Kế hoạch thương mại quốc tế giai đoạn 2006 – 2010

Phát triển xuất khẩu với tốc độ cao và bền vững, làm động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP. Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hang và sản phẩm dịch vụ có lợi thế cạnh tranh đồng thời tích cực phát triển các mặt hang khác có tiềm năng thành những mặt hang xuất khẩu chủ lực mới theo hướng nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng xuất khẩu những mặt hang có giá trị gia tăng cao, tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và tri thức cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô. Phấn đấu đưa tổng kim ngạch xuất khẩu hang hóa đạt 68-69 tỷ USD vào năm 2010. Và 259 tỷ USD trong năm 2006-2010, gấp 2.3 lần so với 5 năm trước và tốc độ tăng 16%.

doc41 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 849 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kế hoạch thương mại quốc tế giai đoạn 2006 – 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó được từ xuất khẩu hàng hoá tạo khả năng nhập khẩu công nghệ, máy móc thiết bị và nguyên liệu cần thiết cho sự phát triển các ngành công nghiệp. 1.2.3. Kế hoạch xuất khẩu sản phẩm : Nội dung của kế hoạch xuất khẩu sản phẩm bao gồm : xác định quy mô, tốc độ xuất khẩu sản phẩm, danh mục sản phẩm xuất khẩu chủ lực, cơ cấu sản phẩm xuất khẩu và thị trường xuất khẩu chủ yếu. Quy mô, tốc độ xuất khẩu phụ thuộc vào quy mô, tốc độ tăng trưởng kinh tế và sự biến động trên thị trường quốc tế. Với các nước đang phát triển có nguồn tài nguyên thiên nhiên, tạo điều kiện cho xuất khẩu sản phẩm thô đã tạo ra những thuận lợi nhất định cho sự phát triển kinh tế, góp phần tạo nguồn vốn tích luỹ ban đầu cho công nghiệp hoá, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự phát triển kinh tế theo chiều rộng. Tuy vậy việc xuất khẩu sản phẩm vẫn gặp nhiều hạn chế: Sự không ổn định của nguồn cung sản phẩm thô, nguồn cung sản phẩm này chịu sự tác động nhiều của điều kiện tự nhiên như thơi tiết, khí hậu. Cầu sản phẩm thô bị chi phối bởi quy luật tiêu thụ sản phẩm. Mặt khác do tác động của khoa học công nghệ làm cho định mức tiêu hao nguyên, vật liệu có xu hướng giảm và tạo ra được những nguyên, vật liệu nhân tạo thay thế nguyên, vật liệu tự nhiên. Giá cả xuất khẩu sản phẩm thô cũng không ổn định và có xu hướng giảm so với hàng công nghệ. Nội dung cuối cùng trong kế hoạch xuất khẩu sản phẩm là định hướng thị trường xuất khẩu. Đây được coi là vấn đề quan trọng có ý nghĩa quyết định đến tính khả thi của kế hoạch. Việc có được thị trường xuất khẩu nghĩa là xác định được nhu cầu của sản phẩm trên thị trường quốc tế. Nguyên tắc chung đối với vấn đề này là đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, giữ vững và mở rộng thị trường truyền thống, đồng thời tích cực tìm thêm thị trường mới. 1.2.4. Kế hoạch nhập khẩu sản phẩm: Cũng như kế hoạch xuất khẩu, nội dung của kế hoạch nhập khẩu bao gồm việc xác định quy mô, tốc độ, danh mục và cơ cấu sản phẩm nhập khẩu. Đối với các nước đang phát triển mục tiêu của việc nhập khẩu hàng hoá trước hết là đảm bảo cho nhu cầu sản xuất trong nước, do đó cần ưu tiên cho nhập khẩu máy móc, thiết bị, nhiên liệu. Căn cứ để xây dựng kế hoạch nhập khẩu là : khả năng tăng trưởng kinh tế, theo đà tăng lên của thu nhập, một mặt nhu cầu máy móc, thiết bị và nguyên liệu, vật liệu tăng lên, mặt khác nhu cầu trong nước với hàng tiêu dùng trên thị trường quốc tế cũng tăng. Việc nhập khẩu hàng hoá nhằm chuyển dịch cơ cấu ngành, nếu nền kinh tế có cơ cấu ngành hợp lý, nhu cầu nhập khẩu sẽ giảm đi. Việc nhập khẩu hàng hoá chủ yếu dựa vào kim ngạch xuất khẩu, do đó xác định quy mô, tốc độ nhập khẩu cần phải đảm bảo sự tương quan về quy mô và tốc độ xuất khẩu. Nguyên tắc chung là phải tiến tới cân bằng được cán cân xuất- nhập khẩu, sau đó là xuất siêu. 2. Vai trò của kế hoạch thương mại quốc tế : Xác định quy mô và tốc độ hoạt động xuất - nhập khẩu đảm bảo phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình hội nhập đất nước. Quy mô và tốc độ hoạt động ngoại thương phản ánh khả năng phát triển ngoại thương thông qua mức gia tăng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu và xuất khẩu thuần. Chỉ tiêu này cũng phản ánh vai trò của hoạt động ngoại thương đóng góp vào sự phát triển kinh tế. Xác định danh mục sản phẩm xuất khẩu chủ yếu, đảm bảo phát huy được lợi thế so sánh của đất nước và hiệu quả kinh tế của đất nước và hiệu quả kinh tế vủa xuấ khẩu. Xác định danh mục các sản phẩm nhập khẩu , đảm bảo phục vụ cho sản xuất trong nước. Đối với các nước đang phát triển nhu cầu sản phẩm nhập khẩu rất lớn, do khả năng sản xuất trong nước còn hạn chế, khả năng nhập khẩu lại phụ thuộc vào kim ngạch xuất khẩu. Do đó cần phải xác định các loại sản phẩm ưu tiên nhập khẩu, đặc biệt là máy móc, thiết bị phục vụ cho sản xuất, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng, nhất là hàng tiêu dùng xa xỉ . Định hướng phát triển thị trường xuất khẩu sản phẩm. Để thúc đẩy phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu thì thị trường luôn được coi là mặt mạnh, là yếu tố quyết định. Thị trường cho sản phẩm xuất khẩu là thị trường ngoài nước. Do đó để tạo điều kiện cho doanh nghiệp xuất khẩu đựơc sản phẩm, nhà nước cần có những định hướng về thị trường để từ đó xúc tiến mở rộng những thị trường này phục vụ cho hoạt động xuất khẩu. Đề ra các chính sách biện pháp hợp lý để thúc đẩy hoạt động xuất-nhập khẩu. Chương II Kế hoạch thương mại quốc tế giai đoạn 2006 – 2010 I. Kế hoạch thương mại quốc tế 2006-2010. 1. Xuất khẩu : 1.1. Mục tiêu : Phát triển xuất khẩu với tốc độ cao và bền vững, làm động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP. Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hang và sản phẩm dịch vụ có lợi thế cạnh tranh đồng thời tích cực phát triển các mặt hang khác có tiềm năng thành những mặt hang xuất khẩu chủ lực mới theo hướng nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng xuất khẩu những mặt hang có giá trị gia tăng cao, tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và tri thức cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô. Phấn đấu đưa tổng kim ngạch xuất khẩu hang hóa đạt 68-69 tỷ USD vào năm 2010. Và 259 tỷ USD trong năm 2006-2010, gấp 2.3 lần so với 5 năm trước và tốc độ tăng 16%. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu, dự kiến khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất khẩu ( không kể dầu thô ) trong 5 năm tới 106,5 tỷ USD, tăng 22.3% / năm . Nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản dự kiến 86 tỷ USD, tăng 13,2%/năm. Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp 111.2 tỷ USD, tăng 18.4%/năm, nhóm hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản 61,45 tỷ USD, tăng 15.6%/năm. 1.2. Nhiệm vụ phát triển các nhóm và mặt hàng chủ yếu Nhóm nguyên, nhiên liệu (dầu thô, than đá ): Dự kiến lượng xuất khẩu tăng chậm, tiến tới hạn chế dần xuất khẩu để sử dụng cho sản xuất trong nước. Lượng xuất khẩu dầu thô của nước ta sẽ giảm dần, thời kỳ 2006 – 2010 đạt khoảng 87 triệu tấn, than đá 52 triệu tấn. Nhóm hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản (thủy sản, gạo, cà phê, cao su ) tập trung thúc đẩy phát triển những sản phẩm lợi thế có năng suất cao, đảm bảo chất lượng quốc tế và giá trị gia tăng cao Thời kỳ 2006-2010, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu nhóm hang nông, lâm, thủy sản trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa cả nước có xu hướng giảm dần và đến năm 2010 là 24.1% Tăng cường hàm lượng chế biến trong thủy sản xuất khẩu để nâng cao giá trị gia tăng. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu thủy sản giai đoạn tới sẽ tăng 12.8%/năm, năm 2010 là 5.0 tỷ USD. Mặt hàng gạo khó có khả năng tăng mạnh, cần nâng cao chất lượng và hàm lượng chế biến của gạo xuất khẩu, tập trung phát triển những loại gạo có giá trị cao được thị trường ngoài nước ưa chuộng. Dự kiến lượng gạo xuất khẩu không tăng so với thời kỳ trước, giữ ở mức 4 triệu tấn / năm. Chú trọng nâng cao chất lượng và hàm lượng chế biến đối với cà phê xuất khẩu, đồng thời phải tích cực áp dụng các phương thức giao dịch, kinh doanh cà phê hiện đại của thế giới để giảm thiểu rủi ro giá cả. Năm 2010, dự kiến xuất khẩu 0.9 triệu tấn. Tập trung phát triển chè sạch, nâng cao chất lượng chè xuất khẩu, đẩy mạnh chế biến để xuất khẩu nhiều hơn các sản phẩm chè, tích cực gia tăng thị phần tại các thị trường tiêu thụ chè lớn của thế giới như Anh, Nga, Trung Đông qua đó nâng cao được giá chè xuất khẩu của nước ta . Dự kiến xuất khẩu chè tăng 8.1%/năm, năm 2010 đạt 130 nghìn tấn. Giảm tỷ trọng xuất khẩu mủ cao su thiên nhiên sơ chế, tập trung đầu tư sản xuất, chế biến trong nước để có thể xuất khẩu các sản phẩm từ cao su. Dự kiến tốc độ tăng 7.7%/năm, năm 2010 đạt 0.85 triệu tấn Phấn đấu duy trì về phát triển sản xuất và xuất khẩu hạt điều và hạt tiêu. Dự kiến tới năm 2010 kim ngạch xuất khẩu hạt điều đạt 1 tỷ USD , hạt tiêu 300 triệu USD tăng tương ứng là 14.7%và 14.8%/ năm Nhóm sản phẩm chế biến và chế tạo (dệt may , giày dép, thủ công mỹ nghệ sản phẩm gỗ , dây điện và cáp điện , cơ khí đóng tàu , thực phẩm chế biến ) ngoài hai mặt hàng chủ lực là dệt may và giầy dép , cần tăng cường phát triển xuất khẩu các mặt hàng mới như đóng tàu biển, các sản phẩm gỗ, hóa phẩm tiêu dung, sản phẩm nhựa Dự kiến thời kỳ 2006-2010 việt nam đã trở thành thành viên WTO, do đó xuất khẩu dệt may của nước ang thị trường thế giới sẽ gặp nhiều thách thức, đặc biệt là cạnh tranh với các nước trong khu vực Châu Á. Để nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may nước ta cần thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ, từ hạ giá thành sản xuất, đa dạng hóa kiểu dáng, mẫu mã cho tới liên kết hợp tác trong ngành, xây dựng thương hiệu, tập trung vào những thị trường có lợi thế , hình thành các trung tâm giao dịch, các chợ đầu mối cung cấp nguyên, phụ liệu dệt may. Dự kiến xuất khẩu dệt may 2006-2010 tăng 15.6%/năm, năm 2010 khoảng 10 tỷ USD Giày dép là nhóm hàng chủ lực, phấn đấu kim ngạch xuất khẩu giày dép tăng 16.4%/năm năm 2010 khoảng 6.5 tỷ USD. Cần tập trung vào nhóm mặt hàng giày dép cấp cao phục vụ các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU. Ngoài ra, tăng tỷ lệ về nguyên liệu sản xuất trong nước, tự thiết kế kiểu dáng, mẫu mã. Sản phẩm gỗ là nhóm hàng cần được khuyến khích, đẩy mạnh xuất khẩu trong những năm tới. Tuy nhiên cần chú trọng phát triển nguồn nguyên liệu ổn định, liên kết sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp trong ngành để tăng quy mô và khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường nước ngoài, cải thiện khả năng thiết kế, ang tạo mẫu mã sản phẩm. Kết hợp sử dụng nguyên liệu gỗ với các nguyên liệu khác (kim loại , gốm sứ , mây tre) để đa dạng hóa và tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm Dự kiến giá trị xuất khẩu sản phẩm gỗ nước ta sẽ tăng 26.2%/năm, năm 2010 đạt 5 tỷ USD. Tập trung xuất khẩu hàng điện tử và tin học, các sản phẩm phần mềm. Dự kiến tốc độ tăng của nhóm hàng điện tử, vi tính và linh kiện khoảng 23%/năm, năm 2010 đạt kim ngạch 4 tỷ USD. Thị trường của mặt hàng này trên thế giới dự báo diễn biến thuận lợi với nhu cầu ngày càng tăng. Dự kiến kim ngach sản xuất, gia công phần mềm đạt trên 600 triệu USD vào năm 2010 . Phấn đấu đưa tổng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ đạt khoảng 8 tỷ USD vào năm 2010 và khoảng 34-35 tỷ USD vào giai đoạn 2006-2010, trong đó tập trung vào một số lĩnh vực dịch vụ có khả năng thu ngoại tệ như du lịch, sữa chữa tàu biển, xuất khẩu lao động và chuyên gia 2. Nhập khẩu: 2.1. Mục tiêu: Kiềm chế được nhập siêu, phấn đấu tiến tới cân bằng hợp lý cán cân xuất – nhập khẩu, ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến, giữ thế chủ động trong nhập khẩu, tập trung vào nhập thiết bị hiện đại từ các nước có công nghệ nguồn giảm nhanh và tiến tới hạn chế nhập thiế bị công nghệ lạc hậu hoặc công nghệ trung gian hạn chế nhập khẩu hàng hóa vật tư thiết bị cũng như hàng tiêu dùng trong nước có thể sản xuất và đáp ứng được . Tốc độ tăng nhập khẩu đạt khoảng 14.7%/năm. Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tăng từ 36.9 tỷ USD năm 2005 lên 73.5 tỷ USD năm 2010 và 286.5 tỷ USD trong cả 5 năm. 2.2. Định hướng các mặt hàng nhập khẩu: Nhóm hàng máy móc thiết bị và phụ tùng gồm các loại như ô tô, linh kiện ô tô xe máy và các loại máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng phục vụ sản xuấ. cần ưu tiên nhập khẩu của các nước phát triển có nền công nghiệp chế tạo tiên tiến. Chú trọng dây truyền công nghệ vừa đáp ứng được chất lượng, giá cả,và điều kiện của Việt Nam. Dự kiến 5 năm tới kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này đạt 93.4 tỷ USD, tăng 15.2%/năm. Nhóm nguyên , nhiên , vật liệu bao gồm xăng dầu , phân Urê, thép , thép thành phẩm và phôi thép , các mặt hàng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất như bông sợi , chất dẻo ,giấy , tân dược , hóa chất , nguyên phụ liệu may ,giày dép , vải Dự kiến kim ngạch nhập khẩu cả 5 năm đạt 174.2 tỷ USD , chiếm tỷ trọng trên 60.8%, tăng 14.4%/năm . Tập trung nhập khẩu các mặt hàng: xăng dầu tăng 5.1%/năm; phôi thép tăng 9.5%/năm; nguyên phụ liệu dệt , may, da tăng 12%/năm; bông sơ và sợi các loại tăng 13%/năm; chất dẻo tăng 20.6%/năm Nhóm hàng tiêu dùng dự kiến kim ngạch nhập khẩu 5 năm là 18.9 tỷ USD, tăng 16.3%/năm.Tổng số nhập siêu 5 năm là 27.8 tỷ USD, bằng 11 % tổng kim ngạch xuất khẩu (2001- 2005 nhập siêu là 17.4%) II. Tình hình thực hiện kế hoạch thương mại quốc tế 2006-2008. 