Kế hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA giai đoạn 2006 - 2010

Vốn đối ứng tuy chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng rất quan trọng để hấp thụ nguồn vốn nước ngoài. Vì vậy, việc phân bổ nguồn vốn này nên linh hoạt hơn so với các nguồn vốn trong nước. Để đáp ứng kịp thời về vốn đối ứng nên cho phép các Bộ, địa phương chủ quản có nhiều quyền hạn hơn trong việc điều chuyển vốn đối ứng giữa các dự án thuộc quyền quản lý và thông báo cho các cơ quan tài chính, kho bạc cấp vốn theo đúng tiến độ. Các Bộ, ngành sẽ chủ động, linh hoạt phân bổ vốn đối ứng cho các dự án thuộc bộ, ngành mình quản lý. Điều này cũng phù hợp với việc phân cấp cho các Bộ, địa phương trong việc phê duyệt các dự án Hợp tác kỹ thuật, bao gồm cả phê duyệt kế hoạch sử dụng vốn đối ứng. Các Ban quản lý dự án cần phải tham gia ngay từ đầu trong quá trình đàm phán với các nhà tài trợ về kế hoạch thực hiện của dự án, và kế hoạch vốn đối ứng để bảo đảm quá trình thực hiện sau này được thông suốt.

doc44 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 873 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kế hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA giai đoạn 2006 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Bảng 1: Cam kết, ký kết và giải ngân vốn ODA giai đoạn 2001-2005 Đơn vị : triệu USD Tổng 2001 2002 2003 2004 2005 Cam kết 14.597 2.356 2.461 2.839 3.441 3.5 Kí kết 11.08 2.43 1.826 1.761 2.563 2.5 Giải ngân 7.84 1.500 1.528 1.442 1.65 1.72 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Vốn ODA được phân bổ chủ yếu theo sự ưu tiên mà chính phủ đặt ra cho các ngành kinh tế .Sự phân bổ vốn giải ngân ODA ở một số các lĩnh vực như : Giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, năng lượng và công nghiệp, là những lĩnh vực có dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn, chiếm tỷ lệ lớn nhất (42%), tiếp theo là nông nghiệp, phát triển tài nguyên và nông thôn (21%), ODA phân bổ cho giáo dục, đào tạo, y tế, môi trường và công nghệ chiếm tỉ lệ thấp hơn (12%). Các lĩnh vực còn lại chiếm khoảng 18% tổng số vốn ODA giải ngân. Bảng 2 : Cơ cấu ODA giải ngân theo ngành giai đoạn 2001-2005 Ngành, lĩnh vực Giá trị ODA theo hiệp định 2001-2005 Tỷ USD Tỷ trọng đầu tư Môi trường khoa học công nghệ 0.392 5% Y tế giáo dục và đào tạo 0.5488 7% Cung cấp nước phát triển đô thị 0.5488 7% Năng lượng và công nghiệp 1.3328 17% Nông nghiệp , thuỷ lợi lâm nghiệp, giảm đói nghèo và phát triển nông thôn 1.6464 21% Giao thông vận tải bưu chính viễn thông 1.96 25% Khác 1.4112 18% Tổng 7.84 100% Nguồn : Bộ Kế hoạch và đầu tư Nội dung của kế hoạch sử dụng vốn ODA giai đoạn 2006-2010 Giai đoạn 2006-2010, Chính phủ sẽ dành 33% trong số 23,75 tỷ USD vốn ODA để phát triển giao thông, bưu chính viễn thông, cấp thoát nước và đô thị.Đầu tư trọng điểm vào phát triển cơ sở hạ tầng, là một trong những nội dung quan trọng nhất trong bản đề án "Định hướng thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) thời kỳ 2006 - 2010" vừa được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định phê duyệt số 290/2006/QĐ - TTg ngày 29/12/2006. Bảng 3: Huy động vốn ODA giai đoạn 2006-2010 Ngành, lĩnh vực Gía trị ODA theo hiệp định 2001-2005 Dự báo giá trị ODA theo hiệp định 2006-2010 Dự báo giá trị ODA cam kết Tỷ USD Tỷ trọng đầu tư Tỷ USD Tỷ trọng đầu tư Tỷ USD Nông nghiệp, thuỷ lợi, thuỷ sản kết hợp với phát triển nông thôn và xoá đói giảm nghèo 1,6 14,6% 2,2-2,5 18%0 2,9-3,3 Năng lượng và công nghiệp 2,1 18,7% 1,9-2,2 16% 2,6-2,9 Giao thông, bưu chính-viễn thông, cấp thoát nước và đô thị 2,9 26,3% 3,6-4,1 30% 4,8-5,5 Y tế, giáo dục và đào tạo, môi trường, khoa học công nghệ và các ngành khác 4,5 40,4% 4,3-4,9% 36% 5,8-6,6 Tổng 11,1 100% 12,0-13,6 100% 16,0-18,2 Nguồn: Trung tâm thông tin và dự báo Kinh tế-xã hội Quốc gia Theo bản đề án, lĩnh vực phát triển hạ tầng giao thông tiếp tục là mối quan tâm hàng đầu của Chính phủ. Đặc biệt, đây cũng là lĩnh vực mà các nhà tài trợ vốn ODA như ADB, JBIC, WB... rất quan tâm từ trước tới nay cũng như trong nhiều năm tới. Cụ thể, nguồn vốn ODA cho lĩnh vực này trong 5 năm tới sẽ tiếp tục tăng mạnh để đầu tư cho các lĩnh vực phát triển hệ thống đường cao tốc Bắc - Nam, các đường trục chính của các vùng kinh tế; ưu tiên phát triển các tuyến đường ở miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, ĐBCSL; phát triển mạnh hệ thống đường cao tốc, nhất là tại các vùng kinh tế trọng điểm.Ngoài ra, nguồn vốn này sẽ phát triển các tuyến hành lang giao thông trong khuôn khổ hợp tác tiểu vùng Mê Kông mở rộng.Trong đó gồm có tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia và hai hành lang và một vành đai kinh tế Việt - Trung, xây dựng một số cầu đường bộ lớn ở cả 3 miền, trong đó có các cầu Cao Lãnh, Vàm Cống thuộc Dự án đường Hồ Chí Minh (giai đoạn II). Đồng thời, giao thông nông thôn cũng nằm trong phạm vi của nguồn vốn, gồm nâng cấp các tuyến đường huyện, bảo đảm đường thông suốt cả năm từ thôn bản đến trung tâm xã, đầu tư hỗ trợ bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ cũng như công tác duy tu bảo dưỡng đường bộ.Bên cạnh việc định hướng đầu tư cho các dự án giao thông cầu đường bộ, đối với lĩnh vực đường sắt, Chính phủ sẽ thu hút vốn ODA xây dựng một số tuyến đường sắt, kể cả tuyến đường sắt cao tốc Hà Nội - Tp. Hồ Chí Minh; tăng cường năng lực quản lý và điều hành ngành đường sắt. Lĩnh vực hàng không, các sân bay quốc tế sẽ được xây dựng ở một số tỉnh, thành phố phù hợp với quy hoạch phát triển hệ thống các sân bay của cả nước, trước mắt xây dựng mới một sân bay quốc tế hiện đại cho Thủ đô Hà Nội (Cảng Hàng không Quốc tế 2), Long Thành - Biên Hoà, Đà Nẵng (nhà ga), Cam Ranh - Khánh Hoà (nhà ga) và Phú Quốc - Kiên Giang. Trong giai đoạn này, Chính phủ cũng sẽ tập trung vốn ODA để xây dựng một số cảng nước sâu, trong đó có các cảng Vân Phong - Khánh Hoà, cảng Lạch Huyện - Hải Phòng, và các cảng trung chuyển. Ngoài ra sẽ hỗ trợ đầu tư phát triển hệ thống các tuyến đường thuỷ nội địa quan trọng ở Đồng bằng sông Hồng và ĐBSCL. Thể chế, tăng cường năng lực con người trong lĩnh vực giao thông, nhất là an toàn giao thông, cũng sẽ là một hướng đầu tư. Chính phủ cũng định hướng cụ thể trong việc sử dụng nguồn vốn ODA. Đối với nguồn vốn ODA hoàn lại, đặc biệt là các khoản vay có ưu đãi cao (lãi suất thấp, thời gian trả nợ dài và có ân hạn) thì ưu tiên sử dụng để phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế. Các khoản vay ODA có điều kiện ưu đãi kém hơn (lãi suất cao, thời gian trả nợ và ân hạn ngắn) sẽ được sử dụng cho các chương trình, dự án có tính