Khóa luận Chính sách thu hút FDI của Trung Quốc và bài học đối với Việt Nam

Cũng như ở Trung Quốc, mục tiêu của TNCs ở Việt Nam là chiếm lĩnh thị trường. Do vậy, họ quan tâm nhiều tới hệ thống pháp luật an toàn, sự nhất quán về chính sách, chế độ, với những qui định và hướng dẫn rõ ràng, các thủ tục hành chính đơn giản, những điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc mau lẹ, trình độ cán bộ khoa học kỹ thuật và cán bộ quản lý cao, đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, có năng lực sản xuất kinh doanh, ngoại ngữ, tập quán quốc tế . Để thu hút các TNCs đầu tư ngày càng nhiều vào Trung Quốc, chính phủ Trung Quốc một mặt không ngừng hoàn thiện môi trường đầu tư, cơ sở hạ tầng, mặt khác áp dụng chính sách thu hút FDI tương đối tự do đối với họ, tạo điều kiện cho họ thu được nhiều lợi nhuận như thực hiện đãi ngộ quốc dân, bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp, đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản. Nhờ vậy, Trung Quốc đã thu hút được một lượng lớn các TNCs (khoảng 300 trong số 500 TNCs đứng đầu thế giới) đầu tư vào Trung Quốc. Các TNCs sẽ là nguồn huy động vốn lớn của Việt Nam trong thời gian tới. Do đó, việc nắm bắt được mục tiêu và những quan tâm của TNCs để có những biện pháp, chính sách kịp thời tạo ra những điều kiện thuận lợi khuyến khích TNCs đầu tư ngày càng nhiều vào Việt Nam là một trong những nội dung quan trọng, có tính chất lâu dài trong chính sách thu hút FDI của Việt Nam, bởi TNCs không chỉ mang trong mình một nguồn vốn khổng lồ, mà trong nó còn hội tụ những công nghệ hiện đại nhất và trình độ quản lý tiên tiến nhất. Đó là những thứ rất cần thiết cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam.

doc100 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1813 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Chính sách thu hút FDI của Trung Quốc và bài học đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước. Xu hướng tập trung đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các thành phố lớn có ít thay đổi qua hơn một thập kỷ qua. Nguyên nhân chủ yếu là do điều kiện về cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, thị trường tiêu thụ và thu nhập ở các tỉnh, thành phố lớn thuận lợi và phát triển hơn so với các tỉnh, thành phố khác. Do vậy, những năm gần đây đã xuất hiện sự chênh lệch đáng kể về mức sống giữa khu vực thành thị và nông thôn. Trước tình hình đó, vừa qua chính phủ đã tăng cường rất nhiều ưu đãi cho đầu tư vào khu vực này. Nhờ vậy một số tỉnh khó khăn như Gia Lai, Lai Châu, Quảng Ngãi, Hà Giang cũng bắt đầu nhận được một số dự án đầu tư. c) Cơ cấu đầu tư theo hình thức đầu tư: Do đặc điểm nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy kinh tế quốc doanh làm chủ đạo nên trong đầu tư nước ngoài, ta rất khuyến khích hình thức liên doanh. Bởi vậy, trong những năm qua tỷ trọng đầu tư theo hình thức này rất cao. Với 1035 dự án còn hiệu lực và số vốn đăng ký khoảng 21,5 tỷ USD (giai đoạn 1996 -2000), doanh nghiệp liên doanh là hình thức ĐTNN chủ yếu, chiếm 40% số dựa án và 59% vốn đầu tư đã được cấp phép. Qui mô bình quân mỗi dự án là 20.7 triệu USD. Tính đến hết năm 2000, số vốn đã thực hiện của các doanh nghiệp liên doanh đạt hơn 9,7 tỷ USD, và tạo ra hơn 140.000 việc làm. Xuất phát từ định hướng thu hút FDI của Nhà nước, hầu hết các doanh nghiệp lớn, hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế quan trọng như dầu khí, sản xuất xi măng, sắt thép, phân bón, hoá chất, lắp ráp ô tô, xe máy, điện tử ... đều là doanh nghiệp liên doanh. Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, tuy chiếm 55,5% số dự án nhưng số vốn đăng ký chỉ chiếm 29,4%, với tổng vốn đăng ký giai đoạn 1996-2000 là 10,7 tỷ USD, và 1.459 dự án còn hiệu lực. Đầu tư theo hình thức này có chiều hướng gia tăng. Nguyên nhân là do những năm gần đây, nhà nước ta chủ trương cho phép nhà ĐTNN chủ động lựa chọn hình thức, địa điểm, đối tác đầu tư (trừ lĩnh vực đầu tư có điều kiện), cho doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN được hưởng ưu đãi như doanh nghiệp liên doanh, mặt khác cũng do thời gian qua ta phát triển mạnh các khu công nghiệp, mà ở đó hình thức đầu tư nước ngoài chủ yếu là các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (chiếm 85% số dự án được cấp phép trong các KCN). Tuy nhiên tỷ trọng về vốn đăng ký của hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài trong tổng vốn đăng ký (29,4%) vẫn nhỏ hơn nhiều so với hình thức liên doanh (chiếm 59%). Qui mô vốn bình quân mỗi dự án cũng nhỏ hơn, chỉ khoảng 7,3 triệu USD. Đến hết năm 2000, số vốn thực hiện đạt 5,3 tỷ USD, tạo ra 200.000 việc làm. Nhìn chung, tốc độ triển khai thực hiện dự án của các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài nhanh hơn các doanh nghiệp liên doanh. Tỷ lệ các dự án bị thất bại cũng thấp hơn nhiều so với các hình thức đầu tư khác (tỷ lệ giải thể trước thời hạn chỉ chiếm 7,1% về số dự án và 11,7% về vốn đầu tư). Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (HĐHTKD) chủ yếu áp dụng trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí, các dự án liên lạc điện thoại nội hạt, viễn thông, in ấn và phát hành báo chí. Tính đến hết năm 2000 có 130 dự án theo hình thức HĐHTKD còn hoạt động, với tổng vốn đầu tư 3,8 tỷ USD, chiếm 5% tổng số dự án đang hoạt động và 10,5% tổng vốn đầu tư của các dự án. Hình thức đầu tư này đã góp phần tích cực vào việc phát triển, hiện đại hoá ngành dầu khí, ngành bưu chính viễn thông Việt Nam, đồng thời đã tạo điều kiện cho Việt Nam tiến hành thăm dò, đánh giá trên diện tích rộng nguồn tài nguyên dầu khí. Mặc dù mới chiếm tỷ trọng nhỏ, nhưng đây là loại hình đầu tư có nhiều hứa hẹn vì nó có thể thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng, vốn là một điểm yếu của Việt Nam. d) FDI vào các khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX): Đến hết năm 2000, có 698 dự án FDI đầu tư vào các KCN, KCX (không kể các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng KCN) còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký 8.589 triệu USD, bằng 24% trong vốn FDI cả nước. Qui mô bình quân dự án FDI trong KCN khoảng trên 10 triệu USD (không kể nhà máy lọc dầu số 1 có vốn đầu tư 1,3 tỷ USD). Ngoại trừ một số dự án công nghiệp nặng (lọc dầu, điện, hoá chất, cơ khí, vật liệu xây dựng, điện tử), công nghiệp nhẹ (dệt, sợi, may mặc) và công nghiệp thực phẩm có qui mô lớn ở KCN Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Hà Nội ...thì hầu hết dự án KCN có mức vốn đầu tư 4-5 triệu USD, sử dụng 300-400 lao động, doanh thu 5-6 triệu USD/ năm. Nhìn chung, các dự án ĐTNN đầu tư trong KCN chủ yếu theo hình thức 100% vốn nước