công việc đòi hỏi. 4. Đặc điểm về vốn và nguồn vốn - Về cơ cấu nguồn vốn của công ty gồm: + Vốn được Tổng công ty giao lần đầu + Vốn được tổng công ty bổ sung + Vốn vay ngân hàng + Vốn từ phân phối lợi nhuận được thực hiện theo quy chế tài chính của Tổng công ty đối với đơn vị hạch toán phụ thuộc. Theo báo cáo tài chính của công ty: trong 213.297.719.681đ tổng nguồn vốn, vốn chủ sử hữu chỉ là 37.420.931.490đ, tổng vốn vay là 175.876.788191đ .Như vậy nhu cầu về vốn kinh doanh của công ty là rất lớn. Với lượng vốn vay/vốn sở hữu cao và cộng với việc các ngân hàng tăng lãi suất đã làm giảm lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh của công ty. PHẦN II THỰC TRẠNG KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY I. Thực trạng hoạt động của Công ty ở một số lĩnh vực chủ yếu 1. Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu Để có được đánh giá về tình hình hoạt động xuất khẩu của Công ty, chúng ta hãy điểm qua các con số được tổng hợp từ báo cáo của các công ty. Số liệu được tổng hợp trong bảng 1. Đơn vị tính: triệu USD Tên công ty Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Công ty DVTM số 1 0,128 0,518 2,189 1,335 3,006 Công ty XNK dệt may 6,36 5,48 7,256 7,935 6,838 Công ty SX-XNK dệt may 13 Các số liệu bảng 1 cho thấy tình hình xuất khẩu của 2 đơn vị trước khi hợp nhất có sự biến động lớn, không theo chiều hướng tăng trưởng qua các năm. Như hoạt động công ty dịch vụ thương mại số 1 thì năm 2002 và năm 2003 đều đạt mức tăng trưởn, sang năm 2004 kim ngạch xuất khẩu chỉ còn 1.335 triệu USD, tăng trưởng -60,97%; Năm 2005 Công ty đạt mức tăng trưởng 225,17%. Công ty xuất nhập khẩu cũng có sự biến động bất thường như vậy. Sự biến động về phần trăm mức tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty là không quá cao như công ty thương mại số 1 nhưng do quy mô xuất khẩu nên sự biến động tuyệt đối giữa các năm cũng đến một, hai triệu USD. Sở dĩ có sự biến động lớn như vậy là do: Từ năm 2001 đến nay tình hình kinh doanh có chiều hướng diễn biến phức tạp, quá trình toàn cầu hoá, hội nhập ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu mở ra các cơ hội hợp tác mới nhưng các hình thức cũng đan xen tồn tại. Đối với ngành dệt may, thị trường có nhiều biến động: năm 2001 giá nguyên liệu bông xơ giảm, năm 2003 giá bông tăng quá nhanh (tăng 33% so với năm 2002), năm 2004 trong khi giá bông giảm mạnh thì giá nguyên liệu xơ bông lại tăng cao. Năm 2005 với những khó khăn: sự gia tăng cạnh tranh của các cường quốc dệt may như Trung Quốc, Ấn Độ khi được WTO xoá bỏ hạn ngạch dệt may; chi phí đầu vào như xơ, sợi, bông vẫn tăng giảm thất thường, hạn hán làm giảm nguyên liệu, thiếu điện sản xuất và những khó khăn về vốn do các ngân hàng giảm mức cho vay và tăng lãi suất đối với ngành dệt may. Nhìn sâu hơn, hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty thực chất là việc chào hàng tới các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh nước ngoài, sau khi có được đơn đặt hàng và hợp đồng xuất nhập khẩu Công ty sẽ thu mua hoặc đặt cho các đơn vị nội bộ tổng Công ty thực hiện đơn hàng, mua định kỳ hoặc mua bất thường với các Công ty và doanh nghiệp trong và ngoài ngành. Trong tình hình hiện nay, các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đã thực sự đem lại lợi nhuận cao cho các Công ty, doanh nghiệp thì các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cũng phải cạnh tranh quyết liệt không chỉ là với các doanh nghiệp trong nước mà còn là các doanh nghiệp nước ngoài. Các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất trước kia nay đã tự mình tìm kiếm thị trường và xuất khẩu mặt hàng của mình. Trong khi hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty chỉ là mua sản phẩm của các Công ty, doanh nghiệp trong nước để bán lại cho các đối tác nước ngoài. Do vậy các mặt hàng của Công ty thường có mức chi phí cao hơn, dẫn đến giảm tính cạnh tranh về giá . Năm 2006 tình hình thị trường có nhiều biến động: giá dầu tăng giảm khó lường, nguy cơ chiến tranh ở một số nước và khu vực, bão lũ, thiên tai xảy ra ở nhiều nước. Những điều đó đã gây ra sự lo ngại cho các nhà đầu tư, kinh doanh, giá các nguồn nguyên liệu, phụ liệu cũng tăng theo dẫn đến chi phí sản xuất tăng. Trước những