1. Xuất khẩu: 1.1. Kết quả: 1.1.1. Quy mô, kim ngạch xuất khẩu: Kim ngạch Xk và tăng cao, đặc biệt là sau hôi nhập WTO: 2006 2007 Giá trị(tỷ USD) 39,8262 48,5 Tốc độ tăng(%) 22,7 21,5 Năm 2006 tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 39,8262 tỉ USD vượt kế hoạch đặt ra 2,0762 tỉ USD ( kế hoạch đặt ra là 37,750 tỉ USD ), tăng 22,7% so với năm 2005 ( tăng 7,163 tỉ USD về giá trị ), chiếm 65% GDP. Năm 2007 kim ngạch XK, năm đầu tiên chính thức hội nhập WTO đạt 48.5 tỷ USD, tăng 21.5% so với năm 2006, tăng 33.9% so với kim ngạch XK bình quân 2 năm 2005-2006, 8 tháng đầu năm 2008 đạt 43,3 tỷ USD, tăng 39,1% so với cùng kỳ 2007 và cao hơn 16,5% so với tốc độ tăng bình quân trong 2 năm trước hội nhập. Bình quân chung tốc độ tăng kim ngạch XK của gần hai năm sau khi nước ta gia nhập WTO cao hơn 7,7% so với năm 2005- 2006, điều này chứng tỏ độ mở của nền kinh tế Việt Nam sau khi hội nập WTO đã mở rộng hơn so với trước đó. Nhập siêu năm 2007 là 12,4 tỷ USD, gấp 2,7 lần mức nhập siêu bình quân 2005-2006. Về tỷ lệ nhập siêu năm 2007 là 25,7%, 8 tháng đầu năm 2008 là 34,5%, tỷ lệ nhập siêu năm 2007 đã gấp 2lần và 8 tháng đầu năm 2008 gấp 2,7lần với tỷ lệ nhập siêu bình quân trong 2005-2006 Thị phần XK của khu vực kinh tế trong nước thấp hơn khu vực FDI. Kim ngạch xuất khẩu của khu cực kinh tế trong nước năm 2007 đạt 20,6 tỷ USD, chỉ chiếm 42,5% tổng kim ngạch XK, tăng 22,3% so với năm 2006, 8 tháng đầu năm 2008 đạt 19,7tỷ USD, chiếm 45,5%, tăng 44,6% so với kỳ năm 2007. Tương tự của khu vực FDI là năm 2007 đạt 27,8 tỷ USD, chiếm 57,5%, tăng 20,9% , 8 tháng đầu năm 2008 đạt gần 24tỷ USD, chiếm 54,5%, tăng 34,8% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của khu vực trong nước so với khu vực FDI: năm 2007 thấp hơn 15% và 8tháng đầu năm 2008 thấp hơn 9%. Tuy nhiên cơ cấu này đã bắt đầu chuyển đổi , cụ thể thị phần xuất khẩu khu vực kinh tế trong nước tăng thêm 3%, khu vực kFDI đã giảm đi 3%. 1.1.2. Cơ cấu XK theo nhóm hàng: Mặt hàng xuất khẩu Năm 2006 Năm 2007 Giá trị % Giá trị % Tổng số 39826,2 100 48560,0 100 Hàng CN nặng và khoáng sản 14428,6 36,23 16000,0 32,95 Hàng CN nhẹ và TTCN 16389,6 41,15 21598,0 44,48 Hàng nông, lâm, thuỷ sản 9008,0 22,6 10963,4 22,58 Theo như bảng số liệu ở trên, hàng công nghiệp nhẹ và TTCN chiếm tỷ lệ cao nhất 44,48% , hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm 32,5 %, hàng nông, lâm, thuỷ sản chiếm 22,58%. Tuy rằng năm 2007 xuất khẩu dầu thô giảm đạt 15,1 triệu tấn, thấp hơn cùng kỳ năm 2006 8,3% nhưng vẫn đứng đầu về giá trị (8,4 tỷ chiếm 17,36% kim ngạch xuất khẩu). Các mặt hàng CN nhẹ và TTCN tăng về quy mô 5298,4 triệu USD so với năm 2006 nhưng ngành này nhập khẩu đến hơn 50% nguyên liệu đầu vào. Nhìn cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam ta thấy một thực trạng đáng buồn là hầu hết các mặt hàng này là gia công chế biến hoặc sản phẩm thô mới qua sơ chế giá trị gia tăng nhỏ, cơ cấu các mặt hàng hầu như không được thay đổi và không có sản phẩm công nghệ cao. Các doanh nghiệp ViệtNam chủ yếu chỉ dừng lại ở việc nhận gia công theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp nước ngoài (dệt may, giày dép), và chế biến thô; chưa đầu tư công nghệ cao vào sản xuất. Điều này phản ánh khả năng cạnh tranh yếu và dễ bị tổn thương về giá.. 1.1.3. Cơ cấu XK theo thị trường: Châu Á có nhiều nước nhất quan hệ buôn bán với nước ta , đạt con số gần 50 nước và chiếm thị phần kim ngạch XNK chiếm khoảng 15%, Châu Mỹ có khoảng 40 nước với thị phần kim ngạch XNK từ 12-13%. Châu Phi cũng từ 45- 50 nước, nhưng thị phần XNK còn rất nhỏ, chỉ chiếm khoảng 1% và Châu Đại Dương từ trên 10- 20 nước và thị phần XNK chiếm 5-6%. Chia theo thị phần kim ngạch XK thì Châu Á chiếm từ 45-50%, trong đó các nước Đông Á khoảng 30%, Tây Á khoảng 1,5%, Trung Nam Á chiếm rất nhỏ, chưa đến 1% . Thứ hai là châu Mỹ chiếm thị phần từ 21 – 23%, trong đó chủ yếu là các nước Bắc Mỹ chiếm khoảng 20% còn khu vực Mỹ La Tinh và Caribe chỉ từ 1,5 – 2%. Thứ ba là châu Âu từ 18 – 20%, trong đó chủ yếu là khu vực Tây Âu chiếm khoảng 10%, tiếp đến là khu vực Bắc Âu khoảng 4%, Nam âu khoảng 3% và Đông Âu chỉ từ 1.5 – 2%. Thứ tư là châu Đại dương có thị phần từ 7 – 10%, trong đó củ yếu là thị trường Úc và Niudilan chiếm từ 7 – 9%, các thị trương châu Đại dương khác chiếm rất nhỏ không đáng kể . Thị trường Châu phi chiếm từ 1,5 – 2% thị phần xuất khẩu cả nước. Đến năm 2007 đã có 13 thị trường đạt kim ngạch XK trên 1 tỷ USD, đứng đầu là thị trường Mỹ đạt tròn 10 tỷ USD, chiếm 20,8% thị phần; thứ hai là Nhật Bản, đạt gần 6,1 tỷ USD, chiếm 12,5%; thứ ba là Trung Quốc đạt gần 3,4 tỷ USD, hiếm 6,9%; thứ tư là Úc đạt gần 3,6 tỷ USD, chiếm 7,3 %, thứ năm là Singapore đạt 2,2 tỷ USD, chiếm 4,5%, thứ sáu là thị trường Anh đạt hơn 1,4 tỷ USD, chiếm 2,9%, thứ 7 là thị trường Đức đạt gần 1,9 tỷ USD chiếm 3,85, thứ tám là Malaysia, đạt gần 1,4 tỷ USD, chiếm 2,9%; thứ chín là Hà Lan đạt gần 1,2 tỷ USD, chiếm 2,65; thứ mười là Đài Loan và Indonexia đạt hơn 1,1 tỷ USD chiếm 2,3% và thứ 13 là Thái lan đạt hơn 1 tỷ chiếm 2%. Mặt hàng đạt kim ngạch XK trên 1 tỷ USD/năm: Đứng đầu là các mặt hàng XK nước ta là dầu thô, tuy khối lượng xuất đang có xu hướng ngày càng giảm do, nhưng do giá ngày càng tăng nên kim ngạch XK vẫn đạt khá lớn và tốc độ tăng cao. Năm 2007 vẫn đạt 8,5 tỷ USD, chiếm 17,5 % tổng kim ngạch XK, tăng 12,7% s với 2006 và tăng 49,1 % so với mức bình quân từ 2002 – 2006; tháng 8 năm 2008 đạt gần 7,9 tỷ USD, chiếm 18,2% và tăng 53,3% so với cùng kỳ . Thị trường XK dầu thô chính của nước ta là Úc chiếm 37%; Singapore chiếm từ 16 – 17%; Mỹ chiếm từ 12 – 13%; Malaysia chiếm gần 9% và Indonexia chiếm từ 7,5 – 8%. Dệt may kim ngạch năm 2007 đạt gần 7,8% tỷ USD, chiếm 16,1% tăng 20,7% so với 2006, tăng 81,4% so với mức bình quân từ 2002 – 2006; 8 tháng đầu 2008 đạt 6 tỷ USD,tăng 20% so với cùng kỳ . Thị trường NK lớn nhất là Mỹ , chiếm khoảng 50%; tiếp đến là Nhật Bản khoảng 10%; Đức khoảng 6%; Anh khoảng 4%; Đài Loan, Pháp khoảng 3%; Hà Lan, Bỉ khoảng, Italia, Hàn Quốc, Nga mỗi nước khoảng 1%. Mặt hàng XK thứ ba là giầy dép, kim ngạch hàng năm trước đây chiếm khoảng 10% nhưng đang có xu hướng ngày càng thu hẹp. Kim ngạch năm 2007 đạt gần 4 tỷ USD, chiếm 8,2%, tăng 18,3%; 8 