khả thi cao về mặt kinh tế và có khả năng trả nợ. Theo đánh giá của Bộ Giao thông Vận tải, thời gian tới vốn ODA dành cho phát triển hạ tầng giao thông về cơ bản vẫn sẽ đến từ các nhà tài trợ lớn, truyền thống JBIC, WB, ADB, AFD (Cơ quan Phát triển Pháp) và KFW (Ngân hàng Tái thiết Đức). Tình hình thu hút và sử dụng vốn ODA 6 tháng đầu năm 2008 Năm 2006, giải ngân nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của Việt Nam dự kiến sẽ đạt 1,78 tỷ USD. Việt Nam có thể sẽ ký kết khoảng 3,066 tỷ USD vốn ODA; trong đó vốn vay đạt 2,543 tỷ USD và vốn viện trợ không hoàn lại 522,4 triệu USD. Năm 2006 cũng là năm có nhiều sự kiện đối với việc quản lý và sử dụng vốn ODA. Vụ việc tiêu cực xảy ra tại PMU 18 đã gây ra nhiều dư luận và thông tin không thuận lợi cho thu hút và sử dụng vốn ODA. Vụ việc cũng một lần nữa thể hiện rõ những bất cập trong cơ chế quản lý và sử dụng nguồn vốn này. Năm 2007, giải ngân đạt gần 2 tỷ USD.Tổng giá trị các khoản viện trợ đã ký kết đạt 3,6 tỉ USD, trong đó vốn vay là 3,31 tỉ USD, viện trợ không hoàn lại 289,78 triệu USD, tăng 12,3% so với năm 2006. Tuy nhiên, tổng nguồn vốn ODA giải ngân trong 2 năm 2006-2007 mới đạt khoảng 3,9 tỉ USD, tương đương với 32% tổng vốn ODA dự kiến giải ngân trong cả thời kỳ 2006-2010. Năm 2008, cả nước đã giải ngân trên 1,4 tỷ USD vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), bằng 74,5% kế hoạch giải ngân năm 2008. Trong đó, vốn vay đạt 1,227 tỷ USD, vốn viện trợ đạt 188 triệu USD. Từ đầu năm đến ngày 23/9/2008, nguồn vốn ODA được hợp thức hóa thông qua các hiệp định ký kết với các nhà tài trợ đạt tổng giá trị 1,826 tỷ USD, trong đó vốn vay đạt 1,642 tỷ USD và vốn viện trợ không hoàn lại đạt 184 triệu USD. Điểm mạnh : Việt Nam có một chế độ chính trị ổn định ngoài ra Việt Nam đã hưởng lợi nhờ đạt được những kết quả ấn tượng về tăng trưởng kinh tế và giảm đói nghèo nhanh đúng vào thời điểm mà các nhà tài trợ đang tập trung hơn vào lĩnh vực giảm nghèo và sẵn sàng viện trợ cho những nước sử dụng tốt nguồn vốn này . Tiến trình hội nhập sâu và chủ động vào kinh tế thế giới và khu vực, sự năng động của nền kinh tế, tiến trình cải cách hành chính và mong muốn của chính phủ Việt Nam tiếp tục gắn bó với các nhà tài trợ đã khiến họ càng nhiệt tình với Việt Nam hơn. Điểm yếu : Quá trình tổ chức thực hiện dự án gặp nhiều ách tắc, kéo dài thời gian dẫn đến tốc độ giải ngân vốn ODA chậm đặc biệt là do công tác giải phóng mặt bằng , có đến 80% dự án bị ách tắc bởi nguyên nhân này . Ngoài ra công tác quản lý của nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế . Bất cập trong công tác quản lý nhà nước thể hiện ở việc phân cấp , phân định chức năng nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước.Vẫn còn tình trạng quá coi trọng số lượng ODA được giải ngân mà quá coi nhẹ chất lượng của các khoản ODA được giải ngân đó . Chương 3 :Mục tiêu và giải pháp thực hiên KH 2006-2010 cho các năm 2009-2010 A.Dự báo xu hướng thu hút vốn ODA trong thời gian tới Thách thức : Theo dự báo đến năm 2009-2010 khi GDP/đầu người của Việt Nam đạt mức bình quân 1.000 đô la, Việt Nam sẽ chỉ có thể nhận được thêm nguồn ODA trong tối đa ba năm tiếp theo với số lượng giảm dần. ODA cho Việt Nam sẽ kết thúc vào năm 2012-2013 và sau đó Việt Nam chỉ có thể tiếp cận nguồn hỗ trợ quốc tế thông qua Ngân hàng Tái thiết phát triển (IBRD) với lãi suất cấp vốn theo thị trường. Nguồn vốn này cũng chỉ cấp cho Việt Nam cho đến khi nền kinh tế của Việt Nam đạt mức thu nhập tương đương các nước OECD (dự kiến vào năm 2020). Chính vì vậy chính phủ Việt Nam cần có một lộ trình cụ thể để đón đầu xu hướng này, mà việc làm cần thiết ngay bây giờ là phải nâng cao hiệu quả sử dụng và khai thác tối đa các nguồn vay ODA rất ưu đãi hiện nay.    Cơ hội: Tuy nhiên trong những năm 2009-2010 nguồn vốn ODA vào Việt Nam vẫn tiếp tục tăng và ổn định. Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm giai đoạn 2006-2010 được tập trung vào ba nội dung chính: Kinh tế, xã hội, môi trường. Về xã hội, ODA trong giai đoạn này sẽ được tập trung vào cơ sở hạ tầng xã hội như xây dựng bệnh viện, trường học, tập trung vào các hoạt động xoá đói, giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa nhằm tạo ra sự phát triển đồng đều giữa các vùng miền trong cả nước. Về môi trường, tập trung vào các dự án cải thiện môi trường đô thị, nông nghiệp nông thôn. Việc phát triển kinh tế gắn liền với xoá đói giảm nghềo và bảo vệ môi trường sẽ là nét mới để các nhà tài trợ cam kết tăng vốn ưu đãi ODA cho Việt Nam. Do đó, dự báo trong giai đoạn 2006-2010 Việt Nam sẽ thu hút được khoảng 12-13 tỷ USD (ODA). SWOT Điểm mạnh (S) Điểm yếu (W) Cơ hội (O) -Tập trung đầu tư cho sự phát triển cơ sở hạ tầng,chi nhiều hơn cho giáo dục và đào tạo giúp cải thiện chỉ số con người ở Việt Nam. -Đẩy nhanh những dự án phát triển nông nghiệp nông thôn kết hợp với xoá đói giảm nghèo giúp người nông dân tiếp cận với nguồn vốn vay để tạo ra công ăn việc làm -Cần đẩy nhanh tốc độ giải Ngân ODA:Việt Nam cần phải đơn giản hoá văn bản pháp lý và các thủ tục liên quan Xây dựng kế hoạch hợp lý cho việc phân cấp ODA - Cần phải xác định được phân cấp đến mức độ nào và dự án nào cần phân cấp.Ngoài ra còn phải tăng cường theo dõi và quản lý các dự án sử dụng vốn ODA để tránh tình trạng tham ô tham nhũng Thách thức(T) - Việt Nam sẽ phải tìm kiếm những nguồn vốn vay mới để đầu tư phát triển:FDI,vốn vay thương mại . - Việt Nam cần phải có định hướng phân bổ ODA hợp lý.ODA với ưu đãi cao cần ưu tiên sử dụng để phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội , vốn ODA gắn liền với những điều kiện kém ưu đãi thì phải được sử dụng cho các chương trình dự án có khả năng thu hồi vốn nhanh. - Việt Nam cần phải xây dựng kế hoạch giảm dần ODA có điều kiện với thời gian vay nợ ngắn đồng thời thu hút những nguồn đầu tư nước ngoài khác như FDI . ODA được sử dụng phải chọn lọc và kết hợp hài hoà với các nguồn đầu tư khác. - Tăng cường năng lực quản lý và sử dụng vốn ODA, đào tạo cán bộ quản lý dự án theo hướng chuyên nghiệp và bền vững.Tránh tình trạng chạy theo số lượng mà dàn trải ODA dẫn đến gánh nặng nợ cho đất nước B. Kế hoạch thu hút và giải ngân nguồn vốn ODA năm 2009-2010     Tổng giá trị ODA ký kết trong năm 2009 dự kiến đạt 3.900 triệu USD (vốn vay: 3.600 triệu USD, viện trợ không hoàn lại: 300 triệu USD), tăng khoảng 23% so với năm 2007. Những hiệp định dự kiến ký kết có giá trị lớn bao gồm: Công hàm trao đổi về các dự án sử dụng tín dụng ưu đãi tài khóa 2007 (Nhật Bản,1 tỷ USD); Dự án Tài chính nông thôn III (Ngân hàng Thế giới, 100 triệu USD); dự án Thủy điện sông Bung 4 (Ngân hàng Phát triển Châu á, 196,5 triệu USD); dự án Hành lang giao thông Kôn Minh - Hải Phòng (Đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai) (1.150 triệu USD),...     