ngoài (chiếm 85% số dự án đầu tư vào KCN), dự án liên doanh chủ yếu được thành lập trước khi KCN được thành lập, hình thức HĐHTKD chỉ có 4 dự án (chiếm 0,5%). Các dự án FDI trong KCX lại tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp nhẹ như: dệt, may mặc, nhựa, lắp ráp điện tử, cơ khí chính xác; Ngoài ra còn có nhiều dự án công nghiệp nặng như điện, hoá chất ... Nhìn chung các dự án này đều có trình độ công nghệ tiên tiến, có một số dự án có trình độ kỹ thuật cao như Fujitsu, Rozde Robotech ... qua đó, bước đầu góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật thực hiện chiến lược CNH, HĐH đất nước. 2.3. Về đối tác đầu tư: Bảng 6 : 10 nước và khu vực đầu tư lớn nhất vào Việt Nam (1988-2000) Đơn vị: triệu USD. STT Nước Số dự án Vốn đăng ký Tỷ trọng (%) Vốn thực hiện Tỷ trọng (%) 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Singapo Đài Loan Hồng Kông Nhật Bản Hàn Quốc Pháp British VirginIslands Anh Liên bang Nga Mỹ 252 605 319 296 309 158 106 44 66 120 5886,1 4884,6 3634,3 3441,2 3224,7 2175,5 1845,6 1773,5 1577,5 1339,3 19,76 16,4 12,2 11,55 10,8 7,3 6,2 5,95 5,3 4,5 1846,8 2153,4 1512,9 1802,2 1249,5 1243,0 741,2 1428,1 959,2 569,8 13,67 15,9 11,2 13,34 9,25 9,2 5,5 10,57 7,1 4,2 Tổng + + FDI của 10 nước và khu vực: so với tổng FDI cả nước Tổng FDI cả nước 2.275 71,8% 3170 29.782,3 76,2% 39100,8 13.506,1 72,7% 18573,7 (Nguồn: Niên giám thống kê -2000.) Trải qua 15 năm thu hút đầu tư nước ngoài, đến nay đã có 66 nước và vùng lãnh thổ có dự án FDI tại Việt Nam với sự tham gia của hàng ngàn công ty, tập đoàn. Trong số các đối tác đầu tư, chúng ta thấy nổi lên các nước trong khu vực với tỷ trọng hiện nay là 53,9% trong tổng vốn FDI.Trong 10 nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam tính đến hết năm 2000, 5 nước đứng đầu là các nền kinh tế trong khu vực, Singapo chiếm 19,76%, Đài Loan chiếm 16,4%, Hồng Kông chiếm 12,2%, theo sau là Nhật Bản chiếm 11,55 và Hàn Quốc chiếm 10,8% tổng vốn ký kết. Tuy Đài Loan đứng sau Singapo về tổng vốn ký kết nhưng xét về mức vốn thực hiện thì nước này lại tỏ ra vượt trội so với Singapo. Năm 2001, các nước Đông á đã đầu tư vào Việt Nam 300 dự án, tăng 41% so 2000 và vốn đăng ký đạt 826,67 triệu USD, tăng 85,6% so 2000. Trong đó, Đài Loan đứng thứ hai với tổng vốn ký kết là 448,3 triệu USD (tăng 60,2% so với năm 2000). Đặc biệt, vào cuối tháng 12, Đài Loan đã có dự án có vốn đầu tư lớn của tập đoàn Formosa xây dựng tổ hợp công nghiệp. Đây là tập đoàn lớn, có tiếng tại Đài Loan cũng như trên thế giới, việc thu hút được dự án này có ý nghĩa vô cùng quan trọng tác động tích cực tới tâm lý các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt càng có ý nghĩa quan trọng hơn trong bối cảnh cạnh tranh thu hút FDI trên thế giới đang diễn ra gay gắt hiện nay. Nhật Bản hiện có 37 dự án (tăng 42%) với vốn đăng ký đạt 160,5 triệu USD (tăng 99%), Hàn Quốc có 75 dự án, vốn đăng ký đạt 104,2 triệu USD (tăng 48,5%); Trung Quốc và Hồng Kông đều tăng gấp đôi vốn đầu tư so với năm 2000. Khu vực Châu Âu và Bắc Mỹ đang có sự gia tăng đáng kể đầu tư vào Việt Nam. Những nước thuộc hai khu vực này đã bắt đầu xuất hiện trong danh sách những nước đầu tư hàng đầu vào Việt Nam. Đứng đầu là Pháp với 158 dự án trong giai đoạn 1988-2000 với tổng vốn đăng ký là 2175,5 triệu USD, chiếm 7,3% và vốn thực hiện là 1243 triệu USD, chiếm 9,2%. Năm 2001, cơ cấu FDI theo đối tác vẫn thể hiện vai trò quan trọng của các quốc gia phát triển Châu Âu, tuy số dự án chỉ chiếm khoảng 10% (50 dự án) nhưng vốn đầu tư chiếm 44,4% (1.081,8 triệu USD), tăng 48,6% so với năm 2000. Đặc biệt năm 2001 cũng ghi nhận sự có mặt của Hà Lan trong hàng ngũ 10 nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Với 4 dự án, tổng vốn đầu tư đạt 573,85 triệu USD Hà Lan là nước đứng đầu khu vực Châu Âu đầu tư vào Việt Nam. Cũng trong năm này, Pháp lên vị trí thứ ba về vốn đầu tư (407 triệu USD với 10 dự án) trong 10 nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Đầu tư của Mỹ vào Việt Nam cũng có sự gia tăng, kể từ khi lệnh cấm vận kinh tế của Mỹ được bãi bỏ vào năm 1994 ngày càng có nhiều công ty lớn của Mỹ như Coca-cola, IBM, Motorola, Ford ... đầu tư vào Việt Nam. Năm 2000, Mỹ có 23 dự án đầu tư vào Việt Nam (tăng 64%) với vốn đăng ký đạt 112,2 triệu USD (tăng 260% so với năm 2000). 3. Tác động của FDI đến nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua. 3.1. Những đóng góp: Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài (ĐTNN) tại Việt Nam ra đời (tháng 12/1987) đến cuối năm 2001, Việt Nam đã cấp giấy phép cho 3.715 dự án FDI với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 41,171 tỷ USD, 20 tỷ USD trong tổng số vốn đăng ký đã được đưa vào thực hiện. Đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện đang đóng góp khoảng 13% GDP của cả nước, góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và mở rộng kinh tế đối ngoại, làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, giúp Việt Nam có được công nghệ tiên tiến trong nhiều lĩnh vực và tạo ra ở Việt Nam phương thức quản lý mới và đội ngũ cán bộ quản lý tiếp cận dần trình độ quốc tế. *) Về huy động nguồn lực. Đặc điểm của nền kinh tế nước ta vào cuối thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80 là một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với nhiều nhược điểm của nó, trong đó tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư rất thấp. Từ sau đổi mới, tỷ lệ này đã tăng lên đáng kể, tuy vậy vẫn còn rất thấp so với nhu cầu đầu tư. Hơn nữa, chúng ta lại phải trả nợ nước ngoài trong khi thâm hụt ngân sách còn ở mức cao. Trong tình hình đó, nguồn vốn FDI đã trở thành một nguồn vốn rất cần thiết bổ sung cho sự thiếu hụt đó. Trong 15 năm qua, vốn FDI thực hiện tăng nhanh qua các năm, nếu thời kỳ 1991-1995 đạt 6,3 tỷ USD chiếm 85% tổng vốn thực hiện và chiếm trên 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội thì thời kỳ 1996-2000, vốn FDI thực hiện đạt gần 11 tỷ USD, chiếm gần 90% tổng vốn thực hiện và chiếm 24% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Nguồn vốn FDI rõ ràng là nguồn vốn quan trọng bổ sung cho đầu tư phát triển và đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế. Thông qua nguồn vốn FDI, các nguồn nội lực (lao động, đất đai, tài nguyên ...) được khai thác và sử dụng tương đối có hiệu quả; đồng thời nhà nước cũng chủ động hơn trong bố trí cơ cấu vốn đầu tư: dành nhiều vốn ngân sách, vốn đầu tư trong nước cho phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và đầu tư ở những vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, tạo tốc độ tăng trưởng tương đối đồng đều, hợp lý ở các địa phương. Cùng với quá trình phát