Khóa luận Chính sách quản l‎ý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ hậu khủng hoảng tài chính

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xuất phát từ Mỹ cuối năm 2007 đã lây lan ra một loạt các khu vực khác trên thế giới với diện rộng và tốc độ nhanh chóng. Từ đó tới nay, thế giới cũng như Việt Nam đã chứng kiến diễn biến phức tạp và những hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, nhiều nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, các nước thuộc liên minh châu Âu đã lâm vào tình trạng suy thoái kinh tế; thương mại toàn cầu, thị trường chứng khoán thế giới sụt giảm; giá cả quốc tế biến động bất thường; hàng loạt các định chế tài chính lớn trên thế giới phá sản, giải thể hoặc sát nhập Với độ mở cửa nền kinh tế lớn, kinh tế Việt Nam không tránh khỏi chịu tác động bởi những diễn biến phức tạp của môi trường kinh tế thế giới. Tuy nhiên, đến quý III/2009, nền kinh tế thế giới đã bắt đầu có dấu hiệu phục hồi, mặc dù chưa thật chắc chắn và không đồng đều ở các khu vực nhờ nỗ lực phối hợp chống suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính trên phạm vi toàn cầu. Năm 2009, nền kinh tế và hệ thống tài chính - ngân hàng Việt Nam đã vượt qua một cách thành công tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Kinh tế vĩ mô, hệ thống tài chính, ngân hàng tiếp tục được ổn định và tăng trưởng, đồng thời an sinh được bảo đảm bằng sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị. Tuy nhiên, năm 2010 còn phía trước với cơ hội đan xen cùng thách thức và thành công tiềm ẩn nguy cơ bất ổn cần được nhận diện. Với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, đồng thời là ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã bám sát chỉ đạo của Chính phủ, linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng để ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, đảm bảo hoạt động của các tổ chức tín dụng an toàn, đáp ứng nhu cầu vốn cho các tổ chức và cá nhân để sản xuất kinh doanh, đặc biệt đối với các lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu, nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa Trong số đồng loạt các chính sách tài chính – tiền tệ thì chính sách quản lý ngoại hối trong thời gian qua đã có nhiều đổi thay rõ rệt, đã đem lại nhiều kết quả khả quan, đóng vai trò không hề nhỏ trong việc ổn định và phát triển kinh tế. Chính vì thế, việc nghiên cứu chính sách quản lý ngoại hối và những tác động của nó đối với nền kinh tế thời kỳ sau khủng hoảng, đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong vấn đề quản lý ngoại hối để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam là một việc làm cần thiết mang ý nghĩa lý luận, thực tiễn cao. Đó là lý do sinh viên chọn khóa luận nghiên cứu khóa luận “Chính sách quản l‎ý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ hậu khủng hoảng tài chính”.

doc93 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1495 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Chính sách quản l‎ý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ hậu khủng hoảng tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chưa có chế độ trách nhiệm cụ thể đối với các cá nhân có nhiệm vụ liên quan đến các hoạt động quản lý vay và trả nợ nước ngoài như người lập, phê duyệt, bảo lãnh… các khoản vay nợ nước ngoài mà chỉ có các quy định rất chung chung. Thứ ba, tất cả những yếu kém này dẫn đến việc sử dụng các khoản vay còn chưa đạt yêu cầu: hiệu quả sử dụng vốn vay cho các dự án ở Việt Nam vẫn còn thấp, việc xét duyệt, thẩm định dự án vay vốn còn hạn chế về thời gian, về trình độ chuyên môn của cán bộ thẩm định, việc bố trí vốn đối ứng còn chậm so với tiến độ thực hiện dự án. CHƯƠNG III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NGOẠI HỐI CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI I. Kinh nghiệm của một số nước trong quản lý ngoại hối đối phó với khủng hoảng tài chính 1. Kinh nghiệm của Trung quốc Khi cơn bão khủng hoảng tài chính tiền tệ nổ ra và làm rung chuyển cả thế giới, nhiều cường quốc đều rơi vào luồng xoáy dữ dội của nó, nhiều lĩnh vực kinh tế bị phá hoại nặng nề. Vậy mà Trung Quốc lại hầu như không bị tác động gì, vẫn “hạ cánh nhẹ nhàng” nền kinh tế của mình với tốc độ tăng trưởng cao và lạm phát thấp, hệ thống tài chính ngân hàng không có gì đột biến. Những chính sách trong hệ thống tài chính và phát triển thị trường tài chính của Trung Quốc, trong đó có chính sách quản lý ngoại hối đã góp phần đảm bảo cho đất nước này chèo lái thành công con thuyền kinh tế tài chính đứng vững qua cơn khủng hoảng, thậm chí còn lấy đó làm cơ hội để khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Việt Nam nên nghiên cứu học hỏi những kinh nghiệm của Trung Quốc đối phó với khủng hoảng tài chính, bởi vì Việt Nam và Trung Quốc đều là những nước có nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hay nhiều chính sách vĩ mô có tính tương đồng như chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của nhà nước… Để thích ứng với tình hình kinh tế thay đổi trong và ngoài nước trong thời kì khủng hoảng, Vụ quản lý ngoại hối đã điều chỉnh kịp thời để chỉ đạo và tập trung quản lý ngoại hối, ban hành một sách lược đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế, một số biện pháp như: đẩy mạnh cải cách các khu vực ưu tiên quản lý ngoại hối, cải thiện dòng vốn ra vào đất nước, tăng cường thống kê và giám sát các luồng vốn bất thường qua biên giới, thúc đẩy thông tin và các hoạt động công chúng và chính phủ, cải thiện tính minh bạch trong hoạt động quản lý ngoại hối; nâng cao quản lý dự trữ ngoại hối, thúc đẩy sự cân bằng các khoản thanh toán quốc tế, đem lại một nguồn thu hợp lý. Những biện pháp này đã đóng một vai trò tích cực trong việc chống lại cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, để thúc đẩy sự ổn định và phát triển nhanh chóng của kinh tế. Thứ nhất, đẩy mạnh cải cách quản lý ngoại hối tập trung theo các khu vực, thúc đẩy sự phát triển bền vững và nhanh chóng của nền kinh tế ngoại thương. Trong những năm vừa qua, dòng ngoại tệ ròng đi vào nền kinh tế liên tục tăng lên, nhiệm vụ thúc đẩy cán cân bằng thanh toán quốc tế vẫn có phần khó khăn. Với sự phục hồi kinh tế toàn cầu dần ổn định hơn, các nền kinh tế có quan hệ đối ngoại với Trung Quốc có kì vọng tiếp tục phát triển, có khả năng tiếp tục tăng trưởng xuất khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc có thể lại gia tăng ổn định qua sự tăng trưởng của dòng vốn ra vào và có thể gia tăng áp lực cho nhiệm vụ thúc đẩy cán cân thanh toán quốc tế. Mặt khác, hiện nay, giao dịch đầu cơ chứng khoán ra và vào Trung Quốc trở nên phổ biến hơn bởi vì lãi suất ngân hàng trung ương ở Hoa Kỳ, Nhật Bản, châu Âu (bao gồm cả Anh) và các ngân hàng trung ương khác đã gần bằng không, thấp hơn Trung Quốc. Một số tổ chức ước tính rằng trong nửa đầu năm 2009 đồng USD thực hiện có khối lượng giao dịch khoảng 250 tỷ - 550 tỷ USD. Các giao dịch đầu tư chứng khoán xuyên biên giới với quy mô lớn đã vào Ấn Độ, Brazil và các thị trường đang phát triển khác được đánh giá đặc biệt cao, thị trường chứng khoán, giá bất động sản nhanh chóng tăng cao, làm tăng nguy cơ tiềm ẩn. Bởi vì Trung Quốc lãi suất tương đối cao, sự đánh giá của đồng nhân dân tệ dự kiến sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao, các doanh nghiệp và các tổ chức tài chính địa phương có xu hướng tiếp tục mở rộng tiền tệ trên cơ sở nước ngoài. Trên cơ sở tình hình đó, Trung Quốc đã tăng cường cải cách hệ thống kiểm tra xuất nhập khẩu để nâng cao hiệu quả điều chỉnh, tạo thuận lợi thúc đẩy thương mại. Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi tài khoản vốn Nhân dân tệ (CNY), tiền đề của việc phòng ngừa rủi ro hiệu quả; có những lựa chọn, từng bước nới lỏng những giới hạn đối với hoạt động kinh doanh vốn qua biên giới và kênh đầu tư nước ngoài để mở rộng và hợp tác thúc đẩy kinh doanh đồng Nhân dân tệ qua biên giới, để phát triển thị trường ngoại hối trong nước và nước ngoài và những nỗ lực đổi mới sản phẩm. Nghiên cứu đẩy mạnh cải cách việc quản lý tài khoản ngoại hối để nâng cao tính minh bạch, chính xác của các dữ liệu thu chi ngoại hối qua biên giới. Các doanh nghiệp xuất khẩu dẫn đầu giữ vững hoạt động ở nước ngoài, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp trong việc sử dụng quỹ ngoại hối. Thứ hai, nâng cao hơn nữa sự giám sát của các luồng vốn bất thường qua biên giới và ngăn chặn rủi ro của các khoản thanh toán qua biên giới. Để nâng cao hơn nữa dòng vốn luân chuyển qua biên giới và các chính sách điều tiết, Trung Quốc đã xây dựng một hệ thống giám sát và cảnh báo sớm thích hợp. Đưa dòng vốn qua biên giới vào các kế hoạch đối phó bất ngờ để thành lập một cơ chế phản ứng khẩn cấp toàn diện với những dòng vốn quốc tế mang tính hai chiều. Là một nước đang phát triển lớn với một mức độ hội nhập cao với kinh tế toàn cầu, dòng vốn ra vào Trung Quốc liên tục tăng trưởng, quản lý ngoại hối, giám sát dòng vốn ra vào và duy trì an ninh quốc gia kinh tế và tài chính,còn khó khăn hơn nữa. Cùng một lúc, việc xây dựng một nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa tiếp tục đẩy mạnh tốc độ quản lý ngoại hối cần tiếp tục cải thiện mức độ dịch vụ để đáp ứng nhu cầu thị trường tạo thuận lợi cho phát triển chính. Cuối cùng, quản lý ngoại hối cần có triển vọng khoa học về phát triển như quản lý, ý tưởng quản lý và phương pháp để đạt được "năm thay đổi": nhấn mạnh vào việc giám sát và phân tích thành các bước phụ thuộc nhiều hơn về việc phê duyệt từ quản lý cách tiếp cận tập trung vào tăng cường giám sát lưu lượng vốn qua biên giới và phân tích và cảnh báo sớm; nghiêm chỉnh quy định trước khi thay đổi nhằm nhấn mạnh công tác hậu kiểm, và từng bước làm việc trong các giao dịch trước đó, tập trung và hoạt động kiểm toán xác minh, điều tra; đặc biệt nhấn mạnh hơn vào việc quản lý hành vi trong công tác quản lý chính, và dần dần chuyển từ một tập quán thương mại và bản chất pháp lý của việc chuyển giao kinh doanh như các đơn vị chủ yếu của quản lý kinh tế. Thứ ba là tăng cường sự thống nhất của các hệ thống dữ liệu quản lý để nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra, giám sát và hiệu quả của các cấp dịch vụ. Tối ưu hóa sự thống nhất của các hệ thống quản lý kinh doanh ngoại hối hiện hành; tiêu chuẩn hóa việc thu thập dữ liệu, tạo thuận lợi cho việc sử dụng dữ liệu, cải thiện hệ thống giám sát và khả năng phân tích. Việc tối ưu hóa quy trình kiểm soát kinh doanh ngoại hối, tăng cường sử dụng hệ thống phát triển và xây dựng mạng lưới, nâng cao mức độ thuận lợi hóa thương mại và đầu tư, giảm chi phí xã hội của việc quản lý ngoại hối, đã nâng cao được hiệu quả giám sát. Vụ Quản lý Ngoại hối đã tăng tốc độ truyền dữ liệu và tích hợp các hệ thống để thiết lập một tập hợp dữ liệu về dòng vốn qua biên giới một cách thống nhất và hiệu quả, các hệ thống theo dõi, phân tích và cảnh báo sớm và nhận diện các dòng vốn xuyên biên giới, từ đó có thể điều chỉnh các chính sách quản lý ngoại hối và tối ưu hóa quy trình kinh doanh ngoại tệ trên nền tảng cơ sở khoa học, và để đề phòng nguy cơ rủi ro của dòng vốn xuyên biên giới và nâng cao hiệu quả giám sát để có biện pháp bảo vệ hiệu quả. Thứ tư, tăng cường các nỗ lực tuyên truyền chính sách và tiếp tục nâng cao tính minh bạch của chính sách quản lý ngoại hối. Cố gắng sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu trong việc mô tả quản lý ngoại hối, giúp cho thị trường có nhận thức rõ ràng hơn về những khoản mục chính của quản lý ngoại hối, những yêu cầu và những điều cơ bản. Công bố các số liệu thống kê về cán cân thanh toán quốc tế, nâng cao tính kịp thời của số liệu thống kê và tính minh bạch của hệ thống. Tăng cường truyền thông các vấn đề nóng bỏng qua các phương tiện truyền thông đại chúng và hướng dẫn công chúng hiểu đúng và có đánh giá hợp lý. Nỗ lực để đưa ra các quy định kiểm soát ngoại hối, ngày càng rõ ràng và dễ hiểu. Trong hệ tư tưởng quan niệm chỉ đạo của Trung Quốc - "Năm thay đổi" về sự phát triển - điểm khởi đầu là định hướng con người, tập trung là để cải thiện dịch vụ. Công tác Quản lý ngoại hối quản lý luôn luôn chú tâm vào việc phục vụ cộng đồng, cơ quan dịch vụ, doanh nghiệp và cá nhân trong thị trường, tích cực thúc đẩy thương mại và tạo thuận lợi cho đầu tư, nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của Trung Quốc và nâng cao vị thế, hình ảnh quốc gia. Trong phạm vi trách nhiệm của mình, Vụ Quản lý ngoại hối sẽ tiếp tục nâng cao nhận thức thị trường, và giải quyết các câu hỏi từ quan điểm thị trường, thể hiện vai trò toàn diện đối với cơ chế thị trường trong những điều chỉnh về các dòng vốn qua biên giới; dần dần củng cố các khái niệm về chi phí, để tránh những điều chỉnh chính sách đối với người tham gia trên thị trường như thêm vào những chi phí quản lý vận hành mới, nâng cao và hoàn thiện sự giao tiếp tốt với cộng đồng và cơ chế phản hồi để tiếp tục thúc đẩy quản lý theo pháp luật, nâng cao tính minh bạch của quản lý ngoại hối. Thứ năm là nâng cao hơn nữa công tác quản lý dự trữ ngoại hối, và gia tăng giá trị hiện thực của các tài sản dự trữ ngoại tệ. Áp dụng chính sách kinh doanh tích cực và thận trọng, phân tích chuyên sâu tình hình kinh tế và tài chính quốc tế, phát triển và thay đổi như thế nào, và cố gắng nắm bắt cơ hội đầu tư, mở rộng các kênh đầu tư, cải thiện đa dạng hóa các chiến lược đầu tư, tối ưu hóa giá trị của tiền tệ và các tài sản. Tích cực phối hợp với chiến lược quốc gia, phục vụ tình hình kinh tế vĩ mô của nhà nước và lợi ích lâu dài nhằm nâng cao hơn nữa các hệ thống, các cơ chế quản lý ngoại hối, tiếp tục thúc đẩy toàn