tháng năm 2008 đạt 3,2 tỷ USD , chiếm 7,3%, tăng 19,3% so với cùng kỳ năm trước. Thị trường NK giày dép Việt Nam lớn nhất là Mỹ, chiếm khoảng 22%; Anh gần 15%; Đức gần 10%; Bỉ, Hà Lan , Pháp từ 5 – 6% , Italia , Mêhicô, Nhật Bản từ 3 – 3,5%... Thủy sản năm 2007 đạt 3,8 tỷ USD, chiếm 7,8%, tăng 22,7%, 8 tháng đầu năm đat 2,9 tỷ USD, chiếm 6,7%, tăng 20,8%. Thị trường XK thủy sản lớn nhất nước ta là Nhật bản chiếm khoảng 25%; Hàn Quốc và Úc khoảng 6%; Đức ,Tây Ban Nha , Hà Lan , Italia, Bỉ khoảng 3%,Trung Quốc, Hồng Kông, Canada khoảng 2,5%. Sản phẩm gỗ, kim ngạch XK, năm 2007 đạt 2,4 tỷ USD, chiếm 4,9 tỷ USD, tăng 25,5%, 8 tháng năm 2008 đạt 1,8 tỷ USD, chiếm 4,2%, tăng 20,5% so với cùng kỳ năm trước . Thị truờng XK lớn nhất là Mỹ, chiếm khoảng 40%, tiếp đến là Anh khoảng 12%, Pháp và Đức khoảng từ 4 – 5 %, Hàn Quốc và Úc khoảng 3%... Điện tử, máy tính và linh kiện năm 2007 dạt 2,2 tỷ USD, chiếm 4,5% tăng 22,7%; 8 tháng đầu năm 2008 đạt 1,7 tỷ USD, chiếm 3,8%, tăng 26% so với cùng kỳ. Thị truờng XK lớn nhất là Thái lan chiếm khoảng 20%; mỹ, Nhật Bản khoảng 20%; Philipines khoảng 8%, Hà Lan khoảng 6%; Hông Kông, Singapore khoảng 5%... Gạo năm 20047 đạt 1,5 tỷ USD, chiếm 3%, giảm 6,3%; 8 tháng năm 2008 đạt khoảng 2,2 tỷ USD, chiếm 5,2%, tăng 96% so với cùng kỳ. Kim ngạch XK gạo năm nay tăng cao chủ yếu do giá xuất tăng hơn 2 lần, khối lượng gạo xuất không những không tăng mà còn giảm 4,8%. Thị trường XK gạo lớn nhất nước ta là philippine, chiếm khoảng 1/3; Malaysia , Cuba hơn 10%, Indoneixa khoảng 8%, Bờ Biển Ngà, Angola, Nhật bản tử 3 – 5%. Cà phê 2007 đạt hơn 1,8 tỷ USD, chiếm 3,8%; tăng 51,9%; 8 tháng đầu năm 2008 đạt hơn 1,5 tỷ USD chiếm 3,5%, tăng hơn 9,2% so với cùng kỳ năm trước. Thị trường XK cà phê lớn nhất nước ta là Đức, chiếm hơn 15%; tiếp theo là Mỹ khoảng 14%; Tây ban nha hơn 7%; Italia hơn 5%; Thụy sĩ, Anh chiếm từ 4 – 5%, Nhật Bản Hàn Quốc chiếm tử 3 – 4% , Hà Lan khoảng 3%. Cao su năm 2007 đạt khoảng 1,4 ty USD, chiếm 2,9% tăng 61,8%, 8 tháng đầu năm đạt khôănghn 1 tỷ USD , chiếm khoảng 2,4%, tăn g30,5% so với cùng kỳ năm trước . Kim ngạch XK cao su năm nay tăng cao chủ yếu do giá tăng cao quyết định , khối lượng xuất không những không tăng mà còn giảm 9,6%. Thị trương xuất khẩu cao su chủ yếu là Trung Quốc chiếm lớn nhất khoảng hơn 66,2%; Đức khoảng 4,6%; Hàn Quốc khoảng hơn 4%; Đài Loan hơn 3.5%; Nga khoảng 3,3%; Mỹ khoảng 2,2%; Nhật Bản khoảng 1,9%; Ý, Pháp,Bỉ,Malaysia từ 1,3 – 1,6%. Than đá kim ngạch năm 2007 đạt hơn 1 tỷ USD, chiếm 2,1% tăng 40,9%, 8 tháng đầu năm 2008 đạt hơn 1 tỷ USD, chiếm 2,3%, tăng 52,8% so với cùng kỳ năm trước . Kim ngạch XK than đá năm nay tăng cao chủ yếu do giá xuất tăng quyết định , khố lượng không những không tăng mà còn giảm đến 25,6%. Thị trường xuất khẩu than đá lớn nhất nước ta là Trung Quốc chiếm hơn 65%; tiếp đến là Nhật Bản chiếm khoảng 18%; Hàn Quốc chiếm khoảng 4%; Ấn độ chiếm khoảng 2%; Thái Lan, malaysia mỗi thị trường khoảng 1,5% 1.2. Nhận xét: Năng lực cạnh tranh của một số mặt hàng xuất khẩu đã được nâng lên một bước, thể hiện ở các mặt: Quy mô xuất khẩu được mở rộng, khối lượng hàng xuất khẩu gia tăng dồi dào, giá xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng đều tăng và trong số các mặt hàng chủ lực xó một số mặt hàng XK xếp thứ hạng cao so với các nước xuất khẩu trên thế giới. Chất lượng tăng trưởng xuất khẩu được cải thiện một bước thể hiện ở các mặt sau: Mặc dù chưa có sự chuyển biến đột biến về tỷ trọng KNXK giữa các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực nhưng KNXK của nhóm hàng của nhóm CN và thủ công mỹ nghệ tiếp tục chiếm tỷ trọng cao nhất trong KNXK; đóng góp của nhân tố tăng khối lượng XK vào tăng KNXK của cả nước đạt cao nhất trong vòng các năm trở lại đây. Đóng góp của nhân tố tăng giá và tăng lượng XK của nhóm hàng nông, lâm, thủy sản vào KNXK của cả nước tăng do tăng giá chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong những năm qua, tỷ trọng tăng do tăng lượng XK chiếm tỷ trọng ngày càng giảm. Đóng góp của nhân tố tăng giá và tăng lượng XK của nhóm hàng nguyên, nhiên liệu khoáng sản vào tăng KNXK của cả nước Đóng góp của nhân tố tăng giá và tăng sản lượng xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ, sự tăng lên của nhóm hàng này chủ ýu là do sự tăng lên trở lại của các mặt hàng dệt may , da giày So với mục tiêu hầu hết các thi trường XK đều tăng , trong đó đặc biệt là thị truờng Châu âu bởi đây được đánh giá là thị trường khó tính Nguyên nhân đạt được những kết quả quả trên là do: Nước ta đã chủ động ban hành cơ chế xuất nhập khẩu phù hợp với định chế của WTO, trước thời điểm gia nhập tổ chức thương mại toàn cầu này, đó là nghị định ngày 23-1-2006 về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua bán, gia công và quá cảnh, chuyển khẩu với nước ngoài–cơ chế dài hạn nhất từ trước tới nay tạo sự ổn định trong điều hành xuất nhập khẩu và giúp các doanh nghiệp xây dựng chiến lược phát triển danh nghiệp. Các địa phương đều có những nỗ lực riêng. Hải Phòng lần đầu tiên đạt ngưỡng một tỷ USD tăng 24,8% so với 2005. Thanh Hóa do các doanh nghiệp đã kí được hợp đồng xuất khẩu trực tiếp sớm hơn mọi năm và số doanh nghiệp xuất khẩu cũng tăng lên. Hà Tây mở hội chợ làng nghề động viên sức sáng tạo của nghệ nhân hướng về xuất khẩu Năm 2007, một loạt hàng rào thuế quan vào các thị trường lớn như Mỹ, EU được cắt giảm, các doanh nghiệp được đối xử bình đẳng hơn trong quan hệ quốc tế tạo điều kiện cho xuất khẩu hàng hoá Việt Nam vào các thị trường này. Vì vậy kim ngạch xuất khẩu năm 2007 tăng mạnh . Các hoạt động xúc tiến thương mại của chính phủ ở các nước bắt đầu từ năm 2006 quảng bá hình ảnh của Việt Nam đến bạn bè quốc tế không những tạo ấn tượng tốt về con người, đất nước và cả hàng hoá Việt Nam được nhiều người biết đến. Tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá sang các nước, thu hút khách du lịch mà còn thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chính sách tỷ giá hối đoái: Tuy Việt Nam đồng có xu hướng tăng so với 2006 do lượng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào oà ạt nhưng NHTW vẫn duy trì một tỷ giá có lợi cho xuất khẩu hơn nhập khẩu. Năm 2007 giá cả của mốt số mặt hàng tăng cao như cà phê, gạo, đặc biệt cao su tăng 54%, dầu thô tăng cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Các doanh nghiệp Việt Nam đã biết tận dụng cơ hội một cách tốt hơn sau những kinh nghiệm từ những năm trước, tạo niềm tin với các đối tác cũ đồng thời mở rộng quan hệ tìm đối tác mới cho mình. Cuối năm 2006, Chúng ta tổ chức thành công hội nghị ASEM 5 tại Hà Nội đã tạo được ấn