Khảo sát một số chỉ tiêu sinh sản và bệnh sinh sản thường gặp trên đàn bò lai hướng sữa nuôi tại Trung tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì

Mục lục Phần I: Mở đầu I. Tính cấp thiết của đề tài II. Mục đích của đề tài Phần II : Tổng quan các vấn đề nghiên cứu I. Sơ lược tình hình chăn nuôi Bò sữa ở Việt Nam và trên Thế giới 1.1. Tình hình chăn nuôi Bò sữa trên thế giới 1.2. Tình hình chăn nuôi Bò sữa ở Việt Nam II. Những đặc điểm chính về cấu tạo và chức năng của cơ quan sinh dục Bò cái 2.1. Buồng trứng 2.2. ống dẫn trứng 2.3. Tử cung 2.4. âm đạo 2.5. Các bộ phận khác III. Đặc điểm sinh lý, sinh sản của Bò cái 3.1. Sự thành thục về tính 3.2. Chu kỳ tính (Chu kỳ động dục) 3.3. Sự điều tiết thần kinh thể dịch đến hoạt động sinh dục của bò cái 3.4. Một số nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của bò cái IV. Một số bệnh sản khoa thường gặp trên bò sữa tại Trung tâm 4.1. Bệnh trong thời gian gia súc mang thai. 4.2. Bệnh trong thời gian gia súc sinh đẻ 4.3. Bệnh trong thời gian gia súc không mang thai V. các hormone sinh sản chính và một số chế phẩm đặt âm đạo. 5.1 Các hormone sinh sản chính 5.1.1.GnRH 5.1.2.Các hormone Gonadotropin 5.1.3.Estrogen. 5.1.4.Progesterone 5.1.5.Prostaglandin 5.2. Một số chế phẩm đặt âm đạo. 5.2.1. CIRD 5.2.2. PRID 5.2.3. CUEMATE Phần III : Đối tượng, nội dung, phương pháp nghiên cứu I. Đối tượng II. Nội dung nghiên cứu 2.1. Một số chỉ tiêu về tính năng sinh sản của Bò sữa 2.1.1. Tuổi phối giống lần đầu 2.1.2.Tuổi đẻ lứa đầu 2.1.3.Thời gian động dục lại sau khi đẻ 2.1.4. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ 2.1.5. Hệ số phối giống và tỷ lệ thụ thai 2.1.6. Sản lượng sữa trên một chu kỳ 2.1.7.Tỷ lệ bê cái trên bê đực 2.2. Một số bệnh sản khoa thường gặp của đàn bò lai hướng sữa nuôi tại TTNC Bò và đồng cỏ Ba Vì 2.2.1. Bệnh trong giai đoạn mang thai 2.2.2 Bệnh trong quá trình sinh đẻ. 2.2.3. Bệnh trong giai đoạn không mang thai 2.3. Một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng sinh sản 2.3.1.Sử dụng một số hormone hướng sinh dục. 2.3.1. Thụt rửa cho bò sau khi đẻ bằng dung dịch lugon 0,1-0,2% III. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Phương pháp đánh giá các chỉ tiêu sinh sản 3.2. Phương pháp đánh giá tỷ lệ mắc bệnh sản khoa 3.3.Phương pháp sử dụng một số chế phẩm hormone và dung dịch thụt rửa IV.Thời gian và địa điểm nghiên cứu Phần IV : Kết quả và thảo luận I. Kết quả điều tra một số chỉ tiêu sinh sản trên đàn bò lai hướng sữa nuôi tại TTNC Bò và đồng cỏ Ba Vì 1.1. Cơ cấu đàn bò của TTNC Bò và đồng cỏ Ba Vì năm 2004 - 2005 1.2. Kết quả điều tra một số chỉ tiêu sinh sản II. Kết quả điều tra một số bệnh sản khoa thường gặp trên đàn Bò lai hướng sữa nuôi tại TTNC Bò và đòng cỏ Ba Vì III. kết quả sử dụng một số biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao khả năng s inh sản trên đàn bò lai hướng sữa nuôi tại TTNC Bò và đồng cỏ Ba Vì 3.1.Nhận xét chung. 3.2.Kết quả sử dụng pgf2 trên bò chậm động dục do thể vàng tồn lưu bệnh lý 3.3.Kết quả gây động dục của pgf2 hai liều cách nhau 11 ngày trên bò chậm sinh 3.4.Kết quả sử dụng HCG động dục mà không rụng trứng. 3.5.Kết quả sử dụng dụng cụ đặt âm đạo để điều hoà chu kỳ động dục 5.6.Kết quả sử dụng dung dịch thụt rửa đối với bò sau khi đẻ Phần V : Kết luận, tồn tại và đề nghị I. Kết luận 1.1. Về khả năng sinh sản 1.2. Về bệnh sinh sản 1.3. Về biện pháp nâng cao khả năng sinh sản II. Tồn tại III. Đề nghị

doc66 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2244 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khảo sát một số chỉ tiêu sinh sản và bệnh sinh sản thường gặp trên đàn bò lai hướng sữa nuôi tại Trung tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
với bò sữa từ 1 - 4 giờ (không quá 14 giờ). Quá thời gian trung bình kể trên nhau thai không được đẩy ra khỏi tử cung thì được gọi là bệnh sát nhau. Căn cứ vào mức độ của bệnh có thể chia ra 3 thể sau: - Thể sát nhau hoàn toàn: Toàn bộ hệ thốngnhau thai còn dính với niêm mạc tử cung ở cả hai sừng tử cung. - Thể sát nhau không hoàn toàn: Phía sừng tử cung không chứa thai thì nhau thai con đã tách khỏi niêm mạc tử cung. Sừng tử cung bên có thai thì nhau thai con còn dính chặt với niêm mạc tử cung mẹ. - Thể sát nhau từng phần: Một phần của màng nhung hay ít núm nhau con còn dính với niêm mạc tử cung, còn đa phần màng thai đã tách khỏi niêm mạc tử cung. d - Đẻ khó. Trong quá trình sinh đẻ của gia súc, thời gian sổ thai bị kéo dài những bào thai khôngđược đẩy ra khỏi cơ thể mẹ gọi là hiện tượngđẻ khó. hiện tượng đẻ khó do rất nhiều nguyên nhân dẫn tới và được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Đẻ khó gây nhiều thiệt hại trong chăn nuôi nó không những gây bệnh cho cơ quan sinh dục, dẫn đến hiện tượng vô sinh mà còn có thể làm cho cả mẹ và con đều bị chết. Do đó việc đề phòng và can thiệp các trường hợp đẻ khó kịp thời, đúng kĩ thuật là điều cần thiết. 4.3. Bệnh trong thời gian gia súc không mang thai a -Bệnh thường gặp sau khi đẻ. * Nhiễm trùng sau khi đẻ: Trong quá trình sinh đẻ, các loại vi khuẩn xâm nhập và phát triển trong đường sinh dục gây nên các thể viêm khác nhau sau đó gây nên hiện tượng nhiễm trùng cho cơ thể. * Viêm âm môn, tiền đình, âm đạo: Trong quá trình sinh đẻ, niêm mạc âm môn, tiền đình, âm đạo bị xây sát, tổn thương do bào thai hay do can thiệp các trường hợp đẻ khó từ đó vi khuẩn xâm nhập và phát triển gây viêm. *Viêm tử cung Khi gia súc sinh đẻ, nhất là những trường hợp đẻ khó phải can thiệp bằng tay hoặc dụng cụ, niêm mạc tử cung bị sây sát, tổn thương ,vi khuẩn xâm nhập và phát triển gây viêm nôi mạc tử cung. Mặt khác , một số bệnh truyền nhiễm như xay thai truyền nhiễm, pho thương hàn, lao.........thường gây ra viêm nội mac tử cung. Căn cứ vào tính chất , trạng thái của quá trình bệnh lý, viêm nội mạc tử cung có thể chia ra làm 2 loại: -Viêm nội mạc tử cung thể cata cấp tính có mủ -Viêm nội mạc tử cung có màng giả -Viêm cơ tử cung thường kế phát từ viêm nội mạc tử cung thể màng giả -Viêm tương mạc tử cung thường kế phát từ viêm cơ tử cung *Bại liệt sau khi đẻ. Là bệnh mà con vật mất khả năng vận động sau thời gian sổ thai * Liệt nhẹ sau khi đẻ ( bệnh sốt sữa) Đây là bệnh phát sinh đột ngột, nhanh chóng, rất nguy hiểm cho gia súc. Đặc điểm của bệnh là gây nên tình trạng con vật mất cảm giác,tê liệt ở các chi, ruột, họng và gây rrối loạn các phản xạ có và không có điều kiện. Bệnh nay rất hay gặp ở những bò sữa cao sản. b - Hiện tượng rối loạn sinh sản ở bò sữa. Gia súc cái đã đến tuổi sinh sản hoặc sau khi sinh đẻ mà đến thời kì hưng phấn và động dục lại nhưng không xuất hiện chu kì sinh dục, sinh lý bình thường hoặc gia súc biểu hiện các trạng thái bệnh lý trong quá trình sinh lý sinh dục được gọi là hiện tượng rối loạn sinh sản. Hiện tượng này là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm giảm tỷ lệ sinh sản của gia súc nói chung và bò sữa nói riêng đồng thời cũng làm hạn chế tốc độ gia tăng đàn gia súc và gây thiệt hại lớn trong chăn nuôi. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về hiện tượng rối loạn sinh sản nhưng nói chung người ta thường chia hiện tượng rối loạn sinh sản của trâu bò ra làm mấy loại như sau: - Trâu bò chậm sinh: là những trâu bò cái tơ từ 20 - 30 tháng tuổi chưa động dục, trâu bò sau khi đẻ từ 6 - 8 tháng không động dục và trâu bò phối giống 2 - 3 chu kì không có thai. - Trâu bò cái vô sinh tạm thời: là những trâu bò tơ mà trên 30 tháng tuổi chưa động dục, trâu bò sau khi đẻ mà phối giống trên 4 chu kì không thụ thai. Sở dĩ gọi là vô sinh tạm thời là vì nếu được tác động bằng những biện pháp kĩ thuật thì chúng có thể trở lại sinh đẻ bình thường. - Trâu bò cái vô sinh tuyệt đối (tuyệt sinh): là những trâu bò cái vô sinh tạm thời, sau khi tác động các biện pháp kĩ thuật mà chúng không trở lại sinh đẻ bình thường hoặc những trâu bò cái có những khuyết tật bẩm sinh ở cơ quan sinh dục. V. các hormone sinh sản chính và một số chế phẩm đặt âm đạo 5.1. Các hormone sinh sản chính 5.1.1.Oestrogen. Trong buồng trứng hormone được tao ra bởi toàn bộ tế bào trứng và tổ chức kẽ. ở động vật khi có chửa Oestrogen được tổng hợp bởi ngau thai (E.R. Bagramiou,1972), ngoài ra hormone này còn được tổng hợp bởi vỏ tuyến thượng thận với một lượng nhỏ vì thế khi thiếu vẫn thấy sự tiết Oestrogen không bị ngừng. Oestrogen gồm 3 loại: oestradiol, oestron, oestriol. Trong đó oestradiol có tác dụng mạnh nhất, oestriol yếu nhất. Chúng có tác dụng giống nhau đếu là steroid. Hoạt tính sinh lý mạnh nhất vẫn là oestradiol, nó tồn tại dưới hai dạng đồng phân a và b (G.M.Segala,1980), trong đó oestradiol17b có hoạt tính sinh học mạnh hơn cả ( lớn hơn oestradiol17atới 40 lần và hơn oesteron 10 lần). Trong quá trình sinh tổng hợp oesteron người ta thấy rằng có sự chuyển hoá qua lại của chúng. Ví dụ: Oesteron17a rễ ràng chuyển thành oestron, oestron bị phân huỷ thành những sản phẩm steroid (L.D. Segelson, 1985). Công dụng của Oestrogen là kích thích cơ quan sinh dục cái phát triển,làm cơ quan sinh dục tăng sinh và tiết dịc, giúp gia súc cái có những biểu hiện động dục.ngoài ra Oestrogen cũng gây tác động ngược lên vùng dưới đồi và tuyến yên để tăng cường tiết LH, góp phần gây ra rụng trứng. 5.1.2.GnRH (Gonado tropin Releasing Hormone ). GnRH là hormone được tiết từ các neuron của vùng dưới đồi (Hypothalamus) có tác dụng kích thích tuyến yên tăng cường tiết các hormone gonado tropin( FSH và LH ) để kích hoạt và tăng cường sự phát triển của tế bào trứng, sự rụng trứng và sự hình thành thể vàng. Ngoài cơ chế tác động thuận chiều, GnRH còn đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát mối tác động ngược dương tính của Oestrogen để tăng cường tiết LH và kiểm soát mối tác động ngược âm tính của Progesterone để bảo đảm. 5.1.3.Các hormone Gonado tropin FSH (Follicle Stimulating Hormone). Là hormone của thuỳ trước tuyến yên có tác dụng chủ yếu là kích thích tế bào trứng phát triển gọi là kích noãn tố. b. LH (Luteinising Hormone) Là hormone của thuỳ trước tuyến yêncó tác dụng tăng cường quá trình thành thục của trứng, làm cho trứng chín và rụng, đồng thời bảo đảm cho sự hình thành thể vàng gọi là kích thể vàng tố. Tác dụng sinh lý của FSH gắn liền với chức năng kích thích trứng chín nhưng không gây rụng trứng. Muốn gây được rụng trứng phải có LH. Hầu hết các nhà sinh học đều thống nhất rằng để trứng rụng được thí lượng LH phải lớn hơn FSH. Theo Lê Văn Thọ, Lê Xuân Cương, 1997,[] thì tỷ lệ thích hợp giữa LH /FSH =3/1 Huyết thanh ngựa chửa – PMSG ( Pregnant Mare Serum Gonadotropin) Là kích tố của nhau thai ngựa có chức năng sinh lý tương tự như FSH và LH của thuỳ trước tuyến yên. Tuy nhiên hoật tính của nó giống FSH nhiều hơn. HTNC có hoạt tính từ ngày thứ 40-60 khi ngựa có chửa, cao nhất là khi ngựa có chử 90-120 ngày. Hoạt tính của hormone này trong HTNC tăng dần đến cực đại từ 80-120 đơn vị chuột (đ.v.c)/huyết thanh trong khoảng 60-100 ngày chửa rồi giảm dần (có trường hợp mất hẳn ở 150 ngày có chửa). Kích tố của nhau thai người – HCG (Human Chorionic Gonadtropin) Là kích tố của phun nữ có chửa. Chức năng sinh lý của HCG gần giống với LH. HCG được chiết xuất từ nước tiểu phụ nữ có thai từ 8 – 12 ngày. 5.1.3.Progesterone Khi noãn bao chín, trứng rụng khỏi nang trứng tại nơi đó mạch quản và tế báo sắc tố vàng phát triển thành thể vàng.Khi còn tồn tại và hoạt động thể vàng tiết ra Progesterone, là một steroid có 21 cacbon. Nó cũng được tiết ra từ nhau thai và 1 lượng nhỏ từ tuyến thượng thân Progesteron kích thích sự phát triển hơn nữa của niêm mạc tử cung, âm đạo, tích luỹ nhiều glycogen ở các niêm mạc đó, làm phát triển lưới mao mạch tử cung. Progesterone làm giảm tính mẫn cảm co bóp của nội mạc tử cung, tham gia vào sự chuẩn bị của nội mạc dạ con cho sự làm tổ của hợp tử, nó cũng làm tăng sinh và phát triển các bao tuyến trong tuyến vú. Khi trứng đã được thụ tinh và làm tổ thì hormone này có tác dụng dưỡng thai: làm nhau thai phát triển và duy trì sự phát triển của thai, làm giảm tính mẫn cảm của cơ trơn tử cung với oxytoxin, ức chế sự sản sinh FSH, LH của tuyến yên, do đó ức chế sự phát triển của noãn bao. Với cơ chế tác động của Progesterone là ức chế các enzim mà những enzim này được Oestrogen kích thích bao gồm hệ thống enzim oxy hoá như glucoronidaza, photphataza, cacbonicanhydraza. 5.1.4 Prostaglandin Prostaglandin được phát hiện lần đầu tiên năm 1953 trong tinh dịch người. Lúc đó người ta giả thiết rằng nguồn gốc của nó xuất hiện từ tuyến tiền liệt (prostala glandula), do đó mà có thuật ngữ prostaglandin. Prostaglandin là một axits béo không no, trong phân tử có 20 nguyên tử hydro nằm trong thành phần photpholipit của màng tế bào. Tuỳ thao cách sắp đặt của nguyên tử ở các vị trí khác nhau, tuỳ cách kết hợp hai nhóm hydroxit và nhóm xeton mà chia thành 4 chất prostaglandin.Tập hợp trong 4 nhóm chính được đặt tên là A,B,E,F trong đó 2 nhóm E, F có hoạt tính sinh học mạnh nhất. ở gia súc cái Prostaglandin được tiết ra từ nội mạc của ống sinh dục(tử cung, âm đạo). Tác dụng lớn nhất của Prostaglandin (đặc biệt nhóm pgf2a) trong chăn nuôi là điều khiển chức năng sinh sản. Tác dụng chủ yếu của nó gồm: Phá vỡ màng noãn bao để gây rụng trứng. Phá huỷ thể vàng, nang nước trên buồng trứng,gây động dục Gây hưng phấn ống sinh dục, tăng cường nhu động tử cung, kích thích mở cổ tử cung. Do đó, Prostaglandin còn được ứng dụng gây đẻ nhân tạo và trợ sản ở những ca đẻ khó, rặn đẻ yếu. 5.2. Một số chế phẩm đặt âm đạo. 5.2.1 CIDR. đây là chế phẩm được làm bằng hỗn hợp cao su và silicone có dạng hình chữ "T" hay chữ "Y". Trong mỗi dụng cụ có chứa 1,9g hormone Progesterone tự nhiên, chế phẩm này dùng để : - Điều khiển chu kì động dục của bò tơ, bò sinh sản. - Nâng cao tỷ lệ thụ tinh của bò sau khi đẻ, bò đang vắt sữa nhưng chưa động dục hoặc động dục nhưng không rụng trứng. - Dùng trong công nghệ cấy truyền phôi. Dụng cụ này có thể dùng riêng biệt hoặc có thể kết hợp với HTNC,PGF2 hoặc Cidirol(Oestradiol benzoat) hoặc cả Cidirol và PGF2 thì kết quả sẽ tốt hơn. 5.2.2.PRID. chế phẩm này được cấu tạo bằng chất dẻo silicone, dạng vòng xoắn có chứa 2 loại hormone là 1,55g Progesterone và 10mg Oestrodiol benzoat. Dùng Prid có nhiều thuận lợi trong việc gây động dục hàng loạt. Dụng cụ này cũng có thể dùng riêng biệt hoặc có thể kết hợp với HTNC, FSH,PGF2. 