triển, FDI đóng góp ngày càng lớn vào thu ngân sách quốc gia, tạo khả năng chủ động hơn trong cân đối ngân sách, giảm bội chi. *) Tham gia xuất khẩu và mở rộng kinh tế đối ngoại. Cùng với việc huy động nguồn lực cho Việt Nam, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài còn đóng góp đáng kể vào việc đẩy mạnh xuất khẩu và mở rộng kinh tế đối ngoại của nước ta. Kim ngạch xuất khẩu của khu vực này tăng nhanh, chưa kể dầu khí, trong 5 năm 1996 -2000 đạt trên 10,6 tỷ USD, tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước và chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay, xuất khẩu của khu vực ĐTNN đã chiếm tỷ trọng rất lớn (42% hàng dày dép, 25% hàng may mặc, 84% hàng điện tử, máy vi tính và linh kiện). Những thành công của chính sách thu hút FDI hướng về xuất khẩu được thể hiện qua tỷ trọng xuất khẩu so với doanh thu của các doanh nghiệp có vốn FDI tăng nhanh. Tính bình quân thời kỳ 1991 -1995 đạt gần 30%; thời kỳ 1996 -2000 đạt 48,7%. Ngoài ra, Khu vực ĐTTTNN đã góp phần mở rộng thị trường trong nước; thúc đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh, đặc biệt là khách sạn, du lịch, các dịch vụ thu ngoại tệ, dịch vụ tư vấn pháp lý, công nghệ, tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với các thị trường quốc tế. Với 66 nước và vùng lãnh thổ có dự án ĐTTTNN tại Việt Nam, trong đó có nhiều tập đoàn lớn có tiềm lực mạnh về công nghệ và tài chính, ĐTTTNN đã góp phần phá thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại tạo thuận lợi cho Việt Nam gia nhập ASEAN, ký hiệp định khung với EU, bình thường hoá quan hệ và ký hiệp định thương mại song phương với Mỹ; đồng thời tăng cường thế và lực của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. *) Về chuyển dịch cơ cấu: Trong những năm đầu FDI tập trung nhiều vào lĩnh vực dịch vụ kinh doanh bất động sản, ngoài dầu khí. Trong thời kỳ 1996 -2000, FDI đã chuyển hướng, tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Trong tổng số 2628 dự án còn hiệu lực với số vốn đăng ký là 36,3 tỷ USD, có tới 63% tổng số dự án và chiếm 56,4% tổng vốn đăng ký tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng. ... FDI trong lĩnh vực dịch vụ cũng có chiều hướng tăng lên (chiếm 24,5% số dự án và 24% tổng vốn đăng ký), trong đó đầu tư xây dựng hạ tầng KCN, bưu chính viễn thông, y tế, đào tạo nguồn nhân lực ... tăng nhanh. Khu vực ĐTTTNN hiện tạo ra gần 40% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Tốc độ tăng gia trị sản xuất công nghiệp của khu vực này đạt trung bình 21,8%/ năm và góp phần đưa tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước đạt từ 11 -13%/ năm trong thời kỳ 1996-2000. Đặc biệt ĐTTTNN đã tạo nên nhiều ngành nghề, sản phẩm mới góp phần làm tăng đáng kể năng lực các ngành công nghiệp Việt Nam. Hiện nay, năng lực sản xuất của khu vực ĐTTTNN chiếm 100% về khai thác dầu thô, sản xuất ô tô, máy giặt, tủ lạnh, điều hoà nhiệt độ, thiết bị văn phòng, máy tính ... Ngoài ra, khu vực này còn chiếm khoảng 60% sản lượng về thép cán, 28% về xi măng, 33% về sản xuất máy móc thiết bị điện, điện tử, 76% dụng cụ y tế chính xác ... Trong công nghiệp nhẹ, ĐTTTNN chiếm 55% về sợi các loại, 30% về vải các loại, 49% về da giầy, 18% sản phẩm may, 25% về thực phẩm và đồ uống ... Thông qua ĐTTTNN đã hình thành bước đầu hệ thống các KCN, KCX. Đây là hướng đi đúng, nhằm góp phần phân bố công nghiệp hợp lý, nâng cao hiệu quả đầu tư. *) Đóng góp vào GDP: Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần quan trọng cho sự tăng trưởng của GDP trong thập kỷ qua. Tính riêng thời kỳ 1996 -2000, tốc độ tăng GDP của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cao hơn 2,5 lần so với tốc độ tăng GDP của nền kinh tế. Tỷ lệ đóng góp của khu vực ĐTTTNN trong GDP tăng dần qua các năm: năm 1990 đạt 3,6% đến năm 1995 đạt 6,3%, năm 1998 đạt 10,1% và năm 2000 đạt 13,3%. Nguồn thu ngân sách từ khu vực này cũng tăng liên tục, bình quân chiếm 6 -7% nguồn thu ngân sách (nếu tính cả thu từ dầu khí, tỷ lệ này đạt gần 20%). Tổng nguồn thu ngân sách từ khu vực này trong 5 năm 1996-2000 đạt gần 1,45 tỷ USD (chưa kể dầu khí) gấp 4,5 lần 5 năm trước đó. *) Giải quyết việc làm: Vai trò của FDI trong tạo việc làm được biểu hiện đầu tiên qua số việc làm trực tiếp mà nó tạo ra. Luồng vốn FDI vào Việt Nam những năm qua vận động theo chu kỳ, đạt đỉnh cao vào năm 1996 với 8,64 tỷ USD vốn đăng ký, nhưng từ năm 1997 có chiều hướng giảm sút, chủ yếu do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính Châu á. Một số doanh nghiệp FDI hoạt động cầm chừng, nhiều dự án không có khả năng triển khai do công ty mẹ gặp khó khăn về tài chính, tốc độ giải ngân vốn FDI chững lại. Tuy vậy, số lao động làm việc trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài liên tục tăng qua các năm. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 1996 có 220.000 người, năm 1997: 250.000, năm 1998: 270.000, năm 1999: 296.000, năm 2000 có 350.000 người, đến nay con số này là trên 400.000 lao động. Để đánh giá chính xác hơn vai trò của FDI trong tạo việc làm, người ta đưa ra chỉ tiêu lao động gián tiếp, những người không trực tiếp hưởng lương từ các chủ đầu tư nước ngoài, nhưng làm việc trong các đơn vị hình thành do tác động của vốn FDI. Trên thực tế, số lượng lao động gián tiếp do các doanh nghiệp FDI tạo ra lớn hơn rất nhiều so với số lao động trực tiếp. Lượng lao động này thường hoạt động trong các khâu cung cấp nguyên vật liệu, đại lý tiêu thụ sản phẩm. Nếu lấy tỷ lệ lao động trực tiếp/gián tiếp trung bình theo kết quả khảo sát của các nhà nghiên cứu là 1: 1,5 thì tổng số lao động gián tiếp mà FDI tạo ra năm 2000 là gần1 triệu người. Tuy cách tính này chỉ là tương đối song ta thấy số lượng lao động gián tiếp mà FDI tạo ra là rất lớn. Cùng với việc tạo ra một số lượng lớn việc làm, một số lượng đáng kể người lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI đã được đào tạo nâng cao năng lực quản lý, trình độ khoa học, đủ sức thay thế chuyên gia nước ngoài. Mặt khác, ĐTTTNN cũng đem lại một phần thu nhập đáng kể cho người lao động và tăng sức mua cho thị trường trong nước. Lương bình quân của lao động Việt Nam trong các doanh nghiệp có vốn FDI là từ 75 - 80 USD/ tháng, cao hơn bình quân chung của doanh nghiệp trong nước. 3.2. Những hạn chế trong thu hút FDI. *) Cơ cấu FDI theo ngành và theo lãnh thổ chưa hợp lý. Trong những năm qua FDI ở nước ta chủ yếu tập trung vào hai ngành công nghiệp và dịch vụ với tỷ trọng lần lượt là 52,4% và 31,6%. Trong khi đó, đầu tư vào ngành nông nghiệp lại chiếm tỷ trọng rất nhỏ 4,2%. Đây thực sự là một cơ cấu chưa hợp lý bởi nước ta là một nước nông nghiệp. Bên cạnh