Kế hoạch giải ngân vốn ODA năm 2009 dự kiến là 2.500 triệu USD. Trong đó, vốn vay 2.200 triệu USD; vốn viện trợ 300 USD.     Như vậy, nếu không có biến động lớn, tổng vốn ODA ký kết cho 03 năm (2006, 2007, 2008) dự kiến đạt 9.426 triệu USD. Để đạt mục tiêu 20,35 - 23,75  tỷ USD đề ra trong Đề án: “Định hướng thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) thời kỳ 2006 - 2010” thì tổng vốn ODA ký kết trong hai năm 2009 - 2010 phải đạt từ 10.924 - 14.326 triệu USD. Với mức tăng ODA ký kết trung bình hàng năm đạt khoảng 27% thì mục tiêu này được xem là khả thi với điều kiện các Bộ, ngành và địa phương phải có những nỗ lực lớn. C. Các chính sách và biện pháp thu hút vốn ODA 1. Các chính sách và giải pháp thu hút ODA:     Chính phủ Việt Nam bày tỏ mong muốn cộng đồng tài trợ tăng cường sự hỗ trợ của mình giúp Việt Nam tăng trưởng, giảm nghèo và đạt các Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs). Các chính sách và biện pháp về thu hút ODA dưới đây nhằm tạo thuận lợi cho việc thu hút ODA và tối đa hoá tác động tích cực của các chương trình, dự án ODA:     (1) Tiếp tục thực hiện công cuộc “đổi mới” bao gồm các chính sách nhằm:     - Duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh, công bằng và bền vững;     - Xóa đói giảm nghèo và thu hẹp khoảng cách phát triển;     - Hoàn thiện môi trường đầu tư và kinh doanh;     - Tăng tính minh bạch, trách nhiệm giải trình trong sử dụng nguồn lực công;     - Thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế và giảm nhẹ các tác động xã hội từ bên ngoài trong quá trình hội nhập;     - Củng cố nỗ lực chống tham nhũng của chính phủ;     - Các chính sách bảo đảm dân chủ và quyền con người.     (2) Chính phủ và các nhà tài trợ sẽ phối hợp cùng nhau theo tinh thần quan hệ đối tác nhằm đảm bảo có sự hiểu biết và trách nhiệm chung và nhằm tối đa hoá lợi ích của ODA,gồm:     - Nâng cao chất lượng đối thoại giữa Chính phủ và các nhà tài trợ thông qua việc thiết lập các cơ chế, chẳng hạn tăng cường các cuộc họp Tư vấn các nhà tài trợ (CG) và các nhóm quan hệ đối tác theo ngành;     - Công bố hệ thống các tiêu chí làm cơ sở vận động ODA cho các tỉnh và thành phố nhằm đảm bảo tính minh bạch và công bằng;     - Thúc đẩy sự tham gia của nhân dân trong quá trình vận động ODA ở cấp địa phương;     - Nâng cao năng lực điều phối các yếu tố đầu vào của nhà tài trợ thông qua sự gắn kết hơn nữa với các kế hoạch của chính phủ và trao đổi thông tin;     - Tạo điều kiện phối hợp giữa các nhà tài trợ có mối quan tâm chung để hợp lý hoá và nâng cao hiệu quả hỗ trợ. 2. Các chính sách và biện pháp về sử dụng và quản lý ODA:     Các chính sách và biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng và quản lý ODA đã được xây dựng phù hợp với các nguyên tắc và cam kết trong Cam kết Hà Nội, bao gồm:     (1) Kiện toàn môi trường pháp lý về quản lý thu hút và sử dụng ODA nhằm đảm bảo quy trình đơn giản, rõ ràng và nhất quán;     (2) Hoàn thiện chính sách tài chính trong nước đối với ODA bao gồm quản lý nợ, các điều kiện cho vay đối với các dự án có nguồn thu; hoàn thiện chính sách thuế đối với các dự án ODA,;     (3) Nâng cao chất lượng ODA thông qua việc khuyến khích tính tự chủ của các cơ quan thụ hưởng trong việc chuẩn bị nội dung các chương trình, dự án và sử dụng nhiều hơn đội ngũ tư vấn trong nước;     (4) Tăng cường năng lực chuẩn bị và thẩm định các dự án, xây dựng hướng dẫn lập các nghiên cứu khả thi, đánh giá tác động về kinh tế, xã hội và môi trường;     (5) Hoàn thiện các hệ thống của chính phủ về mua sắm công, quản lý tài chính công, bảo vệ môi trường và an sinh xã hội để các nhà tài trợ sử dụng nhiều hơn các hệ thống của chính phủ;     (6) Nâng cao nhận thức và hiểu biết về chính sách, quy trình thủ tục ODA;     (7) Khuyến khích sự tham gia của nhân dân trong quá trình thiết kế, thực hiện, giám sát dự án, đặc biệt ở cấp địa phương và trong các đối tượng hưởng lợi;     (8) Thúc đẩy hài hoà thủ tục ODA giữa chính phủ và các nhà tài trợ phù hợp với các hoạt động được đưa vào kế hoạch hành động về Hài hoà thủ tục của Việt Nam (V-HAP);     (9) Thúc đẩy các cách tiếp cận theo chương trình ở những nơi mà các nguồn lực của Chính phủ và nhà tài trợ có thể phối hợp cùng nhau nhằm hỗ trợ đạt các kết quả phát triển trong toàn bộ một ngành hay một lĩnh vực;     (10) Phát triển năng lực và xây dựng thể chế nhằm đảm bảo quản lý ODA theo hướng chuyên nghiệp hoá. C. Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA ở Việt Nam 1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến vốn ODA Hiện nay, vấn đề hết sức quan trọng trong thu hút và sử dụng vốn ODA là từng bước hoàn thiện môi trường pháp lý nhằm tạo ra một hành lang pháp lý để vốn ODA được sử dụng đạt hiệu quả cao. - Nghị định 131/2006/NĐ-CP về quản lý và sử dụng ODA đã có một bước phát triển tích cực nhằm tạo ra một khuôn khổ pháp lý khá hoàn chỉnh và tương đối đồng bộ cho công tác quản lý nhà nước đối với nguồn lực quan trọng này. Nghị định này đã có những bước sửa đổi, bổ sung những bất cập sau: + Trước đây, quy trình vận động và sử dụng ODA có xu hướng ”đi ngược” nên trong Nghị định 131 đã thay đổi quy trình thu hút và sử dụng ODA trong Nghị định 17 từ quy trình 9 bước sang quy trình 4 bước như sau: Bảng 3: Thay đổi quy trình vận động và sử dụng ODA Quy trình hiện tại Quy trình mới 1. Xây dựng danh mục các chương trình, dự án ưu tiên vận động sử dụng ODA 2. Vận động ODA 3. Đàm phán, ký kết điều ước quốc tế khung về ODA 4. Thông báo điều ước quốc tế khung 5. Chuẩn bị văn kiện chương trình, dự án 6. Thẩm định, phê duyệt nội dung chương trình, dự án ODA 7. Đàm phán, ký kết, phê chuẩn hoặc phê duyệt điều ước quốc tế cụ thể về ODA 8. Thực hiện chương trình, dự án ODA 9. Theo dõi, đánh giá, nghiệm thu, quyết toán và bàn giao kết quả. 1. Xây dựng danh mục chương trình, dự án ODA yêu cầu tài trợ đối với từng nhà tài trợ 2. Chuẩn bị chương trình, dự án, bao gồm cả ký kết chương trình, dự án 3. Thực hiện chương trình, dự án 4. Theo dõi và đánh giá chương trình. dự án (bao gồm cả đánh giá sau chương trình, dự án); nghiệm thu, quyết toán và bàn giao kết quả thực hiện chương trình, dự án. Với sự thay đổi các bước như trên của quy trình, quy trình mới đã sát với thực tế cũng như khả năng và lĩnh vực cung cấp ODA của các nhà tài trợ. Với quy trình vận động và sử dụng ODA như trước đây, Nghị định 17/CP quy định khi đưa dự án vào danh mục đề xuất