cầu hóa, tăng cường kiểm soát nội bộ, giám sát và quản lý. Nâng cao khả năng và mức độ phản ứng với trường hợp khẩn cấp. Chênh lệch giá trị xuất nhập khẩu hiện nay của Trung Quốc vẫn có phần lớn là giá trị vốn đầu tư ra vào đất nước, và vẫn nằm trong điều kiện kiểm soát được, một khi thị trường xuất hiện cơ hội đầu tư cổ phiếu sáng giá, một lượng lớn các giao dịch tài khoản vốn sẽ dễ dàng hơn trong việc chảy vào thị trường thông qua khoản chênh lệch xuất nhập khẩu hiện tại để nhắm tới hoạt động đầu từ cổ phiếu xuyên biên giới, và cũng thông qua các công ty thương mại và đầu tư nhỏ, nhằm tăng tốc độ chuyển dịch và tái cơ cấu và tài sản qua biên giới nhằm tránh các mất mát kinh tế. Ví dụ, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, áp lực mất giá của nhân dân tệ, thâm hụt vốn, các đạo luật ngăn chặn hành động gửi ngoại tệ cuả các nước khác, ví dụ như sự xuất hiện của các dự án vốn trong năm 1998 hoặc thậm chí một sự thâm hụt chưa từng có trong nhiều năm, từ năm 1998 đến năm 2002, với mức tăng trung bình hàng năm của dự trữ ngoại hối dưới 300 triệu USD; và trong năm 2003, cùng với sự kết thúc của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á và sự trỗi dậy nhanh chóng của nền kinh tế trong nước, sự nổi lên của đồng nhân dân tệ đã xuất hiện. Đi cùng với việc Mỹ tiếp tục duy trì lãi suất thấp, các doanh nghiệp, cá nhân, và tổ chức có tài sản nước ngoài bắt đầu thu hồi các tài sản ở nước ngoài, một số quỹ đầu cơ bên ngoài chứng khoán thông qua nhiều kênh khác nhau đã phân tán và đổ về Trung Quốc, kết quả là cán cân thanh toán quốc tế của nước này có thặng dư ngoại tệ liên tục từ 2003-2009, với mức tăng trung bình hàng năm hơn 280 tỷ USD quỹ dự trữ ngoại hối. Trong cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế hiện tại, cán cân thanh toán quốc tế của Trung Quốc cũng chịu sự ảnh hưởng lớn. Quý đầu năm 2009, các hoạt động thu chi ngoại hối sẽ làm chậm lại sự suy giảm nhanh chóng trong lưu lượng ngoại hối vào ròng; cho đến quý II, các dấu hiệu phục hồi trong nền kinh tế quốc tế xuất hiện, nền kinh tế hàng hoá trong nước phục hồi, kéo theo sự phục hồi của chứng khoán trong nước và giá bất động sản cùng với các yếu tố khác, điều này bắt nguồn từ việc lưu lượng ngoại hối vào tiếp tục tăng ròng. Tính tới cuối năm 2009, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc vào khoảng 2,39 nghìn tỷ USD, tăng thêm 453.1 tỷ USD so với cuối năm 2008 (tương đương 23%). Những thành tựu của nền kinh tế Trung Quốc trong thời kỳ khủng hoảng tài chính Với sự tác động của các chính sách quản lý ngoại hối trong thời kỳ khủng hoảng, những thành quả của nền kinh tế vĩ mô mà Trung Quốc đã đạt được, đó là: Kể từ giai đoạn cải cách và mở cửa, sự hội nhập tích cực của Trung Quốc vào toàn cầu hóa kinh tế và thiết lập mối quan hệ kinh tế với nước ngoài phát triển mạnh mẽ. 30 năm cải cách và mở cửa, đặc biệt là trong 10 năm gần đây đã chứng minh rằng nền kinh tế toàn cầu hóa và định hướng thị trường của một Trung Quốc đang cải cách và mở cửa, đã bật ra năng lượng vô tận và khả năng cạnh tranh mạnh mẽ của Trung Quốc. Vào cuối năm 2008, tổng sản lượng đầu ra và kim ngạch xuất nhập khẩu của nền kinh tế Trung Quốc đứng thứ ba trong tổng sản lượng xuất nhập khẩu của toàn thế giới với giá trị hơn 1,4 nghìn tỷ USD và 1,1 nghìn tỷ USD; đã phê duyệt và thông qua thành lập 670.000 công ty có vốn đầu tư nước ngoài, với tổng mức vốn đầu tư nước ngoài là 852.6 tỷ $; hơn 7.000 doanh nghiệp trong nước đầu tư thành lập hơn 10.000 doanh nghiệp ở nước ngoài, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là hơn 180 tỷ USD. Tổng số người Trung quốc ở nước ngoài là 48 triệu người, tổng số lực lượng lao động ở nước ngoài là khoảng 74 triệu, số sinh viên du học là hơn 100 triệu người, số lượng người nhập và xuất cảnh hàng năm đạt 176 triệu. Mậu dịch đường biên với quy mô thương mại lớn, các hoạt động đầu tư và hoạt động cá nhân, dẫn đến sự gia tăng mạnh mẽ lượng ngoại tệ luân chuyển trong hoạt động biên mậu. Hiện tại, con số chính thức của các doanh nghiệp và các ngân hàng tham gia vào cán cân thanh toán quốc tế vào khoảng 80.000, tổng giá trị giao dịch quốc tế với quy mô giao dịch hơn 4,5 nghìn tỷ USD, gấp 81 lần so với năm 1982, và tăng 5 lần so với năm 2000. Tiếp tục tiến trình hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, Trung Quốc đã trở thành một phần không thể thiếu của thị trường quốc tế, một thành phần quan trọng của dòng vốn xuyên biên giới, cả về quy mô, tần suất và hình thức, với những chính sách thay đổi và điều chỉnh thường xuyên, liên tục quá trình phát triển kinh tế và sự mở cửa nhằm tăng cường hoạt động quản lý ngoại hối. Các tư tưởng và chính sách quản lý ngoại hối của Trung Quốc được đặt nằm trong tầm nhìn dài hạn, nhìn về phía trước nhưng vẫn dựa trên cơ sở thực tiễn và cập nhật theo từng thời kỳ. 2. Kinh nghiệm của Singapore Singapore là một trong 3 nền kinh tế mạnh nhất tại khu vực Đông Nam Á. Mặc dù vậy, đất nước này cũng không phải là một ngoại lệ trong cơn bão tố kinh tế và tài chính toàn cầu trong thời gian qua. Mới đây, Ngân hàng Trung ương Singapore đã công bố một bản báo cáo về tình hình kinh tế, tài chính của nước này trong những tháng cuối năm 2008 và đầu năm 2009. Tôi xin đề cập một số nét chính trong bản báo cáo này để thấy được Singapo - một nước trong cùng khu vực với Việt Nam đã sử dụng những biện pháp gì để đối phó với cơn bão khủng hoảng tài chính vừa qua. Theo đánh giá chung nhất của bản báo cáo này là GDP của Singapore đã giảm đi đáng kể trong quý 4/2008 và sự sụt giảm đó đã xảy ra trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế nước này. Cụ thể là GDP trong quý 4 đã giảm đi 16,4%, sau khi quý trước đó đã giảm đi 2,1%. Tính chung cả năm, Singapore chỉ đạt mức tăng trưởng GDP là 1,1%. Ngành chế tạo máy móc trong quý 4/2008 đã giảm 21,25% so với cùng kỳ năm trước, sau khi đã đạt được mức tăng nhẹ 0,3% trong quý 3. Trong tháng 1/2009, sản lượng công nghiệp đã giảm đi 4,4% so với cuối tháng 12/2008. Trong khi sản lượng ngành sản xuất dược sinh học tăng 131,5% trong quý 4 nhờ vào việc sản xuất các loại dược phẩm hoạt tính có giá trị gia tăng cao, thì hoạt động trong các ngành điện tử, hoá chất và thiết bị chính xác đã giảm đi đáng kể do nhu cầu trên thế giới giảm đi. Nhu cầu giảm đi trên thế giới cũng đã tác động mạnh đến ngành công nghệ tin học trong nước, và giảm đi 53,7% trong quý 4/2008. Việc đóng cửa nhà máy Motorola vào quý 3/2008 tiếp tục tác động xấu đến sản phẩm công nghệ thông tin và hàng tiêu dùng điện tử. Sản lượng trong lĩnh vực máy móc công cụ chính xác giảm đi đáng kể do nhu cầu về thiết bị công nghệ thông tin chất lượng cao trên thế giới giảm đi rất nhiều. Trong khi đó, sản lượng hoá chất giảm đi 38,1% vào quý 4/2008 so với cùng ký năm trước. Tính chung cả năm 2008, ngành chế