5.2.3.CUEMATE. Ngoài chế phẩm CIRD và PRID người ta còn dùng chế phẩm Cuemate. Đây cũng là chế phẩm hormone đặt âm đạo để điều khiển chu kì động dục của bò. Dụng cụ này cũng được chế tạo từ hỗn hợp cao su và Silicone có dạng hình chữ "Y" với hai cánh xoắn hình lò xo. Trong mỗi dụng cụ có chứa 1,56g Progesterone. Dụng cụ này thường dùng kết hợp với Oestradiol hay HTNC. Phần III đối tượng nội dung và phương pháp nghiên cứu I. đối tượng. Đề tài được thực hiện trên đàn bò lai hướng sữa (lai Sind x Holstein Friz) F1, F2, F3 (co 50, 75 và 87,5 máu HF) tại Trung tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì. Đàn bò được nuôi nhốt và bán chăn thả với quy mô vừa và nhỏ ở các trại và các nông hộ gia đình. II. nội dung nghiên cứu. Đề tài được thực hiện với 3 nội dung chính: 2.1. Đánh giá tình hình sinh sản của đàn bò lai hướng sữa ở TTNC bò và ĐC Ba Vì. Đánh giá tình hình sinh sản của đàn bò lai tại Trung tâm thông qua các chỉ tiêu sau: - Tuổi động dục lần đầu - Tuổi đẻ lứa đầu - Thời gian động dục lại sau khi đẻ - Khoảng cách giữa hai lứa đẻ - Hệ số phối giống và tỷ lệ thụ thai - Sản lượng sữa trên một chu kỳ - Tỷ lệ bê cái/bê đực 2.2. Khảo sát một số bệnh sản khoa thường gặp - Bệnh trong giai đoạn mang thai - Bệnh trong quá trình sinh đẻ - Bệnh trong thời gian gia súc không mang thai 2.3. một số biện pháp kĩ thuật nhằm nâng cao khả năng sinh sản của đàn bò lai tại Trung tâm. 2.3.1.Sử dụng một số hormone hướng sinh dục . Gây động dục phối giống bằng pgf2a trên bò chậm động dục do thể vàng tồn lưu bệnh lý. Sử dụng Prostaglandin hai liều cách nhau 11 ngày trên bò chậm sinh. Sử dụng Progesterone kết hợp HTNC trên bò chậm sinh. Sử dụng HCG trên bò động dục mà không rụng trứng. Sử dụng dụng cụ đặt âm đạo trên bò chậm động dục . 2.3.2.Sử dụng dung dịch Lugon 0,1 – 0,2% thụt rửa cho bò sau khi đẻ. III. phương pháp nghiên cứu 3.1. Phương pháp đánh giá các chỉ tiêu sinh sản Đánh giá các chỉ tiêu sinh sản bằng phương pháp theo dõi ghi trực tiếp, qua sổ sách giống, sổ đẻ của trung tâm và điều tra trực tiếp ở các nông hộ chăn nuôi. - Tuổi phối giống lần đầu: được tính từ khi con vật sinh ra tới khi bò phối giống lần đầu (thời gian tính tháng) - Tuổi đẻ lứa đầu: được tính từ khi con vật sinh ra đến khi đẻ lứa đầu tiên (thời gian tính bằng tháng) - Thời gian động dục lại sau khi đẻ: là từ khi con vật đẻ đến lần động dục đầu tiên sau đó (thời gian tính bằng ngày) - Khoảng cách giữa hai lứa đẻ: được xác định bằng khoảng thời gian từ lần đẻ này đến lần đẻ tiếp theo (thời gian tính bằng ngày hay tháng) - Hệ số phối giống: là số lần phối cho một bò có chửa bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo do dẫn tinh viên theo dõi, ghi chép vào sổ phối giống Số lần phối trong một năm Hệ số phối giống = Số bò có chửa trong năm - Tỷ lệ thụ thai: Là tỷ lệ % giữa số bò có chửa trên số bò được phối giống trong một năm Số bò có chửa trong năm Tỷ lệ thụ thai = *100% Số bò phối trong năm - Sản lượng sữa trên một chu kỳ: Là tổng sản lượng sữa của một con trên 305 ngày vắt sữa -Tỷ lệ bê cái/bê đực đẻ ra là tỷ lệ bê cái đẻ rachia cho bê đực đẻ ra trong một năm. Số bê cái - Tỷ lệ bê cái/bê đực = *100% Số bò đực 3.2. Phương pháp đánh giá tỷ lệ mắc bệnh sản khoa ở bò lai hướng sữa nuôi tại trung tâm. Đánh giá tỷ lệ trên bằng phương pháp khám trực tiếp, theo dõi trực tiếp, qua sổ sách của thú y viên tại khu vực và qua sổ sách của các trại và các hộ chăn nuôi. Bệnh trong thời gian mang thai: là những bệnh mà gia súc mắc phải từ khi phối giống có kết quả đến khi gia súc sổ thai bình thường ra ngoài. +Tỷ lệ đẻ non, sảy thai: là những trường hợp sau khi phối trên 3 tháng (đã khám thai) đến 8,5 tháng có chửa mà đẻ, sảy thai,teo biến. Tỷ lệ đẻ non, sảy thailà tỷ lệ % số bò đẻ non, sảy thai trên tổng số bò phối giống có chửa. Tỷ lệ đẻ non, sảy thai (%) = +Tỷ lệ rặn đẻ quá sớm +Tỷ lệ bại liệt trước khi đẻ Bệnh trong thời gian gia súc sinh đẻ: là những bệnh mà gia súc mắc phải từ khi gia súc mẹ có triệu chứng rặn đẻ đầu tiên đến khi sổ thai ra ngoài. + Tỷ lệ rặn đẻ quá yếu + Tỷ lệ rặn đẻ quá mạnh + Tỷ lệ sát nhau: Là tỷ lệ (%) số ca đẻ không ra nhau sau 6 giờ trên tổng số ca đẻ . Tỷ lệ sát nhau(%) = +Tỷ lệ đẻ khó: Hiện tượng đẻ khó là trong quá trình sinh đẻ của gia súc, thời gian sổ thai bị keo dài nhưng thai vẫn chưa được đẩy ra ngoài. Tỷ lệ đẻ khó là tỷ lệ % số ca đẻ khó trên tổng số ca đẻ Tỷ lệ đẻ khó (%) = - Bệnh trong thời gian gia súc không mang thai: là những bệnh mà gia súc mắc phải tính từ khi sổ thai ra ngoài đến khi phối giống co kết quả của lần tiếp theo(đối với bò trên một lứa),còn đối với bò tơ được tính từ khi thành thục về tính đến khi phối giống có kết quả + Tỷ lệ bại liệt sau khi đẻ + Tỷ lệ viêm nhiễm đường sinh dục + Tỷ lệ chậm sinh + Tỷ lệ vô sinh tạm thời. + Tỷ lệ vô sinh tuyệt đối 3.3. phương pháp sử dụng chế phẩm hormone hướng sinh dục và dung dịch thụt rửa 3.3.1.Phương pháp sử dụng chế phẩm hormone hướng sinh dục. 3.3.1.1.Sử dụng Prostaglandin (nhóm pgf2a) để kích thích động dục Tiêm PGF2 cho bò có thể vàng tồn lưu bệnh lý và sử dụng PGF2 kích thích động dục cho những bò chậm động dục. Tất cả những bò chậm động dục sau khi đẻ, bò tơ, động dục ngầm, bộ phận sinh dục không viêm nhiễm đều được khám lại sau khi tiêm PGF2 2 lần cách nhau 11 ngày (bất kỳ giai đoạn nào của chu kỳ) Để phân biệt thể vàng tồn lưu bệnh lý và thể vàng của chu kỳ sinh dục, chúng tôi tiến hành khám sản khoa kiểm tra buồng trứng với khoảng cách 10 ngày khám một lần (theo Witkowski, 1990; Hoàng Kim Giao,1997)[]. Thể vàng của chu kỳ sinh dục bình thường được tồn tại trên buồng trứng của bò từ ngày thứ 5 –17 (ngày của chu kỳ sinh dục), tới ngày thứ 17 Prostaglandin do tử cung tiết ra sẽ có tác dụng làm tiêu biến thể