đó, đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến nông sản, một ngành liên quan đến sản xuất nông nghiệp, cũng chưa cao. Xét về cơ cấu trong ngành dịch vụ, tỷ trọng của đầu tư vào kinh doanh khách sạn và văn phòng cho thuê tuy có giảm đôi chút nhưng tỷ trọng vẫn còn ở mức cao (20,8% tổng vốn đầu tư; trong đó 12,2% là khách sạn, và 8,6% là văn phòng cho thuê), trong khi hoạt động này ở nước ta cung đang vượt quá cầu. Đối với cơ cấu vùng, xét theo chiều sâu, có tới 80% số vốn đầu tư vào thành thị, trong khi chưa đầy 20% là vào vùng nông thôn. Do vậy mà trong những năm qua, bộ mặt kinh tế nông thôn chưa tạo được một biến đổi đáng kể nào. Còn xét về chiều rộng, chúng ta thấy đầu tư chủ yếu tập trung vào hai miền Nam và Bắc với tỷ trọng lần lượt là 53,6% và 33,2%. Trong khi đó, khu Bốn cũ và miền Trung chỉ thu hút được 13,2% lượng vốn đầu tư. *) Chưa thu hút được đối tác mạnh. Thu hút được đối tác mạnh luôn là mục tiêu quan trọng đối với các nước nhận đầu tư. Bởi vì, ngoài tiềm lực rất mạnh về vốn, công nghệ họ còn có những kỹ năng, kinh nghiệm quản lý thuộc hàng tiên tiến nhất thế giới. Hơn nữa, các đối tác này rất coi trọng chữ tín và hiệu quả đầu tư của họ thường rất cao nên sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho nước chủ nhà. Ba khối kinh tế hàng đầu là Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản hàng năm đều đầu tư ra bên ngoài một khối lượng rất lớn. Tuy nhiên, đầu tư của ba khối kinh tế hùng mạnh này vào Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn. Nhật Bản tuy nằm ở vị trí thứ 3 trong 10 nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam, nhưng con số đầu tư đó vẫn chưa thật xứng đáng với tiềm lực của đất nước này (số lượng vốn đầu tư ký kết của nước này chỉ bằng 0,5 lần số lượng đầu tư của Singapo). Đầu tư của Mỹ và Tây Âu chỉ tăng lên trong những năm gần đây song tỷ trọng vẫn chưa cao. Điều này đòi hỏi trong những năm tới, Việt Nam cần có kế hoạch thu hút hơn nữa đầu tư từ 3 nguồn khổng lồ này. *) Hình thức thu hút FDI chưa phong phú. Trong 15 năm qua, FDI ở Việt Nam chỉ thực hiện theo 3 hình thức là doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng; Trong đó, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chỉ được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Việt Nam chưa chú trọng đến các hình thức thu hút FDI khác như thành lập công ty cổ phần có vốn ĐTNN, cho phép mua, bán, sáp nhập doanh nghiệp trong nước với công ty nước ngoài (M&A) ... Do đó, trong nhiều năm, chúng ta chưa mở được các kênh mới để thu hút dòng vốn FDI của thế giới. Mặc dù trong chỉ đạo và điều hành, ta dành ưu tiên cho hình thức liên doanh nhưng chính doanh nghiệp liên doanh lại có tỷ lệ lỗ vốn, giải thể nhiều nhất; mâu thuẫn giữa các bên liên doanh khá phổ biến. Mặt khác, trong các doanh nghiệp liên doanh thì bên Việt Nam hầu hết là các doanh nghiệp Nhà nước (chiếm 98% tổng vốn đầu tư và 92% tổng số dự án liên doanh), số doanh nghiệp dân doanh chiếm tỷ lệ không đáng kể. Chính điều này đã làm hạn chế đáng kể việc thu hút FDI vào Việt Nam trong những năm qua. II. Phương hướng thu hút FDI vào Việt Nam giai đoạn 2001-2005. 1. Mục tiêu: Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở nước ta, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Trong hơn 15 năm qua kể từ khi ban hành Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần tích cực vào việc thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội, vào thắng lợi của công cuộc đổi mới, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế, tăng cường thế và lực của Việt Nam trên trường quốc tế. Nhằm tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, củng cố niềm tin của các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo điều kiện để thành phần kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển thuận lợi, đóng góp nhiều hơn vào phát triển kinh tế, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới, Chính phủ ban hành Nghị quyết về "Tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài thưòi kỳ 2001-2005", theo đó hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phải đạt được các mục tiêu sau: Vốn đăng ký của các dự án cấp giấy phép mới: khoảng 12 tỷ USD. Vốn thực hiện: khoảng 11 tỷ USD. Đến năm 2005 đóng góp khoảng 15% GDP, 25% tổng kim ngạch xuất khẩu và khoảng 10% tổng thu ngân sách của cả nước (không kể dầu khí) 2. Định hướng: _ Khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu; công nghiệp chế biến; công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn; các dự án ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học; dầu khí; điện tử; vật liệu mới; viễn thông; sản xuất phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và các ngành mà Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh gắn với công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. _ Tiếp tục thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những địa bàn có nhiều lợi thế để phát huy vai trò của các vùng động lực, tạo điều kiện liên kết phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh. Khuyến khích và dành các ưu đãi tối đa cho đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những vùng có địa bàn điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đẩy mạnh đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng ở các địa bàn này bằng các nguồn vốn khác để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tập trung thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các Khu công nghiệp tập trung đã hình thành theo qui hoạch được phê duyệt. _ Khuyến khích các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài từ tất cả các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, nhất là các nhà đầu tư có tiềm năng lớn về tài chính và nắm công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển; tiếp tục thu hút các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài ở khu vực. Có kế hoạch vận động các tập đoàn, công ty lớn đầu tư vào Việt Nam, đồng thời chú ý đến các công ty có qui mô vừa và nhỏ, nhưng công nghệ hiện đại; khuyến khích, tạo thuận lợi cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước. III. Những giải pháp thu hút FDI vào Việt Nam từ kinh nghiệm của Trung Quốc. Qua những nghiên cứu về chính sách, hoạt động thu hút FDI của Trung Quốc và những thực trạng thu hút FDI vào Việt Nam trong thời gian qua, để đạt được mục tiêu đã đề ra tôi có một vài kiến nghị về giải pháp thu hút FDI trong thời gian tới như sau: 1. Xây dựng chiến lược thu hút FDI phù hợp hơn nữa với yêu cầu của nền kinh tế thị trường: a) Xây dựng Danh mục dự án quốc gia kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài thời kỳ 2001 - 2005 làm cơ sở cho việc vận động