khó khăn như vậy, công tác xuất khẩu đã được Công ty quan tâm chú trọng. Kim ngạch xuất khẩu năm 2006 đạt 13.000.000USD bằng 100% kế hạch đề ra. Để đạt được kết quả đó, Công ty đã cố gắng khai thác tốt thị trường truyền thống, mặt hàng truyền thống và tăng cường công tác xúc tiến xuất khẩu tại các thị trường tiềm năng như: Đông âu, EU, Thai Lan. Lãnh đạo Công ty đã xác định chiến lược kinh doanh đó là tăng cường đẩy mạnh kinh doanh các đơn hàng xuất trực tiếp (FOB) để nâng cao hiệu quả kinh doanh và xây dựng thương hiệu Công ty. Thông qua các chương trình xúc tiến xuất khẩu, công ty đã ký được nhiều đơn hàng xuất FOB, từng bước chuyển hướng kinh doanh từ gia công sang mua bán đứt đoạn. Công ty đã thành lập bộ phận kinh doanh chuyên thực hiện các đơn hàng xuất FOB, xây dựng và củng cố đội ngũ bán hàng chuyên sâu, đủ khả năng từ đàm phán đến ký kết và tính toán giá từng chủng loại sản phẩm đáp ứng nhanh yêu cầu của khách hàng. Ngoài các mặt hàng dệt may, các mặt hàng khác như cà phê, hàng thủ công mỹ nghệ…cũng được Công ty quan tâm chú trọng để tăng kim ngạch xuất khẩu và cân đối ngoại tệ cho nhập khẩu. 2. Thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu Hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty trong 3 năm 2004-2006 đã đạt được những kết quả theo số liệu tổng hợp từ các báo cáo của các công ty trong bảng số 2. Bảng 2: Kết quả kinh doanh nhập khẩu Đơn vị: triệu USD Tên Công ty Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Công ty DV-TM số 1 7,448 7,716 Công ty XNK dệt may 27,878289 13,56 Công ty SX-XNK dệt may 21,658 Các kết quả thống kê trong bảng 2 cũng cho thấy sự biến động phức tạp trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của các công ty. Cùng trong năm 2005, Công ty dịch vụ thương mại số 1 đạt được mức tăng trưởng 3,6% trong khi công ty xuất nhập khẩu dệt may phải chịu sự khủng hoảng trong hoạt động nhập khẩu với mức tăng trưởng âm 48,64. Sau khi hợp nhất, năm 2006 công ty đã đạt kim ngạch nhập khẩu là 21,658 triệu USD, tăng 1,79% so với kim ngạch nhập khẩu của hai đơn vị trước khi hợp nhất nhưng vẫn đạt mức thấp so với kế hoạch đề ra. Nếu xét về cơ cấu các mặt hàng kinh doanh nhập khẩu của công ty, ta có thể thấy rõ hơn sự biến động bất lợi đó. Các mặt hàng kinh doanh nhập khẩu chủ lực của công ty là nguyên phụ liệu ngành dệt may, bên cạnh đó là các thiết bị và máy ngành dệt may, kể đến là các mặt hàng hoá chất, một vài loại vật liệu như Cu, Fe, mặt hàng công nghiệp (thang máy), mặt hàng công nghệ cao như máy vi tính, máy in công nghiệp,máy điều hoà…Và xét trong môi trường kinh doanh chung của ngành thì hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty cũng gặp phải những khó khăn chung như hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Giá xăng dầu tăng cao, tình hình chính trị ở một số quốc gia và khu vực biến động theo chiều hướng thiên tai tự nhiên: bão lũ, động đất, cháy rừng…ảnh hưởng lớn tới sản xuất. Những bất lợi đó đã đưa đến sản lượng bông thu hoạch giảm mạnh. Giá bông, sợi, vải tăng cao. Do vậy, việc tìm được nguồn cung với mức giá và sản lượng ổn định là rất khó. Việc giá nguyên phụ liệu ngành dệt may đột ngột tăng cao (tăng 30%) trong thời gian gần đây đã dẫn đến các doanh nghiệp, Công ty trong ngành cắt giảm sản lượng. Và theo đó khối lượng nhập khẩu loại mặt hàng này cũng giảm đáng kể so với kế hoạch. Kim ngạch nhập khẩu của Công ty năm 2006 đạt 21.658.000 USD chỉ bằng 90,24% so với 24 triệu USD của kế hoạch năm. Sự tụt giảm kim ngạch xuất khẩu một phần còn là do trong một vài năm trở lại đây thị trường thiết bị và máy ngành dệt may đã bão hoà, các mặt hàng công nghiệp và công nghệ cao của Công ty mới chỉ bắt đầu tham gia vào một số dự án. Tuy không đạt được kết quả theo như kế hoạch đề ra nhưng hoạt động kinh doanh nhập khẩu vẫn giữ vị trí dẫn đầu về doanh thu và lợi nhuận trong Công ty. 3. Thực trạng hoạt động sản xuất và kinh doanh nội địa của Công ty. Hoạt động sản xuất kinh doanh nội địa của công ty được đề cập đây chỉ bao gồm hoạt động kinh doanh sản xuất và kinh doanh thương mại, dịch vụ của công ty với các doanh nghiệp trong nước. Do không có đủ các số liệu về giá bán các mặt hàng nhập khẩu, doanh thu từ hoạt động nhập khẩu của công ty, nên không có được