vàng, biểu hiện động dục sẽ được lặp lại.Vì vậy lần khám đầu tiên nếu ta thấy thể vàng trên buồng trứng lớn và cứng, sau 10 ngày khám lại nếu vẫn thấy thể vàng tồn tại như trên thì ta kết luận là thể vàng tồn lưu bệnh lý. (Trên thực tế thể vàng chu kỳ sinh dục bao giờ cũng to mềm , chân rộng và mềm còn thể vàng bênh lý bao giờ cũng vừa phải, cứng và chân thể vàng bao giờ cũng rắn hơn). Sau đó theo dõi động dục và phối giống khi bò chịu đực nếu không thụ thai ở chu kỳ đầu, tiếp tục theo dõi động dục và phối giống ở chu kỳ sau, tỷ lệ thụ thai được tính ở cả 2 chu kỳ. (pgf2a do hãng Intervet (Hà Lan) sản xuất) 3.3.1.2 Sử dụng Prostaglandin kết hợp HTNC(hay PMSG) Những bò cái tơ có trọng lượng >= 230 kg, bò sinh sản sau khi đẻ 4 tháng, có sinh lý sinh sản bình thường, thể trạng không tốt, không có thể vàng. - Gây động dục cho bò bằng phương pháp tiêm progesteron kết hợp với HTNC với sơ đồ sau: 1 3 5 7 9 10 25mg 50mg 75mg 6 – 8đvc/kg Theo dõi động dục Ngày Progesterol HTNC và phối giống Với sơ đồ này bò được tiêm progesterone vào các ngày thứ 1,3,5, liều 25-50-75mg. Tiêm huyết thanh ngựa chửa vào ngày thứ 7 liều lượng 6-8 đ.v.c/kgP, ngày thứ 9 trở đi theo dõi động dục và phối giống. 3.3.1.3.Sử dụng HCG Với những bò động dục nhưng không rụng trứng hay còn gọi là động dục không hoàn toàn Sử dụng HCG tiêm cho bò vứi liều 2500 – 3000 UI/con trước khi phối giông từ 6-10 giờ. (tiêm bắp) 3.3.1.4.Sử dụng dụng cụ đặt âm đạo - Đặt CIDR: Sử dụng CIDR có thể theo sơ đồ sau: Với bò đẻ không động dục: 0 6 7 12 Ngày Đặt CIRD Rút Tiêm 5mg Theo dõi động dục oestradiol benzoat và phối giống Đối với bò cái tơ chậm động dục: 0 6 10 12 13 Ngày Đặt CIRD Tiêm (1/2 liều) Rút Theo dõi động dục và phối + oestradiol benzoat PGF2a -Đặt PRID: Đặt Prid kết hợp với HTNC trên bò sau khi đẻ chậm động dục theo sơ đồ sau: 0 12 13 14 Đặt Prid Rút Tiêm Theo dõi động dục và phối Ngày 1000 UI HTNC Đặt CUEMATE: Đặt Cumate cho bò chậm động dục theo sơ đồ sau: 0 12 13 14 Ngày Đặt Rút Tiêm Theo dõi động dục và phối Curmate 1000 UI HTNC 3.3.2.Thụt rửa cho bò sau khi đẻ. Bò sau khi đẻ 7 –10 ngày thụt rửa bằn dung dịch lugon 0,1 – 0,2%. Sau đó theo dõi động dục lại sau khi đẻ 3.4.Phương pháp xử lý số liệu Số liệu của các chỉ tiêu theo dõi được xử lý bằng phương pháp thống kê sinh vật học Công thức được sử dụng trong tính toán: ; Trong đó: : giá trị trung binmhf cua tổng số mẫu S2: phương sai mẫu n: dung lượng mẫu quan sát ni: tần số của mẫu thử i x: độ lệch chuẩn : phương sai của số trung bình k: số tổ phân chia - Hệ số biến dị; Cv% = - Số liệu được xử lý trên máy vi tính theo chương trình minitab 3.4. Thời gian và địa điểm nghiên cứu - Thời gian nghiên cứu từ 6/9/2004 - 6/2/2005 - Địa điểm nghiên cứu: Trên đàn bò lai hướng ssữa (F1, F2,F3) được nuôi tại trung tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì - Hà Tây Phần IV Kết quả nghiên cứu và thảo luận I. Kết quả điều tra về một số chỉ tiêu sinh sản trên đàn bò lai hướng sữa tại TTNC Bò và ĐC Ba Vì Cơ cấu đàn bò của trung tâm Bảng 1a. Cơ cấu đàn bò sữa của trung tâm năm 2003 và 2004 Độ tuổi Năm Bê Lỡ Tơ Sinh sản Tổng % Năm 2003 F1 3 3 5 14 55 13.96 F2 9 13 19 111 152 38.58 F3 17 41 24 56 138 35.03 Jersey 3 1 4 19 27 6.85 HF 2 3 7 10 22 5.58 Tổng 394 100 Năm 2004 F1 5 4 4 48 61 14.32 F2 8 10 14 123 155 36.38 F3 15 28 41 68 152 35.68 Jersey 4 3 3 21 33 7.75 HF 6 2 5 14 25 5.87 Tổng 4263 100 Ba Vì là vùng đất nằm phía tây đông bắc của tỉnh Hà Tây, có điều kiện tự nhiên cũng như khí hậu khá thuận lợi cho việc chăn nuôi bò sữa. Vì vậy, trong những năm gần đây, với chính sách khuyến khích phát triển chăn nuôi bò sữa, đàn bò sữa ở Ba Vì phát triển khá nhanh cả về số lượng cũng như chất lượng. Trong đó, TTNC bò và ĐC Ba Vì (thuộc vùng núi Ba Vì ) chiếm chủ yếu. Năm 2001 đàn bò sữa của trung tâm chỉ có 240 con, năm 2004 là 426 con bò sữa 2. Kết quả điều tra một số chỉ tiêu sinh sản trên đàn bò lai hướng sữa nuôi tại trung tâm. 2.1 Tuổi phối giống lần đầu Qua theo dõi và điều tra trên địa bàn tại trung tâm, chúng tôi đã xác định được tuổi phối giống lần đầu của chúng. Kết quả được trình bày ở bảng 2. Qua bảng 2 chúng tôi thấy, tuổi phối giống lần đầu giữa 3 nhóm bò có sự khác nhau. Nhóm bò F1 là 18.87 ± 0,81 tháng trên 26 con bò theo dõi, nhóm bò F2 là 16.68 ± 0,63 tháng trên 43 con, nhóm bò F3 là 17.32 ± 0,77 tháng trên 37 con. Sự sai khác về tuổi phối giống lần đầu ở cả 3 nhóm trên có thể là do nguyên nhân về điều kiện nuôi dưỡng. Theo Nguyễn Trọng Tiến 1991{ }, mức độ dinh dưỡng thấp sẽ kìm hãm sự sinh trưởng của cơ thể và sự còi cọc sẽ thường đi kèm với sự thành thục về tính chậm chạp. Khi nghiên cứu trên đàn bò lai hướng sữa nuôi đại trà tại Ba Vì (Nguyễn Kim Ninh, 1994 []) đã tiến hành nuôi thí nghiệm lô bê F1 từ 7 - 24 tháng tuổi thì thấy tuổi phối giống lần đầu là 19,06 ± 1,14 tháng. Còn tuổi phối giống lần đầu của bò vàng Việt Nam là 22,5 tháng (Lê Xuân Cương, 1993 [ ]). Theo Tăng Xuân Lưu, 1999 [] nghiên cứu trên đàn bò F1 và F2 của khu vực Ba Vì thì tuổi phối giống lần đầu tương ứng là 26,4 và 27,4. Như vậy tuổi phối giống lần đầu ở đàn bò lai hướng sữa của Trung tâm có được rút ngắn hơn so với bò vàng Việt Nam và đàn bò lai hướng sữa được nuôi cùng khu vực các năm trước đây. 2.2. Tuổi đẻ lứa đầu. Qua điều tra và theo dõi về tuổi đẻ lứa đầu, chúng tôi có kết quả sau. Kết quả được trình bày ở bảng 2. Qua bảng 2 chúng tôi thấy tuổi đẻ lứa đầu của F2 sớm nhất là 25.89 ± 0.42 tháng, khi điều tra trên 43 con, của giống bò F3 là 27.12 ± 1.07 tháng trên 37 con, của nhóm bò F1 là 28.72 ± 0.73 tháng trên 26 con. Sở dĩ có sự sai khác như vậy là do nhiều nguyên nhân ttác động đã ảnh hưởng đến tuổi đẻ lứa đầu, đặc biệt là yếu tố về dinh dưỡng và giống. Nhưng trong cùng một điều kiện nuôi dưỡng thì giống bò F2 (có 75% máu bò HF) lại có tuổi đẻ lứa đầu thấp hơn giiống bò F3 (có 87,5% máu bò HF) là vì một phần do chế độ dinh dưỡng và điều kiện ngoại cảnh. Về ngoại cảnh thì giống bò F2 thích nghi tốt hơn F3. Về dinh dưỡng thì giống bò F3 đòi hỏi phải có chề độ dinh dưỡng cao hơn nhung do ở Trung tâm thường chăm sóc cùng một chế độ giưa các giống bò lai vì vậy giống bò F2 phát huy tiềm năng sinh học tốt hơn. Theo Nguyễn Quốc Đạt, Vũ Văn Nội, 1998 [] cho biết tuổi đẻ lứa đầu 3 nhóm bò F1, F2, F3 nuôi ở thành phố Hồ Chí Minh trung bình là 26,88 tháng, cao nhất ở nhóm bò F2 là 27,17 tháng, nhóm bò F1 là 26,27 tháng và thấp nhất là ở nhóm F3 là 26,63 tháng. Theo các tác giả Nguyễn Kim Ninh, Nguyễn Văn Thưởng, Trần Trọng Thêm, Lê Trọng Lạp, Tăng Xuân Lưu, 1994 [] nghiên cứu trên đàn bò của Trung tâm, tuổi đẻ lứa đầu nhóm F1 là 32,10 ± 1,12 tháng và nhóm bò F2 là 30,80 ±1,71. Theo Tăng Xuân Lưu, 1999 [] tuổi đẻ lứa đầu ở nhóm F1 là 38,47 ± 0,97 tháng, ở nhóm bò F2 là 38,87 ± 1,13 tháng. Sự sai khác giữa các nhóm bò trên ngoài yếu tố về giống thì nó còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như chế độ quản lý, dinh dưỡng, phương thức chăn nuôi, điều kiện ngoại cảnh... Điều này cũng phù hợp với nhận xét của nhiều tác giả. Theo Trịnh Quang Phong,1996 [ ] nghiên cứu trên đàn bò F2, kết quả nghiên cứu của Lê Viết Ly, Vũ Văn Nội, Võ Văn Sự, Vũ Chí Cương và cs, 1997 [ ] cho biết bò HF nuôi ở nông trường Mộc Châu trong hộ gia đình có tuổi đẻ bình quân qua các năm 1992, 1993, 1994, 1995 tương ứng là 39,5, 41,7, 36,5 và 36,6 tháng. Nhưng nuôi ở đàn giống với chế độ chăm sóc nuôi dưỡng cao hơn đạt bình quân tương ứng các năm 37,3, 36,9, 35,3 và 35,2 tháng. Như vậy đàn bò lai của Trung tâm có tuổi đẻ lứa đầu thấp hơn so với các năm trước ở Mộc Châu và TP. HCM và thấp hơn các năm trước trên cùng khu vực nhưng vẫn còn ở mức cao. 2.3. Thời gian động dục lại sau khi đẻ Thời gian xuất hiện động dục lại sau khi đẻ là một chỉ tiêu quan trọng ảnh hưởng tới khoảng cách giữa hai lứa đẻ và năng xuất sinh sản của chúng. Kết quả thu được thể hiện ở bảng 3. Qua bảng 3 cho thấy rằng thời gian động dục lại sau khi đẻ giữa 3 nhóm có sự sai khác nhau rõ rệt. ở nhóm bò F1 trung bình là 91.33 ± 6.31 ngày trên 32 con theo dõi, nhóm bò F2 là 98.14 ± 4.14 ngày trên 51 con, nhóm bò F3 là 116.09 ± 7.83 ngày trên 47 con. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Minh Hoàn, Hoàng Mạnh Quân và ctv, 1994[] khi nghiên cứu trên đàn bò lai hướng sữa ở Đà Nẵng có thời gian động dục lại sau khi đẻ trung bình là 6,32 ngày. Tác giả Tiết Hồng Ngân và cs, 1993 [] khi nghiên cứu trên bò Red Sindhi nuôi ở nông trường Việt - Mông cho biết thời gian động dục lại sau khi đẻ là 7,36 tháng. Như vậy thời gian động dục lại sau khi đẻ của 3 nhóm bò tại Trung tâm cao hơn so với đàn bò lai được nuôi ở Đà Nẵng. Còn so với bò Red Sindhi nuôi ở nông trường Việt - Mông thì thấp hơn rất nhiều. Như vậy, thời gian động dục lại sau khi đẻ của đàn bò lai hướng sữa tại Trung tâm còn rất cao. Thời gian này cũng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như chăm sóc nuôi dưỡng, chế độ quản lý, tác động kĩ thuật, sản lượng sữa... vì vậy cần phải có biện pháp rút ngắn thời gian động dục lại sau khi đẻ. 2.4. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ. Đây là một chỉ tiêu rất quan trọng trong sinh sản nó là thước đo khả năng sinh sản, sức sản xuất của bò lai hướng sữa. Qua điều tra và theo dõi đàn bò lai ở Trung tâm chúng tôi thu được kết qua sau. Kết quả được trình bày ở bảng 3: Qua bảng cho thấy khoảng cách giữa hai lứa đẻ của nhóm bò F1 là 402.63 ± 9.88 ngày trên 30 con, của nhóm F2 là 413.61 ± 10.71 ngày trên 46 con, nhóm F3 là 428.72 ± 13.63 ngày trên 34 con. Theo Nguyễn Kim Ninh, 1994 [] trên đàn bò F1 nuôi trong điều kiện thức ăn ổn định, khoảng cách giữa hai lứa đẻ là 416,6 ± 10,68 ngày. theo Lê Viết Ly, Vũ Văn Nôi, Vũ Chí Cường và cs, 1997 [] nghiên cứu trên đàn bò HF tại Mộc Châu năm 1995 là 456 ngày. Theo Tăng Xuân Lưu, 1999 nghiên cứu trên đàn bò F1 và F2 tại khu vực Ba Vì có khoảng cách lứa đẻ tương ứng là 423,98 ± 5,74 và 438,55 ±7,80 ngày. Theo Lê Xuân Cương, 1993 [] khoảng cách giữa hai lứa đẻ của bò vàng Việt Nam là 456 ngày. Như vậy đàn bò lai của Trung tâm có khoảng cách giữa hai lứa đẻ trung bình thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của các tác giả trên, chúng tôi nghĩ là phù hợp bởi vì khoảng cách giữa hai lứa đẻ, ngoài yếu tố di truyền (giống) nó còn phụ thuộc vào chăm sóc nuôi dưỡng, yếu tố ngoại cảnh. Mà ở Trung tâm (thuộc vùng núi Ba Vì) có khí hậu rất thuận lợi, mặt khác trong những năm gần đây được đầu tư, nâng cấp, chăm sóc đàn bò lai rất cao. 2.5. Hệ số phối giống và tỷ lệ thụ thai, Hệ số phối giống là số lần phối để một bò có chửa. Trong chăn nuôi đòi hỏi cấn có hệ số phối giống thấp và tỷ lệ thụ thai cao là tốt nhất. Hệ số phối giống bằng 1 và tỷ lệ thụ thai đạt 100% là lý tưởng nhất nhưng thực tế khó đạt được chỉ số này. Hệ số phối giống và tỷ lệ thụ thai cao hay thấp còn phụ thuộc rất nhiều yếu tố như chất lượng tinh, kỹ thuật dẫn tinh, thời điểm dẫn tinh, tình trạng sinh lý của gia súc... Tại Trung tâm, qua thời gian theo dõi và điều tra chubngs tôi thu được kết quả sau. Kết qủa được trình bày ở bảng 4 Bảng 4.Hệ số phối giống và tỷ lệ thụ thai Chỉ tiêu Nhóm Số con phối có chửa (con) Số lần phối (lần) Hệ số (lần) Tỷ lệ thụ thai (%) F1 38 64 1.68 59.38 F2 92 165 1.79 55.76 F3 54 114 2.11 47.37 Tổng 184 343 1.86 54.17 Qua bảng 4 chúng tôi thấy hệ số phối giống bình quân tại trung tâm là 1.86 lần và tỷ lệ thụ thai bình quân là 54.17%. Theo Lê Xuân Cương và ctv 1993 [] số lần phối giống trung bình của bò sữa miền Nam là 1.78 lần, tỷ lệ thụ thai 57.17%. Theo Nguyễn Kim Ninh 1994 [] hệ số phối giống trên bò lai F1 là 1.67 lần, tỷ lệ thụ thai là 58.03% Theo Nguyễn Quốc Đạt, Vũ Văn Nội, Bùi Thị Đức, Nguyễn Thanh Bình, 1998 hệ số phối giống bò lai hướng sữa tại thành phố Hồ Chí Minh là 1.68 lần (bò F1) và 2.07 lần (bò F3) Theo Tăng Xuân Lưu, 1999 [] khi nghiên cứu trên đàn bò lai thuộc Ba Vì có hệ số phối giống trung bình là 1.78 và tỷ lệ thụ thai trung bình là 56.64% Như vậy kết quả chúng tôicó chênh lệch không đáng kể so với kết quả của các tác giả nghiên cứu trên. Chúng tôi nghĩ đó là phù hợp nhưng hệ số phối giống còn ở mức cao và tỷ lệ thụ thai còn thấp. Do vậy cần vận dụng các biện pháp kỹ thuật để giảm hệ số phối giống, nâng cao tỷ lệ thụ thai nhằm nâng cao khả năng sinh sản của chúng. 2.6.Sản lượng sữa trên một chu kỳ và tỷ lệ bê cái trên bê cái. Ttrong chăn nuôi, để đạt được hiệu quả kinh tế ngoài các chỉ tiêu trên thì sản lượng sữa và tỷ lệ đẻ bê cái cung rat quan trọng, nò mang lai giá trị kinh tế không nhỏ trong chăn nuôi cũng như trong sinh sản. Năng suất sữa ngoài yếu tố về giống nó quyết đinh nó còn phụ thuộc rất nhiều yếu tố khác như chế độ chăm sóc nuôi dưỡng, khẩu phần ăn cho từng thời kỳ, đặc biệt là khâu vệ sinh để tránh hiện tượng viêm vú. Qua thời gian theo dõi và điều tra đàn bò lai tại trung tâm chúng tôi thu được kết quả sau. Kết quả được trình bày ở bảng 5 Qua bảng 5 cho thấy nhóm bò F1 đạt năng suất sữa bình quân là 3075,54 kg và cao nhất là nhóm bò F3đạt 3820 kg/chu kỳ II. Kết quả điều tra một số bênh sản khoa thường gặp trên đàn bò lai hướng sữa nuôi tại TTNC bò và ĐC Ba Vì. 2.1. Bệnh thường gặp trong thời gian mang thai. Đối với bò sữa trong giai đoạn mang thai ngoài nhu cầu dinh dưỡng cho chính mình còn phải đáp ứng dủ dinh dưỡng cho phôi thai, nếu có thai trong giai đoạn vắt sữa thì phải cung cấp một lượng rất lớn cho sự tạo sữa. Vì vậy đối với bò sữa