Khóa luận Cơ hội và thách thức đối với ngành dệt may Việt Nam khi tham gia WTO

Khó khăn chủ yếu của ngành dệt may Việt Nam trong giai đoạn chuẩn bị gia nhập WTO hiện nay và cả trong những năm trước mắt là tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Để mở rộng thị trường xuất khẩu, cần tiến hàng đồng bộ một số giải pháp sau: Đẩy mạnh công tác tìm hiểu thị trường, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức xúc tiến xuất khẩu nói chung và các nước thành viên nói riêng. Marketing và tìm hiểu thị trường đặc biệt quan trọng đối với sản phẩm dệt may do đặc điểm của nhóm hàng này là yêu cầu cao về sự phù hợp với các tiêu chuẩn xã hội, truyền thống văn hóa, xu hướng thời trang. Đã có nhiều doanh nghiệp quan tâm tới vấn đề này nhưng các hoạt động tìm hiểu thị trường thường vượt quá khả năng tài chính của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như hầu hết các doanh nghiệp may. Hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại như các tổ chức các đoàn đi khảo sát thị trường, tổ chức giới thiệu sản phẩm Việt Nam ở các nước thành viên WTO qua các hội chợ, triển lãm, cung cấp thông tin về thị trường cũng như các đặc điểm kinh tế, xã hội, qui định, luật pháp, chính sách thương mại, chế độ ưu đãi thuế quan cho các doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Trong các hoạt động này, các đại diện thương vụ tại các nước nhập khẩu đóng vai trò quan trọng. Việt Nam đã có thương vụ tại hầu hết các nước có quan hệ thương mại song phương thuộc WTO. Các đại diện thương mại có thể nắm bắt nhanh nhạy các nhu cầu diễn biến thị trường để thông tin kịp thời cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, đại diện thương mại nhìn chung khó có thể bao quát các vấn đề của từng ngành, vì vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động của thương vụ, cần có một đại diện của ngành tại thương vụ ở các thị trường xuất khẩu quan trọng nhất trong khối, nhằm: - Nắm bắt kịp thời các thay đổi về giá cả, tỷ giá, qui định hải quan, những chính sách thương mại, đầu tư của các nước nhập khẩu. - Tiếp cận kịp thời các biến động, các thay đổi về qui định, luật pháp, xu hướng thương mại, thuế quan của các thị trường nhập khẩu để từ đó định hướng cho thị trường xuất khẩu - Đánh giá khả năng xuất khẩu của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường để có đối sách thích hợp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam. Nghiên cứu, phát hiện các mặt hàng mới mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh để có chính sách sản phẩm xuất khẩu phù hợp. - Thúc đẩy sản xuất mẫu mốt, các mẫu chào hàng phong phú và sát thực tế thị trường - Giới thiệu nguyên liệu, phụ liệu, vải chất lượng cao do ta sản xuất được. Tuy số lượng chưa nhiều nhưng vẫn cần được thông tin, quảng cáo, tiếp cận và giới thiệu khách hàng. Các phụ liệu may của Việt Nam tự sản xuất được hiện đã theo kịp với chất lượng cao như chỉ may, tấm bông hoá học làm lót áo lạnh, cúc khoá kéo. cần được trưng bày tại phòng đại diện của Việt Nam - Tìm hiểu và tiếp cận với hệ thống phân phối sản phẩm dệt may của từng nước và giúp doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với các nhà nhập khẩu trực tiếp.