số liệu chính xác về doanh thu và lợi nhuận của công ty từ hoạt động kinh doanh nội địa qua các năm. Nhưng chúng ta cũng có được một vài số liệu quan trọng để đánh giá về mảng hoạt động kinh doanh này của công ty. Theo báo cáo cơ cấu kinh doanh của công ty thương mại số 1 năm 2005, doanh thu kinh doanh nội địa của công ty năm 2005 là 104.28 tỷ VNĐ, tăng 104.38 % so với năm 2004. Như vậy doanh thu kinh doanh nội địa của công ty này năm 2004 là 99,904 tỷ VNĐ. Theo số liệu tổng hợp, tổng doanh thu và dịch vụ nội địa của hai công ty trong năm 2005 là 624.968 tỷ VNĐ sang năm 2006 đạt 624 tỷ VNĐ. Như vậy doanh thu cộng gộp cả doanh thu kinh doanh nội địa và kinh doanh nhập khẩu năm 2006 giảm 968 triệu VNĐ. Trong khi tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2006 tăng từ 21.276.000 USD lên 21.658 USD. Vì công ty chủ yếu nhập khẩu theo đơn đặt hàng trước, thế nên kim ngạch nhập khẩu tăng thì ta có thể kết luận doanh thu từ kinh doanh nhập khẩu không giảm. Do vậy chúng ta có thể kết luận rằng doanh thu từ hoạt động kinh doanh nội địa năm 2006 đã giảm. Từ việc phân tích trên ta có thể thấy rằng hoạt động kinh doanh nội địa của công ty cũng chịu sự tác động mạnh do môi trường kinh doanh biến động phức tạp trong mấy năm qua Như đã nêu ở phần trước, hoạt động sản xuất của Công ty chỉ đóng góp một phần rất nhỏ trong kết quả kinh doanh chung của Công ty. Hoạt động sản xuất của Công ty được giao cho hai đơn vị đảm rnhiệm là xưởng sản xuất - kinh doanh chỉ và trung tâm thiết kế mẫu. Có thể nói hoạt động của xưởng sản xuất chỉ còn lại là hoạt động phụ trợ cho công việc thiết kế và sản xuất hàng mẫu của trung tâm thiết kế mẫu. Tận dụng máy móc thiết bị và mặt bằng hiện có, Công ty đã cho lắp đặt hai hệ thống dây chuyền máy may cho trung tâm thiết kế mẫu. Với các trang thiết bị và hai dây chuyền may này, trung tâm có nhiệm vụ thiết kế mẫu, may hàng mẫu để giới thiệu ra thị trường và may theo các đơn đặt hàng với số lượng nhỏ. Hoạt động thiết kế mẫu của trung tâm mới chỉ thực sự triển khai thực hiện từ đầu năm 2005. Do đó, kinh nghiệm trong lĩnh vực này còn ít, chưa có được nhiều cán bộ chuyên nghiệp về thiết kế mẫu, hơn nữa trong lĩnh vực thiết kế mẫu luôn có sự cạnh tranh gay gắt giữa những doanh nghiệp có thế mạnh về mẫu. Và do yêu cầu khắt khe của thị trường mẫu, luôn có sự thay đổi rất nhanh về nhu cầu của khách hàng. Đòi người thiết kế phải có kinh nghiệm, chuyên môn và lòng say mê thực sự mới đáp ứng được nhu cầu và thị hiếu có sự thay đổi rất nhanh đó. Tuy có những khó khăn như vậy, nhưng trong năm qua được sự chỉ đạo của phó giám đốc phụ trách theo chiến lược đi sâu nghiên cứu và khai thác thị trường nội địa của công ty. Cán bộ và nhân viên của trung tâm đã cố gắng đưa ra nhiều mẫu sản phẩm mới và gia các hội chợ thời trang với các sản phẩm mang thương hiệu VINATEXIMEX. Bước đầu các sản phẩm của trung tâm đã được khách hàng chấp nhận, đặc biệt sản phẩm áo măng tô nữ đã đạt giải thưởng tại hội chợ thời trang năm 2006. Về hoạt động kinh doanh nội địa. Hoạt động kinh doanh nội địa được nói ở đây là việc mua và bán các sản phẩm giữa các doanh nghiệp trong nước. Các mặt hàng mà Công ty tiến hành kinh doanh nội địa gồm: - Nguyên phụ liệu ngành dệt may: bông, sợi, vải, hoá chất, thuốc nhuộm. - Mặt hàng công nghệ cao - Quần áo đồng phục, bảo hộ lao động - Thiết bị may Thị trường tiêu thụ hay những khách hàng của Công ty trong lĩnh vực này cũng có điểm chung với thị trường tiêu thụ của hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Phần lớn các mặt hàng của Công ty là tiêu thụ nội bộ trong tập đoàn. Trong hoạt động kinh doanh nội địa của Công ty đã có những đổi mới, không chỉ đơn thuần mua và bán như trước đây. Công ty tiến hành bán nguyên phụ liệu và mua lại sản phẩm từ doanh nghiệp sản xuất. Theo cách này Công ty vừa tránh được tình trạng tồn đọng nợ vừa phần nào có được hiệu quả kinh doanh cao hơn từ nguồn hàng và giá hàng ổn định, cũng đồng thời giúp các doanh nghiệp, Công ty đó giảm bớt khó khăn về vốn hoạt động. Những khách hàng, nguồn hàng hiệu nay của Công ty vẫn chủ yếu là khách hàng truyền thống, nguồn cung ứng truyền thống. Do đó để Công ty có thể mở rộng được thị phần thì yêu cầu trước mắt là phải kết hợp các hoạt động kinh