tượng tốt đẹp với quan khách và là cơ hội tốt quảng bá hình ảnh đất nước tạo tiền đề cho khách du lịch đến Việt Nam năm 2007. Bên cạnh những thuận lợi đó xuất khẩu Việt Nam cũng gặp không ít khó khăn như lạm phạt trong nước tăng cao, giá cả các nguyên liếu đầu vào tăng cao. 2. Nhập khẩu: 2.1. Kết quả: 2.1.1. Quy mô, kim ngạch nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong 2 năm: năm 2006 là 44,8 tỷ USD; năm 2007 là 62,68 tỷ USD ( bảng số liệu ) Bảng 1: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa Việt Nam 2006-2008 Đơn vị 2006 2007 KH TTế KH TTế Tổng KN NK Tỷ USD 42,5 44,8 49,1 62,68 Tốc độ tăng % 14,9 20,1 15,5 35,5 DN có vốn NN Tỷ USD 16,5 28,05 20,5 39,2 Nguồn : tổng cục thống kê và bộ công thương Từ bảng số liệu trên cho thấy, trong giai đoạn 3 năm đầu thực hiện kế hoạch 5 năm 2006 – 2010, tổng kim ngạch nhập khẩu đã tăng cao vượt mức so với kế hoạch đề ra. Cụ thể, năm 2006, tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 44,8 tỷ USD, tăng 20,1% so với 2005, vượt mức kế hoạch đề ra là 5,1%. Năm 2007, kim ngạch nhập khẩu đạt 62,68 tỷ USD, tăng 35,5%, vượt mức kế hoạch đề ra 20%, tốc độ này đạt mức kỷ lục trong vòng 7 năm từ 2001 đến 2007. Bình quân trong giai đoạn này, tốc độ nhập khẩu tăng bình quân khoảng 25%, trong khi giai đoạn 2001 – 2005 chỉ là 18%. Trong đó, kim ngạch nhập khẩu của doanh nghiệp 100% vốn nhà nước cũng tăng qua các năm, năm 2006 đạt 28,05 tỷ USD,chiếm 63,2% tổng kim ngạch nhập khẩu, năm 2007 đạt 39,2 tỷ USD, chiếm 64,5% tổng kim ngạch và tăng 38,1% so với năm 2006. Kim ngạch nhập khẩu khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài năm 2006 đạt gần 16,36 tỷ USD, chiếm 36,8% kim ngạch nhập khẩu tăng 19,9%; năm 2007 đạt 21,6 tỷ USD, chiếm 35,5% tổng kim ngạch chung và tăng 31,1% so với năm 2006. Tuy đây không phải là mức tăng kỷ lục nhưng đã cao hơn nhiều năm và cao hơn mức tăng binh quân của thời kỳ trước đó. 2.1.2. Cơ cấu NK theo nhóm hàng: 2006 2007 Giá trị Triệu USD % Giá trị Triệu USD % A. Tư liệu sản xuất 41382,7 92,2 57582,0 91,9 Máy móc và thiết bị 11040,8 24,6 17350,0 27,7 Nguyên, nhiên, vật liệu 30341,9 67,6 40232,0 64,2 B. Vật phẩm tiêu dùng 3508,4 7,8 5100,2 8,1 Tổng số 44891,1 100,0 62682,2 100,0 Nguồn: Tổng cục thống kê và bộ công thương Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, không có sự biến đổi nhiều về tỷ trọng giữa hai nhóm hàng tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng qua 2 năm . Tỷ trọng nhóm hàng tư liệu sản xuất trong tổng kim ngạch nhập khẩu rất lớn, chiếm hơn 90% trong cả hai năm 2006,2007. Trị giá tăng và và xu hướng nhóm hàng tư liệu sản xuất chiếm tỷ trọng cao là kết quả tất yếu của tăng cường xuất khẩu. Tuy nhiên, tỷ trọng cao của nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu cũng cho thấy sự phụ thuộc của hàng xuất khẩu vào nguyên liệu nhập khẩu còn khá lớn. Cụ thể, nguyên liệu nhập khẩu trong ngành may mặc chiếm đến 70%, da giày 80%, ngành gỗ 50%, ngành nhựa 85%, ngành điện tử 90%. Trong các mặt hàng nhập khẩu, xăng dầu, nguyên phụ liệu may mặc, da giày, phân bón và sắt thép vẫn là những mặt hàng nguyên liệu có kim ngạch nhập khẩu lớn nhất. Nhập khẩu các mặt hàng phân bón, xe máy có dấu hiệu chững lại, trong khi nhu cầu nhập khẩu ô tô những năm gần đây tăng khá nhanh. So với cá nước đang phát triển trong khu vực có tỷ lệ nhập khẩu máy móc thiết bị thường chiếm 30-40% tổng kim ngạch nhập khẩu thì tỷ trọng nhập khẩu máy móc ở Việt Nam như vậy vẫn còn thấp. Chính vì vậy mà việc Diễn đàn kinh tế thế giới xếp nước ta vào hàng thấp về đổi mới công nghệ và khả năng cạnh tranh là điều dễ hiểu. Tỷ trọng nguyên nhiên vật liệu chiếm cao, đồng thời tỷ trọng nhập khẩu máy móc thiết bị khá nhỏ bé và hầu như không cải thiện cho thấy xuất khẩu nước ta phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu nước ngoài, công nghệ chậm được thay đổi và mở rộng. điều này cho thấy sự phát triển yếu kém của ngành công nghiệp phụ trợ cũng như sản xuất thay thế nhập khẩu, sự yếu kém về khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Điều này sẽ hạn chế việc cải thiện cán cân thương mại trong dài hạn. 2.1.3. Cơ cấu NK theo thị trường: Nguồn: Tổng cục thống kê và Bộ công thương. Đơn vị: % Châu Á Châu Âu Châu Phi Châu Mỹ Châu Đại Dương 80.8 12,3 0,7 4,4 1,8 Trong giai đoạn 2006-2008, thị trường nhập khẩu của Việt Nam đã được mở rộng tới 170 nước và vùng lãnh thổ. Châu Á là thị truờng có kim ngạch nhập khẩu cao nhất, trung bình trong các năm qua chiếm 80,7% tổng kim ngạch các thị trường. Trong đó, khu vực Đông Nam Á, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan là thị trường nhập khẩu lớn nhất của nước ta do có những lợi thế về vị trí địa lý, giá cả. Đồng thời đây cũng là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ cao, khu vực này cung cấp chủ yếu nguyên phụ liệu, máy móc phụ tùng và hàng tiêu dùng. Nhìn chung, cơ cấu thị trường nhập khẩu của nước ta không có nhiều thay đổi lớn và dự báo sẽ ít có chuyển biến trong giai đoạn tới. 2.2. Một số nhận xét: Nhìn chung trong 3 năm từ 2006 đến 2008, kim ngạch nhập khẩu tăng cao, trung bình khoảng gần 30%/năm, tốc độ nay cao hơn nhiều so với cùng kỳ giai đoạn 2001 – 2005. Từ kết quả trên cho thấy về cơ bản, nhập khẩu đã phục vụ tốt cho nhu cầu sản xuất, xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Tuy nhập khẩu được đánh giá là cơ bản phục vụ tốt cho sản xuất hàng xuất khẩu, phát triển sản xuất, đổi mới công nghệ và tiêu dùng trong nước nhưng trong giai đoạn này nhập siêu ở mức báo động. Quy mô nhập siêu ngày càng lớn, tốc độ cao tạo nên nguy cơ bất ổn cho phát triển kinh tế. Nguyên nhân dẫn đến quy mô nhập siêu tăng cao: Thứ nhất, Việt Nam là thành viên của các tổ chức Asean, Asem, Apec và đặc biệt là gia nhập tổ chức WTO, Việt Nam phải cắt thuế NK và các hàng rào bảo vệ sản xuất trong nước theo lộ trình cam kết. Tuy nhiên, 1/1/2006 có tới 96% của 10689 dòng thuế xuất nhập khẩu giảm chỉ còn 0-5% trong khi trung bình của Asean là 4,7%, và đến năm 2014 mức thuế chung của WTO mới là 13,4%. Đây là thể hiện quyết tâm của Việt Nam khi gia nhập WTO nhưng nó mang lại hệ quả là nhập siêu năm 2007 gấp 2,5 lần năm 2006 và gấp hơn 2 lần so với kế hoạch. Giá nguyên liệu NK tăng cao như xăng dầu, sắt thép, phân bón, nguyên nhiên liệu phụ cho ngành may mặc, da giầy, đồ gỗ đều tăng đây là một phần nguyên nhân dẫn đến nhập siêu tăng đột biến. Nền kinh tế của chúng ta phụ thuộc quá nhiều nguồn nguyên liệu thế giới vì vậy xuất khẩu tăng nhanh kéo theo nhập khẩu cũng tăng nhanh. Ngoài ra hiệu ứng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài và ODA bù đắp khoản