doc103 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1906 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Cơ hội và thách thức đối với ngành dệt may Việt Nam khi tham gia WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhận tham gia vào thị trường quốc tế tự do. ATC tạo điều kiện thâm nhập thị trường xuất khẩu cho một quốc gia, thì cũng tạo điều kiện cho nước xuất khẩu khác thâm nhập vào thị trường dệt may của quốc gia đó. Một nguyên tắc cơ bản không thể phủ nhận được là khi chúng ta được hưởng qui chế Tối huệ quốc, qui chế Đãi ngộ quốc gia hay bất cứ một ưu đãi nào khác thì chúng ta phải giành những ưu đãi đó cho các nước thành viên khác. Nghĩa là hàng hoá các nước vào nước ta dễ dàng hơn và cuộc cạnh tranh trên thị trường Việt Nam sẽ quyết liệt và gay gắt hơn, nhất là đối với các doanh nghiệp của chúng ta còn non nớt về nhiều mặt. Thị trường dệt may trong nước sẽ bị tấn công từ nhiều phía. Nếu hàng trong nước không đủ sức cạnh tranh ở thị trường trong nước thì việc chiến thắng ở thị trường nước ngoài là một hi vọng xa vời. Thứ hai, hiệp định ATC đã được các nước thực hiện nhưng thực tế nhiều nước đưa ra danh sách các mặt hàng để hội nhập vào GATT/WTO trong số đó, phần lớn không phải chủng loại vẫn chịu hạn ngạch và cũng không phải mọi thành viên đều được hưởng lợi ngay từ khi chương trình hoà nhập được đưa vào thực hiện. Có thể thấy rằng, sản phẩm thông thường vốn không phải chịu sự khống chế theo hạn ngạch đã được đưa vào trước tiên còn sự tham gia của các sản phẩm nhạy cảm hơn trong từng chủng loại bị trì hoãn, lý do đơn giản là các nước luôn chọn những sản phẩm ít nhạy cảm hơn để hoà nhập trước. Hơn nữa, có thể phải đến cuối giai đoạn hai, thậm chí là đầu giai đoạn ba, mới có sự tự do hoá thực sự trong trao đổi quốc tế hàng dệt may. Hơn nữa, hiệp định ATC vẫn cho phép các thành viên áp dụng cơ chế tự vệ để chống lại các nước xuất khẩu đơn lẻ nhằm ngăn chặn hoặc ngăn ngừa nguy cơ thiệt hại nghiêm trọng cho nền sản xuất trong nước, qui định này cũng có thể bị các nước nhập khẩu lợi dụng để đóng cửa thị trường. Điều đó rất bất lợi cho tất cả các nước xuất khẩu trong đó có Việt Nam. Thứ ba, thời kì chuyển tiếp ngắn hay dài sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các cơ hội kinh doanh hàng dệt may của chúng ta trên thị trường quốc tế. Khi được chấp nhận là thành viên của WTO thì ngành dệt may của Việt Nam sẽ được hoà nhập vào giai đoạn tiếp theo của chương trình hay sẽ phải chịu thời kỳ chuyển tiếp 10 năm theo hiệp định ATC. Thứ tư, hàng dệt may Việt Nam chưa có sức cạnh tranh nội tại, hơn nữa lại chủ yếu là gia công cho nước ngoài, mà ATC thì ưu tiên cho các nước tái nhập khẩu chứ không ưu đãi cho các nước nhận gia công. Điều 6 của ATC qui định: "Đối xử ưu đãi hơn sẽ được giành cho các sản phẩm dệt may do một thành viên tái nhập khẩu sau khi xuất khẩu sang một thành viên khác để gia công và tái nhập khẩu, như được xác định theo luật và thông lệ của thành viên nhập khẩu, và là đối tượng của kiểm soát đầy đủ và thủ tục xác nhận khi các sản phẩm này được nhập khẩu từ một thành viên mà phương thức thương mại này chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng xuất khẩu hàng dệt may". Cuối cùng, tác động của việc Trung Quốc được chấp nhận là thành viên chính thức của WTO đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới xuất nhập khẩu nói chung và xuất khẩu hàng dệt may nói riêng. Trung Quốc là một gã khổng lồ trong việc sản xuất hàng tiêu dùng. Hàng hoá của Trung Quốc có đặc điểm là giá cả thấp, mẫu mã