với phía nước ngoài thì cơ quan chủ quản chỉ nộp đề cương rồi tiến hành đàm phán với các nhà tài trợ. Nhiều khi đề cương này chỉ được các đơn vị, cơ quan chủ quản lập khá sơ sài, thậm chí không có tài liệu chứng tỏ đây là một dự án khả thi. Sau khi được phía nước ngoài chấp nhận, các chủ dự án mới lập dự án tiền khả thi và khả thi. Tuy nhiên, do suy nghĩ đã được nhà tài trợ chấp nhận nên các chủ dự án thường cố gắng tô hồng dẫn đến việc ngay cả khi dự án không có khả năng thực thi đứng về mặt kinh tế- tài chính (không có nguồn trả nợ, thiếu nguyên liệu đầu vào hoặc không có thị trường đầu ra cho sản phẩm), chủ dự án vẫn cố gắng thực hiện dự án. Trong quy trình mới, việc chuẩn bị dự án phải được thực hiện trước khi đàm phán ký kết với các nhà tài trợ. Điều này làm cho tính khả thi của các dự án cao hơn rất nhiều so với quy trình trước đây. + Nghị định 181/2004/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2004 nên quy định khung giá đền bù giải phóng mặt bằng cần phải phù hợp với giá thị trường. Các chi phí này cần phù hợp, đảm bảo đời sống của người dân ổn định, ít nhất là bằng hoặc hơn trước thì người dân sẽ sẵn sàng di chuyển. Để đảm bảo sự phù hợp này cần phân cấp cho chính quyền địa phương quyền quyết định mức giá của địa phương mình dựa trên cơ sở khung giá mới quy định của Chính phủ. - Luật Đấu thầu ngày 29 tháng 11 năm 2005 và Nghị định 111/2006/NĐ-CP ngày 19/9/2006 của Chính phủ về đấu thầu áp dụng trong thực tiễn nổi lên một số bất cập, đòi hỏi phải có sự hoàn thiện và chỉnh sửa. Cụ thể: + Nghị định 111/2006/NĐ-CP chủ yếu nặng về những quy định có tính chất chế tài đối với nhà thầu mà thiếu quy định cho bên chủ đầu tư và tư vấn thiết kế giám sát thi công. Trong khi đó quá trình thực hiện dự án nói chung và dự án ODA nói riêng liên quan chặt chẽ với nhà thầu, chủ đầu tư, tư vấn giám sát, thiết kế. Vì thế, để đảm bảo chất lượng dự án, tránh những tiêu cực trong thực tế thì cần phải quy định rõ ràng chế tài xử lý đối với chủ đầu tư và tổ chức thiết kế, giám sát thi công. + Nghị định 111/NĐ-CP chưa có quy định điều chỉnh về việc nhà thầu bỏ giá thấp nhằm thắng thầu nhưng thực hiện không đảm bảo chất lượng. Vì vậy cần có thêm quy định chống phá giá trong bỏ thầu; cho phép chủ đầu tư loại bỏ những nhà thầu có giá thấp khi chủ đầu tư chứng minh được nhà thầu cố tình phá giá để có được gói thầu. + Nghị định cũng cần bổ sung thêm quy định chế tài xử lý nặng đối với những nhà thầu không khai đúng sự thật về khả năng tài chính, kỹ thuật, kinh nghiệm thi công. Có thể là phạt không cho phép tham dự đấu thầu trong một hoặc hai năm. 2. Phát triển nguồn nhân lực trong đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về thu hút và sử dụng vốn ODA Con người là yếu tố quyết định trong mọi hoạt động kinh tế xã hội. Năng lực và trình độ của lực lượng cán bộ quản lý và thực hiện các dự án ODA là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định mức độ hiệu quả trong thu hút và sử dụng vốn ODA. Đào tạo và bồi dưỡng lực lượng cán bộ quản lý, điều phối và sử dụng vốn ODA là một biện pháp quan trọng. Cần phải có một chương trình huấn luyện rộng rãi để tạo ra những thay đổi trong nhận thức về vốn ODA, thái độ và kỹ năng ở các cấp. Ban tư vấn quản lý ODA kết hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư nên đưa ra kế hoạch phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho công tác quản lý và thực hiện các dự án sử dụng vốn ODA trong giai đoạn 2005 - 2010. Căn cứ trên cơ sở này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, các Bộ ban ngành, địa phương, các ban quản lý dự án nên phân tích nhu cầu về đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, từ đó đưa ra kế hoạch thực hiện cụ thể. Đối với các cơ quan quản lý cấp Trung ương (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính...) và các cơ quan quản lý cấp địa phương (Vụ Kinh tế Đối ngoại, Ban Kinh tế Đối ngoại của các Sở Kế hoạch và Đầu tư...) có kế hoạch lựa chọn những cán bộ có năng lực và triển vọng đưa đi đào tạo ở cấp đại học và sau đại học về quản lý dự án và các lĩnh vực có liên quan. Mặt khác, cũng tích cực tổ chức các khoá học do Bộ Kế hoạch và Đầu tư kết hợp với nhà tài trợ, các cuộc hội thảo trao đổi kinh nghiệm quản lý và điều hành dự án ODA. Để đáp ứng được yêu cầu công việc khi Chính phủ thực hiện phân cấp vận động và thẩm định, phê duyệt các dự án ODA cho các địa phương, đối tượng chính cần được đào tạo, bồi dưỡng trước mắt là các cán bộ cấp tỉnh thành phố (thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư). Vì thế, tăng cường công tác đào tạo và bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ còn yếu về năng lực và chưa đủ kinh nghiệm này sẽ tạo điều kiện cho quá trình mở rộng phân cấp quản lý đạt kết quả mong muốn. Cán bộ làm việc trong bộ máy nhà nước, cán bộ của PMU có liên quan đến vốn ODA cần được nâng cao kiến thức về những mặt sau: + Những kiến thức cơ bản về ngoại giao, pháp luật quốc tê, tin học văn phòng, ngoại ngữ. + Các kiến thức về kinh tế thị trường, những phương pháp phân tích chính sách kinh tế, đàm phán ký kết hợp đồng kinh tế. + Cơ cấu tổ chức của PMU, vai trò nhiệm vụ của giám đốc dự án. + Lập tiến độ và quản lý việc thực hiện kế hoạch tiến độ + Quản lý mua sắm hàng hoá + Quản lý tài chính và kế toán dự án + Theo dõi, đánh giá quá trình thực hiện dự án và cách thức sử dụng công nghệ thông tin trong tổ chức thực hiện dự án. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài Chính cần kết hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo (cụ thể là các trường đại học khối Kinh tế ...) hình thành Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho các PMU nói chung và PMU ODA nói riêng với những chương trình giảng dạy mang tính dài hạn và chuyên nghiệp. Trung tâm này đóng vai trò đầu mối và điều phối trong đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho các PMU, vì vậy nó trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư là thích hợp nhất. Đây sẽ là địa chỉ nắm bắt nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng và tăng cường hoạt động chia sẻ, phổ biến rộng rãi thông tin kiến thức kinh nghiệm trong quản lý dự án làm cho mạng lưới đào tạo hiệu quả hơn. Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng một hệ thống tài liệu, giáo trình thống nhất về quản lý dự án trên cơ sở tổng hợp những kiến thức, kinh nghiệm trong và ngoài nước, phù hợp với thực tế Việt Nam và mang tính chuyên nghiệp cao. Muốn vậy, cần có sự kết hợp chặt chẽ với các nhà tài trợ và phải có sự phối hợp hiệu quả giữa các cơ sở đào tạo với nhau. Chính phủ nên quy định rõ mức kinh phí dành cho đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đối với tất cả các dự án ODA. Nó có thể chiếm một tỷ trọng nhất định trong vốn đối ứng (có thể từ 15 đến 20%); hoặc cũng có thể vận động từ phía các nhà tài trợ, để có thể dành một phần đáng kể vốn ODA và có những dự án lớn bằng vốn ODA để đầu tư cho đào tào, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tham gia quản lý, thực hiện các dự án ODA. Công tác điều phối, bố trí và sử dụng cán bộ tham gia vào quản lý dự án ODA cần có những đổi mới. Cán bộ được lựa chọn phải có phẩm chất đạo đức, năng lực tốt, trình độ chuyên môn phù hợp, phải tạo ra đội ngũ cán bộ trẻ, khoẻ, năng động, sáng tạo trong công việc. Khi sử dụng cán bộ không nên thay thế nửa chừng vì sẽ làm chậm tiến độ và giảm hiệu quả quản lý và thực hiện dự án. Mặt khác cần có một cơ chế đánh giá và đãi ngộ thoả đáng với cán bộ. Chế độ lương và phụ cấp cho đội ngũ của PMU cần được tính toán cho hợp lý hơn, tương xứng với năng lực và trách nhiệm của họ. Có thể tham khảo mức lương và phụ cấp đang áp dụng cho các doanh nghiệp nhà nước đặc biệt (lĩnh vực điện lực, viễn thông, dầu khí, bảo hiểm...). 3. Xây dựng quy hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước Xây dựng quy hoạch tổng thể thu hút và sư dụng vốn ODA ở Việt Nam là một biện pháp cấp bách và quan trọng. Nó là công cụ để xác định, đảm bảo vốn ODA được thu hút và sử dụng có trọng điểm, có mục đích rõ ràng. Nó là căn cứ tin cậy thể hiện rõ nhu cầu về vốn ODA tới các nhà tài trợ để các nhà tài trợ căn cứ vào đó xem xét tính hợp lý, tính hiệu quả và khả năng hoàn trả vốn của Việt Nam và đưa ra quyết định tài trợ. Nó cũng là công cụ để hướng dẫn, thúc đẩy mọi nỗ lực của các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện mục tiêu vốn ODA. Quy hoạch tổng thể cũng là căn cứ quan trọng để kiểm tra hiệu quả quá trình thu hút và sử dụng vốn ODA đã đúng tiến độ, đã phù hợp với thực tế và đảm bảo chất lượng sử dụng hay chưa. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng các bộ ngành và địa phương cần tiến hành xây dựng quy hoạch ODA cho giai đoạn 2006 - 2020 trình Thủ tướng chính phủ phê duyệt. Bản quy hoạch này cần xác định rõ vai trò của các dự án ODA trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội từ nay tới năm 2020, chiến lược vận động ODA với từng nhà tài trợ. Bên cạnh đó quy hoạch ODA cần xây dựng danh mục các dự án ưu tiên vận động ODA trong từng thời kỳ, phân theo ngành và lãnh thổ. Trên cơ sở danh mục này, các bộ, địa phương chủ quản chủ động vận động ODA từ các nhà tài trợ thông qua các hội nghị điều phối ODA theo vùng, ngành. Đồng thời trên cơ sở danh mục này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tiến hành xây dựng danh mục hàng năm hoặc 5 năm các dự án ưu tiên vận động ODA cho từng nhà tài trợ và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Việc xây dựng danh mục này sẽ tránh được tình trạng chồng chéo, bảo đảm sự cân đối ODA giữa các ngành và các địa phương. Danh mục này sẽ giúp cho các bộ, địa phương chủ động trong công tác chuẩn bị và xây dựng dự án. Trên cơ sở công tác vận động ODA của các bộ và địa phương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì cùng các cơ quan có liên quan tiến hành đàm phán và ký kết các hiệp định khung về việc sử dụng ODA hàng năm hoặc cho từng thời kỳ bao gồm cả viện trợ không hoàn lại và vốn vay ưu đãi. 4. Mở rộng phân cấp quản lý vốn ODA Nguồn vốn ODA có liên quan đến nhiều cơ quan chức năng ở trong nước trong suốt quá trình từ lúc vận động tài trợ cho đến khi hoàn tất cam kết hoàn trả. Vì vậy việc thiết lập một cơ chế nhằm bảo đảm sự phối hợp nhịp nhàng thông suốt của cả hệ thống tổ chức liên quan đến nguồn vốn này là rất quan trọng và cần thiết. Khắc phục tình trạng quản lý chồng chéo trong giữa các cơ quan trong bộ máy quản lý nhà nước, tạo hành lang pháp lý thống nhất để điều tiết có hiệu quả hoạt động thu hút và sử dụng vốn ODA, cần phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn giữa các cơ quan hữu trách trong việc ra quyết định, trong quản lý nguồn vốn cũng như đơn giản hoá thủ tục hành chính, cần thiết phải lựa chọn một cơ quan chịu trách nhiệm toàn diện từ khâu chuẩn bị dự án đến thực hiện và vận hành khai thác dự án. Có thể nghiên cứu thành lập cơ quan liên ngành làm nhiệm vụ tổng hợp, phân tích thông tin, đánh giá tình hình, xem xét trong mối quan hệ không tách rời với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như tổng sản phẩm quốc nội (GDP), kim ngạch xuất khẩu, cán cân thanh toán, chi tiêu ngân sách... để đề xuất chiến lược vay và trả nợ nước ngoài, trong đó có việc vay và trả nợ vốn ODA. Chủ trương tiếp tục phân cấp quản lý vốn ODA là hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên để chủ trương này phát huy tốt hiệu quả và hạn chế những tồn tại trong thời gian qua thì phải thực hiện các công việc sau: + Bộ Kế hoạch và Đầu tư kết hợp với các Bộ, ngành có liên quan cần soạn thảo và chi tiết hoá nội dung phân cấp quản lý vốn ODA. Cần chỉ rõ chức năng, quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ ngành, địa phương trong phân cấp quản lý. + Tổ chức các cuộc hội thảo dành cho thủ trưởng các Bộ, Ban, ngành, địa phương về phân cấp quản lý vốn ODA. Qua đó giúp họ xác minh được tầm quan trọng và vai trò của họ trong chủ trương phân cấp quản lý vốn ODA, đồng thời tiến hành tổng kết, đánh giá những kết quả và tồn tại trong phân cấp quản lý vốn ODA trong thời gian qua. Từ đó, rút kinh nghiệm và ra phương hướng giải quyết. + Phân định rõ trách nhiệm quyền hạn của các PMU, đặc biệt là quy định mức độ độc lập của quản lý dự án cũng như mức độ phụ thuộc của họ vào cơ quan chủ quản . + Nên nghiên cứu xem xét mô hình tổ chức thực hiện quá nhiều cấp như hiện nay (Ban quản lý dự án Trung ương, Ban quản lý dự án địa phương, Đơn vị thực hiện dự án...). + Cần chống khép kín trong tổ chức bộ máy quản lý đầu tư vốn ODA vì thực chất đây là hình ảnh thu gọn của mô hình nhà nước vừa là “người mua hàng” (công trình) nhưng lại vừa là “người sản xuất”; vừa là người giao thầu, vừa là người nhận thầu, nên dễ dẫn đến đấu thầu chỉ là hình thức, không khuyến khích được cạnh tranh. Đây chính là mảnh đất tạo cơ hội cho thất thoát tham nhũng. Để chống khép kín trong quản lý, cần tổ chức lại các hoạt động tư vấn như lập dự án; điều tra khảo sát, thiết kế, giám sát thi công; lập và thẩm định báo cáo quyết toán...cần được xã hội hoá giao cho các công tư tư vấn trên thị trường đảm nhận. + Có các chế tài đủ mạnh để quản lý nghiêm, đúng pháp luật, đặc biệt là khâu đấu thầu; khâu nghiệm thu, kiểm soát thanh, quyết toán. Để tăng