tạo công nghiệp giảm đi 4,1% so với 5,9% của năm 2007. Kể từ năm 2001 có mức giảm 11,6% thì đây là năm đầu tiên ngành chế tạo công nghiệp có mức giảm xuống như kể trên. Ngành xây dựng tăng 10,3% trong quý 4/2008 so với cùng kỳ năm trước, đạt mức vừa phải so với tốc độ tăng trưởng trong 2 quý trước đó. Hoạt động xây dựng nhà chung cư tăng mạnh, áp đảo cả lĩnh vực xây dựng khu văn phòng và xây dựng nhà tư nhân. Tuy nhiên, các công trình xây dựng phi nhà ở hầu như nằm yên trong quý 4, mặc dù đã tăng mạnh trong 2 quý trước đó. Hoạt động của ngành dịch vụ giảm đáng kể ở mức 15% trong quý 4/2008 so với cùng kỳ năm trước. Sự sụt giảm này đã diễn ra khi mà ngành dịch vụ đạt được mức tăng cao trong 20 quý liên tục trước đó. Trong quý 4/2008, dịch vụ tài chính trong nước suy giảm mạnh trong bối cảnh thị trường tài chính quốc tế biến động, trong khi ở trong nước lưu lượng hoạt động thương mại và đầu tư giảm đi trong các ngành chủ chốt. Ngành dịch vụ tài chính giảm đi 29,2% trong quý 4/2008, sau khi giảm đi 13,1% trong quý 3. Hoạt động của các ngành nhạy cảm ngày càng yếu đi, vì thị trường trái phiếu và ngành quản lý quỹ đã bị tác động mạnh bởi tình trạng biến động nói chung trên thị trường. Cả 2 ngành ngày đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi rủi ro bất lợi đang ngày càng tăng lên, làm cho các hoạt động bị đình trệ. Hoạt động giao dịch trên thị trường ngoại tệ cũng giảm theo do các nhà đầu tư rút ra khỏi các thị trường tiền tệ bất ổn. Trong ngành trung gian tài chính, khối lượng cho vay ra bên ngoài đã giảm di do hoạt động tín dụng trong khu vực ngân hàng và phi ngân hàng đều giảm đi cùng với tình trạng lắng dịu của hoạt động thương mại. Cho vay trong nước cũng giảm đi trong quý 4. Trong khi đó, ngành bảo hiểm lại bị tác động mạnh do nhu cầu đối với các chính sách liên quan đến đầu tư đã giảm đi. Dịch vụ giao thông vận tải vốn dĩ đã giảm đi lại tụt mạnh thêm nữa trong quý 4/2008. Mức giảm rộng lớn trong hoạt động tái xuất khẩu, cộng với mức cầu giảm đi trên thế giới đối với hoạt động xuất khẩu trong nước, đã làm cho ngành giao thông vận tải và kho bãi giảm đi 14,2% so với cùng quý của năm trước đó. Đồng thời, kim ngạch thương mại bán buôn và bán lẻ giảm ở mức 27,1%. Hoạt động bán lẻ tiếp tục giảm đi trong bối cảnh người tiêu dung giảm bớt chi tiêu và số lượng khách du lịch cũng giảm đi. Trong quý 4/2008, doanh số bán lẻ giảm 5,9% so với cùng kỳ năm trước và giảm đi 19,6% so với quý trước đó, bất chấp việc một số cửa hàng thực hiện việc giảm giá mạnh mẽ vào thời điểm cuối năm. Trong khi nền kinh tế giảm đi, tỷ lệ thất nghiệp nhìn chung tăng lên. Tỷ lệ thất nghiệp đã được điều chỉnh theo mùa nằm ở mức 2,6% vào tháng 12/2008 từ mức 2,2% vào tháng 9/2008. Đối với người dân địa phương, tỷ lệ thất nghiệp đã tăng trong 4 quý liên tiếp, và tăng từ mức 3,3% trong tháng 9/2008 lên 3,7% trong tháng 12/2008. Tính cả năm 2008, tỷ lệ thất nghiệp trong cả nước và trong số người dân địa phương bình quân là 2,3% và 3,2% tương ứng, tăng từ mức tương ứng của năm 2007 từ 21,% và 3%.Theo ước tính, 7.000 công nhân đã bị mất việc trong quý 4/2008, tăng lên đáng kể từ mức 2.300 trong quý 3/2008 và 2.000 trong quý 4/2007. Tính cả nnăm 2008, 13.400 công nhân đã bị mất việc, cao hơn nhiều so với con số 7.700 trong năm 2007. Ngành chế tạo máy móc có số công nhân bị mất việc đông nhất và đã có 8.300 công nhân bị thải hồi. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) giảm xuống 5,4% trong quý 4/2008 và 2,9% trong tháng 1/2009. CPI nằm trong xu hướng giảm xuống kể từ tháng 7/2008, giảm dần từ mức cao nhất là 7,5% trong quý 2 so với cùng kỳ năm trước, xuống 6,6% trong quý 3 và 5,4% trong quý 4, phần lớn là do giá dầu trên thế giới giảm mạnh. Lạm phát trong cả năm 2008 là 6,5% và trong tháng 1/2009 giảm sâu hơn xuống còn 2,9%. Tính theo cùng quý năm trước, CPI tiếp tục tăng lên trong quý 4/2008, mặc dù ở mức độ tăng khá chậm là 0,7%. Trong 5 quý trước đó, mức tăng bình quân theo quý là 1,7%. Mức tăng trong quý 4/2008 đứng đầu là do nhà ở mà phần lớn phát sinh từ việc tăng giá điện lên 21%. Tuy nhiên, giá giao thông vận tải giảm mạnh nhờ vào việc giá xăng dầu giảm đi 20% trong quý 4. CPI trong nước dự báo nằm ở mức giữa -1% đến 0% trong năm 2009. Giá cả dự kiến tăng đôi chút trong những tháng tới. CIP quý 1/2009 tính ở mức trung bình hàng quý có thể giảm từ mức đỉnh 0,8% tháng 1/2008 xuống -0,3% tháng 1/2009. Tình hình này phản ánh tình trạng giảm giá trên toàn cầu trong 6 tháng cuối năm 2008. Tác động cơ bản của việc giảm sức ép lên giá cả bên ngoài đối với lạm phát trong nước sẽ có thể được nhận biết trong năm nay do có độ trễ trong việc điều chỉnh giá bán lẻ trong nước đối với giá cả thế giới, chẳng hạn như đối với mặt hàng thực phẩm. Ở trong nước, sức ép về giá cả trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là lương bổng và giá thuê văn phòng đã bắt đầu giảm đi và sẽ giảm hơn nữa khi mà khối lượng diện tích sử dụng vào kinh doanh giảm đi và các doanh nghiệp được hưởng lợi từ một số các biện pháp tài khoá năm 2009 như “Chương trình tín dụng hỗ trợ việc làm”, việc truy lĩnh các khoản bất động sản, tiền thuê nhà và mãi lộ và cắt giảm 1% thuế doanh nghiệp. Sau đó, các doanh nghiệp sẽ chuyển tiếp các khoản tiết kiệm chi phí này cho người tiêu dùng. Trong việc thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô Nhà nước chủ trương hỗ trợ tăng trưởng đồng thời đảm bảo ổn định giá cả về trung hạn. - Chính sách tiền tệ : Trong bối cảnh môi trường kinh tế đối ngoại đang yếu đi và sức ép tiếp tục đang tăng lên trên thị trường tài chính toàn cầu, sự tăng trưởng của nền kinh tế Singapore dự kiến đạt ở dưới mức tiềm năng trong thời gian tới. Đồng thời, sức ép lạm phát cả ngoài nước và trong nước có thể sẽ giảm đi. Vì vậy, Ngân hàng trung ương Singapore đã thực hiện chính sách áp dụng biên độ tỷ giá bằng 0% kể từ cuối tháng 10/2008 và chủ trương sẽ không thay đổi chính sách này ít nhất là trong thời gian tới. - Chính sách tài khoá : Trong lĩnh vực tài khoá, chính phủ đã ứng phó với những biến đổi đầy thách thức đặt ra cho nền kinh tế Singapore. Trong bối cảnh môi trường lạm phát cao trong ngân sách cuối năm ngoái, chính phủ đã hỗ trợ trực tiếp nhằm giảm bớt gánh nặng cho những ngưòi dân Singapore có thu nhập thấp có gặp khó khăn đối phó với giá sinh hoạt tăng cao. Vào cuối năm, chính phủ đã chi bổ sung thêm ngân sách hỗ trợ cho việc chăm nuôi bố mẹ già và cho các đôi nam nữ mới lập gia đình cùng với việc phân bổ rộng rãi nguồn lợi có được từ tăng trưởng kinh tế và truy lĩnh chi phí điện nước. Kết quả là trong bối cảnh đang diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và thắt chặt tín dụng trong nước, chính phủ đã công bố kế hoạch trọn gói trị giá 3,2 tỷ USDđến cuối năm 2008 để nới rộng thêm hoạt động tín dụng và giũp đỡ các