xúc tiến đầu tư. Qua thực tiễn của Trung Quốc cho thấy, mặc dù mở cửa thu hút FDI từ năm 1979, nhưng đến tận năm 1995 Trung Quốc mới ban hành "danh mục hướng dẫn đầu tư nước ngoài ", năm 1996 tiến hành sửa chữa lại "danh mục " này. Tuy nhiên danh mục hướng dẫn này vẫn chưa cụ thể và không hoàn thiện. Những ngành mà Trung Quốc khuyến khích đầu tư thì lại đầu tư rất ít, tỷ trọng tương đối thấp như ngành nông nghiệp và kỹ thuật cao mới. Còn những ngành hạn chế đầu tư thì có những ngành mà các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư tương đối tập trung như điện, tủ lạnh, nhà máy ô tô, khách sạn cao cấp, biệt thự, phòng làm việc ... Nguyên nhân căn bản là do Trung Quốc vẫn chưa nắm rõ tình hình, vẫn chưa đi sâu nghiên cứu vấn đề, nên tư tưởng chỉ đạo, phương pháp nghiên cứu và đường lối chỉ đạo của "danh mục hướng dẫn" vẫn không rõ ràng đầy đủ. Vì vậy dẫn đến mục tiêu quản lý không rõ ràng, không cụ thể. Việt Nam đến nay cũng đã 5 lần công bố Danh mục dự án gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện còn chậm, chất lượng chưa cao. Một số qui hoạch và dự án trong danh mục chưa tính đến nhu cầu và điều kiện cụ thể của nhà ĐTNN, đồng thời không dự báo hết diễn biến tình hình nên chưa thực sự trở thành công cụ định hướng vận động đầu tư có hiệu quả. Vì vậy, rút kinh nghiệm từ Trung Quốc và từ thực tiễn của Việt Nam, việc xây dựng danh mục dự án gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới cần phải được nghiên cứu trên cơ sở thị trường, phải được xác định theo nhu cầu thị trường và những nhu cầu, điều kiện của nhà đầu tư, đồng thời phải tính đến tư tưởng chỉ đạo của Nhà nước. Các dự án khi được lựa chọn đưa vào danh mục này phải có sự thống nhất trước về chủ trương và qui hoạch và được bố trí vốn làm dự án tiền khả thi. Các Bộ, ngành, địa phương chủ động xây dựng và công bố danh mục dự án kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài của ngành, địa phương mình. b) Các Bộ, ngành xây dựng và điều chỉnh qui hoạch ngành và các sản phẩm chủ yếu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2001-2005; xác định rõ nhu cầu về từng loại nguồn vốn, trong đó có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để đạt được mục tiêu, sản phẩm đặt ra trong kế hoạch. c) Đẩy mạnh vận động, xúc tiến đầu tư. Trong thời gian qua, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các bộ, ngành, địa phương đã tổ chức hàng trăm cuộc hội thảo, vận động đầu tư ở trong và ngoài nước, nhằm giới thiệu môi trường và cơ hội đầu tư ở Việt Nam. Đồng thời cũng tổ chức các cuộc đối thoại trực tiếp với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo từng lĩnh vực hoặc chuyên đề cụ thể. Tuy nhiên, nội dung cũng như phương thức tổ chức vận động đầu tư còn quá đơn giản, nặng về tuyên truyền luật pháp, chính sách, chưa tập trung vào chương trình vận động theo từng đối tác, lĩnh vực hoặc dự án cụ thể nên hiệu quả chưa cao. Vì vậy, trong thời gian tới công tác tuyên truyền, vận động đầu tư phải sửa chữa được những thiếu xót trên, cụ thể: Một là, đổi mới về nội dung và phương thức vận động, xúc tiến đầu tư. Triển khai chương trình xúc tiến đầu tư theo ngành, lĩnh vực, địa bàn với các dự án và đối tác cụ thể, hướng vào các đối tác nước ngoài có tiềm lực tài chính và công nghệ nguồn. Căn cứ vào danh mục dự án gọi vốn quốc gia, chuẩn bị kỹ một số dự án quan trọng, lựa chọn, mời trực tiếp một vài tập đoàn lớn trong ngành, lĩnh vực đó để đàm phán, tham gia đầu tư vào các dự án. Hai là, chú trọng cả xúc tiến đầu tư để thu hút các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài mới và các hoạt động hỗ trợ các nhà đầu tư để triển khai hiệu quả các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đang hoạt động. Giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc để các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động thuận lợi. Biểu dương, khen thưởng kịp thời các doanh nghiệp, nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài có thành tích xuất sắc trong kinh doanh, có đóng góp thiết thực vào xây dựng đất nước. Đồng thời phê phán, xử lý nghêm những trường hợp vi phạm pháp luật Việt Nam. Ba là, xây dựng, hoàn thiện hệ thống thông tin về đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách, quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng tuyên truyền đối ngoại trên cơ sở sử dụng thông tin hiện đại. Xây dựng và đưa vào hoạt động trang Web về đầu tư trực tiếp nước ngoài để phục vụ việc cung cấp thông tin cập nhật về chủ trương, chính sách pháp luật về đầu tư, giới thiệu các dự án kêu gọi đầu tư, biểu dương những dự án thành công. Bốn là, kết hợp vận động đầu tư ở trong nước với các hoạt động vận động ở nước ngoài, tăng cường quan hệ hợp tác xúc tiến đầu tư cả trong khuôn khổ song phương và đa phương nhằm tạo sức mạnh tổng hợp trong hoạt động vận động đầu tư nước ngoài, có trọng tâm, theo lĩnh vực đầu tư nhất định. Mặt khác, những tiến bộ trong việc cải thiện môi trường đầu tư, những kinh nghiệm thành công của các công ty đầu tư trực tiếp nước ngoài đã hoạt động tại Việt Nam sẽ là những nhân tố quan trọng, có sức thuyết phục nhất để thu hút các nhà đầu tư mới. 2. Tăng cường quản lý và điều tiết vĩ mô của nhà nước đối với FDI thông qua các biện pháp pháp luật. Xây dựng thể chế lưu thông tiền tệ, thể chế thuế tài chính, thể chế đầu tư, thể chế ngoại thương theo nền kinh tế thị trường, giúp chúng ta tham gia rộng rãi hơn vào sản xuất quốc tế, vào thị trường tiền vốn quốc tế. Bài học kinh nghiệm trong công tác quản lý thu hút FDI ở Trung Quốc cho thấy, Trung Quốc đã coi trọng thu hút, coi nhẹ quản lý. Các ngành chủ quản của chính quyền các cấp ở Trung Quốc đã chuyển từ cơ chế quản lý trực tiếp các xí nghiệp ở thời kỳ bao cấp sang cơ chế quản lý gián tiếp trong thời kỳ cải cách. Theo đó, kết quả kinh doanh của các xí nghiệp đầu tư nước ngoài không cần có ngành chủ quản thuộc Chính phủ chịu trách nhiệm cuối cùng. Vì vậy có làm tốt hay không làm tốt thì cũng hầu như không có liên quan gì tới chính phủ. Các cấp chính quyền chỉ chú ý thu hút số lượng các dự án FDI mà không chú trọng xem xét đến tình hình hoạt động của các dự án này. Kết quả là, đã xuất hiện những nội dung hợp đồng không có giám sát kiểm tra, hoặc giám sát kiểm tra không nghiêm túc, không có trách nhiệm. Một khi có hiện tượng vi phạm hợp đồng, thì lợi ích của bên tôn trọng hợp đồng sẽ không được đảm bảo. Mặt khác, trong quá trình thu hút vốn FDI, các ngành tổng hợp, các ngành chủ quản và các cơ quan địa phương không có sự phối hợp nhịp nhàng, có một số dự án và chính sách ngành nghề vẫn chưa được sự thống nhất. Một số doanh nghiệp FDI không báo cáo số liệu thống kê cần thiết cho ngành thống