đẹp, chất lượng chấp nhận được. Khi còn ở ngoài WTO, Trung Quốc cũng phải chịu đầy đủ những bất lợi do tính chất bảo hộ của các thị trường lớn như Mỹ, Nhật Bản và Tây Âu, tuy nhiên, khi đã trở thành thành viên chính thức của WTO, thì Trung Quốc được tự do tham gia vào thị trường hàng hoá thế giới, hưởng qui chế MFN cũng như những thuận lợi khác do các điều khoản của tổ chức này qui định. Hàng dệt may cũng là một trong những thế mạnh của Trung Quốc, lại có được những ưu đãi do hiệp định ATC mang lại, có thể coi như Trung Quốc đã hội đủ các điều kiện để chiếm lĩnh thị trường hàng tiêu dùng thế giới nói chung và hàng dệt may nói riêng. Thị trường thì không lớn lên, còn thị phần của Trung Quốc ngày càng tăng sẽ gây ra một kết quả tất yếu là sự khó khăn cho các nước xuất khẩu dệt may khác, trong đó có Việt Nam. Để cân bằng vị thế cạnh tranh hàng dệt may Việt Nam với Trung Quốc, chỉ có một cách là Việt Nam cũng trở thành thành viên của WTO, để được hưởng những qui chế ưu đãi như các quốc gia khác. Như vậy, trở thành thành viên của WTO hay không có ảnh hưởng rất lớn đến cơ hội phát triển của ngành dệt may Việt Nam. Gia nhập WTO, tham gia vào ATC sẽ mang lại cho ngành không chỉ những cơ hội mà còn rất nhiều thách thức, sẽ giúp ngành dệt may Việt Nam hoà mình vào nhịp sống chung của dệt may toàn cầu, có cơ hội để chiến đấu trên một sân chơi bình đẳng. Việt Nam cần phải có sự chuẩn bị những chiến lược phát triển nhằm nắm bắt được những cơ hội và hạn chế những khó khăn trong quá trình gia nhập, có sự kết hợp của các ngành, các cấp và từng doanh nghiệp, đồng thời từng bước bổ sung, sửa đổi luật pháp, các chính sách kinh tế cho phù hợp với yêu cầu của WTO và trình độ phát triển đất nước. Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong giai đoạn chuẩn bị gia nhập WTO Nghiên cứu ở hai chương I và II đã cho thấy rõ những cơ hội cũng như thách thức của ngành dệt may Việt Nam khi Việt Nam gia nhập WTO. Tuy nhiên, cho dù có bao nhiêu khó khăn và thách thức thì việc gia nhập WTO cũng đã được chứng minh là xu thế tất yếu. Để đón những cơ hội có được khi hoà mình vào môi trường chung của ngành trên toàn thế giới, ngành dệt may Việt Nam cần có sự chuẩn bị tốt về mọi mặt, dù là tham gia bất kì tổ chức nào, muốn vững vàng thì trước hết phải có năng lực thực sự, có cơ chế quản lý hiệu quả, có đội ngũ cán bộ công nhân viên kinh nghiệm, lành nghề, có công nghệ kỹ thuật tiên tiến, có thị trường nhập khẩu nguyên liệu và xuất khẩu thành phẩm ổn định... Để đạt được điều đó, cần có sự bổ sung và phát triển ngành may một cách toàn diện. Một số giải pháp nhằm phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam, được đề cập và phân tích kỹ ở chương này, sẽ phần nào đưa ra được hướng đi cho ngành dệt may Việt Nam trong giai đoạn chuẩn bị gia nhập WTO. I- chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến 2010 1- Triển vọng của ngành dệt may Kế hoạch 10 năm 2001 - 2010 của ngành dệt may Việt nam là kế hoạch mở đầu của thế kỷ 21 trong bối cảnh thế giới và khu vực tiếp tục biến đổi nhanh chóng trên nhiều mặt, cạnh tranh ngày càng quyết liệt. Đối với ngành dệt may, thị phần thế giới cơ bản đã "phân định", trong khi Việt nam là nước đi sau, năng lực sản xuất còn nhỏ bé, thiếu kinh nghiệm quản lý và thương trường. Các cường quốc xuất khẩu hàng dệt may có lợi thế hơn vì hầu hết đã là thành viên của tổ chức