doanh nghiệp trong nước tiếp cận các khoản vay dễ dàng hơn. Trong bối cảnh môi trường kinh tế giảm đi nhanh chóng, việc công bố ngân sách năm tài khoá 2009 đã được thực hiện sớm hơn 1 tháng vào ngày 22/1 để đảm bảo thực hiện kịp thời các biện pháp tài khoá thích hợp. “Kế hoạch trọn gói linh hoạt” trị giá 20,5 tỷ USD, chiếm 8,2% GDP, đã được thực hiện để tạo công ăn việc làm, giúp cho các doanh nghiệp có khả năng tồn tại chèo chống với khó khăn và tăng cường năng lực dài hạn của cả nền kinh tế. Một trong những cấu phần chính của kế hoạch này là “Chương trình tín dụng tạo công ăn việc làm”, trong đó có việc cấp tiền cho không các chủ doanh nghiệp để giúp họ bù đắp phần thiếu hụt trong quỹ lương. Chương trình “Sáng kiến chia sẻ rủi ro đặc biệt” cũng đã được phát động nhằm khuyến khích các ngân hàng thúc đẩy việc cho vay và để đảm bảo rằng số đông các doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn tín dụng để duy trì hoạt động kinh doanh. Hai chương trình này có giá trị 4,9 tỷ USDđược lâý ra từ nguồn dự trước đây, và đây là lần đầu tiên nguồn dự trữ đó được sử dụng. Chính phủ cũng trực tiếp trợ giúp cho các hộ gia đình thông qua các biện pháp như là tăng tín dụng mua nhà trả góp và tăng trợ cấp cho người già và hoàn trả thuế thu nhập cá nhân và thuế bất động sản trong năm 2009. Ngoài việc đáp ứng các nhu cầu ngắn hạn của nền kinh tế trong bối cảnh suy giảm hiện nay, ngân sách nhà nước cũng bao gồm các biện pháp quan trọng nhằm khắc phục những thách thức về cơ cấu và củng cố đất nước Singapore về lâu về dài. Chẳng hạn như, mức thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ được giảm từ 18% xuống 17% kể từ năm tài khoá 2010 để tăng cường khả năng cạnh tranh và thu hút đầu tư nhằm tạo thêm công ăn việc làm. Chính phủ cũng đang nỗ lực đầu tư dài hạn vào các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, giáo dục và y tế để làm cho Singapore trở thành thành phố đứng hàng đầu thế giới. Toàn bộ “Kế hoạch trọn gói linh hoạt” dự kiến có thể gây ra thâm hụt cho ngân sách trong cả 2 năm tài khoá 2008 và 2009. Thâm hụt ngân sách đã được điều chỉnh trị giá 2,2 tỷ USD cho năm 2008 đã tăng hơn gấp 3 lần so với dự kiến được đưa ra vào tháng 2/2008. Đối với năm 2009, chính phủ dự kiến một khoản thâm hụt ngân sách lớn hơn nhiều ở mức 8,7 tỷ USD, chiếm 3,5% GDP. Đây là mức thâm hụt hợp lý trong bối cảnh nền kinh tế suy giảm mạnh kể từ 6 tháng cuối năm 2008, và các biện pháp này sẽ hỗ trợ (tạm thời) bằng cách bổ sung thêm dòng tiền cho các doanh nghiệp và các hộ gia đình. Singapore áp dụng chế độ tỷ giá BBC (Basket, Band and Crawl Regime) - là chế độ tỷ giá dựa vào rổ tiền tệ với biên độ dao động rộng được điều chỉnh định kì. Singapore có thể chỉ là một chấm nhỏ trên bản đồ thế giới, nhưng đã từ lâu, đảo quốc Sư tử này từ lâu đã được các quốc gia Châu Á, trong đó có cả Trung Quốc đánh giá là quốc gia đi đầu về các chính sách kinh tế. Đây cũng là lý do tại sao giới đầu tư đặc biệt chú ý đến thông tin ngân hàng trung ương Singapore mới đây đã quyết định tăng giá đồng nội tệ lên 1,3%. Singapore đã quyết định thay đổi biên độ giao dịch tỷ giá nhằm kiềm chế tình trạng nhập khẩu lạm phát. Tuy nhiên, biện pháp này khó có thể áp dụng cho Việt Nam, nơi mà áp lực lạm phát xuất phát từ thị trường nội địa và giá trị đồng nhân dân tệ đang bị cho là thấp hơn giá trị thật. Tuy nhiên, Việt Nam hoàn toàn có thể học tập phương pháp của Singapore để duy trì tốt hơn tính cân bằng giữa sự ổn định và sự linh hoạt. Đồng đôla Singapore được cố định với rổ tiền tệ các loại tiền mạnh, và được cho phép dao động trong biên độ 4%. Tuy nhiên, những loại tiền tệ nào được Singapore lựa chọn thì vẫn là điều đang được giữ kín, nhất là khi nó quyết định giới hạn trần và giới hạn sàn của giao động. Singapore cũng có thể thay đổi điểm cân bằng của biên độ dao động như cách ngân hàng trung ương nước này đã thực hiện hôm 14/04. Nó cho phép ngân hàng trung ương có thể tự do cho phép đồng nội tệ của mình tăng hay giảm giá. Singapore với giá trị ngoại thương cao gấp 3 lần GDP buộc phải chấp nhận tỷ giá ngoại hối thả nổi ở mức có thể chấp nhận được để đạt được sự ổn định giá cả hàng hóa trong nước. II. Dự báo xu thế diễn biến của khủng hoảng tài chính thế giới và Việt Nam 1. Nền kinh tế và tài chính thế giới Triển vọng nền kinh tế thế giới Tại báo cáo về triển vọng kinh tế toàn cầu, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đã điều chỉnh tăng trưởng 4,2% trong năm 2010 từ mức dự báo 3,9% tiến hành trong tháng 01 vừa qua và không thay đổi dự báo tăng 4,3% trong năm 2011. Nguyên nhân chủ yếu của sự điều chỉnh này là do kinh tế toàn cầu đang phục hồi từ suy thoái nhanh hơn so với kỳ vọng, dẫn đầu là Trung Quốc, Ấn Độ và một số nền kinh tế mới nổi khác. Các nền kinh tế mới nổi đang dẫn đầu và tăng nhanh gấp 3 lần so với các nền kinh tế phát triển với tốc độ tăng trưởng là 6,3% trong năm nay và 6,5% trong năm tới, trong khi các nền kinh tế phát triển chỉ đạt tốc độ tăng trưởng lần lượt là 2,3% và 2,4%. Trong đó, Trung Quốc sẽ tăng nhanh nhất với 10% trong năm 2010 và 9,9% trong năm 2011, những nền kinh tế khác như Brazil, India và Indonesia cũng phục hồi mạnh mẽ. Kinh tế Australia và châu Á phục hồi mạnh ngay tư đầu và tiếp tục tiến triển tốt, mặc dù BOJ có thể chưa nới lỏng CSTT do giảm phát còn tiếp diễn. Bảng 7: Dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu Nguồn: IMF Đơn vị: % Năm 2010 Năm 2011 Trước đó Dự báo mới Kinh tế toàn cầu 3,9 4,2 4,3 Các nước phát triển 2,1 2,3 2,4 Kinh tế Mỹ 2,7 3,1 2,6 Khu vực euro 1,0 1,0 1,5 CHLB Đức 1,2 1,5 1,4 VQ Anh 0,9 1,3 2,5 Nhật Bản 1,7 1,9 2,0 Canada 2,6 3,1 3,2 Các nước đang phát triển 6,0 6,3 6,5 Trung Quốc 10,0 10,0 9,9 CHLB Nga 3,6 4,0 3,3 Ấn Độ 7,7 8,8 8,4 Brazil 4,7 5,5 4,1 Như vậy ta có thể thấy rằng nền kinh tế thế giới đang được đánh giá đang phục hồi mạnh mẽ trong thời kì hậu khủng hoảng. Sau khủng hoảng, một trật tự thế giới mới có thể sẽ xuất hiện, với sự nổi lên của các cực mới, đặc biệt là vai trò ngày càng tăng của một số nước đang phát triển. Việc này không những tác động đến bản đồ chính trị mà còn tác động đến bản đồ kinh tế toàn cầu, đòi hỏi tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ đều phải cân nhắc lại các định hướng chiến lược của mình. Thách thức Bên cạnh những dấu hiệu lạc quan về tăng trưởng kinh tế toàn cầu đến nay, không ít những mối quan ngại về khả năng phục hồi bền vững và chậm chạp của kinh tế toàn cầu trong năm 2009, thậm chí còn có những cảnh báo về nguy cơ rơi vào cuộc suy thoái kép. Kết thúc năm 2009, hệ thống kinh tế, tài chính toàn cầu đứng trước những thách thức sau đây: - Tiêu dùng chậm được cải thiện, nhu cầu tăng mức tiết kiệm để bù lại phần tổn thất do giảm giá tài sản tiết kiệm , tỷ lệ thất nghiệp và gánh nợ nần cao. Đến cuối năm 