doanh nội địa với các hoạt động xúc tiến, quảng bá thương hiệu cùng với trung tâm tạo mẫu, đưa thương hiệu của Công ty trở nên gần gũi hơn với các doanh nghiệp, người tiêu dùng. II. Kết quả sản xuất kinh doanh chung của toàn Công ty. Để có được một đánh giá bao quát về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, chúng ta sẽ đánh giá theo cách tiếp cận, kết quả kinh doanh trong mối liên hệ với hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả các mặt công tác khác, hoạt động khác của Công ty. Trước hết, chúng ta hãy nhìn qua kết quả hoạt động sản xuất của Công ty năm 2006 được tổng hợp trong bảng số 3 sau đây Bảng số 3 BẢNG CÁC CHỈ TIÊU TÀI CHÍNH NĂM 2006 ĐVT: Tỷ đồng TT Chỉ tiêu chủ yếu Năm 2005 KH 2006 TH 2006 KH 2007 Tỷ lệ % 3/1 4/3 A B 1 2 3 4 5 6 1 Tổng doanh thu 781,49 720,00 720,00 760,00 92,13 105,56 2 Tổng chi phí 780,97 717,67 716,99 757,20 91,81 105,61 Trong đó: - Khấu hao cơ bản 1,05 0,73 0,86 69,52 117,81 - Lãi vay ngắn hạn 5,45 6,10 6,50 111,93 106,56 - Lãi vay dài hạn - Chi phí quản lý 12,11 10,00 10,00 82,58 100,00 3 Lãi (Chưa tính kinh phí nộp TCT) 0,52 2,33 3,01 2,80 578,85 93,02 4 Lỗ luỹ kế (nếu có) 5 Nộp ngân sách Nhà nước 39,67 22,00 25,00 55,46 113,64 Trong đó: Thuế GTGT 28,78 19,57 22,62 68,00 115,59 Thuế TTĐB 3,59 0,23 0,18 6,41 78,26 Thuế TNDN Thuế tài nguyên Thuế xuất nhập khẩu 7,17 2,00 2,00 27,89 100,00 Thuế thu nhập cá nhân 0,02 0,02 0,02 100,00 100,00 Các khoản nộp khác 0,11 0,18 0,18 163,64 100,00 6 Chi ngân sách Nhà nước Chi đầu tư XDCB Chi quản lý hành chính Chi nghiên cứu khoa học Chi giáo dục đào tạo Chi sự nghiệp y tế Chi sự nghiệp kinh tế Chi chương trình mục tiêu quốc gia 7 Tổng nợ phải trả 175,87 160,00 180,00 90,98 112,50 Số dư vay trung dài hạn NH Số dư vay ngắn hạn NH 71,53 100,00 110,00 139,80 110,00 Số dư vay đối tượng khác 4,00 3,90 4,00 97,50 102,56 8 Tổng giá trị tài sản 213,29 201,31 221,31 94,38 109,93 8.1 Tài sản cố định 6,84 5,48 5,00 80,12 91,24 Trong đó: TSCĐ không cần dùng 0,37 0,38 8.2 Tài sản lưu động 206,45 195,83 216,31 94,86 110,46 Trong đó: - Tổng nợ phải thu 149,62 160,00 180,00 106,94 112,50 Trong đó: Nợ phải thu khó đòi 4,97 4,95 - Vật tư hàng hoá mất phẩm chất 0,17 0,17 9 Nguồn vốn chủ sở hữu 37,42 41,31 41,31 110,40 100,00 Trong đó: Nguồn vốn kinh doanh 35,88 38,91 38,91 108,44 100,00 Quỹ đầu tư phát triển Nguồn vốn đầu tư XDCB Trong đó: Ngân sách 10 Tổng lao động bình quân 208 195,00 192 167 11 Tổng quỹ lương thực hiện 7,82 8,94 9,00 114,32 100,67 12 Thu nhập bình quân (tr đồng/tháng) 3,06 3,40 111,11 Theo số liệu nêu trong bảng 3, tổng doanh thu ước tính thực hiện là 720 tỷ đồng, thực tế tính đến cuối tháng 12 đầu tháng 1 năm 2007 thì doanh thu của Công ty là 720,6 tỷ đồng đạt 100,08% kế hoạch. Theo báo cáo tổng kết hoạt động năm 2006, Công ty đạt được một số kết quả như sau: Lợi nhuận: 3.012.000.000đồng, đạt 128% kế hoạch Kinh phí đã nộp: 1.570 triệu đồng, đạt 100% kế hoạch Lợi nhuận +kinh phí: thực hiện năm 2006 đạt 4,582 tỷ đồng, đạt 12,78% trên vốn cấp bình quân, bằng 117%kế hoạch được giao(chưa loại trừ vốn ứ đọng). Nộp ngân sách Nhà nước: 22 tỷ đồng Thu nhập bình quân đạt: 3.600.000đ/người/tháng, tăng 17,4% so với 2005 Công ty đã hoàn thành vượt chỉ tiêu chung nhất của Công ty: lợi nhuận của năm đã trên cả kế hoạch đề ra. Trên cơ sở đó Công ty đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước. Nhưng để thấy rõ được sự cố gắng của cán bộ công nhân viên trong Công ty hay mức độ và hiệu quả sử dụng các nguồn lực của Công ty cho kết quả đó thì ta cần xem xét thêm tình hình sử dụng các nguồn lực và công tác khác của Công ty. Về nhu cầu và tình hình sử dụng vốn và hoạt động tài chính của Công ty.Theo số liệu đã nêu, tổng nguồn vốn của Công ty đầu năm là 213.297.719.681.000 (gồm vốn chủ sở hữu và vốn vay). Tổng số vốn vào cuối tháng 9 còn là 207.954.927.355.000 vốn chủ sở hữu đầu năm là 37.420.931.490.000 số vào cuối tháng 9 là 43.512.451.424.000. Số vốn chủ sở hữu tăng là do Công ty được Tập đoàn bổ sung vốn cho dự án đầu tư xây dựng trung tâm nguyên phụ liệu Dệt may Da giầy. Tổng nguồn vốn vào cuối tháng 9 giảm là do Công ty phải trả vốn vay ngân hàng. Trong số vốn chủ sở hữu đầu năm, Công ty còn phải thu hồi và hàng tồn kho ứ đọng của các đơn vị