nếu không có chế độ chăm sóc nuôi dưỡng, khai thác sử dụng hợp lýthì trong giai đoạn mang thai rất dễ mắc một số bênh như xẩy thai, bại liệt trước khi đẻ , rặn đẻ quá sớm .... Qua điều tra và theo dõi rên đàn bò lai tại trung tâm chúng tôi thu được kết quả sau: Kết quả được trình bày ở bảng 6. Qua bảng 6 chúng tôi thấy trong giai đoạn mang thai này thì tỷ lệ đẻ non xảy thai chiếm cao nhất trong giai đoạn mang thai là 6,25% ở đàn bò lai F1, 4,42% ở F2 và 3,22% ở nhóm F3 . Ngoài ra còn thường mắc bệnh Rổn đẻ quá sớm, Bại liệ trước khi đẻ….nhưng tỷ lệ các bệnh này thấp. 2.2 Bệnh trong thời gian gia súc sinh đẻ Tai TTNCbò va ĐC Ba Vì nói chung va nước ta nói riêng đàn bò lai hướng sữa thường được nuôi dưới hình thức bán chăn thả hoặc nuôi nhốt hoàn toàn vì vậy thường dẫn đến một số bệnh liên quan đến vận động như đẻ khó, sát nhau, rặn đẻ quá yếu .......ngoài ra, chế độ chăm sóc nuôi dưỡng, khai thác sử dụng cũng ảnh hưởng không nhỏ tới tỷ lệ mắc bệnh trong thời gian sinh đẻ này Tại trung tâm, phần lớn bò lai được nuôi nhốt hoàn toàn vì vậy không tránh khỏi một số bệnh và tỷ lệ đó được thể hiện dưới bảng 6. Qua bảng 6 cho thấy, trong quá trình sinh đẻ thì đàn bò lai của trung tâm thường mắc 3 bệnh chủ yếu là rặn đẻ quá yếu, rặn đẻ quá mạnh, đẻ khó.Trong đó, đẻ khó chiếm tỷ lệ cao nhất (9,37% ở F1, 5,31% ở F2 và 6,45% ở F3 ) 2.3 Bệnh trong thời gian không mang thai Đối với bò sữa trong giai đoan không mang thai mắc rất nhiếu bệnh. Đặc biệt là công tác vệ sinh sau khi đẻ hay vệ sinh trước, trong và sau khi vắt sữa không tốt thì rất dễ mắc một số bệnh như nhiễm trùng sau khi đẻ, viêm đường sinh dục, viêm vú ........... Còn sau khi đẻ mà chăm sóc nuôi dưỡng không hợp lý, khẩu phần không cân đối nhất là nguyên tố đa vi lượng, khai thác sử dụng không hợp lý thì bò sữa dễ mắc bệnh bại liệt sau khi đẻ , liệt nhẹ sau khi đẻ và đặc biệt là các bệnh về cơ quan sinh dục gây ra hiện tượng rối loạn sinh sản Trên đàn bò lai của trung tâm, qua điều tra và theo dõi chúng tôi thu được kết quả sau. Kết quả được trình bày ở bảng 7 Qua bảng 7 cho thấy III. Một số biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao khả năng sinh sản của đàn bò lai 3.1.Nhận xét. Qua kết quả điều tra, khảo sát thực tế về một số chỉ tiêu sinh sản và bệnh sản khoa thường gặp trên đàn bò lai hướng sữa tại trung tâm chúng tôi nhận thấy rằng: năng suất sinh sản nói chung còn thấp, tỷ lệ mắc các bệnh sản khoa và các bệnh đường sinh dục, buồng trứng còn khá cao ....đã hạn chế sức sinh sản và tấc độ phát triển của đàn bò sữa vì vậy đã ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu kinh tế trong nghành sản xuất sữa hàng hoá hiện nay. Để góp phần nâng cao khả năng sinh sản trên đàn bò lai hướng sữa của Trung tâm chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu và áp dụng một số biện pháp kỹ thuật để nâng cao khả năng sinh sản như sử dụng các loại kích dục tố cho các đối tượng bò chậm động dục theo các nguyên nhân khác nhau, sử dụng phương pháp thụt rửa sau khi đẻ cho bò khai thác sữa ... Và được kết quả nghiên cứu áp dụng được thể hiện dưới đây. 3.2. Kết quả sử dụng Prostaglandin (nhóm PGF2) trên bò chậm động dục do thể vàng tồn lưu. Qua thời gian theo dõi, cũng như trực tiếp khám sản khoa và kết hợp với thú y viên của TT . Chúng tôi đã khám và xác định được 7 con bò lai của TT có thể vàng tồn lưu bênh lý Để làm thoái hoá thể vàng, chúng tôi sử dụng chế phẩm Prostaglandin dạng tổng ợp PGF2 do hãng Intervet (Hà Lan) sản xuất với liều 25mg/con (tiêm dười da) Sau 2 – 4 ngày theo dõi bò động dục và phối giống. Bò được theo dõi tực tiếp ở 2 chu kỳ sau và phối giống cho những bò đo trở lại. Kết quả sử dụng PGF2 trên đàn bò lai hướng sữa của Trung tâm được trình bày ở bảng 8. Bảng 8. kết quả sử dụng một số chế phẩm hormone gây động dục phối giống Phương pháp điều trị Số con điều trị Số con động dục Số con phối có chửa Thời gian động dục sau khi điều trị n % n % X+mx Min Max PGF2 1 liều 7 6 85,7 5 71,4 68 6,37 48 96 PGF2 2liều 6 3 50 2 33,3 60 12 48 96 Progesterone + HTNC 6 6 100 5 83,3 67,5 10,4 48 96 Đặt CIDR 4 4 100 3 75,0 63,2 8,32 48 72 Đặt PRID 6 6 100 5 83,3 68,8 8,32 48 96 Qua bảng 8 cho thấy rằng dưới tác dụng của PGF2khi tiêm cho 7 con bò có thể vàng tồn lưu bệnh lý đã có 6 con động dục(tỷ lệ động dục là 85,71%), tỷ lệ phối giống có chửa đạt 71,42%.Trong đó bò biểu hiện động dục sớm nhất là 48h và muộn nhất là 96h. Kết quả của chúng tôi phù hợp với kết quả của một số tác giả như Nguyễn Tấn Anh, Nguyễn Thiên,1995,[], sử dụng PGF2 cho bò lai sind chậm sinh đạt tỷ lệ động dục là 85,18% và tỷ lệ thụ thai là 65,21%. Theo Nguyễn Thanh Dương,Hoàng Kim Giao,Lưu Công Khánh, Hà Văn Chiêu,1995,[],khi sử dụng PGF2 trên đàn bò lai hướng sữa tị Hà Nội có tỷ lệ động dục là 82% và tỷ lệ thụ thai là 64%.Theo Tăng Xuân Lưu,1999,[] khi sử dụng PGF2 trên đàn bò lai hướng sữa khu vự Ba Vì và đạt tỷ lệ động dục là 86,6%, tỷ lệ thụ thai là 69,65%.Theo Nguyễn Văn Thanh,2000,sử dụng PGF2trên đàn trâu nuôi ở các tỉnh phía bắc nước ta thì cò tỷ lệ động dục thấp hơn (đạt 72,42%) Như vậy,khi sử dụng PGF2 gây động dục đối với đàn bò có thể vàng tồn lưu giữa các giống bò có sự sai khác không đáng kể. Chứng tỏ tác dụng thoái hoá thể vàng tồn lưu của PGF2 có tính chất điều tiết sinh lý của bò ít phụ thuộc vào giống và dinh dưỡng. 3.3. Kết quả gây động dục của PGF2 hai liều cách nhau 11 ngày. Đối với bò cái tơ lâu ngày không động dục, bò sinh sản sau khi đẻ 4 tháng không động dục, bộ phận sinh dục không viêm nhiễm,không có thể vàng tồn lưu. Qua điều tra và theo dõi chúng tôi đã phát hiện được 6 con có biểu hiện như trên và chúng tôi đã sử dụng PGF2 hai liều cách nhau 11 nagỳ để gây động dục cho chúng Kết quả thu được thể hiện ở bảng 8 Qua bảng 8 cho thấy trong 6 con được tiêm chỉ có 3 con động dục (chiếm tỷ lệ 50%)và 2 con phối có chửa (chiếm tỷ lệ 33.33%). Theo tác giả Moyaert và cs,1987,[], gây động dục đồng loạt cho bò bằng cách tiêm 25mg PGF2hai liều cách nhau 11 ngày thì có 56% bò động dục có chửa bằng cấy truyền phôi. Theo Tăng Xuân Lưu,1999,[], khi nghiên cứu trên đàn bò lai hướng sữa khu vực Ba Vì và sử dụng PGF2 hai liều cách nhau 11 ngày thì tỷ lệ động dục chiếm 40%và tỷ lệ thụ thai đạt 35%. Kết quả của chúng tôi thu được như trên là thấp so với các tác giả nghiên cứu trên là vì trong những con bò này không được chăm sóc nuôi dưỡng phù hợp ở giai đoạn bò tơ cũng như giai đoạn khai thác sữa. Do vậy, sự phát triển tử cung, buồng trứng kém dẫn đến thiểu năng buồng trứng, nang trứng kém phát triển nên không tạo đươc chu kỳ tính đặc biệt là đối với bò tơ chậm động dục. 3.4 Kết quả gây động dục của Progesterone + HTNC trên đàn bò lai hướng sữa Những bò cái tơ có trọng lượng > 130 kg, bò sinh sản sau khi đẻ 4 tháng, có sinh lý sinh sản bình thường, thể trọng tốt, không có thể vàng, chúng tôi sử dụng Progesterone + HTNC. Kết quả được thể hiện trên bảng 8 Qua bảng cho thấy tỷ lệ động dục là 100%,tỷ lệ phối có chửa là 83,3% Và thời gian động dục sau khi tiêm HTNC trong khoảng 48-96h.Trước 48 và sau 96h có thể có nhưng qua 6 con thí nghiệm của chúng tôi thì chỉ thấy những con động dục trước 48-96h sau khi tiêm HTNC. Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của các tác giả Hoàng Kim Giao, Nguyễn Thanh Dương,1997,[], tỷ lệ động dục là 70 – 80 %, tỷ lệ phối giống có chửa là 50 – 60%. Hiệu quả thụ thai của Progesterone kết hợp HTNC đối với bò lai hướng sữa với tỷ lệ máu khác nhau là tương đương nhau 3.5. Kết quả sinh dục sử dụng HCG trên bò động dục không rụng trứng. Theo quy luật sinh lý bình thường trong một chu kỳ động dục của bò các pha hưng phấn, pha chịu đực và rụng trứng xảy ra liên tiếp và kế tục nhau tuy nhiên có trường hợp bò biểu hiện phản xạ động dục nhưng không rụng trứng. Hiện tượng đò là động dục không hoàn toàn. Rụng trứng là kết quả bao noãn chín, vỡ ra và trứng giải phóng. Đó là hiện tượng cơ bản và trọng tâm nhất của sự biến đổi quá trình sinh lý trong chu kỳ của gia súc. Với cơ chế rụng trứng theo quan điểm chung nhất rụng trứng là kết quả của tác dụng cơ học và thần kinh thể dịch. Yừu tố cơ học là sự tác độngcủa dịch noãn bao tích rụ đến một mức độ nào đó trong quá trình chín của noãn bao gây nên áp lực lớn vào vách noãn bao làm vỡ noãn bao. Íac động của các yêu tố thần kinh là hưng phấn của tác động giao phối góp phần kích thích phản xạ thải trứng. Về thể dịch theo B.A.Sodec, 1936,[] cả hai pha Folliculin và Lutein của chức năng sinh dục đều được quyết bới các hormone FSH và Lhcủa thuỳ trước tuyến yên. Đẻ kích thích sự phát triển nang trứng và làm phát sinh phản xạ thải trứng, làm hàm lượng các hormone này trong máu phải đạt đến mức độ nhất định. Tỷ lệ của hai hormone này trong máu bò LH/FSH = 3/1 (Hoàng Kim Giao, Nguyễn Thanh Dương,1997)[]. Qua theo dõi và kiểm tra trong 4 tháng trên đàn bò lai hướng sữa chúng tôi phát hiện được ... bò động dục không rụng trứng. Chúng tôi đã sử dụng HCG với liều 2500 – 3000UI/con (tiêm bắp).kết quả dược trình bay ở bảng 9 . Bảng 9.Kết quả sử dụng HCG trên bò động dục không hoàn toàn Chỉ tiêu Nhóm n (con) Biểu hiện động dục Kết quả thụ thai Tổng số Chu kỳ I Chu kỳ II n % n % n % n % F1 6 6 100 5 83,3 4 80,0 1 20,0 F2 15 15 100 12 80,0 8 66,7 4 33,3 F3 8 8 100 6 75,0 4 66,7 2 33,3 Tổng 29 29 300 23 79,4 16 70,1 7 28,9 Qua bảng 9 chúng tôi thấy HCG đã có tác dụng gây rụng trứng rõ rệt. Để có tác dụng gây rụng trứng và đạt tỷ lệ cao ngay từ chu kỳ đầu, chúng tôi đã tiêm HCG vào thời điểm chịu đực và được phối ngay sau khi tiêm 6 –10 h nhằm mục đích gây cộng hưởng giữa lượng hormone tiêm tăng cường với hormone có sẵn trong máu do chu kỳ tính bình thường sinh ra vì vậy sẽ đạt được tỷ lệ hợp lý giữa FSH và LH gây nên rụng trứng ở chu kỳ sau. Theo Hoàng Kim Giao, Nguyễn Thanh Dương,1997,[], LH đạt đỉnh cao ở ngày chịu đực rồi tụt xuống đột ngột. Theo Phan Vn Kiểm, 1998,[], đỉnh cao của LH lúc 12h kể từ khi xuất hiện triệu chứng động dục đầu tiên là 9,06ng/ml. Cũng tương ứng với số bò chịu đực, số bò thụ thai ở chu kỳ đầu là 71,43% còn lại là 28,57% đã thụ thai trong lần phối tiếp theo. 3.5. Kết quả sử dụng hormone đặt âm đạo để điều hoà chu kỳ động dục ở bò. 3.5.1 Kết quả sử dụng CIDR đối với bò tơ chậm động dục Chế phẩm CIDR đặt ở âm đạo có chứa 1.9g Progesterone tổng hợp hoạt tính như kích tố thể vàng buồng trứng. Trong thời gian đặt âm đạo Progesterone lưu lại trong máu cao ngoài tác dụng điều hoà ngược lên trung khu điều khiển sinh tố Hypothalamus ngừng phân tiết FSH và LH, nó còn có tác dụng kích thích phát triển hơn nữa niêm mạc tử cung, âm đạo tích luỹ nhiều Glycogen ở niêm mác đó. Sau tác dụng Oestrogen, Progesterone làm phát triển hơn nữa lưới mao mạch tử cung tạo điều kiện thuận lợi cho việc đón nhận hợp tử vào làm tổ.Chúng tôi đã tiến hành đặt CIDR cho 4 bò 18 tháng tuổi chưa biểu hiện động dục. CIDR được đặt trong cơ thể là 12 ngày, ngày sau thì tiêm 1000UI HTNC, 1-3 ngày sau khi rút CIDR thao dõi động dục. Kết quả được trình bày ở bảng 8. Qua bảng 8 chung tôi thấy tỷ lệ động dục là 100% và thời gian biểu hiện động dụng dao động từ 48-72h sau khi rút CIDR. Kết quả này phù hợp với kết quả của công ty nghiên cứu bò sữa Newzealand, 1994 là 95%. Theo Tăng Xuân Lưu, 1999, [], sử dụng đặt vòng CIDR cho bò tơ với thời gian đặt trong cơ thể là 10 ngày, ngày thứ 6 tiêm 1/2 liều PGF2 tỷ lệ động dục sau khi rút CIDR là 75%. Vì vậy khi sử dụng Progesterone đối với bò chậm động dục đã đưa lại hiệu quả rất cao. 3.5.2.kết quả sử dụng PRID đặt âm đạo đối với bò chậm động dục sau khi đẻ. Chế phẩm này chứa 1.55g Progesterone và 10mg Oestradiol. Sao khi đặt vào âm đạo, hai loại hormone sẽ tiết ra thấm qua niêm mạc vào hệ thống tuần hoàn. Tác dụng của nó tương tự như thể vàng, điều hoà chu kỳ sinh dục của bò. Nếu lấy PRID ra sau khi đặt vào âm đạo 12 ngày, ngày sau tiêm 1 liều HTNC 1000UI. Qua 4 tháng thực tập chúng tôi đã tiến hành kiểm tra và điều trị 6 trường hợp bò sinh sản sau khi đẻ nhiều tháng không động dục trở lại và khi kiểm tra thấy tử cung nhão, buồng trứng trơ lì, kết quả thu được thể hiện ở bảng 8. Qua bảng trên cho thấy có 5 bò động dục sau khi đặt vòng PRID chiếm tỷ lệ 83,33% và cũng biểu hiện động dục trong khoảng 48-96h sau khi rút PRID. Kết quả trên cũng ohù hợp với kết quả nghiên cứu của Hoàng Kim Giao và Tăng Xuân Lưu. 3.6. Kết quả bò động dục sau khi đẻ được thụt rử bằng dung dịch kháng khuẩn lugol 0.1-0.2%. Đối với bò lai hướng sữa việc rút ngắn thời gian hồi phục tử cung sau khi đẻ là rất cần thiết. Xuất phát từ tình hình thực tế trên, chúng tôi đã tiến hành thụt rửa cho bò sau khi đẻ 7-10 ngày bằng dung dịch lugol 0.1-0.2%, 2-3 lần, mỗi lần cách nhau 1 ngày, liều lượng từ 1000-1500ml/1 lần. Kết quả được thể hiện trên bảng 10 Bảng 10. Kết quả sử dụng dung dich thụt rửa lugol 0.1-0.2 Chỉ tiêu Ngày Động dục lại Tỷ lệ thụ thai n Số con động dục % n Số con có thai % 30-60 34 7 20,58 23 5 71,42 60-90 14 41,17 7 50,00 90-120 19 55,88 10 52,63 >120 4 11,76 1 25,00 Qua bảng 10 chúng tôi thấy khi sử dụng dung dịch kháng khuẩn lugol thụt cho bò sau khi đẻ đã đưa thời gian hồi phục tử cung nhanh hơn và hiệu quả động dục sau khi dẻ sớm hơn. Bò trở lại động dục sau khi đẻ được thụt rửa đạt tỷ lệ động dục trong vòng 30-90 ngày sau khi đẻ là 41,14% và tỷ lệ động dục này cao hơn từ 90-120 ngày sau khi đẻ (55,88%). Tỷ lệ thụ thai với bò được thụt rửa đem lại hiệu quả rõ rệt so với bò không thụt rửa. Kết quả của chúng tôi thấp hơn với kết quả nghiên cứu trên bò lai F1 của Nguyễn Kim Ninh, 1994, bằng phương pháp thụt rửa đạt tỷ lệ động dục là 79% và tỷ lệ thụ thai là 70% và Tăng Xuân Lưu nghiên cứu trên đàn bò lai hướng sữa khu vực Ba Vì bằng phương pháp thụt rửa đạt tỷ lệ động dục là 72.12% ở ngày 30-90. Như vậy, bằng một biện pháp đơn giản nhẹ nhàng mà rẻ tiền ta đã có thể khắc phục dược hậu quả chậm sinh, rút ngắn được khoảng cách giữa hai lứa đẻ, giúp cho quá trình hồi phục tử cung sau khi đẻ nhanh hơn, nâng cao hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi. Vì vậy biện pháp này cần được áp dụng rộng rãi trong các cơ sở chăn nuôi bò sữa để rút ngắn thời gian động dục lại sau khi đẻ, khoảng cách lứa đẻ...