2009, tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ 10%, khu vực Eurro 10%, Nhật Bản 5,2%, Trung Quốc 4,3%, Đức 8,1%, Pháp 10%, Nga 8,1%, Canada 8,5% và Tây Ban Nha 19,4%. Các hộ gia đình vẫn còn phải vật lộn với các khoản giảm thu nhập và tài sản. - Ưu tiên chính sách chủ yếu vẫn là phục hồi hệ thống tài chính và duy trì các chính sách kinh tế vĩ mô hài hòa cho đến khi kinh tế toàn cầu phục hồi vững chắc. Rút lui các chính sách kích thích quá sớm sẽ tạo rủi ro lớn hơn trong ngắn hạn nhưng thiết lập chiến lược kinh tế vĩ mô trung hạn vượt qua khủng hoảng là yếu tố then chốt duy trì lòng tin vào sự ổn định tài chính và giá cả. - Áp lực lạm phát gia tăng cần phải thắt chặt các điều kiện tiền tệ. Vấn đề quan trọng đối mặt với các NHTW là khi nào thắt chặt chính sách tiền tệ (CSTT) và giảm quy mô bảng cân đối của NHTW bao nhiêu. - Thâm hụt ngân sách tiếp tục kéo dài do nhu cầu kích thích tài khóa phải được tiếp tục cho tới khi nền kinh tế toàn cầu phục hồi vững chắc. Đồng thời, Chính phủ các nước cần có những cam kết giảm thâm hụt ngân sách trong trung hạn và thực hiện cải cách ngân sách theo hướng bền vững hơn. Tuy nhiên, nợ công của các nước phát triển rất lớn, tăng từ 80% GDP trước khi xảy ra khủng hoảng lên khoảng 100% GDP hiện nay và tiếp tục tăng. Tăng quy mô nợ ngân sách sẽ gây áp lực lên lãi suất dài hạn và gây hiệu ứng chèn đầu tư khu vực tư nhân. - Hàn gắn khu vực tài chính đồng thời cải cách khuôn khổ an toàn. Đây là việc làm rất cần thiết để trở lại tăng trưởng bền vững trong trung hạn. Các biện pháp chính sách không đủ để đưa hệ thống ngân hàng hoạt động bền vững sau khủng hoảng. Cơ cấu lại hoạt động các định chế tài chính là điều then chốt để hoạt động cho vay trở lại bình thường. Điều này đòi hỏi làm sạch bảng cân đối, tái cấp vốn, lập kế hoạch kinh doanh mới phù hợp với mô hình và quy chế an toàn mới. Thách thức chủ yếu là sự tiếp tục xấu đi của chất lượng tài sản. Khuôn khổ an toàn hoạt động ngân hàng phải đóng vai trò lớn hơn trong việc ổn định chu kỳ kinh tế. Phối hợp tầm quốc tế trong quản lý giám sát hệ thống tài chính toàn cầu đòi hỏi sự thống nhất hơn về mặt quy chế và giám sát. - Thách thức chính sách cơ cấu và xã hội. Tỷ lệ thất nghiệp ở mức rất cao, cắt giảm việc làm và tiền lương diễn ra phổ biến đặt ra vấn đề gay gắt về mặt chính sách và xã hội phải giải quyết như vấn đề đào tạo, bảo hiểm, trợ cấp, đói nghèo,... - Tình hình tài chính khó khăn đối với nhiều người vay. Can thiệp của Nhà nước, lãi suất chính sách thấp, kỳ vọng phục hồi kinh tế tăng lên, luồng vốn quốc tế được cải thiện nhờ chính sách công, bảo lãnh ngân hàng, cung cấp thanh khoản, can thiệp thị trường tín dụng. Tuy nhiên, môi trường tài chính vẫn còn rất khó khăn đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa và các hộ gia đình. Thị trường các công cụ chứng khoán hóa vẫn rất khó khăn. Số lượng doanh nghiệp trong tình trạng khó khăn hoặc bị phá sản vẫn tiếp tục tăng. Năm 2009, tại Mỹ có 140 ngân hàng bị phá sản. - Hệ thống tài chính toàn cầu bị tổn thương nghiêm trọng và tiềm ẩn nhiều rủi ro gây mất an toàn. Tỷ lệ tài sản kém chất lượng tăng và lợi nhuận trên vốn giảm. Điều kiện tín dụng ở Mỹ, Anh và khu vực Euro vẫn hết sức chặt chẽ và khó khăn. Ước tính số nợ xóa của ngân hàng trên toàn cầu lên tới 2.800 tỷ USD, trong đó 1.500 tỷ USD chưa được ghi nhận, chủ yếu ở các ngân hàng châu Âu, Anh và Mỹ. Theo thống kê của IMF, tỷ lệ nợ xấu năm 2009 của tất cả các nước đều tăng so với năm 2008 phản ánh tình trạng xấu đi của môi trường kinh doanh và rủi ro của hệ thống ngân hàng. - Lĩnh vực sản xuất vẫn trì trệ đã làm chậm lại sự phục hồi của khu vực tài chính và tiếp tục giảm trong năm 2010. Sự phục hồi của khu vực sản xuất hiện nay chủ yếu do sự thay đổi chu kỳ hàng tồn kho. Trong khi hộ gia đình đang chịu mức thu nhập thấp hơn, mất việc làm, thu nhập tiết kiệm, đầu tư giảm hoặc bị mất sẽ làm hạn chế nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và nhà ở. 2. Nền kinh tế và tài chính Việt Nam Quốc hội đề ra mục tiêu kinh tế tổng quát của năm 2010 là nỗ lực phấn đấu phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao hơn năm 2009, tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao chất lượng tăng trưởng; ngăn chặn lạm phát cao trở lại; tăng khả năng bảo đảm an sinh xã hội;... phấn đấu đạt mức cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ của Kế hoạch 5 năm 2006 - 2010. Theo đó, các chỉ tiêu kinh tế cơ bản của năm 2010 là: GDP tăng khoảng 6,5%; kim ngạch xuất khẩu tăng trên 6%; chỉ số giá tiêu dùng tăng không quá 7%; bội chi ngân sách 6,2% GDP; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bằng 41% GDP. Kinh tế trong nước được dự báo diễn biến theo xu hướng phục hồi, ổn định và tăng trưởng cao hơn năm 2009 nhờ tác động của kinh tế thế giới phục hồi, luồng vốn đầu tư quốc tế và thương mại toàn cầu cải thiện; các giải pháp kích thích kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô tiếp tục được triển khai trong năm 2010, trong đó Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ 2% lãi suất cho vay đối với một số đối tượng; hệ thống tài chính và doanh nghiệp trong nước hoạt động an toàn, lành mạnh hơn và tiếp tục mở rộng quy mô. Tiền tệ, lãi suất, tỷ giá trong nước được điều hành linh hoạt, chủ động theo nguyên tắc thị trường nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định giá trị đồng tiền, ngăn ngừa tái lạm phát cao, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; kiểm soát chất lượng tín dụng. Nguồn cung ngoại tệ được cải thiện nhờ chủ yếu do nguồn thu ngoại tệ được cải thiện, nhất là FDI, xuất khẩu và chuyển tiền một chiều tư nhân. Tâm lý găm giữ ngoại tệ được kiềm chế và chu chuyển ngoại tệ trong nền kinh tế được thông suốt hơn. Hệ thống ngân hàng tiếp tục đẩy mạnh tăng vốn điều lệ phù hợp với quy định tại Nghị định số 141/2005/NĐ-CP và mở rộng quy mô, tăng cường năng lực cạnh tranh. Các quy định, chính sách về tiền tệ và hoạt động ngân hàng tiếp tục được hoàn thiện theo hướng nâng cao mức độ an toàn, lành mạnh của hệ thống, đặc biệt là các quy định về quản trị ngân hàng, tỷ lệ an toàn hoạt động ngân hàng, phân loại nợ và trích lập rủi ro. Tuy nhiên, năm 2010 kinh tế vĩ mô trong nước vẫn tiềm ẩn nhiều khó khăn: + Thâm hụt ngân sách Nhà nước lớn (6,2% GDP) và chủ yếu được tài trợ bằng nguồn vốn vay trong nước gây hiệu ứng áp lực tăng lãi suất thị trường; + Tổng cầu tăng lên gây áp lực lên cán cân vãng lai và lạm phát. + Chất lượng tăng trưởng chưa cao. Hiệu quả đầu tư thấp, đặc biệt đối với khu vực công. Hệ số ICOR tăng nhanh và đến nay đã trên 8. + Giá cả một số mặt hàng chủ chốt có xu hướng tăng: xăng dầu, than, điện,... đặc biệt là xăng dầu được điều hành theo sát với giá xăng dầu trên thị trường quốc tế. Chính phủ thực hiện tăng lương tối thiểu theo lộ trình cải cách tiền lương