cường quản lý chất lượng công trình, cần kéo dài thời gian bảo hành công trình so với quy định hiện nay. Chất lượng công trình yếu, nhà thầu không được thanh toán hoặc phải bồi thường. Mở rộng phân cấp quản lý vốn ODA cần được tiến hành đồng bộ ở các khâu vận động, phê duyệt và thẩm định dự án ODA. Mở rộng phân cấp trong vận động ODA Nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo của các Bộ, địa phương trong việc tranh thủ và vận động các nguồn viện trợ phát triển phục vụ cho các mục tiêu phát triển của Bộ và địa phương mình, giải pháp phân cấp công tác vận động ODA trong thời gian tới là Thủ tướng Chính phủ chỉ phê duyệt danh mục các dự án ưu tiên vận động ODA trong mỗi thời kỳ và đối với từng nhà tài trợ. Các Bộ, địa phương dựa trên cơ sở danh mục được Chính phủ phê duyệt sẽ chủ động tiến hành vận động ODA cho các dự án thuộc bộ hoặc địa phương mình quản lý. Đối với các dự án sử dụng vốn vay ưu đãi, Bộ Tài chính sẽ phối hợp với các Bộ, địa phương chủ quản và các chủ dự án cùng đàm phán và ký kết với các nhà tài trợ các hiệp định vay vốn cụ thể. Các Bộ và địa phương chủ quản sẽ tiến hành ký kết với các nhà tài trợ các hiệp định cụ thể về viện trợ không hoàn lại. Mở rộng phân cấp trong công tác thẩm định và phê duyệt các dự án ODA Đối với các dự án nhóm A Đối với các dự án sử dụng ODA thuộc nhóm A, hiện các qui định của Chính phủ đòi hỏi Bộ Kế hoạch và Đầu tư thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt dự án khả thi của các dự án này. Như đã trình bày ở phần trên, để tiến hành thẩm định đòi hỏi phải xác định rõ cam kết của nhà tài trợ. Tuy nhiên, theo qui định của các nhà tài trợ, các nhà tài trợ chỉ xem xét tài trợ cho dự án khi đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Để giải quyết vướng mắc này cần tiến hành phân cấp việc phê duyệt các dự án thuộc nhóm A. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ tiến hành thẩm định luận chứng tiền khả thi của các dự án trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và cho chủ trương đầu tư đồng thời uỷ quyền cho các Bộ và địa phương chủ quản xem xét phê duyệt dự án khả thi. Các Bộ và địa phương chủ quản cùng các PMU và các nhà tài trợ xây dựng và hoàn thiện dự án khả thi và tiến hành phê duyệt dự án khả thi, từ đó làm căn cứ đàm phán với nhà tài trợ. Cách làm trên thể hiện sự phân cấp trong quá trình thẩm định và phê duyệt các dự án sử dụng vốn vay ưu đãi thuộc nhóm A, gắn trách nhiệm của chủ dự án, Bộ và địa phương chủ quản đối với hiệu quả của dự án, đồng thời phù hợp với qui định của các nhà tài trợ, qua đó đẩy nhanh tiến độ đàm phán và triển khai thực hiện dự án. Đối với các dự án hợp tác kỹ thuật Cần tiến hành phân cấp triệt để nhằm gắn trách nhiệm của các Bộ, địa phương chủ quản đối với dự án đồng thời giảm gánh nặng cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Thủ tướng Chính phủ. Hiện nay, thay vì thẩm định và trình Thủ tướng các dự án hợp tác kỹ thuật có tổng vốn từ 1 triệu USD trở lên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã giao cho các Bộ và địa phương tổ chức thẩm định và phê duyệt các dự án này. Theo Nghị định 131/2006/NĐ-CP của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ quyết định đầu tư với các chương trình, dự án ODA quan trọng quốc gia, cho phép đầu tư và cho phép thực hiện đối với chương trình, dự án ODA thuộc nhóm A, các chương trình, dự án hỗ trợ kỹ thuật trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng và các chương trình, dự án gắn với khung chính sách mà Chính phủ Việt Nam cam kết với các nhà tài trợ. Các chương trình, dự án ODA còn lại, quyền thẩm tra, thẩm định và quyết định đầu tư được trao cho cơ quan chủ quản. Việc phân cấp này cũng hoàn toàn phù hợp với quá trình đổi mới công tác quản lý ODA của các nhà tài trợ. Hiện nay các nhà tài trợ đang chuyển sang cơ chế xác định các dự án ODA trên cơ sở có sự tham gia của những người thụ hưởng dự án và đề cao vai trò của các Bộ và địa phương chủ quản, đồng thời giảm bớt gánh nặng công việc cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Thủ tướng Chính phủ . Bên cạnh đó, các Bộ và địa phương là những đơn vị nắm rõ hơn ai hết các yêu cầu của chủ dự án về việc nhập khẩu các trang thiết bị, nhu cầu vốn đối ứng, chuyên gia. Do đó, việc phân cấp phê duyệt các dự án hợp tác kỹ thuật sẽ bảo đảm việc phê duyệt chính xác gắn trách nhiệm của cơ quan chủ quản với hiệu quả của dự án. Việc duy trì vai trò của Thủ tướng Chính phủ trong việc thẩm định các dự án ODA quan trọng thể hiện nguyên tắc: ODA là nguồn hỗ trợ của Chính phủ các nước cho Chính phủ ta, Chính phủ ta vay và có trách nhiệm trả nợ. Nếu Chính phủ giao toàn bộ thẩm quyền thẩm định và phê duyệt các dự án ODA cho các Bộ và địa phương thì sẽ không bảo đảm hiệu quả của các khoản vay mà Nhà nước có nghĩa vụ phải trả nợ. Sẽ xuất hiện trường hợp nhiều Bộ và địa phương vì lợi ích cục bộ của mình mà phê duyệt các dự án có hiệu quả thấp hoặc không có hiệu quả. Thông qua việc phân cấp trong công tác thẩm định và phê duyệt các dự án ODA sẽ góp phần hỗ trợ công tác vận động ODA và qua đó nâng cao hiệu quả sử dụng ODA cũng như đẩy nhanh tốc độ giải ngân. 5. Tăng cường công tác giám sát, theo dõi và đánh giá dự án Hiện nay công tác giám sát theo dõi dự án ODA chưa được quan tâm đúng mức, không có chế tài để bảo đảm thực hiện có hiệu quả. Vấn đề đối với công tác giám sát theo dõi dự án không phải là phân cấp hơn nữa mà là tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả, bảo đảm cho các quy định của Nhà nước được tuân thủ nghiêm túc. Các biện pháp cụ thể trong thời gian tới là đẩy mạnh công tác theo dõi và đánh giá dự án thông qua việc thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo định kỳ và báo cáo kết thúc dự án, thực hiện kiểm toán các dự án ODA theo các quy định hiện hành của Việt Nam và của nhà tài trợ. Bộ Kế hoạch và Đầu tư triển khai xây dựng và sớm đưa vào sử dụng hệ thống theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA. Để triển khai thực hiện phương hướng này, trước hết cần hài hoà hệ thống các báo cáo giám sát, theo dõi và đánh giá dự án giữa các nhà tài trợ với nhau và giữa các nhà tài trợ với Chính phủ Việt Nam. Hiện nay, quá trình hài hoà đang được triển khai giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các nhà tài trợ, tuy nhiên kết quả chưa được như mong muốn của các bên. Trong thời gian tới cần đẩy nhanh việc hài hòa các mẫu biểu liên quan đến giám sát, theo dõi và đánh giá dự án theo hướng ứng dụng công nghệ thông tin. Trên cơ sở đó xây dựng hệ thống báo cáo tiến độ thực hiện dự án qua mạng Internet. Các Bộ chuyên ngành cần