thâm hụt làm chúng ta cảm giác như mình đang giàu có thức sự dẫn đến tiêu tiền hoang phí “nhà nghèo được tiêu tiền chùa”. Lượng nhập khẩu hàng hoá xa xỉ tăng đột biến như ôtô nguyên chiếc, hàng hiệu đóng góp không nhỏ vào khoảng nhập siêu. 3. Cán cân thuơng mại: Đơn vị: Triệu USD Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân TM TTế KH TTế KH TTế KH 2006 39826,2 37750,0 44891,1 -5064,9 2007 48560,0 46760,0 62680,0 53760,0 -14120,0 -7000,0 9 tháng 2008 48600,0 65000,0 (KH cả năm) 64400,0 74000,0 (KH cả năm) -15800,0 -9000,0 Nguồn: Tổng cục thống kê VN Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam tăng cao qua các năm và đều tăng vượt mức so với kế hoạch. Năm 2007 là năm đạt mức kỷ lục thâm hụt cán cân thương mại đạt 14120,0 triệu USD, gấp đôi so với mức kế hoạch đặt ra chỉ có 7000,0 triệu USD, và dự báo năm 2008 thâm hụt cán cân thương mại sẽ là 15800,0 triệu USD. Tuy hiện tượng nhập siêu, thâm hụt cán cân thương mại là kết quả tất yếu do Việt Nam đã gia nhập WTO, nền kinh tế mở rộng ra thế giới, các chính sách thuế quan, hạn ngạch và bảo hộ dần dần bị xóa bỏ, nhưng nhập siêu tăng ở mức cao, và cán cân thương mại thâm hụt ở mức báo động là dấu hiệu cho thấy sự bất ổn của nền kinh tế, trong dài hạn sẽ gây ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững của nước ta Chương 3: Dự báo tình hinh xuất nhập khẩu hàng hóa 2009-2010 Và Một Số Giải Pháp Thực Hiện. I. Dự báo xuất khẩu hàng hoá 2009- 2010: 1. Các chỉ tiêu xuất khẩu chủ yếu: Giai đoạn 2009 - 2010, kinh tế thế giới dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng ở mức cao( thế giới 4,8%, khu vực Euro 2,4%. Châu Á thái bình dương: 8,2%) .Cùng với tăng trưởng kinh tế các hoạt động thương mại , đầu tư, du lịch sẽ tiếp tục sôi động. Là các năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO, hoạt động xuất khẩu của nước ta sẽ phát triển hơn. Tuy chưa có những đột phá lớn nhưng kim ngạch lẫn quy mô về thị trường vẫn tiếp tục được mở rộng. Mục tiêu tổng quát về phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006-1010 đã xác định: Phát triển xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững. Đẩy mạnh đầu tư phát triển sản xuất các mặt hàng xuất khẩu có lợi thế cạnh tranh có khả năng chiếm lĩnh thị phần đáng kể trên thị trường thế giới. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần dần tỷ trọng hàng xuất khẩu , đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ. Mục tiêu cụ thể về xuất nhập khẩu cho giai đoạn 2009-2010 là Kim ngạch xuất khẩu trung bình đạt được 57,6- 58,6 tỷ USD, tăng 20- 22% so với năm 2007. Trong đó kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô ) đạt 24,8tỷ USD , chiếm trên 42% tổng kim ngạch xuất khẩu và tăng 27,2% so với năm 2007. Cơ cấu xuất khẩu: nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản tăng 14,9%, nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghệ tăng 30%, nhóm hàng lâm nghiệp tăng 17,9% so với năm 2007 Thị trường xuất khẩu: Thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam giai đoạn 2009-2010 sẽ tiếp tục là thi trường Mỹ chiếm tỷ trọng 21% và thị trường EU với tỷ trọng 20%. Tiếp đến là thị trường ASEAN( 16%) và Nhật Bản 14% Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ giai đoạn này dự kiến trung bình đạt khoảng hơn 8 tỷ USD , tăng 16,8% so với 2007 2. Đánh giá các yếu tố tác động đến khả năng thực hiện kế hoạch xuất khẩu: 2.1. Thuận lợi: Việc gia nhập WTO đã tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp cận các nguồn công nghệ, dịch vụ và nguồn cung cấp nguyên liệu cho sản xuất, cũng như tiếp cận dễ dàng hơn các thị trường nước ngoài. Xuất khẩu sản phẩm công nghiệp và nông nghiệp tăng, nhập khẩu thiết bị, nguyên liệu và công nghệ được mở rộng, quan hệ thương mại được mở rộng và đa dạng hóa, đặc biệt với những đối tác chiến lược của Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước xây dựng tỷ giá với chủ trương chấp nhận mất giá một chút để hỗ trợ xuất khẩu. Tỷ giá này sẽ hỗ trợ đắc lực và tạo điều kiện cho các DN tăng cường XK. Ngoại tệ biến động phức tạp, lãi suất ngoại tệ và USD có xu hướng sẽ tăng, vốn ngoại tệ bị ảnh hưởng, khả năng tiếp cận của DN sẽ khó khăn. Tuy nhiên, lãi suất đồng nội tệ khá bình ổn, là điều kiện thuận lợi để hỗ trợ DN xuất khẩu hàng hóa. 2.2. Khó khăn. Các tác động của việc gia nhập WTO ngoài có những ảnh hưởng tích cực đến các DN cũng tạo ra những khó khăn và thách thức nhất định cho Việt Nam Ngay sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã xóa bỏ trợ cấp trực tiếp đối với xuất khẩu hàng nông sản và một số loại trợ cấp trong các ngành công nghiệp. Xuất khẩu chứa đựng một số yếu tố không bền vững và dễ bị ảnh hưởng bởi những yếu tố khách quan từ bên ngoài. Rủi ro có thể tăng trong bối cảnh giá quốc tế của nhiều mặt hàng thường xuyên biến động, có nhiều hàng rào kỹ thuật hơn và sự thay đổi về cơ chế giám sát hoặc chính sách của các thị trường chính đối với xuất khẩu của Việt Nam. Những lợi thế cạnh tranh của một số mặt hàng có thể bị giảm sút, do đó những ngành này có thể gặp phải những khó khăn trong xuất khẩu và cả trong sản xuất. Khi gia nhập WTO, Việt Nam bị coi là nền kinh tế “phi thị trường” trong một thời hạn tối đa là 12 năm hoặc không muộn hơn thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2018. Chừng nào Việt Nam còn bị coi là nền kinh tế “phi thị trường”, thì Việt Nam vẫn phải đối mặt với những điều kiện không thuận lợi trong các vụ kiện chống bán phá giá và chống trợ cấp. Nhiều sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Hoa Kỳ và Châu Âu (như thủy sản, dệt may và giầy dép..) dễ trở thành đối tượng của những vụ kiện chống bán phá giá và do đó bị buộc vào thế bất lợi. Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ được cho là sẽ tác động trực tiếp tới tăng trưởng xuất khẩu Việt Nam. Khủng hoảng tài chính xuất phát từ Hoa Kỳ dẫn đến toàn cầu tác động đến nền kinh tế Việt Nam trên nhiều lĩnh vực, trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ sẽ chịu tác động trực tiếp nhất và nhanh nhất. Hiệp hội Chế biến thủy sản cho biết, Mỹ đang thắt chặt tín dụng nên nhà nhập khẩu phải bán xong mới trả tiền cho DN Việt Nam. Vì vậy DN Việt Nam không có vốn để tiếp tục sản xuất. Và nếu tình trạng này không được cải thiện thì sẽ vô cùng khó khăn cho xuất khẩu Việt Nam vì Mỹ là thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, thì kinh tế Mỹ có thể phải tới cuối năm 2010 mới phục hồi, người tiêu dùng Mỹ sẽ phải cắt giảm chi tiêu, kéo theo cầu nhập khẩu hàng hóa sẽ giảm, vì vậy, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ khó có thể đạt mức 30%/năm như trong thời gian qua, mà chỉ đạt khoảng 20% trong giai đoạn 2009 - 2010. Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ còn tác động gián tiếp đến tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang EU và Nhật Bản - hai thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Người tiêu dùng tại các thị trường này cũng phải cắt giảm chi tiêu, nên nhu cầu nhập khẩu đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng sẽ có xu hướng giảm. Cộng thêm những khó khăn của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, do tín dụng thắt chặt, giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, khiến giá thành sản xuất cao, hàng hóa khó cạnh tranh, thì xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới chắc chắn sẽ chịu những ảnh hưởng tiêu cực. Theo phân tích của Vụ XNK, năm 2008 sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và toàn cầu đối với nước ta chưa nhiều, nhưng sang năm 2009 chắc chắn những hệ lụy của nó sẽ tác động mạnh hơn tới sản xuất, XNK và đầu tư của Việt Nam. Một số mặt hàng liên quan đến lĩnh vực vật liệu xây dựng, sản phẩm gỗ và công nghiệp chế biến sẽ là những đối tượng chịu ảnh hưởng nhiều nhất trong những tháng cuối năm 2008 và nó được dự báo là sẽ bị thâm hụt hơn nữa trong năm 2009 do giá hàng hóa sẽ giảm, trong khi giá nguyên liệu sản xuất không giảm. Trong nước, những khó khăn nội tại cũng góp phần làm nên khó khăn cho xuất khẩu. Tình trạng thiếu nhân công, cúp điện, ách tắc cảng, thủ tục còn nhiêu khê vẫn xảy ra thường xuyên. Xăng dầu thế giới đã giảm nhưng trong nước không giảm, giá vận chuyển vẫn còn cao, là những ngáng trở lớn. Và khó khăn tín dụng, lãi suất còn cao, vẫn là những vấn đề chưa gỡ được. Lợi thế về sản lượng và tăng giá cho XK của nhóm mặt hàng nông lâm thủy hải sản chắc chắn không còn nữa. Sau khi lập kỷ lục về giá, nhiều mặt hàng có dấu hiệu chững lại và giảm sút. Ví dụ, mặt hàng gạo, tuy năm 2009 có tăng thêm 1- 2 triệu tấn về sản lượng, nhưng do giá lương thực trên thế giới đã từng bước ổn định nên khả năng tăng cao về kim ngạch là không còn. Những mặt hàng thủy sản, cà phê, hạt điều, hạt tiêu... giá XK đều đã chạm ngưỡng, nên không có cơ sở tăng về sản lượng. Vụ Công nghiệp nhẹ Bộ Công Thương cũng tỏ quan ngại về việc giá một số mặt hàng trong lĩnh vực này như dệt may, da giày... đã bắt đầu giảm và xu hướng sẽ giảm mạnh hơn trong năm 2009. Đặc biệt là mặt hàng dầu thô, theo Vụ Năng lượng Bộ Công Thương, từ năm 2009 đến năm 2012, sản lượng khai thác sẽ giảm mỗi năm khoảng 1 triệu tấn. Cộng thêm sẽ có khoảng 3- 4 triệu tấn dành cho Nhà máy lọc dầu Dung Quất nên sản lượng dành cho XK giảm đáng kể. Đã vậy, giá dầu thô dự báo sẽ dần trở về giá trị thực của nó, chỉ còn khoảng 80 USD/thùng, do đó kim ngạch từ XK dầu thô không còn là chỗ để “bù” vào những khoản thâm hụt khác... Dự báo nhu cầu đồ gỗ gia dụng sẽ giảm mạnh. chưa kể đến những khó khăn như tắc đường, tắc cảng làm đội chi phí lên, rồi những yêu cầu ngày càng khắt khe về vấn đề môi trường, hiện tại các doanh nghiệp ngành gỗ còn phải đối mặt với khó khăn chung là vốn tín dụng quá cao. Chẳng hạn ngành chế biến gỗ, 80% nguyên liệu phải nhập từ Indonesia, Malaysia, Brazil Trong khi đó, cước vận chuyển hàng hóa tăng đến 40%. Hiệp hội Gỗ - Lâm sản Việt Nam cũng cho biết, 9 tháng ngành gỗ xuất khẩu hơn 2 tỷ USD, mục tiêu 3 tỷ năm 2008 có khả năng đạt được, nhưng dự kiến năm 2009 cũng chỉ đạt 3 tỉ. Đối với ngành dệt may, Bộ Công thương nhận định, các thị trường trọng điểm vẫn là Mỹ, EU, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc Dù khó khăn, nhưng Bộ vẫn dự kiến kim ngạch xuất khẩu của ngành này năm 2009 sẽ đạt 11.5 tỷ USD, tăng 21% so với năm nay. Tuy nhiên, ông Phạm Xuân Hồng, Phó chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam e ngại, chỉ tiêu tăng trưởng 21% hơi cao so với con số 15% mà Hiệp hội đưa ra. Bởi năm 2009, xu hướng thị trường sẽ chuyển sang các sản phẩm bậc trung và thấp, sản phẩm giá cao sẽ khó bán hơn. Ngành thủy sản xuất khẩu 3,335 tỷ USD, tăng 23,7%. Dự báo chỉ tiêu cả năm 2008 là 4,2 tỷ có thể đạt được, song mục tiêu 5,3 tỷ USD của năm 2009 là khó đạt.Thuộc nhóm có tỷ trọng sẽ giảm từ 20,7% năm 2008 xuống 18,3% năm 2009, đại diện Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam nhận định, năm 2009 cũng sẽ là năm khó khăn của các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam vì sẽ phải cạnh tranh gay gắt với thủy sản Thái Lan khi xuất khẩu vào Hàn Quốc. Bởi Chính phủ Thái Lan vừa ký Hiệp định song phương với Hàn Quốc, trong đó một số mặt hàng thủy sản của Thái Lan khi xuất khẩu vào thị trường Hàn Quốc sẽ được hưởng thuế suất 0%; trong khi sản phẩm thủy sản của Việt Nam vào nước này đang chịu thuế suất 15 - 20%. Đó là chưa kể đến những khó khăn trong nước mà các doanh nghiệp ngành này đang phải đối mặt như: thiếu hụt lao động trầm trọng, cước phí vận tải tăng mạnh... Vụ Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương dự kiến, cơ cấu xuất khẩu vào các thị trường của Việt Nam có sự thay đổi. Thị trường chủ lực là châu Á có tỷ trọng giảm nhẹ, từ 42,5% năm 2008 xuống 42,4% năm 2009; tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường châu Phi cũng giảm, từ 4,9% năm 2008 xuống còn 4,8% năm 2009; thị trường châu Đại dương không tăng, trong khi xuất khẩu vào châu Mỹ tăng cũng không mạnh, từ mức 24,5% năm 2008 lên 24,9% năm 2009. Mặt khác, khi hàng hóa của các nước (chủ yếu là các nước ASEAN và Trung Quốc) không bán được ở thị trường trên sẽ quay lại chính thị trường nội địa, điều này khiến các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam không chỉ khó khăn ở thị trường Mỹ, mà sẽ còn vất vả hơn khi tiếp cận thị trường Trung Quốc và khu vực ASEAN. Hầu hết các chuyên gia kin tế đều cho rằng phải rất nỗ lực mới đạt được mục tiêu xuất khẩu 2008.Kết quả không phấn khởi như 2008, năm 2009 sẽ càng khó II. Dự báo nhập khẩu hàng hoá 2009-2010: 1. Các chỉ tiêu nhập khẩu chủ yếu: Nhập khẩu đạt 68,4- 69,5 tỷ USD, tăng 20- 22 % so với 2007; trong đó nhập khẩu của các doanh nghiệp có vố đầu tư nước ngoài đạt 27,5 tỷ USD, chiếm gần 40% tổng kim ngạch nhập khẩu và tăng 31% so với năm 2007 Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu: Nhóm hàng máy móc thiết bị và phụ tùng chiếm 26,3% tổng kim ngạch nhập khẩu, nhóm nhiên nguyên vật liệu chiếm 66,2% và nhóm hàng tiêu dùng chiếm 7,5%. Thị trường nhập khẩu của Việt Nam 2009-2010: Các mặt hàng nguyên nhiên liệu cơ bản vẫn nhập từ thị trưòng Châu á ( chiếm tỷ trọng từ 75-85%) tiếp theo là EU và Châu Mỹ. Ưu tiên nhập khẩu công nghệ nguồn từ những nước tiên tiến. Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ 08-10 dự kiến đạt khoảng 7,6tỷ USD tăng 18,9% so với 07 Nhập siêu 2008-2010 dự kiến khoảng 10,8- 10,9USD, bằng 18,6- 18,7%kim ngạch xuất khẩu. Trong chỉ đạo điều hành phấn đấu theo hướng giảm tỷ lệ nhập siêu xuống thấp hơn. 2. Đánh giá các yếu tố tác động đến khả năng thực hiện kế hoạch nhập khẩu: 2.1. Thuận lợi: Bên cạnh việc mang lại những thuận lợi cho xuất khẩu, việc Việt Nam gia nhập WTO cũng mang lại những thuận lợi cho nhập khẩu hàng hóa dịch vụ. Mở cửa và hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới sẽ tạo điều kiện để Việt Nam có thể nhập khẩu được những máy móc, thiết bị, công nghệ khoa học mới tiên tiến hiện đại phục vụ tốt cho nhu cầu đầu tư sản xuất trong nước. hơn. 2.2. Khó khăn: Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới Suy thoái kinh tế có thể làm giảm xuất khẩu, do đó cũng làm giảm nhập khẩu do chúng ta phải nhập khẩu 70-80% nguyên liệu để làm hàng xuất khẩu Suy thoái kinh tế cũng làm cho giá nguyên vật liệu giảm mạnh ( sự sụt giảm của giá dầu mỏ, các sản phẩm hoá dầu, phôi thép xây dựng và các thiết bị công nghiệp cũng sẽ giảm mạnh ). Trong năm 2009, chúng ta vãn ưu tiên kiềm chế lạm phát, lãi xuất ngân hàng dù có được điều chỉnh vẫn ở mức cao, đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước vẫn phải được kiểm soát chặt chẽ. Khả năng sản xuất trong nước tăng lên nhưng khi gia nhập WTO, theo lộ trình cam kết, thuế xuất, thuế nhập khẩu nhiều mặt hàng sẽ giảm đi theo lộ trình. Thuế thuốc trừ sâu, phan bón, thức ăn chăn nuôi gia súccũng sẽ giảm mạnh từ 2009-2010. HÀng hoá nước ngoài sẽ tràn vào Việt Nam mạnh hơn, nhiều hơn. Vì vậy nếu hàng của Việt Nam không đủ sức cạnh tranh sẽ rất khó khăn dẫn đến nhập khẩu nhiều. III. Một số giải pháp nhằm hoàn thành kế hoạch trong những năm tiếp theo: Nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả và chất lượng sản phẩm hàng hoá , dịch vụ. từng bước nâng cao hiệu quả sản xuất .Bảo vệ và khuyếch trương thương hiệu riêng của từng doanh nghiệp trên thị trường ,Đổi mới phương thức tiếp thị quản lý bán hàng. Mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp cần xây dựng cho mình hệ thống phân phối sản phẩm hợp lý, tham gia vào các kênh phân phối của các tập đoàn xuyện quốc gia. Phát triển hình thức thương mại điện tử, sử dụng Internet để tìm kiếm thông tin và thị trường nước ngoài. Phát triển thị trường trên cơ sở phát triển mạnh xúc tiến thương mại, thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực mở rộng thị trường, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ với các đối tác Coi trọng công tác quảng bá mở rộng thị trường. Chú trọng công tác thông tin dự báo phân tích thị trường, diễn biến giá cả của những mặt hàng chủ lực. Xây dựng mạng lưới khách hàng ổn định nhất là những khách hàng lớn để qua đó thâm nhập vào mạng lưới phân phối toàn cầu. Tạo lập thị trường ổn định cho các hàng xuất khẩu theo hướng củng cố thị phần ở những thị trường truyền thống và khai thác nhiều thị trường tiềm năng; tận dụng mọi khả năng để tăng mức xuất khẩu vào các thị trường có sức mua lớn nhưng hiện còn chiếm tỷ trọng thấp; mở các thị trường mới. Hướng dẫn và hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển thương hiệu và đăng ký thương hiệu hàng hoá. Hỗ trợ cho doanh nghiệp xử lý các vấn đề khó khăn trong quá trình hội nhập đưa lại nhưng không duy trì những biện pháp bảo hộ bất hợp lý . Xử lý có hiệu quả các vấn đề phát sinh trong quá trình hội nhập để giảm thiểu những hoạt đông tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ trong thời gian tới Tạo lập thị trường ổn định cho các hàng xuất khẩu theo hướng củng cố thị phần ở những thị trường truyền thống và khai thác nhiều thị trường tiềm năng. Chú trọng cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút đầu tư vào lĩnh vực chế biến hàng xuất khẩu. Tăng cường mối quan hệ giữa các cơ quan lý nhà nước, hiệp hội ngành hành, doanh nghiệp. Hoàn thiện cơ chế chính sách xuất nhập khẩu, Xây dựng và hoàn thiện pháp luật phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế. Ưu tiên xây dựng văn bản pháp luật và các thiết chế cần thiết nhằm bảo vệ nền kinh tế trong quá trình hội nhập. Tận dụng những điều kiện thuận lợi, phát huy lợi thế, hạn chế những tác động bất lợi trong hội nhập để tăng cường thu hút vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từng bước nâng cao hiệu quả xuất nhập khẩu thông qua việc hoàn thiện toàn bộ hệ thống thuế, phí, theo hướng khuyến khích xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, khuyến khích sử dụng các nguyên liệu vật tư, sản phẩm công nghiệp sản xuất trong nước cho nhu cầu sản xuất nói chung và sản xuất hàng xuất khẩu. Tạo điều kiện thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu:tăng sản phẩm xuất khẩu đã qua chế biến, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Đồng thời kiên quyết chống hàng lậu, hàng giả, hàng nhái nhãn mác. Phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ ngành trung ương, giữa trung ương với địa phương, giữa nhà nước với doanh nghiệp trong việc tổ chức thực hiện các cam kết. Tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy các hoạt động hợp tác giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước .Khuyến khích thành lập các tổ chức tư vấn pháp lý ,xúc tiến thương mại và đầu tư, tìm kiếm thị trường mới ,nghiên cứu sản phẩm mới. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả cam kết với các nước, các tổ chức quốc tế về thương mại, đầu tư dịch vụ và các lĩnh vực kinh tế khác. Đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế - thương mại quốc tế toàn diện khi đã gia nhập WTO. Kết luận Qua gần 3 năm thực hiện kế hoạch thương mại quốc tế, về cơ bản nước ta đã hoàn thành chỉ tiêu đề ra. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn nhiều bất cập. Kim ngạch nhập khẩu tăng quá cao so với xuất khẩu dẫn đến nhập siêu tăng cao và đạt mức kỷ lục trong 10 năm trở lại đây. Mặc dù nhập siêu tăng là kết quả tất yếu của việc mở rộng đầu tư phục vụ Công nghiệp hóa Hiện đại hóa đất nước nhưng mức tăng cao như vậy cho thấy dấu hiệu bất ổn trong phát triển kinh tế ở Việt nam do phụ thuộc quá nhiều vào các yếu tố nguồn lực từ bên ngoài.Trước thực trạng trên ta nhận thấy trong giai đoạn tới Việt nam cần phải điều chỉnh các chính sách thương mại quốc tế sao cho đạt được các chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra. Đặc biệt cần đề ra các giải pháp để kiềm chế hiệu quả hơn nữa tình trạng nhập siêu, đảm bảo sự phát triển cân đối, bền vững của nền kinh tế.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6065.doc
Tài liệu liên quan