giai đoạn 2008-2012. + Xuất khẩu tiếp tục gặp nhiều khó khăn do kinh tế thế giới chưa phục hồi hoàn toàn và sự gia tăng bảo hộ tại các thị trường xuất khẩu. + Hoạt động đầu cơ trên thị trường tài chính và bất động sản tiềm ẩn rủi ro cho nhà đầu tư và hệ thống tài chính. + Một số cân đối vĩ mô quan trọng của nền kinh tế chưa thật sự lành mạnh so với yêu cầu tăng trưởng bền vững như tiết kiệm và đầu tư, cán cân thanh toán quốc tế, cán cân thương mại thâm hụt, cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư còn bất hợp lý. III. Các kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1. Hoàn thiện các qui định của pháp luật về quản lý ngoại hối Về mặt dài hạn, Việt Nam phải đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật về quản lý ngoại hối trên cơ sở Pháp lệnh ngoại hối năm 2005. Tránh sự chồng chéo của các qui định. Ngoài ra, các văn bản dưới luật trong thời gian vừa qua phần lớn mang tính tạm thời, đối phó với diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, trong thời gian tới cần sửa đổi bổ sung trong điều kiện nền kinh tế và tài chính thế giới dần được phục hồi và lấy lại đà tăng trưởng. Đảm bảo tính minh bạch hóa chính sách và cải cách hành chính. Trong ngắn hạn, các qui định pháp luật về quản lý ngoại hối cũng cần được cập nhật bổ sung nhanh chóng theo những định hướng phát triển đặt ra. Các nội dung cần được sửa đổi như sau: Giải pháp đối với quản lý ngoại tệ Đối với vấn đề Đô la hóa nền kinh tế, cần tiến hành nhiều biện pháp một cách đồng bộ. Về mặt pháp luật phải có các qui định xiết chặt hơn nữa các nguồn ngoại tệ trôi nổi, nhất là lượng ngoại tệ dự trữ trong dân, thống nhất về chế tài xử lý mạnh tay đối với hoạt động mua bán ngoại tệ chợ đen và tránh sự chồng chéo giữa các văn bản, gây cản trở cho quá trình kiểm tra và xử phạt như đã trình bày trong phần hạn chế của các chính sách nêu trên. Việc kiểm soát này không chỉ có những tác động tích cực đến việc giải quyết tình trạng Đô la hóa mà còn có tác dụng hạn chế sự phát triển của thị trường ngoại tệ chợ đen vẫn đang âm thầm tồn tại. Việc hạn chế này nên tập trung vào quyền sở hữu và sử dụng ngoại tệ của nhóm người cư trú là cá nhân. Việc thu hút kiều hối nên tập trung vào các biện pháp khuyến khích chuyển tiền chứ không nên nới lỏng các mục đích sử dụng của nhóm đối tượng này. Biện pháp này có thể thực hiện bằng cách mở rộng các hình thức chuyển tiền, cho phép người thụ hưởng trong nước được nhận bằng ngoại tệ hay VND theo nhu cầu, được nhận kiều hối bằng ngoại tệ và được gửi tiết kiệm ngoại tệ tại ngân hàng, được rút ra cả gốc và lãi bằng ngoại tệ, được sử dụng số ngoại tệ này để chuyển ra nước ngoài cho các mục đích được phép; ngoại tệ kiều hối chuyển về không bị hạn chế về số lượng và không bị đánh thuế. Ngoài ra, nhà nước cũng cần thực hiện thêm một số biện pháp hỗ trợ nhằm cải thiện tình hình này. Trước hết, biện pháp mang tính lâu dài là phải khôi phục lòng tin của người dân và các doanh nghiệp vào đồng Việt Nam. Điều này chỉ có thể thực hiện được bằng cách nhà nước kiểm soát được lạm phát, đẩy mạnh phát triển được nền sản xuất trong nước, tạo một cơ sở vững mạnh để khẳng định vị thế của đồng Việt Nam. Đồng thời trước mắt, có thể thực hiện biện pháp mang tính đối phó là cân bằng lãi suất tiền gửi giữa đồng Việt Nam và đồng ngoại tệ. Giải pháp quản lý tỷ giá hối đoái Từ những hạn chế của điều hành tỷ giá, có thể đề ra một số giải pháp cho hiện tượng này như sau: - Nên xóa bỏ sự phụ thuộc của đồng Việt Nam vào đồng USD (trong công bố tỷ giá). Trong phương pháp xác định tỷ giá, NHNN nên xác định cơ cấu “rổ ngoại tệ” để xác định tỷ giá của VND. Phương pháp này có ưu điểm là đồng nội tệ sẽ ổn định hơn, trong khi tỷ giá của các đồng tiền trong rổ với nhau có thể biến động lớn. Phương pháp xác định tỷ giá này còn góp phần ngăn ngừa tình trạng Đô la hóa. - Cần hoàn thiện thị trường ngoại hối ở Việt Nam nhằm đạt được mục tiêu tỷ giá hối đoái được xác định trên thị trường Ngoại tệ Liên ngân hàng là tỷ giá thực trên thị trường, phản ánh trung thực cung cầu ngoại tệ của toàn bộ thị trường. - Quy định về xác định và công bố tỷ giá cần linh hoạt hơn, không chỉ một ngày một lần như hiện nay. Như vậy, khi có những cú sốc về tỷ giá lớn trong ngày, tỷ giá thị trường sẽ được áp dụng ngay, không gây ra ngưng trệ hoạt động của các ngân hàng thương mại. - Quy định về biên độ tỷ giá nên tiếp tục theo xu hướng hiện nay và ngày càng nới lỏng hơn và tiến tới xóa bỏ. Chính sách tỷ giá cần dần được thay đổi bằng chính sách tỷ giá thả nổi, như vậy về lâu dài, biên độ này cần được xóa bỏ nhằm đáp ứng yêu cầu về xóa bỏ hạn chế, qui định trong các hiệp định Việt Nam tham gia và phù hợp với xu hướng phát triển theo định hướng thị trường của Việt Nam. Giải pháp hoàn thiện thị trường ngoại hối - Cho phép và khuyến khích ngân hàng đa dạng hóa các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. Đặc biệt cho triển khai các loại hình giao dịch tương lai theo như cam kết trong các Hiệp định thương mại Việt – Mỹ. Trước mắt, việc làm này phù hợp với trình độ thị trường và nhu cầu phát triển của Việt Nam. Từ đó, có thể tiến hành thí điểm triển khai và có các văn bản pháp luật ban hành tạo cơ sở pháp lý cho loại hình giao dịch này. - Hoàn thiện các loại giao dịch hiện được phép tiến hành như giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán đổi theo hướng loại bỏ các hạn chế về kỳ hạn và nới rộng dần về các biên độ tỷ giá (tỷ lệ % gia tăng của các loại giao dịch này so với tỷ giá giao dịch giao ngay) để các ngân hàng có thể yết giá cạnh tranh, tạo cho thị trường có tính thanh khoản cao hơn và sôi động hơn. Tuy nhiên, về lâu dài, biện pháp qui định tỷ lệ % gia tăng cho phép cũng phải được xóa bỏ. Các qui định hạn chế về thời hạn giao dịch cũng cần được xóa bỏ. Hoàn thiện hoạt động quản lý vay và trả nợ nước ngoài - Không ngừng hoàn thiện pháp luật về quản lý vay và trả nợ vay nước ngoài, nâng cao hơn nữa giá trị hiệu lực của các văn bản pháp luật điều chỉnh vấn đề này. - Xây dựng cơ sở pháp lý cho việc thành lập cơ quan quốc gia về quản lý nợ nước ngoài. Để đảm bảo thống nhất trong quản lý vay và trả nợ vay nước ngoài, hạn chế tình trạng chồng chéo quyền hạn, giảm thiểu sự khác biệt về thông tin, Việt Nam cần xây dựng một cơ quan chức năng tập trung quản lý nợ nước ngoài, có thể thiết lập một mô hình đã được thành công ở rất nhiều nước là Hội đồng quốc gia về quản lý nợ nước ngoài có vai trò như Ngân hàng Nhà nước trong lĩnh vực quản lý ngoại hối nói chung. - Qui định rõ ràng hơn về các chế tài cụ thể với các hành vi vi phạm pháp luật về quản lý vay, trả nợ nước ngoài hoặc thiếu trách nhiệm của các cá nhận có thẩm quyền trong lĩnh vực này để nâng cao hiệu quả quản lý hơn nữa. Tiếp tục hoàn thiện các qui định pháp luật nhằm kiểm soát chặt chẽ hơn với các khoản