kê và cơ quan chủ quản, gây khó khăn cho tình hình quản lý các doanh nghiệp này. Những điều này đã có ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Trung Quốc thời gian qua. Do đó, việc tăng cường quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với FDI ở Việt Nam trong thời gian tới là rất cần thiết. Các cơ quan cấp Giấy phép đầu tư phải thường xuyên rà soát, phân loại các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được cấp giấy phép để có những biện pháp thích hợp, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tiếp tục thực hiện chủ trương phân cấp quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tập trung, thống nhất quản lý về qui hoạch, cơ cấu, chính sách và cơ chế; trong đó, chú trọng phân cấp quản lý nhà nước đối với hoạt động sau giấy phép của các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; tăng cường hướng dẫn, kiểm tra của các Bộ, ngành, Trung ương. Có cơ chế xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm pháp luật, chính sách, qui hoạch trong việc thực hiện chủ trương phân cấp phát triển quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài; Kể cả việc chấm dứt hiệu lực của các giấy phép đầu tư cấp sai qui định. Đồng thời, tiến hành đổi mới và hoàn thiện chính sách tiền tệ liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng tiếp tục giảm dần, tiến tới xoá bỏ việc bắt buộc kết hối ngoại tệ khi có đủ điều kiện. Sử dụng linh hoạt, có hiệu quả các công cụ, chính sách tiền tệ như tỷ giá, lãi suất theo các nguyên tắc của thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước. 3. Thu hút fdi cần dựa vào việc sáng tạo ra môi trường đầu tư ưu việt, cần dựa vào pháp chế kiện toàn và quản lý hữu hiệu, dựa vào thị trường có sức thu hút, không nên dựa nhiều vào chính sách ưu đãi. Vì những chính sách này không chỉ đi ngược lại nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng, dẫn tới tiền vốn trong nước chảy ra ngoài, hoặc dẫn tới hiện tượng "chung vốn giả", "trốn thuế, lậu thuế", mà còn đi ngược lại một số nguyên tắc trong qui định của WTO và thông lệ quốc tế. Chỉ có đầu tư sản xuất theo nhu cầu thị trường mới thu hút được nhiều FDI. Thực tiễn thu hút FDI của Trung Quốc cho thấy, thời kỳ đầu để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư, Chính phủ Trung Quốc đã định ra khá nhiều chính sách ưu đãi, đến giữa những năm 90 những chính sách ưu đãi nay đã dần bị xoá bỏ, tuy nhiên một số chính sách vẫn tồn tại và đang ngày càng trở thành những nhân tố bất lợi cho cạnh tranh không bình đẳng đối với các xí nghiệp trong nước. Vì vậy, để có một môi trường cạnh tranh bình đẳng Trung Quốc đã thực hiện chính sách đãi ngộ quốc dân theo qui tắc thông thường của quốc tế. Theo đó làm rõ hai điểm: (1). Thực hiện đãi ngộ quốc dân không giống như mở cửa thị trường trong nước vô thời hạn. Đãi ngộ quốc dân chủ yếu chỉ đãi ngộ các xí nghiệp nước ngoài sau khi tham gia vào thị trường trong nước. (2). Thực hiện đãi ngộ quốc dân đối với các nhà đầu tư nước ngoài không phải là đưa ra những ưu đãi riêng cho các nhà đầu tư nước ngoài mà chỉ là cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được hưởng mức ưu đãi không thấp hơn các nhà đầu tư trong nước. Ngoài ra, Trung Quốc dần xoá bỏ các biện pháp chính sách ưu đãi phổ biến cho các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng vẫn bảo lưu chính sách ưu đãi đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong ngành, khu vực, dự án cụ thể. Ví dụ đối với các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào miền Trung, Tây, đầu tư vào nông nghiệp, hoặc các ngành kỹ thuật cao thì vẫn có một chính sách ưu đãi nhất định. Điều này đã góp phần làm cho đầu tư trực tiếp nước ngoài, chiến lược phát triển tổng thể của Trung Quốc và chính sách ngành nghề được gần gũi nhau hơn. Qua kinh nghiệm của Trung Quốc, để tạo ra một môi trường đầu tư ưu việt, trong thời gian tới Việt Nam cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài, như: _ Tiếp tục nghiên cứu xây dựng, điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển theo đúng hướng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và phù hợp với yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. _ Nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng: +) Thiết lập một mặt bằng pháp lý chung áp dụng cho cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tạo lập môi trường ổn định, bình đẳng cho sản xuất và kinh doanh. +) Đa dạng hoá các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài để triển khai thêm các kênh thu hút đầu tư mới; nghiên cứu và thực hiện thí điểm các hình thức đầu tư như công ty hợp danh, công ty quản lý vốn. +) Mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phù hợp với cam kết trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Từng bước mở thị trường bất động sản cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài và các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài tham gia đầu tư tại Việt Nam; xây dựng cơ chế để doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài được xây dựng, kinh doanh nhà ở và xây dựng, kinh doanh phát triển khu đô thị mới; khuyến khích đầu tư trong các lĩnh vực dịch vụ khoa học, công nghệ dịch vụ thông tin, chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực. _ Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư và tiến tới chế độ một giá áp dụng thống nhất cho cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài theo Quyết định số 35/1999/QĐ - TTg ngày 26 tháng 3 năm 1999 của Thủ tướng Chính Phủ. _ Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và cam kết quốc tế theo hướng đơn giản hoá các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xây dựng chính sách thuế khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài sản xuất phụ tùng, linh kiện, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm; cho phép các dự án sản xuất nguyên liệu phụ trợ phục vụ hàng xuất khẩu được hưởng ưu đãi tương tự như các dự án đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó, Việt Nam cần phải dần xoá bỏ những chính sách ưu đãi đối với các nhà đầu tư nước ngoài, và nhanh chóng thực hiện đãi ngộ quốc gia trong các xí nghiệp đầu tư nước ngoài. 