WTO, một thách thức to lớn nữa là Trung Quốc, một cường quốc số một về sản xuất và xuất khẩu dệt may mới đây đã trở thành thành viên của tổ chức này, điều này gây ra không ít bất lợi cho hoạt động xuất khẩu của ngành dệt may Việt nam. Đã thế, hàng kém phẩm chất không xuất khẩu được của Trung Quốc có khả năng sẽ được nhập lậu vào Việt Nam với số lượng lớn và giành giật thị trường nội địa của ta. Tuy nhiên, trong kỳ kế hoạch 10 năm 2001 - 2010 có thể dự báo một số thuận lợi cơ bản, mở ra cho ngành dệt may Việt Nam con đường đầy triển vọng để gia nhập WTO, như sau: Thứ nhất, sự ổn định về chính trị xã hội, cũng như sự khuyến khích phát triển được bộc lộ trong những qui định của pháp luật là nền tảng vững chắc tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp Thứ hai, trong bối cảnh nền kinh tế đang có đà phát triển tốt, ngành dệt may sẽ có nhiều triển vọng mở rộng qui mô và thu hút được đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. Năm 2001, với tốc độ tăng trưởng GDP 6,8%, Việt Nam được coi là nước có mức tăng trưởng GDP cao, đứng thứ hai trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương, sau Trung Quốc. Trong thời gian qua, Việt Nam đã thiết lập quan hệ thương mại với khoảng 130 quốc gia, mở rộng thị trường xuất khẩu, với đường lối chính sách đối ngoại đúng đắn, Việt Nam đã đạt được những cải thiện đáng kể trong quan hệ thương mại quốc tế nói chung và quan hệ thương mại dệt may nói riêng. Chính điều này là tạo điều kiện cho ngành dệt may Việt Nam hoà nhập và phát triển cùng ngành dệt may thế giới. Thứ ba, sau những năm cọ sát với thị trường thế giới, các doanh nghiệp Việt nam đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm, sản phẩm dệt may của ta đang dần được ưa chuộng ngay tại các thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật Bản... còn các thị trường truyền thống như SNG, Đông Âu, đã dần được khôi phục lại. Từng bước tiếp cận thị trường Mỹ tạo chỗ đứng chân để có thể khai thác qui mô lớn khi có đủ tiêu chuẩn. Thứ tư, trong Tổ chức thương mại thế giới WTO, Mỹ là một nhà đàm phán lớn đối với tất cả các quốc gia xin gia nhập. Cho nên việc ký kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ có thể được coi là thành công lớn nhất trong quá trình đàm phán song phương gia nhập WTO của Việt Nam. Mỹ lại là một thị trường đầy tiềm năng đối với ngành dệt may, hai bên cũng đang chuẩn bị các tiền đề để ký kết hiệp định dệt may Việt - Mỹ, khi hiệp định này được ký kết, chắc chắn ngành dệt may Việt Nam sẽ có thêm rất nhiều cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu dệt may thâm nhập sâu hơn vào thị trường rộng lớn này. Nói chung, thời điểm hiện nay là tốt nhất và hợp lý nhất cho nền kinh tế Việt Nam, trong đó có ngành dệt may, hoà nhập vào môi trường kinh doanh quốc tế, gia nhập vào WTO. Bởi lẽ, nếu không nắm bắt lấy cơ hội này thì các điều kiện để gia nhập WTO sẽ khó khăn hơn rất nhiều khi vòng đàm phán mới Dohar kết thúc (dự trù sẽ kết thúc vào năm 2005), nhiều cơ hội tốt sẽ qua đi... vì thế, Việt Nam phải cố gắng hết sức để được vào WTO trong vòng 3 năm tới nhằm tránh những điều kiện khó khăn hơn có thể đặt ra sau vòng đàm phán này. 2- Chiến lược phát triển của ngành dệt may đến năm 2010. Quyết định số 55/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ra ngày 23 tháng 4 năm 2001, phê duyệt chiến lược và một số chính sách hỗ trợ thực hiện Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010, có những nội dung chính sau đây: Mục tiêu: Phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu, thoả mãn ngày càng cao nhu cần tiêu dùng trong nước, tạo nhiều việc làm cho xã hội, nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới. 2.1- Chiến lược chung Đối với ngành dệt, bao gồm: sản xuất nguyên liệu dêt, sợi, dệt, in nhuộm hoàn tất Kinh tế nhà nước làm nòng cốt, giữ vai trò chủ đạo, khuyến khích các thành phần kinh tế, kể cả đầu tư trực tiếp của nước ngoài tham gia phát triển lĩnh vực này. Đầu tư phát triển phải gắn với bảo vệ môi trường, qui hoạch xây dựng các cụm công nghiệp sợi, dệt, in nhuộm hoàn tất ở xa các trung tâm đô thị lớn. Tập trung đầu tư trang thiết bị hiện đại, công nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến, trình độ chuyên môn hoá cao. Chú trọng công tác thiết kế các sản phẩm dệt mới, nhằm từng bước củng cố vững chắc uy tín nhãn mác hàng dệt Việt Nam trên thị trường quốc tế. Tổ chức lại hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, tạo bước nhảy vọt về chất lượng, tăng nhanh sản lượng các sản phẩm dệt, nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Đối với ngành may Đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá những doanh nghiệp may mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển ngành may, nhất là ở các vùng đông dân cư, nhiều lao động Đẩy mạnh công tác thiết kế mẫu thời trang, kiểu dáng sản phẩm may, tập trung đầu tư, cải tiến hệ thống quản lý sản xuất, quản lý chất lượng, áp dụng các biện pháp tiết kiệm nhằm tăng nhanh năng suất lao động, giảm giá thành sản xuất và nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế. Đẩy mạnh đầu tư phát triển các vùng trồng bông, dâu tằm, các loại cây có xơ, tơ nhân tạo, các loại nguyên liệu, phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm cung cấp cho ngành dệt may nhằm tiến tới tự túc phần lớn nguyên liệu, vật liệu và phụ liệu thay thế nhập khẩu. Khuyến khích mọi hình thức đầu tư, kể cả đầu tư nước ngoài, để phát triển cơ khí dệt may, tiến tới cung cấp phụ tùng, lắp ráp và chế tạo thiết bị dệt may trong nước. 2.2- Một số chỉ tiêu cụ thể Sản xuất Đến năm 2005, sản phẩm chủ yếu đạt: Bông xơ 30.000 tấn, xơ sợi tổng hợp 60.000 tấn, sợi các loại 150.000 tấn, vải lụa thành phẩm 800 triệu mét vuông, dệt kim 300 triệu sản phẩm, may mặc 780 triệu sản phẩm Đến năm 2010, sản phẩm chủ yếu đạt: Bông xơ 80.000 tấn, xơ sợi tổng hợp 120.000 tấn, sợi các loại 300.000 tấn, vải lụa thành phẩm 1.400 triệu mét vuông, dệt kim 500 triệu sản phẩm, may mặc 1.500 triệu sản phẩm Kim ngạch xuất khẩu Đến năm 2005: 4.000 đến 5.000 triệu đô la Mỹ Đến năm 2010: 8.000 đến 9.000 triệu đô la Mỹ Sử dụng lao động Đến năm 2005: Thu hút 2,5 đến 3,0 triệu lao động Đến năm 2010: Thu hút 4,0 đến 4,5 triệu lao động Tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên phụ liệu nội địa trên sản phẩm dệt may xuất khẩu Đến năm 2005: Trên 50% Đến năm 2010: Trên 75% Vốn đầu tư phát triển Tổng vốn đầu tư phát triển ngành dệt may Việt Nam giai đoạn 2001-2005 khoảng 35.000 tỷ đồng, trong đóm Tổng Công ty Dệt May Việt Nam khoảng 12.500 tỷ đồng. Tổng vốn đầu tư phát triển ngành dệt may Việt Nam giai đoạn 2006-2010 khoảng 30.000 tỷ đồng, trong đó Tổng Công ty Dệt May Việt Nam khoảng 9.500 tỷ đồng Tổng vốn đầu tư phát triển vùng