vay thương mại của nước ngoài vì đây là khoản vay rất khó kiểm soát. 2. Cải cách thủ tục hành chính trong bộ máy quản lý ngoại hối của NHNNVN Cải cách thủ tục hành chính vừa là một yêu cầu khách quan được đặt ra trong quá trình hội nhập vừa là một biện pháp bổ trợ nâng cao quản lý ngoại hối của Nhà nước bên cạnh giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật. Trong công tác quản lý ngoại hối cần tập trung thống nhất nhưng phải có phân cấp thẩm quyền hợp lý. Nếu toàn bộ hoạt động quản lý ngoại hối chỉ tập trung vào Ngân hàng Nhà nước cấp Trung ương thì sẽ không đủ nhân lực và khả năng điều hành, quản lý tốt. Do đó, cần phân cấp, ủy quyền cho các Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước để cấp Trung ương tập trung vào công tác tham mưu, hoạch định chính sách theo đúng mô hình Ngân hàng trung ương hiện đại. Cần có sự phối hợp tốt hơn trong giữa Ngân hàng nhà nước và các Bộ, ngành, cơ quan khác trong quá trình thực hiện các nội dung quản lý ngoại hối. Điều này chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở trách nhiệm của từng Bộ, ngành, cơ quan được quy định rõ ràng, cụ thể và giảm thiểu sự chồng chéo trong thực tế hoạt động quản lý. Phải thực hiện tốt hơn nữa chế độ theo dõi, kiểm tra thu nhập thông tin tổng hợp về các nội dung quản lý ngoại hối của nhà. Hoạt động này sẽ hỗ trợ cho việc lập được các chính sách, biện pháp quản lý ngoại hối phù hợp trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn. 3. Nâng cao kiến thức chuyên môn cho đội ngũ cán bộ công chức Nhà nước trực tiếp quản lý ngoại hối và trang bị kĩ thuật hiện đại Trong thời gian qua, công tác đào tạo lại các cán bộ làm công tác quản lý ngoại hối của NHNN đã được đặc biệt chú trọng. Với gần 30% cán bộ đã và đang đào tạo sau đại học, trong đó hơn một nửa được đào tạo ở nước ngoài đã giúp cho năng lực cán bộ có sự chuyển biến về chất. Tuy nhiên, yêu cầu hội nhập cùng những diễn biến kinh tế tài chính phức tạp trong thời gian qua đòi hỏi các cán phải được liên tục đào tạo lại và trang bị kiến thức chuyên môn sâu rộng, bắt kịp những thay đổi của kinh tế thế giới. Các cán bộ trực tiếp quản lý ngoại hối là người trực tiếp dự thảo ra các chính sách ngoại hối. Nếu không có kiến thức đầy đủ về ngoại hối thì các quy định thảo ra sẽ không phù hợp với thực tế. Chẳng hạn trong thời gian tới, khi hình thức giao dịch tương lai được đưa vào áp dụng, phải có các quy định pháp luật được ban hành, đòi hỏi các cán bộ phải có am hiểu nhất định về nội dung này. Đặc biệt trong lĩnh vực điều hành tỷ giá, các cán bộ đòi hỏi phải có kiến thức và sự nhạy bén để có thể đưa ra các chính sách, biện pháp điều chỉnh hợp lý, nhằm ổn định tỷ giá theo hướng tích cực. Ngoài ra, trình độ ứng dụng công nghệ tin học và trang thiết bị cho công tác quản lý ngoại hối cần được nâng cao. Mặc dù hiện nay đã tương đối đáp ứng được yêu cầu hiện tại, tuy nhiên, các yêu cầu mới trong quản lý ngoại hối (áp dụng phương pháp tính tỷ giá mới, nâng cao chất lượng thống kê trong lập cán cân thanh toán quốc tế…) đòi hỏi trang thiết bị và công nghệ tin học phải được nâng cấp. Có thể lấy ví dụ như để có thế áp dụng phương pháp tính tỷ giá theo rổ ngoại tệ, đòi hỏi phải có thiết bị, chương trình hiện đại để tính toán tỷ giá và biến động theo thời gian của tỷ giá. Các đòi hỏi về công nghệ và trang thiết bị còn được đặt ra trong bối cảnh yêu cầu thông tin về thị trường phải tức thời và có tính trung thực để cơ quan quản lý ngoại hối có thể phân tích và đưa ra được các chính sách ngoại hối kịp thời. KẾT LUẬN Sự phát triển kinh tế xã hội Việt Nam thời kì hậu khủng hoảng tài chính, từ quý III/2009 đến nay, đã cho thấy những triển vọng tốt đẹp cho việc phục hồi tăng trưởng kinh tế, hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010. Thành tựu kinh tế đó, có sự đóng góp tích cực của hệ thống ngân hàng. Có thể khẳng định, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình trong công tác hoạch định và triển khai các chính sách tài chính – tiền tệ, đặc biệt là chính sách quản lý ngoại hối. Chính sách điều hành tỷ giá được điều chỉnh vừa thận trọng, vừa linh hoạt, bám sát cung cầu thị trường, thị trường ngoại hối được bình ổn, dự trữ ngoại hối Nhà nước tăng khá góp phần nâng cao khả năng thanh toán quốc tế và hệ số tín nhiệm của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu thì công tác quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng không tránh khỏi còn những mặt hạn chế cần phải khắc phục. Các qui định của pháp luật về quản lý ngoại hối cần được hoàn thiện trên các khía cạnh quản lý ngoại tệ, quản lý tỷ giá hối đoái, hoàn thiện thị trường ngoại hối. Bên cạnh đó NHNNVN cần cải cách bộ máy hành chính trong công tác quản lý ngoại hối, nâng cao trình độ chuyên môn cùng trang bị các kĩ thuật hiện đại, từng bước xây dựng Ngân hàng Nhà nước thành một Ngân hàng trung ương hiện đại trong nền kinh tế thị trường. Song với nền tảng thành tựu đã đạt được trong cuộc sóng gió khủng hoảng tài chính vừa qua cùng những kinh nghiệm học tập được từ công tác quản lý chính sách tài chính – tiền tệ nói chung và chính sách quản lý ngoại hối nói riêng của các nước khác, đặc biệt là Trung Quốc, Ngân hàng Nhà nước sẽ ngày càng khẳng định được vai trò quan trọng của mình trong công cuộc xây dựng nền kinh tế, tài chính nước ta trong thời gian tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt: Bản in: Lane, Philip R. và Schmukler, Sergio (2007), Hội nhập tài chính quốc tế của Trung Quốc và Ấn Độ, Viện nghiên cứu chính sách, Hà Nội. Nguyễn Văn Tiến (2006), Cẩm nang thị trường ngoại hối và các giao dịch kinh doanh, NXB Thống kê, Hà Nội. Nguyễn Văn Tiến (2009), Giáo trình Tài chính – Tiền tệ - Ngân hàng, NXB Thống kê, Hà Nội. GS. NGƯT. Đinh Xuân Trình, trường Đại học Ngoại Thương (2006), Giáo trình Thanh toán quốc tế, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Báo cáo thường niên các năm 2005, 2006, 2007, 2008. Ủy ban thường vụ quốc hội (2005), Pháp lệnh số 28/2005/PL-UBTVQH11 quy định về hoạt động ngoại hối. Vụ Quản lý Ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2010), Báo cáo chính sách điều hành tỷ giá năm 2009 và 4 tháng đầu năm 2010. Website: www.sbv.gov.vn - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam www.gso.gov.vn – Tổng cục thống kê Tài liệu tiếng Anh: Bản in: Bhandary, J.S, Cambridge (1985), Exchange rate management under uncertainty, Mass Press, UK. Rivere – Batiz (1994), International Finance and Open Economy Macroeconomics, Maxell Mac Millan. Yi Gang, 2010, "China's financial" 2010 No. 5. Website: 1. www.imf.org - International Monetary Fund 2. www.worldbank.org – The World Bank 3. www.pbc.gov.cn/english/ - The People’s Bank of China

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChnh sch qu7843n l ngo7841i h7889i c7911a Ngn hng Nhamp.doc