cũ để lại và các khoản trích lập các quỹ theo quy định thì số vốn chủ sở hữu thực chất hoạt động chỉ còn 25,655 tỷ .Vòng quay vốn hoạt động đạt 3,46 lần trong 9 tháng chính thức hoạt động,mức lợi nhuận cộng kinh phí đạt 12,78% trên vốn cấp bình quân cho thấy công ty đã sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của mình. Tuy nhiên lượng vốn tồn đọng do các đơn vị nơ vẫn còn cao, đòi hỏi công ty có hướng giải quyết tốt để nâng cao hiệu quả sự dụng vốn. Cũng từ cơ cấu nguồn vốn của Công ty số vốn chủ sở hữu là rất nhỏ, số vốn vay lớn gấp trên 5 lần số vốn chủ sở hữu. Như vậy nhu cầu về vốn của Công ty còn thiếu rất lớn. Theo báo cáo của Công ty ngay cả số vốn vay lớn như vậy nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu về vốn của Công ty. Với số vốn vay lớn và mức lãi suất tăng trong vài năm qua đã làm giảm đáng kể mức lợi nhuận của Công ty. Về công tác lập kế hoạch, chiến lược kinh doanh và hoạt động marketing. Một đặc điểm cũng rất quan trọng và cũng quyết định đến hiệu quả kinh doanh của Công ty. Công ty đang có những chuyển đổi tích cực, tạo sự năng động và bứt phá trong xu thế hội nhập hiện nay. Trên cơ sở chiến lược chung của ngành và mục tiêu đề ra cho ngành theo quyết định của thủ tướng chính phủ số 56/2001/QĐ-TTg ký ngày 23 tháng 04 năm 2001, lãnh đạo của Tập đoàn đề ra các chiến lược và chỉ tiêu kế hoạch cho các Công ty. Mặt khác Công ty phải chủ động xây dựng chiến lược, kế hoạch kinh doanh của mình đề xuất lên tập đoàn để có sự thống nhất về kế hoạch kinh doanh và các chỉ tiêu mà Công ty có nghĩa vụ thực hiện. Các kế hoạch, chỉ tiêu sẽ được giao với từng phòng ban. Hiện nay Công ty vẫn tiếp tục khuyến khích cán bộ công nhân viên của các phòng ban kinh doanh tự tìm thị trường tiêu, doanh số tiêu thụ do các cá nhân đem lại sẽ được trích thưởng và là một phần căn cứ để quyết định tăng lương cố định cho cán bộ công nhân viên. Cách làm đó đã đem lại hiệu quả thiết thực cho Công ty. Tuy nhiên nó vẫn còn những hạn chế cần được tổ chức tốt hơn để phát huy hết hiệu quả của nó. Với việc các cá nhân tự phát huy khả năng kinh doanh của mình, không quy định rõ ràng và chặt chẽ các lĩnh vực hoạt động của các cá nhân làm cho sự gắn kết trong hoạt động giữa các cá nhân là không cao. Mỗi người mỗi phòng ban có cách tiếp cận khách hàng của riêng mình sức mạnh của tập thể trong công tác nghiên cứu thị trường chưa được phát huy và sự thống nhất trong chiến lược kinh doanh chung của Công ty cũng còn phải bàn đến. Một nguồn lực khác mà tình hình sử dụng nguồn lực này cũng còn nhiều điểm chưa hợp lý. Như đã đề cập, Công ty mới được hợp nhất, số phòng ban chức năng được sắp xếp kết hợp lại do vậy Công ty hiện đang còn dôi dư một số lượng cán bộ công nhân viên tương đối nhưng do các vị trí đó đã được biên chế và do một số yếu tố khách quan khác mà Công ty chưa thể cho nghỉ việc. Mặc dù công tác vận động tư tưởng cũng đã được triển khai nhưng số lao động tự nguyện nghỉ việc cũng không đáng kể. Theo số thống kê của công ty, lao động có trình độ trên đại học là 2 người và lao động có trình độ đại học có đến 142 người chiếm tỷ lệ 75% nhưng vẫn còn nhiều lao động làm không đúng ngành nghề được đào tạo: phòng kế toán có đến 13 người, về nghiệp vụ ngoại thương 4 người. Với chức năng nhiệm vụ chính của công ty là kinh doanh thương mại, xuất nhập khẩu thì nhu cầu lao động có trình độ chuyên môn cao về ngoại thương và ngoại ngữ là rất lớn. Tuy nhiên tỷ lệ lao động có chuyên môn về hai ngành này còn thấp so với yêu cầu. Hơn nữa, lao động có trình độ chuyên môn về hai ngành này lại phần lớn ở độ tuổi xấp xỉ 50 và trên 50 và trong tổng số lao động thì số cán bộ công nhân viên được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ chiếm tỷ lệ lớn nhưng trình độ chưa cao, chỉ có khoảng 50% đáp ứng được yêu cầu của công việc. Có thể nói, bất kỳ công ty, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào dù có phát triển lớn mạnh, dù có là những công ty hàng đầu thế giới thì nó vẫn còn tồn tại những điểm chưa mạnh, điểm hạn chế. Cũng không nằm ngoài thực tế đó, hoạt động kinh doanh của công ty vẫn còn những điểm chưa hợp lý như vừa phân tích. Công ty đã có những đánh giá về mặt mạnh, mặt yếu trong hoạt động của mình, đề ra những biện pháp