4. Khuyến khích các doanh nghiệp trong nước có điều kiện vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với TNCs để phát triển công nghiệp dân tộc. Thực tiễn ở Trung Quốc cho thấy, các công ty xuyên quốc gia đầu tư vào Trung Quốc thường chọn những xí nghiệp có thực lực, hiệu quả làm bạn hàng. Những xí nghiệp này vốn đã có khả năng nghiên cứu phát triển kỹ thuật ở một mức độ nhất định. Sau khi liên doanh, đại đa số các xí nghiệp đều bỏ các cơ sở nghiên cứu phát triển kỹ thuật vốn có, và áp dụng kỹ thuật mà công ty mẹ cung cấp. Vì vậy đã làm yếu đi khả năng nghiên cứu phát triển kỹ thuật của bản thân xí nghiệp, khiến cho những xí nghiệp liên doanh chủ yếu dựa vào phía nước ngoài trong việc nghiên cứu phát triển kỹ thuật. Rút kinh nghiệm từ Trung Quốc, trong thời gian tới cùng với việc khuyến khích các doanh nghiệp trong nước vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với các TNCs, Việt Nam cần phải có chính sách hỗ trợ và những qui định hướng dẫn các doanh nghiệp trong nước. Chính phủ cần phải có một kế hoạch hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp trong nước, giảm thuế nhập khẩu cho các doanh nghiệp trong nước khi nhập khẩu các thiết bị kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao. Nghiên cứu và đưa ra các qui định chi tiết, cụ thể về trao đổi kỹ thuật trong các doanh nghiệp liên doanh, các chính sách ưu tiên phát triển công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp dân tộc. 5. Khuyến khích đầu tư về nước của đồng bào Việt Kiều ở nước ngoài . Hiện nay người Việt ở nước ngoài có tiềm năng lớn về vốn, tri thức khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý hiện đại, có nhiều mối quan hệ làm ăn với các đối tác nước ngoài, thông thạo các thông lệ kinh doanh quốc tế và thị trường thế giới ... Trong đó, thế mạnh chính của họ là chất xám rất cần cho sự nghiệp công nghiệp hoá của chúng ta. Nhà nước cần có những hình thức khuyến khích phù hợp, những qui chế hoạt động và cơ chế vận hành có hiệu quả, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, ổn định, thủ tục gọn nhẹ ... để thu hút tiềm năng to lớn này. Khác với Trung Quốc, Việt kiều ở nước ngoài tính cộng đồng yếu hơn rất nhiều. Do tính chất chính trị có những phức tạp nên cộng đồng người Việt ở nứoc ngoài bị chia cắt. Việt kiều thiếu hiểu biết hoặc còn nhiều hiểu lầm đối với đất nước. Nhiều người trong số họ ra đi trong những ngày đất nước sắp thống nhất, trong họ còn có nhiều mặc cảm, nhiều hận thù đối với chế độ. Do vậy, Nhà nước cần có chính sách tuyên truyền, giáo dục truyền thống dân tộc, văn hoá, nâng cao tính cộng đồng cho họ, giúp họ xoá đi những mặc cảm những hận thù. Không chỉ vậy, Nhà nước cần tuyên truyền cho họ thấy những thành tựu trong đổi mới của đất nước, những khó khăn và tồn tại trong phát triển kinh tế ... giúp họ có hiểu biết đúng đắn và toàn diện về quê hương đất nước, kích thích lòng tự tôn dân tộc cho họ. Đồng thời Nhà nước cần có những chính sách quan tâm đến họ, củng cố họ thành một khối để thu hút tiềm năng chính của họ là chất xám. Những kinh nghiệm của Trung Quốc trong chính sách đối với Hoa kiều, những biện pháp giải quyết, bảo vệ quyền lợi và lợi ích cho họ là những kinh nghiệm quí giúp chúng ta có thể tham khảo trong việc ban hành chính sách để khuyến khích đầu tư về nước của hai triệu Việt Kiều đang sống ở hơn 70 nước trên thế giới. 6. Khuyến khích đầu tư của TNCs: Cũng như ở Trung Quốc, mục tiêu của TNCs ở Việt Nam là chiếm lĩnh thị trường. Do vậy, họ quan tâm nhiều tới hệ thống pháp luật an toàn, sự nhất quán về chính sách, chế độ, với những qui định và hướng dẫn rõ ràng, các thủ tục hành chính đơn giản, những điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc mau lẹ, trình độ cán bộ khoa học kỹ thuật và cán bộ quản lý cao, đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, có năng lực sản xuất kinh doanh, ngoại ngữ, tập quán quốc tế ... Để thu hút các TNCs đầu tư ngày càng nhiều vào Trung Quốc, chính phủ Trung Quốc một mặt không ngừng hoàn thiện môi trường đầu tư, cơ sở hạ tầng, mặt khác áp dụng chính sách thu hút FDI tương đối tự do đối với họ, tạo điều kiện cho họ thu được nhiều lợi nhuận như thực hiện đãi ngộ quốc dân, bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp, đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản... Nhờ vậy, Trung Quốc đã thu hút được một lượng lớn các TNCs (khoảng 300 trong số 500 TNCs đứng đầu thế giới) đầu tư vào Trung Quốc. Các TNCs sẽ là nguồn huy động vốn lớn của Việt Nam trong thời gian tới. Do đó, việc nắm bắt được mục tiêu và những quan tâm của TNCs để có những biện pháp, chính sách kịp thời tạo ra những điều kiện thuận lợi khuyến khích TNCs đầu tư ngày càng nhiều vào Việt Nam là một trong những nội dung quan trọng, có tính chất lâu dài trong chính sách thu hút FDI của Việt Nam, bởi TNCs không chỉ mang trong mình một nguồn vốn khổng lồ, mà trong nó còn hội tụ những công nghệ hiện đại nhất và trình độ quản lý tiên tiến nhất. Đó là những thứ rất cần thiết cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam. 7. Thúc đẩy việc nhập công nghệ tiên tiến, không chấp nhận công nghệ lạc hậu, công nghệ gây ô nhiễm môi trường... Mục tiêu quan trọng của thu hút đầu tư nước ngoài là thu hút kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài. Bài học kinh nghiệm ở Trung Quốc cho thấy, mặc dù phương châm của Trung Quốc là "lấy thị trường để chuyển đổi kỹ thuật", thông qua nhượng bộ một phần thị trường trong nước để đổi lấy kỹ thuật tiên tiến. Nhưng do phía Trung Quốc trong khi đàm phán về liên doanh, thường mong muốn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư tiền vốn để giải quyết vấn đề thiếu vốn của xí nghiệp, nên thường nhượng bộ trong các điều kiện chuyển nhượng kỹ thuật. Từ đó dẫn đến xu hướng coi trọng tiền vốn, coi nhẹ kỹ thuật trong các doanh nghiệp FDI. Mặt khác, các nhà đầu tư nước ngoài khi đàm phán về hợp vốn thường đưa ra giá chuyển nhượng kỹ thuật quá cao, hơn nữa lại còn áp dụng phương thức chuyển giao từng phần, chuyển giao có điều kiện, kỹ thuật trong nước phát triển đến trình độ nào, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ chuyển nhượng đến mức độ đó, đồng thời thông qua bán sản phẩm để chiếm lĩnh thị trường Trung Quốc. Việt Nam hiện đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, chúng ta đang rất cần vốn và kỹ thuật, đặc biệt trong thời gian tới để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội như dự định chúng ta còn cần một lượng vốn FDI tương đối lớn khoảng 11 tỷ USD. Tuy nhiên không vì thế mà cho phép chúng ta nóng vội trong việc thu hút FDI. Chính phủ cần phải quán triệt rõ tư tưởng cho các Bộ, ngành có liên quan, đồng thời ban hành các qui định cụ thể về thu hút vốn & nhập công nghệ kỹ thuật, tránh tình trạng chỉ chú trọng thu hút vốn mà không quan tâm đến các vấn đề kỹ thuật, nghiêm cấm nhập công nghệ lạc hậu, công nghệ gây ô nhiễm môi trường. 