tham gia tích cực vào quá trình hài hoà thủ tục này nhằm xây dựng hệ thống các biểu mẫu báo cáo phục vụ việc giám sát, theo dõi và đánh giá dự án cho từng lĩnh vực cụ thể (như năng lượng, giao thông vận tải, phát triển đô thị, nghiên cứu khoa học) với những đặc thù riêng của mỗi ngành. Để tăng cường hiệu lực các qui định của Chính phủ về công tác giám sát, theo dõi và đánh giá dự án cần áp dụng các chế tài cần thiết. Một trong các biện pháp có thể áp dụng là ngừng xem xét các dự án mới cho các Bộ, địa phương không thực hiện tốt công tác giám sát, theo dõi và đánh giá dự án. Đối với các dự án đã kết thúc, có thể uỷ quyền cho các Bộ, địa phương chủ quản chủ động phối hợp với các nhà tài trợ triển khai việc đánh giá sau khi kết thúc. Các cơ quan phía Việt Nam cần phải rút ra được các bài học kinh nghiệm quý báu thông qua công tác hậu kiểm, phổ biến rộng rãi các bài học này cho các cơ quan có liên quan. Mặt khác, Chính phủ cũng cần có những quy định nâng cao vai trò tham gia của cộng đồng được hưởng lợi vào dự án, từ đó tăng cường khả năng giám sát dự án thông qua giám sát cộng đồng. Nếu huy động được cộng đồng tham gia vào việc theo dõi giám sát dự án thì sẽ mang lại hiệu quả cao. Thực tế ở Cao Bằng, khi thực hiện một số dự án làm đường thì nhiều người dân hăng hái tham gia giám sát thi công. Họ theo dõi giám sát từng cân ximăng, chăm lo con đường Nhà nước làm như xây ngôi nhà của mình. Không thể có một tổ chức thanh tra nào có đủ người thường trực và toả đi khắp nơi được. Vì thế, nếu dựa vào cộng đồng, dựa vào nhân dân trong giám sát là rất có hiệu quả. Qua đó, buộc các cơ quan quản lý nhà nước phải quản lý chặt chẽ hơn và các nhà thầu thi công phải cẩn thận hơn. Để phát huy vai trò giám sát của cộng đồng thì phải quy định rõ rằng: dự án ngay sau khi có quyết định đầu tư phải công bố công khai nội dung quyết định đầu tư, chương trình, dự án đầu tư (tên dự án, quy mô xây dựng, diện tích sử dụng, nguồn vốn, chủ đầu tư, tiến độ thực hiện, nhà thầu thực hiện) tại địa điểm thực hiện đầu tư, trụ sở Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân địa phương nơi có dự án đầu tư và quy định rõ cơ quan tiếp nhận những ý kiến đóng góp, phản ánh của người dân. Có như vậy mới đưa người thụ hưởng lợi ích của các dự án tham gia vào thực hiện dự án và nâng cao hiệu quả dự án. 6. Giải pháp về cơ chế quản lý tài chính vốn ODA Những nội dung chủ yếu của quản lý cơ chế tài chính trong nước đối với các dự án ODA là cơ chế quản lý ngân sách,vốn đối ứng, cơ chế cho vay lại (lãi suất, trả nợ và thời gian trả nợ), thủ tục rút vốn, thuế đối với các dự án ODA... Cơ chế này cần được xác định rõ ràng thì các chủ thể dự án mới có thể chủ động tính toán hiệu quả tài chính của dự án, nhất là các dự án ODA vốn vay. Cơ chế tài chính trong nước đã dần dần được cải thiện, đã ban hành quy chế vốn đối ứng và thủ tục, quy trình rút vốn đối với các dự án ODA. Tuy nhiên vẫn cần theo dõi chặt chẽ để bảo đảm thực hiện đúng quy trình đồng thời tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh những bất cập mới nảy sinh. Trong giải pháp về cơ chế quản lý tài chính vốn ODA cần thực hiện đồng bộ các giải pháp về phân bổ vốn đối ứng, xác định lãi suất vay lại, đơn giản hoá thủ tục rút vốn, chính sách thuế cũng như điều chỉnh lại cơ cấu chi của vốn ODA. Kịp thời phân bổ vốn đối ứng Vốn đối ứng tuy chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng rất quan trọng để hấp thụ nguồn vốn nước ngoài. Vì vậy, việc phân bổ nguồn vốn này nên linh hoạt hơn so với các nguồn vốn trong nước. Để đáp ứng kịp thời về vốn đối ứng nên cho phép các Bộ, địa phương chủ quản có nhiều quyền hạn hơn trong việc điều chuyển vốn đối ứng giữa các dự án thuộc quyền quản lý và thông báo cho các cơ quan tài chính, kho bạc cấp vốn theo đúng tiến độ. Các Bộ, ngành sẽ chủ động, linh hoạt phân bổ vốn đối ứng cho các dự án thuộc bộ, ngành mình quản lý. Điều này cũng phù hợp với việc phân cấp cho các Bộ, địa phương trong việc phê duyệt các dự án Hợp tác kỹ thuật, bao gồm cả phê duyệt kế hoạch sử dụng vốn đối ứng. Các Ban quản lý dự án cần phải tham gia ngay từ đầu trong quá trình đàm phán với các nhà tài trợ về kế hoạch thực hiện của dự án, và kế hoạch vốn đối ứng để bảo đảm quá trình thực hiện sau này được thông suốt. Các bộ liên quan như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính cần ưu tiên bố trí đầy đủ, kịp thời vốn đối ứng cho các dự án ODA, nguồn vốn này nhiều khi vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cho hoạt động của dự án. Để làm được điều này cần xem xét kỹ, có những tính toán cụ thể, đảm bảo tin cậy trong kế hoạch vốn nước ngoài để sát với khả năng thực hiện khối lượng công việc, tránh các chênh lệch lớn, không đủ vốn đối ứng để thanh toán. Việc cân đối vốn đối ứng trong thời gian tới vẫn tiếp tục được thực hiện từ dưới lên và dựa trên nhu cầu thực tế của các chủ dự án. Các chủ dự án, căn cứ vào kế hoạch triển khai của dự án trong năm kế hoạch, trình Bộ và địa phương chủ quản nhu cầu vốn đối ứng trong năm kế hoạch. Việc xác định nhu cầu vốn đối ứng cũng cần phù hợp với kế hoạch giải ngân nguồn vốn ODA của các nhà tài trợ. Vấn đề xác định nhu cầu vốn đối ứng cần phải được quan tâm xác định từ giai đoạn xây dựng dự án và đàm phán với từng nhà tài trợ. Trong quá trình xây dựng kế hoạch thực hiện dự án, kế hoạch di dân giải phóng mặt bằng cần được xây dựng sát với thực tế, phù hợp với tiến độ xây dựng cơ bản, tránh tập trung công tác này vào giai đoạn đầu của dự án làm tăng đột biến nhu cầu vốn đối ứng trong giai đoạn đầu của dự án. Ngân sách nhà nước nên có một nguồn dự phòng dành riêng cho các dự án ODA. Nguồn dự phòng này sẽ được sử dụng trong các trường hợp bổ sung kế hoạch vốn đối ứng cho các dự án có hiệu lực sau kỳ lập kế hoạch, các dự án thiếu vốn đối ứng để nộp thuế, hỗ trợ địa phương không đủ vốn đối ứng... Vốn đối ứng cần được giao theo đúng địa chỉ của từng chương trình, dự án ODA cụ thể, không được bố trí tuỳ tiện cho các mục tiêu khác. Xác định lãi suất cho vay lại của các khoản vốn ODA Vốn ODA do Chính phủ trực tiếp vay và trả nợ. Hiện nay, Bộ Tài Chính là cơ quan được Chính phủ uỷ quyền thực hiện chức năng nói trên. Lãi suất cho vay lại là một công cụ điều phối quản lý và sử dụng vốn ODA cho vay lại với lãi suất cao hơn, thời gian ngắn hơn nhằm đem lại một nguồn thu cho ngân sách nhà nước, đồng thời Nhà nước cũng thực hiện được nhiệm vụ tham gia điều phối trực tiếp nguồn vốn ODA. Các nhà tài trợ cũng khuyến khích hoặc yêu cầu Chính phủ Việt Nam thực hiện cơ chế cho vay lại bởi vì sự ưu đãi của ODA dành cho toàn thể nhân dân chứ không phải