để nâng cao khả năng sinh sản của đàn bò sữa. Phần V kết luận, tồn tại và đề nghị I. Kết luận Qua thời gian nghiên cứu và áp dụng một ssố biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao khả năng sinh sản trên đàn bò lai hướng sữa. Chúng tôi có một số kết luận sau: 1.1. Về khả năng sinh sản - Tuổi phối giống lần đầu trung bình ở nhóm F1 là 20.18 tháng, ở nhóm F2 là 17.28 tháng và ở nhóm F3 là 15.03 tháng - Tuổi đẻ lứa đầu trung bình ở nhóm F1 là 29.72 tháng, ở nhóm F2 là 27.71 tháng và nhóm F3 là 25.38 tháng - Thời gian động dục lại sau khi đẻ trung bình ở nhóm F1 là 77.09 ngày, ở nhóm F2 là 81.14 ngày và nhóm F3 là 91.33 ngày - Khoảng ncách giữa hai lứa đẻ trung bình ở nhóm F1 là 388.20 ngày, ở nhóm F2 là 402.63 ngày và nhóm F3 là 437.72 ngày - Hệ số phối giống đạt chung cho cả 3 nhóm là 1.84 lần - Tỷ lệ thụ thai trung bình cho cả 3 nhóm là 55.57% - Năng suất sữa trung bình ở nhóm F1 là 3475 kg/chu kỳ, ở nhóm F2 là 3817 kg/chu kỳ và nhóm F3 là 3737 kg/ chu kỳ - Tỷ lệ bê cái/bê đực trung bình cả 3 nhóm là 46/54 1.2. Bệnh sinh sản - Bệnh trong giai đoạn mang thai trung bình cả 3 nhóm: bệnh sảy thai chiếm - Bệnh trong quá trình sinh đẻ - Bệnh trong giai đoạn không mang thai II. Tồn tại Từ các kết quả trên cho thấy, một số chỉ tiêu sinh sản còn ở mức cao, tỷ lệ mắc bệnh sinh sản còn rất lớn do vậy cần phải có chế độ chăm sóc nuôi dưỡng, khai thác, sử dụng, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, các kết quả nghiên cứu vào thực tế để nâng cao khả năng sinh sản trên đàn bò lai hướng sữa. III. Đề nghị Do thời gian thực tập ngắn, mặt khác nguồn kinh phí có hạn nên đề tài mới được tiến hành trên quy mô nhỏ, thời gian theo dõi khi can thiệp không nhiều nên kết quả một số chỉ tiêu khác chưa thống kê được.Đề nghị với ban lãnh đạo khoa Chăn nuôi - Thú Y và bộ môn Ngoại - Sản xem xét và tạo điều kiện cho nghiên cứu tiếp để có kết qủa tốt hơn. Các biểu hiện Trước chịu đực Chịu đực Sau chịu đực Cân bằng Biểu hiện bên ngoài dáng vẻ Băn khoăn, ngơ ngác, không yên, đái rắt, nhảy con khác, bỏ đi rông. Tìm đực hoặc đến gần con khác, chịu cho nhảy, mê ì Còn chịu cho nhảy và phối giống (một thời gian ngắn) Bình thường ăn uống Kém ăn, gặm cỏ lơ là ăn ít hoặc không ăn ăn ít ăn uống bình thường âm hộ Sưng. xung huyết, đỏ, hơi phù, bóng ướt, màng âm hộ hé mở Bớt sưng, hơi thâm, se dính cỏ rác Hết sưng Bình thường Biến đổi bên trong buồng trứng Cơ quan trứng phát triển Nang trứng nhô cao, căng ở bò rụng trứng quãng 12-14h sau khi kết thúc chịu đực Có thể vàng nhô lên Tử cung (TC) Niêm mạc tử cung dày lên, tụ huyết Niêm mạc tử cung dày, trương lực tối đa Trương lực bớt căng Bình thường Cổ tử cung Hé mở, đỏ hồng, niêm dịch lỏng, nhiều, trong suốt, dễ đứt (kéo dài 1-2cm) Mở rộng, niêm dịch có màu đục trong (kéo dài 7-10cm) Hẹp dần, niêm dịch đặc, giảm độ keo dính, màu đục bã đậu đễ đứt Khép kín bình thường Không có niêm dịch Âm đạo Đỏ hồng, ướt bóng Bớt đỏ Dần dần trở về bình thường Bình thường Nội tiết Nang trứng tiết oestradiol 17 với lượng nhiều dần Progesterone giảm thấp do thể vàng chu kỳ trước ngừng hoạt động LH thấp nhất trong suốt giai đoạn này PGF2 dần, đạt đỉnh cao trước khi chịu đực 5 ngày, kéo dài 3-4 ngày rồi giảm oestradiol 17đạt đỉnh cao LH đạt đỉnh cao ở ngày chịu đực rồi tụt xuống đột ngột PGF2 ở mức thấp nhất Oestadilol 17giảm đột ngột sau đó tăng dần để tạo một đỉnh thấp vào ngày thứ 5-6 của chu kỳ sau. Progesteron tăng dần đến ngày thứ 9-10 đạt đỉnh cao quãng 5-6 ngày LH thấp nhất đến ngày chịu đực của chu kỳ sau PGF2 bắt đầu tăng đến ngày thứ 14 đạt đỉnh cao , trong 3-4 ngày trước khi bắt đầu chu kỳ mới Bảng 2: Tuổi phối giống lần đầu và tuổi đẻ lứa đầu Chỉ tiêu Nhóm Tuổi phối giống lần đầu (tháng) Tuổi đẻ lứa đầu (tháng) n X ± mX Min Max Cv% n X ± mX Min Max Cv% F1 26 18,87 ± 0,81 14 46 8,18 26 28,72 ± 0,73 24 53 7,18 F2 43 16,68 ± 0,63 12 43 7,68 43 25,89 ± 0,42 21 47 6,34 F3 37 17,72 ± 0,77 11 36 7,32 37 27,12 ± 1,07 20 58 7,62 Trung bình 106 17,62 ± 0,74 12,3 41,7 7,73 106 27,24 ± 0,74 22 52,7 7,05 Bảng 3: Thời gian động dục lại sau khi đẻ và khoảng cách giữa hai lứa đẻ Chỉ tiêu Nhóm Động dục lại sau khi đẻ (ngày) Khoảng cách lứa đẻ (ngày) n X ± mX Min Max Cv% n X ± mX Min Max Cv% F1 32 91,33 ± 6,31 42 210 25,17 30 402,63 ± 9,88 334 532 8,66 F2 51 98,14 ± 7,14 35 189 20,30 46 413,61± 10,71 325 580 11.31 F3 47 106,09 ± 7,83 36 273 28,44 34 428,72 ± 13,63 345 546 11.09 Trung bình 130 101,85 ± 7,09 37,7 224 24,64 110 414,98 ± 11,41 334,7 552,7 10.35 Bảng 6.Bệnh trong thời gian gia súc nmang thai và trong quá trình sinh đẻ Nhóm Bệnh F1 F2 F3 n Số con bị % n Số con bị % n Số con bị % Trong thời gian mang thai Đẻ non, sảy thai 32 2 6,25 113 5 4,42 62 2 3,22 Rặn đẻ quá sớm 32 0 0 113 3 2,65 62 1 1,61 Bại liệt trước khi đẻ 32 0 0 113 2 1,77 62 3 4,84 Trong quá trình sinh đẻ Rặn đẻ yếu 32 1 3,12 113 3 2,65 62 2 3,22 Rặn đẻ mạnh 32 0 0 113 1 0,88 62 0 0 Đẻ khó 32 3 9,37 113 6 5,31 62 4 6,45 Bảng 7. Bệnh trong thời gian gia súc không mang thai Nhóm Bệnh F1 F2 F3 n Số con bị % n Số con bị % n Số con bị % Sát nhau 32 1 3,12 113 6 5,31 62 3 4,83 Bại liệt sau khi đẻ 32 0 0 113 3 2,65 62 2 3,23 Sốt sữa 32 0 0 113 1 0,88 62 1 1,62 Đường sinhdục Tử cung 32 3 9,37 113 8 7,07 62 5 8,06 Âm đạo 32 4 12,5 113 16 14,14 62 6 9,68 Buồng trứng Triểu năng buồng trứng 32 2 6,25 113 3 2,65 62 3 4,83 Động dục không rụng trứng 32 6 18,75 113 15 13,27 62 8 12,90 Thể vàng tồn lưu 32 1 3,13 113 3 2,65 62 2 3,23 U nang buồng trứng 32 0 0 113 1 62 0 0 Bảng 5. Sản lượng sữa trên một chu kỳ và tỷ lệ bê cái trên bê đực Chỉ tiêu Nhóm Sản lượng sữa trên chu kỳ (kg) Tỷ lệ bê cái trên bê đực n Min Max Cv% n %bê cái % bê đực F1 26 3075.54 2100 4050 13.22 34 41.67 58.33 F2 48 3717.67 2370 5240 15.56 82 47.56 52.44 F3 32 3820.31 2200 5300 16.75 45 48.89 51.11 Trung bình 106 3537.84 2223 4865 15.18 161 46.04 53.96

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1 230.doc
Tài liệu liên quan