để phát huy mặt mạnh, hạn chế mặt yếu kém để tiếp tục nâng cao hiệu quả kinh doanh của đơn vị. III. Đánh giá chung về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. * Những ưu điểm trong hoạt động kinh doanh của công ty Công ty đã thực hiện được vai trò tập trung các hoạt động xuất nhập khẩu các mặt hàng của ngành dệt may, từng bước phát huy vai trò là đơn vị tập trung hoạt động xuất nhập khẩu sang các lĩnh vực, mặt hàng khác. Có nhiều cán bộ công nhân viên rất năng động, đã tự tiếp cận, đàm phán với khách hàng, đưa về cho công ty những đơn hàng có giá trị lớn. Không chỉ giới hạn trong một vài lĩnh vực hay mặt hàng, cán bộ công nhân viên các phòng ban kinh doanh tự phát huy khả năng kinh doanh của mình trong một số mặt hàng và lĩnh vực. Công ty đã tạo được sự tín nhiệm với tập đoàn, với khách hàng trong và ngoài nước. Công ty đã có được những khách hàng lâu năm, từng bước xây dựng thương hiệu nhằm khai thác tốt thị trường hiện có và thâm nhập, khai thác những thị trường tiềm năng khác. * Mặt hạn chế Như đã phân tích trong phần thực trạng, trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty vẫn còn các mặt hạn chế: - Trước hết là mặt hạn chế về vốn: Số vốn sở hữu còn nhỏ, chưa tương xứng với vai trò, chức năng và nguồn lực con người hiện có của công ty. Vốn vay để hoạt động còn rất lớn với mức lãi suất không còn là ưu đãi như trước kia cũng đang là khó khăn đối với công ty. - Chưa có sự gắn kết thực sự giữa các cá nhân, phòng ban trong hoạt động marketing, sự thống nhất trong chiến lược kinh doanh của công ty cũng chưa đảm bảo. - Trong sử dụng lao động của công ty cũng còn hạn chế. Do đặc điểm kinh doanh, công ty cần nhiều người có chuyên môn nghiệp vụ ngoại thương và ngoại ngữ nhưng phần lớn lao động có chuyên môn về hai ngành này lại ở độ tuổi 50 và trên 50. Cán bộ công nhân viên được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ chiếm tỷ lệ lớn nhưng trình độ chưa cao chỉ có khoảng 50% đáp ứng được yêu cầu. * Những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân Với thời gian hợp nhất chưa lâu nhưng tập thể lãnh đạo và từng phòng, bộ phận của công ty đã nghiêm túc nhìn nhận lại những việc đã làm được và nhận thức rõ điểm yếu, tồn tại trong năm 2006 như sau: - Có những vị trí lãnh đạo chưa thực sự gương mẫu, một số CBCNV còn chưa tuân thủ đúng kỷ luật và quy chế quản lý lao động của Công ty đề ra, chưa chấp hành nghiêm túc thời gian làm việc. - Các phòng ban tuy đã được sắp xếp lại, nhưng vẫn chưa thực sự hợp lý, chưa chuyên môn hoá, nên vẫn có hiện tượng nhiều phòng cùng kinh doanh một mặt hàng, dẫn đến giá cả không đồng nhất. - Việc phân phối thu nhập vẫn mang tính bình quân chủ nghĩa, chưa thực hiện được việc phối thu nhập theo năng lực và hiệu quả công việc. - Sự phối hợp giữa các phòng ban trong Công ty vẫn còn chưa gắn kết. - Một số bộ phận kinh doanh đạt kết quả thấp và chưa có các giải pháp để thực hiện. Do cách giao việc chưa gắn kết giữa quyền lợi và trách nhiệm, nên còn nhiều cán bộ thụ động hoàn toàn với công việc. - Còn có hiện tượng buông lỏng trong quản lý như việc xuất hàng hoá không đúng quy định, việc ký kết hợp đồng còn chưa chặt chẽ nên còn để hiện tượng nợ đọng kéo dài. - Còn nhiều cán bộ làm công tác nghiệp vụ chuyên môn nhưng không được đào tạo chuyên ngành. Phần III Phương hướng phát triển, kế hoạch kinh doanh và giải pháp thực hiện I. Phương hướng phát triển và kế hoạch kinh doanh 1. Phương hướng phát triển Hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm tới, trước hết là căn cứ theo chiến lược phát triển chung cho toàn ngành theo quyết định của thủ tướng Chính phủ số 55/2001/QĐ/TTg về việc phê duyệt chiến lược phát triển và một số cơ chế, chính sách hỗ trợ thực hiện chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010 (phụ lục 1) và theo sự chỉ đạo của tập đoàn dệt may Việt Nam. Trong chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến 2010 có một số nội dung quan trọng là một phần làm cơ sở cho các doanh nghiệp đề ra phương hướng hoạt động như: các chỉ tiêu về tổng sản lượng của ngành sản xuất (bông, sợi, vải…) , chiến lược phát triển vùng nguyên liệu, kim ngạch xuất nhập khẩu của ngành. Tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên phụ liệu nội địa trên