cho những doanh nghiệp cụ thể. Chính phủ cần sớm ban hành quy chế cho vay lại vốn ODA trong đó xác định rõ ngành, vùng, lĩnh vực ưu tiên, lãi suất cho vay lại đối với từng ngành, vùng, lĩnh vực. Tính đúng lãi suất cho vay lại vừa bảo đảm sự công bằng về lợi ích kinh tế, sự bình đẳng trong cạnh tranh, khuyến khích tính tích cực, năng động của các ngành, các cấp, cơ sở trong khai thác vốn ODA. Vì vậy, việc cho vay lại nguồn vốn ODA phải dựa trên cơ sở các nguyên tắc: - Vốn ODA cho vay lại phải được đầu tư đúng mục đích sử dụng và bảo đảm thực hiện đúng các ưu đãi hỗ trợ phát triển nguồn vốn này. Các thoả thuận về các điều kiện vay, kể cả các ưu đãi được ghi trong các hiệp định vay về cơ bản phải đảm bảo cho các đối tượng sử dụng vốn ODA thụ hưởng, không dành những ưu đãi này cho các đối tượng khác. - Thực hiện vay và hoàn trả vốn gốc và lãi đúng hạn theo các hiệp định đã ký kết với các nhà tài trợ. - Lãi suất cho vay lại cho vay lại cho các dự án thuộc cùng một ngành, một lĩnh vực và ở một vùng phải đảm bảo cùng một mức lợi ích, bất kể là nguồn tài trợ nào. - Thống nhất dùng một đồng tiền quốc tế ổn định làm phương tiện thanh toán giữa Nhà nước và đơn vị được vay vốn ODA. - Lãi suất vay lại được xác định cao như lãi suất thị trường. Đối với các khoản vốn ODA cho các doanh nghiệp đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng sản xuất thì các doanh nghiệp luôn muốn vay với lãi suất thấp còn cơ quan quản lý của Chính phủ thì lại muốn cho vay với lãi suất cao để gắn trách nhiệm của họ trong quá trình trả nợ. Các doanh nghiệp vay vốn ODA đều là các doanh nghiệp nhà nước, đã được hưởng rất nhiều các ưu đãi từ phía Nhà nước. Khi các doanh nghiệp vay vốn ODA thì họ đã được hưởng ưu đãi của nguồn vốn này về thời gian vay và ân hạn, thường là 20-30 năm. Vì vậy giải pháp cho việc xác định lãi suất cho vay lại cần xác định ở mức cao như lãi suất thị trường nhằm gắn trách nhiệm của các doanh nghiệp vay lại với việc trả nợ và tạo nguồn thu nhất định cho ngân sách nhà nước. Điều đó cũng hỗ trợ cho Nhà nước hoàn trả được gốc và lãi phần vốn ODA dùng cho hỗ trợ ngân sách. Đơn giản hoá thủ tục rút vốn Chính phủ Việt Nam đã rất nỗ lực trong việc đơn giản hoá thủ tục rút vốn nhưng vấn đề này lại phụ thuộc nhiều vào các nhà tài trợ. Mỗi nhà tài trợ đưa ra một quy định rút vốn riêng cho chương trình, dự án ODA của mình. Vì vậy, cần đạt tới sự hài hoà thủ tục rút vốn của Việt Nam và quy định của các nhà tài trợ. Nhà nước cần có chính sách thuế phù hợp, áp dụng thống nhất cho các dự án ODA Đây là một vấn đề rất phức tạp trong thực hiện dự án. Vì vậy, cần thường xuyên tổ chức các hội thảo chuyên đề về thuế do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, mời Tổng cục thuế hướng dẫn. Nhà nước cần có chính sách thuế áp dụng thống nhất cho các dự án ODA. Các dự án có quy mô tương tự nhau được triển khai trong những điều kiện và cùng một lĩnh vực phải được hưởng cùng một chính sách thuế. Điều chỉnh lại cơ cấu chi của nguồn vốn ODA - Giảm tỷ lệ vốn ODA chi cho ngân sách nhà nước. Hiện nay, tỷ lệ này là 37,7%, chi cho các lĩnh vực mở rộng và nâng cấp đường xá. Để giảm bớt tỷ lệ vốn ODA cho các các lĩnh vực này, Chính phủ có thể kêu gọi sự đầu tư của nhân dân, của các doanh nghiệp trong nước và các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua hình thức BOT. Trên thực tế, hình thức này đã thành công: “ Năm 2001, Chính phủ đã cho thực hiện 7 dự án theo hình thức BOT với tổng trị giá 13 160 tỷ đồng thực hiện trong 5 năm: đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh đi Cần Thơ, đường cao tốc Nội Bài – Hạ Long, đường cao tốc Hồ Chí Minh- Long Thành- Dầu Dây, cầu Yên Lệnh, cầu rạch Miễu, cầu Vàm Cống. Ngoài ra, Chính phủ chấp nhận 11 dự án trong giai đoạn 2001- 2005, và 13 dự án trong giai đoạn 2005 – 2010”. - Tăng tỷ lệ cho vay lại đối với các doanh nghiệp. Hiện nay tỷ lệ vốn ODA cho các doanh nghiệp vay lại trung bình đạt khoảng 57%. Việc tăng tỷ lệ cho vay lại của vốn ODA thể hiện rõ đây là nguồn vốn có vay có trả. Các dự án sử dụng vốn ODA phải đảm bảo tính khả thi để thu hồi cả vốn lẫn lãi, loại bỏ tư tưởng xin- cho hoặc Nhà nước cấp cho các doanh nghiệp. 7. Khuyến khích sự tham gia của tư nhân vào các dự án ODA Trong các dự án ODA, sự đầu tư độc quyền của nhà nước không đáp ứng đủ nhu cầu cả theo nghĩa rộng lẫn sâu về lượng và chất. Sự bất cập và tiêu cực (tham nhũng, cửa quyền...) trong việc quản lý ODA của các doanh nghiệp Nhà nước ngày càng tăng do cơ chế quản lý bao cấp, độc quyền của Nhà nước trong các dự án ODA khiến cho dân chúng và các khu vực kinh tế tỏ ra thất vọng. Thực tế cho thấy năng lực quản lý và sử dụng còn hạn chế, chẳng hạn như vụ PMU 18; đồng thời nó cũng gián tiếp tạo ra tâm lý ỷ lại, sự quản lý và thi công bừa bãi, không biết tiết kiệm. Hậu quả là số lượng và chất lượng các dự án được đầu tư tuy có tăng nhưng tăng không tương ứng với hiệu quả sử dụng vốn và yêu cầu phát triển, nợ nước ngoài ngày một lớn do tình trạng “cha chung không ai khóc”, nguồn vốn ODA do nhà nước chịu trách nhiệm-mang tính tập thể nên tính cưỡng chế và trách nhiệm đối với hiệu quả sử dụng cũng kém. Do vậy cần khuyến khích sự tham gia của tư nhân vào lĩnh vực này. Công ty tư nhân bị chi phối bởi các mục tiêu thương mại. Do vậy sẽ có những nỗ lực đưa chi phí đến mức tối thiểu và tăng lợi nhuận đến mức tối đa bằng cách áp dụng công nghệ mới, không ngừng đổi mới, cải tiến bí quyết quản lý và vốn, tăng năng suất lao động. Mặt khác, công ty tư nhân phải đối mặt với nguy cơ phá sản hoặc bị công ty khác thâu tóm nếu làm ăn tồi, các khoản chi vượt dự toán quá lớn. Sự tham gia của khu vực tư nhân vào quản lý và sử dụng ODA mang lại hàng loạt lợi ích. Những lợi ích này bao gồm việc thực hiện tốt hơn, tầm bao phủ rộng hơn và tính bền vững cao hơn nhờ vào hiệu quả đạt được với năng lực quản lý, sự sáng tạo, khả năng thu hồi chi phí cao hơn và việc sử dụng kỹ thuật tiên tiến của khu vực tư nhân. Theo nghiên cứu gần đây nhất của 3 Ngân hàng (WB, JBIC, ADB) nghiên cứu về Kết nối Đông á cho thấy rằng, trong một môi trường được khuyến khích thoả đáng, các nhà cung cấp dịch vụ tư nhân làm tốt hơn các nhà cung cấp dịch vụ thuộc khu vực công cộng. Điều này không phải là do bản chất sử hữu tư nhân, mà do những nhà cung cấp thuộc khu vực tư nhân nhanh nhạy hơn với sự cạnh tranh và các hình thức khuyến khích. Nói một cách khác, việc sử dụng các động lực để duy trì trách nhiệm thực hiện đối với khu vực tư nhân sẽ dễ dàng hơn là làm điều này đối với khu vực công cộng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6055.doc
Tài liệu liên quan