8. Trong quá trình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phải coi trọng nguyên tắc chỉ đạo của thị trường, nắm bắt được nhu cầu của thị trường, có thị trường tiêu thụ mới đầu tư vào sản xuất, không đầu tư mù quáng khi không có thị trường tiêu thụ. Qua kinh nghiệm thu hút FDI của Trung Quốc ta thấy, bí quyết quan trọng nhất làm cho Trung Quốc thành công là do trong quá trình thu hút FDI, Trung Quốc đã coi trọng cao độ nguyên tắc và tác dụng chỉ đạo của kinh tế thị trường. Trung Quốc thực hiện thu hút FDI theo mô hình nhiều tầng nấc. Các chính sách thu hút FDI trước tiên sẽ được thử nghiệm ở một vài địa phương, sau đó sẽ được phát triển và áp dụng tuỳ theo nhu cầu cấp thiết của từng vùng. Do đó, khi được áp dụng ở đâu thì ngay lập tức phát huy tác dụng và đạt kết quả khả quan. Việt Nam mở cửa thu hút FDI sau Trung Quốc, tuy nhiên chúng ta chưa học tập được kinh nghiệm này của nước bạn. Thời gian qua, việc thu hút FDI ở Việt Nam được thực hiện một cách tràn lan, không có kế hoạch. Do đó, xuất hiện tình trạng một số dự án đã được cấp giấy phép nhưng phải ngừng hoạt động vì hoạt động không hiệu quả, hoặc do không phù hợp với nhu cầu thị trường. Một số thị trường đang thừa nhu cầu nhưng vẫn có dự án đầu tư, trong khi một số thị trường khác đang có nhu cầu thì lại không có dự án nào. Vì vậy, việc nghiên cứu thị trường để thu hút FDI sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam trong thời gian tới. Nó giúp chúng ta đưa ra các quyết định chính xác về chiến lược thu hút FDI, phù hợp với nhu cầu, điều kiện của từng vùng, từng địa phương. Thừa nhận tác dụng chỉ đạo của thị trường, chẳng những không phủ nhận tác dụng của quản lý nhà nước trong điều tiết vĩ mô mà nược lại coi điều tiết của thị trường là biện pháp cơ bản để bố trí tiền vốn FDI, nên việc tăng cường quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với thu hút FDI càng trở nên quan trọng. Tóm lại, sự lưu thông vốn quốc tế giống như một con đường tưới tiêu vận chuyển nước tưới ruộng. Có những thửa ruộng dù thấp và cần nước nhiều hơn nhưng không được khai thông nên dòng chảy không đến. Ngược lại, có những thửa ruộng con đường dẫn nước đến đó được khai thông tuy cần nước không nhiều nhưng dòng chảy vẫn đến. Do vậy, việc khai thông dòng chảy để thu hút FDI là vấn đề vô cùng quan trọng và cấp bách đối với chúng ta. Qua kinh nghiệm của người Trung Quốc, chúng ta có thể tìm ra con đường ngắn nhất, nhanh nhất để khai thông dòng chảy này. Dòng chảy này gắn chặt lợi ích đầu tư với sự phát triển kinh tế của chúng ta. Nếu được khai thông nó sẽ khiến cho thực lực kinh tế của chúng ta được tăng cường. Kết Luận Trải qua hơn 20 năm mở cửa thu hút FDI, đến nay có thể khẳng định Trung Quốc là một "ví dụ thành công" về thu hút FDI trên thế giới. Chính sách mở cửa thu hút FDI của Trung Quốc đã thu hút được sự chú ý của cả thế giới trong suốt hơn 2 thập kỷ qua bởi những thành tựu đáng kinh ngạc mà nó đã đạt được, đưa Trung Quốc từ một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu trở thành một nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới với sự hình thành và phát triển của hầu hết các ngành công nghiệp tiên tiến trên thế giới. Song quá trình đưa tiền vốn vào Trung Quốc cũng còn gặp nhiều khó khăn như: kết cấu ngành nghề chưa cân đối, hiệu quả chuyển nhượng kỹ thuật không lớn, thu hút FDI đã nhiều năm nhưng chưa tạo ra ngành nghề mũi nhọn, thiếu kinh nghiệm làm ăn với nước ngoài ... có những khó khăn không thể tránh khỏi, những cũng có những khó khăn có thể hạn chế được. Những bài học thành công, những khó khăn Trung Quốc còn gặp phải là những bài học cực kỳ quí báu đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Cũng giống như Trung Quốc, cải cách, mở cửa thu hút FDI là con đường tất yếu của Việt Nam cùng với công cuộc CNH - HĐH góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới. Thông qua thu hút FDI, Việt Nam gắn chặt lợi ích kinh tế đầu tư với sự phát triển kinh tế, khiến thực lực kinh tế được tăng cường, từ đó nâng cao địa vị quốc tế của mình. Mười lăm năm mở cửa thu hút FDI, Việt Nam cũng đã thu được thành công, song cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Tình hình kinh tế quốc tế đang tạo ra nhiều cơ hội cho Việt Nam tham gia vào môi trường cạnh tranh quốc tế, tuy nhiên những thách thức, khó khăn cũng không phải là ít. Qua nghiên cứu về những thành công, hạn chế trong thu hút FDI của Trung Quốc và thực trạng thu hút FDI ở Việt Nam thời gian qua cho thấy, nhờ có những tương đồng về hoàn cảnh và lịch sử phát triển, hai nước Việt- Trung cùng phải đối mặt với những vấn đề kinh tế quốc tế giống nhau, đồng thời đều thực hiện cải cách mở cửa với nội dung rất gần nhau, nên trong những năm qua Việt Nam đã phát huy tốt lợi thế của nước đi sau. Thông qua việc tìm hiểu, nghiên cứu những chính sách thu hút FDI của nước bạn, Việt Nam đã rút ra được bài học kinh nghiệm cho mình, đồng thời đưa được những chính sách thành công của Trung Quốc áp dụng vào điều kiện thực tế của nước ta. Bên cạnh đó ta cũng tìm ra được các giải pháp thu hút FDI phù hợp cho giai đoạn phát triển tới (giai đoạn 2001-2005) là: Trước hết, Nhà nước cần phải xây dựng được một chiến lược thu hút FDI phù hợp hơn với yêu cầu của nền kinh tế thị trường; Thứ hai, tăng cường quản lý và điều tiết vĩ mô của nhà nước đối với FDI, xây dựng thể chế lưu thông tiền tệ, thể chế thuế tài chính, thể chế đầu tư, thể chế ngoại thương theo nền kinh tế thị trường; Thứ ba, tạo ra một môi trường đầu tư ưu việt, thu hút FDI cần dựa vào pháp chế kiện toàn và quản lý hữu hiệu, dựa vào thị trường có sức thu hút, không nên dựa nhiều vào chính sách ưu đãi; Thứ tư, khuyến khích các doanh nghiệp trong nước có điều kiện vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với TNCs để phát triển công nghiệp dân tộc; Thứ năm, khuyến khích đầu tư của đồng bào Việt kiều; Thứ sáu, khuyến khích đầu tư của TNCs; Thứ bảy, thúc đẩy nhập công nghệ tiên tiến, không chấp nhận công nghệ lạc hậu, công nghệ gây ô nhiễm môi trường; Thứ tám, coi trọng nguyên tắc chỉ đạo của thị trường trong quá trình thu hút FDI. Trên đây là một vài giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa việc thu hút FDI vào Việt Nam trong thời gian tới. Trên thực tế, để có thể thu hút được nhiều hơn nữa vốn FDI vào Việt Nam thì còn cần phải có sự quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, sự mạnh bạo theo đuổi mục tiêu của các nhà lãnh đạo Việt Nam, sự linh hoạt mềm dẻo và sự sáng suốt trong tổng thể hệ thống các chính sách của Việt Nam. Với những điều kiện thuận lợi mà nền kinh tế thế giới đang mở ra cho Việt Nam, cùng với sự quyết tâm và những giải pháp, những chính sách phù hợp, chắc chắn trong thời gian tới lượng FDI vào Việt Nam sẽ tăng lên đáng kể, góp phần quan trọng vào công cuộc CNH-HĐH đất nước.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dochoan chinh.doc
  • docPhu luc.doc
  • docTrang bia.doc
Tài liệu liên quan