sản phẩm dệt may xuất khẩu. Tổng vốn đầu tư cho trang thiết bị và dự án trong giai đoạn 2001 – 2005 và giai đoạn 2005 – 2010. Từ những chỉ tiêu và nguồn vốn dự tính mà tập đoàn được giao, tập đoàn sẽ xem xét, phân bổ các nguồn lực và chỉ tiêu cho các Công ty. Trên cơ sở là chiến lược có tính quy hoạch chung cho toàn ngành đó, Công ty cũng đánh giá được tiềm năng của thị trường nội địa cũng như đánh giá được khả năng trong hoạt động xuất khẩu. Đối với hoạt động xuất khẩu, Công ty tiếp tục khai thức tốt thị trường hiện có và các mặt hàng truyền thống, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu để mở rộng thị trường và phát triển các mặt hàng mới. Nâng cao thị phần trong nước với việc tập trung nghiên cứu, thiét kế mẫu sản xuất và cung ứng các mặt hàng thời trang đáp ứng nhu cầu và phù hợp với thị hiếu của khách hàng. Xây dựng thương hiệu của Công ty thông qua việc tích cực tham gia các hội chợ, triển lãm giới thiệu hình ảnh của Công ty. 2. Thuận lợi, khó khăn trong phương hướng hoạt động. * Thuận lợi - Trong quá trình hoạt động, công ty luôn nhận được sự chỉ đạo, quan tâm, hỗ trợ kịp thời của lãnh đạo, các ban của Tập đoàn dệt may Việt Nam đặc biệt trong công tác xúc tiến xuất khẩu, cấp phát vốn. - Tập thể lãnh đạo Công ty: cơ bản là thống nhất và chấp hành nghiêm túc mọi chỉ đạo của lãnh đạo tập đoàn. Chịu khó, biết tận dụng các mối quan hệ để làm tốt công tác khai thác nguồn hàng, khách hàng. Mạnh dạn vượt qua những thách thức để có những bước đột phá trong hướng kinh doanh mới. Hoà hợp với CBCNV tạo môi trường làm việc thân thiện. - CBCNV đồng thuận: thể hiện rõ trong việc phần lớn mọi người đều muốn được làm việc hăng say với công việc, quyết tâm thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh mà Tập đoàn giao. Qua đó các mặt hoạt động của Công ty từng bước đi vào nền nếp, đặc biệt là công tác quản lý kinh doanh, công tác tài chính đã được tăng cường và có nhiều giải pháp hữu hiệu. Thu nhập của cán bộ CNV được bảo đảm, người lao động yên tâm và tin tưởng vào sự lãnh đạo của lãnh đạo Công ty. Đây là những thuận lợi cơ bản để Công ty thực hiện tốt được kế hoạch sản xuất kinh doanh đã được Tập đoàn giao và là tiền đề vững chắc cho những bước phát triển cho các năm tiếp theo. * Khó khăn: - Khi hợp nhất Công ty cũng gặp một số khó khăn tác động tới kết quả kinh doanh đó là: + Hai Công ty có những khách hàng truyền thống, mặt hàng kinh doanh bị trùng lắp dẫn đến tác động làm giảm doanh thu. + Vốn tồn đọng do công nợ khó có khả năng thu hồi và hàng tồn kho ứ đọng của các đơn vị cũ để lại ( Theo đánh giá của Ban kiểm soát, phần phải trích lập dự phòng theo chế độ quy định: 15,772 tỷ, đã trích lập: 2, 510 tỷ, số còn phải trích: 13,262 tỷ, như vậy vốn thực chất hoạt động của Công ty chỉ còn: 25 tỷ 655). + Nề nếp và phong cách làm việc có sự khác nhau cần có thời gian để hoà nhập. + Tâm lý CBCNV khi sát nhập cũng bị dao động, một số cán bộ công nhân viên chưa thực sự hăng say trong công việc, nên ảnh hưởng phần nào đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. - Về tình hình thị trường: Giá nhiên liệu xăng dầu có nhiều biến động, đặc biệt là trong thời gian gần đây giá nguyên liệu xơ tăng cao (trên 30%) cộng thêm với việc nhà nước áp thuế nhập khẩu 5% đối với xơ nhập ngoài khối ASEAN làm tăng giá thành trong khi đầu ra không tăng kịp dẫn đến sản xuất và tiêu thụ gặp khó khăn, đã tác động không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. - Về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu: Tiếp tục gặp nhiều khó khăn do cạnh tranh gay gắt về giá và bản thân các doanh nghiệp may đã chủ động trong công tác XNK. Việc xuất nhập khẩu tổng hợp khác không ổn định, phụ thuộc rất nhiều vào tính chất hoạt động của các doanh nghiệp khác như việc nhập khẩu máy móc cho các dự án, việc xuất khẩu cà phê… 3. Kế hoạch kinh doanh năm 2007 Từ nhận định về những thuận lợi, khó khăn trước mắt cùng với việc đánh giá được mặt mạnh, mặt hạn chế, tồn tại và với tinh thần phấn đấu vì sự phát triển của Công ty. Tập thể lãnh đạo và cán bộ công nhân viên Công ty đã xây dựng kế hoạch kinh doanh năm 2007 với các chỉ tiêu cụ thể như sau: 1. Doanh thu: Phấn đấu đạt 810 tỷ đồng, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2006 2. Chỉ tiêu hiệu quả: - Lợi nhuận: 2.082 triệu đồng - Kinh phí nộp: 1868 triệu đồng - Lợi nhuận cộng kinh phí: 4760 triệu đồng (đạt 12% trên vốn giao) 3. Kim ngạch xuất khẩu - Kim ngạch xuất khẩu theo hợp đồng: 6.300.000 USD - Kim ngạch xuất khẩu tính đủ nguyên phụ liệu: 750.000.000 USD 4. Kim ngạch nhập khẩu: 22.000.000 USD 5. Thu nhập bình quân: 3.700.000đ/người/tháng II. Giải pháp phát triển Nắm bắt được những thuận lợi, khó khăn trong quá trình thực hiện mục tiêu nhiệm vụ, đánh giá một cách khách quan thực lực của mình về mặt mạnh, mặt yếu, mặt hạn chế, tồn tại, Công ty đã xác định một số các giải pháp và công tác sẽ thực hiện trong thời gian tới để đảm bảo hoàn thành kế hoạch và mục tiêu đề ra. 1. Nâng cao hiệu quả công tác giao kế hoạch và chỉ đạo thực hiện kế hoạch Các phòng ban có nhiệm vụ chủ động xây dựng kế hoạch kinh doanh của mình, trình lên các cấp lãnh đạo của Công ty. Sau khi có sự bàn bạc thống nhất với trưởng các phòng ban, các kế hoạch kinh doanh cụ thể sẽ được giao cho từng phòng. Công ty sẽ xây dựng những quy chế, quy định trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của các phòng, nhằm hạn chế sự chồng chéo, trùng lắp trong các mặt hàng và lĩnh vực kinh doanh của các phòng, đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban. 2. Đối với công tác thị trường Tiếp tục khai thác tốt thị trường hiện có và các mặt hàng truyền thống, đẩy mạnh và phát triển các mặt hàng mới. Từng bước xây dựng và phát triển thương hiệu của Công ty với việc tập trung cho hoạt động thiết kế mẫu, sản xuất và cung ứng các mặt hàng thời trang, tích cực tham gia các hội chợ triển lãm.. 3. Giải quyết những khó khăn về vốn Công ty sẽ kiến nghị với tập đoàn xin được vay thêm vốn hoạt động để giảm bớt khó khăn khi vay vốn ngân hàng. Đồng thời Công ty cũng có những hoạt động nhằm cải thiện mối quan hệ với các ngân hàng, tạo dựng mối quan hệ ổn định lâu dài. 4. Công tác thu hồi công nợ Cố gắng tác động tới các chủ doanh nghiệp, lãnh đạo các Công ty để từng bước thu hồi được số nợ tồn đọng. Tránh không để các khoản nợ khi giao dịch với những khách hàng không sòng phẳng. Tiếp tục thực hiện chương trình cung ứng bông sơ và lấy sản phẩm vừa giảm chi phí giá thành và tránh được tình trạng nợ. 5. Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực Xin ý kiến tập đoàn giải quyết nghỉ chế độ cho một số CBCNV không có trình độ và năng lực đảm bảo yêu cầu của công việc. Số lượng lao động giảm đợt tới dự kiến là 35 người. Số lượng lao độngcòn lại dự kiến là 155 người sẽ được bố trí sắp xếp lại cho phù hợp với năng lực và yêu cầu công việc theo nguyên tắc tinh gọn, hiệu quả. Trong chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp, Công ty dự tính sau khi cổ phần sẽ tiếp tục giảm các lao động không đáp ứng được yêu cầu, số lao động khi cổ phần xong còn lại 100 người. Bên cạnh đó Công ty cũng xây dựng kế hoạch tuyển dụng lao động có trình độ và năng lực đáp ứng được yêu cầu công việc. Đào tạo các chức danh quan trọng, đào tạo lại và đào tạo chuyên sâu cho các CBCNV, tạo điều kiện cho người lao động được học tập, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn. 6. Các công tác và giải pháp khác. - Phát động phong trào thi đua, phát huy tinh thần đoàn kết chủ động sáng tạo trong mỗi cán bộ, đảng viên trong toàn Công ty. - Quan tâm xây dựng phong trào văn thể, công tác xã hội, từ thiện. Các công tác, phòng trào này vừa là tấm lòng nhân ái vừa phát huy được sự nhiệt tình của người lao động, tranh thủ được thiện cảm của các cấp chính quyền và là cách làm marketing hiệu quả. - Một vài kiến nghị của Công ty. + Đề nghị tập đoàn xem xét cho phép Công ty được vay vốn hoạt động để giảm bớt khó khăn khi vay vốn ngân hàng và để đáp ứng kịp thời yêu cầu thanh toán của khách hàng. + Kiến nghị tập đoàn khi giao kế hoạch phải cho Công ty được phép loại trừ các khoản vốn ứ đọng do các đơn vị cũ để lại + Cho phép Công ty được tiến hành cổ phần hoá trong quý I năm 2007 để sắp xếp ổn định doanh nghiệp. + Kiến nghị với Hải quan về cưỡng chế thuế đối với các đơn vị phụ thuộc có cùng mã số thuế tránh hiện tượng không chính xác khi thông báo thuế hiện nay.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxCty XNK Det may (KDQT).docx
Tài liệu liên quan