nguyên liệu trồng bông đến năm 2010 khoảng 1.500 tỷ đồng II- Một số giải pháp nhằm phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong giai đoạn chuẩn bị gia nhập WTO 1- Các chính sách vĩ mô từ phía Nhà nước 1.1- Chính sách về đầu tư phát triển Quan điểm chung là đầu tư phải được tính toán trên phạm vi toàn ngành đặt trong bối cảnh chuẩn bị gia nhập WTO, tập trung cho ngành dệt và sản xuất tiêu thụ may, đầu tư chọn lọc theo mặt hàng có thế mạnh nhằm tạo khả năng liên kết, hợp tác và khai thác tốt hơn năng lực thiết bị. Ngành dệt đòi hỏi vốn đầu tư lớn, cần có chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này, đặc biệt là khâu nhuộm và khâu hoàn tất. Ưu tiên các dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài trong ngành dệt. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án sản xuất nguyên phụ liệu may. Ưu tiên các dự án sản xuất các sản phẩm trong nước chưa sản xuất được và sản phẩm xuất khẩu không bị áp dụng hạn ngạch. Đầu tư của nhà nước tập trung cho các công trình trọng điểm như các xí nghiệp dệt - nhuộm - hoàn tất có qui mô lớn, sản xuất các sản phẩm phù hợp với tiêu chuẩn xuất khẩu trong các nước WTO. Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá ngành may nhằm tự túc nguồn vốn sản xuất kinh doanh, phát triển lĩnh vực này và lực chọn cổ phần hoá một số xí nghiệp dệt nhằm hoàn thiện hệ thống doanh nghiệp dệt may để đáp ứng yêu cầu của WTO. Nghiên cứu qui mô đầu tư thích hợp với đặc thù hoạt động của doanh nghiệp. Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào lĩnh vực dệt may. Đặc biệt ưu tiên đầu tư nước ngoài vào ngành, với mọi hình thức đầu tư, khuyến khích phía nước ngoài góp vốn bằng công nghệ, kỹ thuật, máy móc thiết bị hiện đại, các bí quyết kỹ thuật... Có chính sách ưu đãi và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chú trọng tới vấn đề đào tạo chuyên sâu và đào tạo nâng cao cho công nhân và cán bộ ngành dệt may. Ngành dệt là ngành đầu tư đòi hỏi nguồn vốn rất lớn, khả năng thu hồi vốn chậm nên các doanh nghiệp rất ngại đầu tư vào lĩnh vực này, do đó Nhà nước cần có chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào ngành dệt dưới mọi hình thức, hình thức được sử dụng từ trước tới nay vẫn là liên doanh và 100% vốn nước ngoài. Thành lập một quỹ đầu tư riêng cho ngành dệt, quỹ này sẽ được sử dụng để hiện đại hoá và xây mới các nhà máy dệt, cũng như trang bị đồng bộ các thiết bị máy móc hiện đại; để thực hiện các khoá huấn luyện đào tạo thêm cho các cán bộ công nhân ngành dệt; để mua các dây chuyền sản xuất đã được sử dụng và thành công ở các nước tiên tiến trên thế giới...,có chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp may có tỷ lệ nội địa hoá cao, sử dụng nguyên vật liệu trong nước. Thu hút sự trợ giúp của các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức môi trường thế giới cho sản phẩm xanh và sạch, với mục đích dần cải tiến công nghệ dệt nhuộm của Việt Nam phù hợp với các quy định của ISO 9000 và ISO 14000, bởi lẽ, những điều kiện rất khắt khe về bảo vệ môi trường sẽ được đặt ra khi hàng dệt may của Việt Nam xâm nhập vào các thị trường khó tính như Mỹ, EU... Với ngành may, hiện đang có nhiều quan điểm cho rằng ngành may đã dư thừa trong khi thị trường tiêu thụ đang gặp khó khăn, bên cạnh đó, các doanh nghiệp dệt may không đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Vì vậy nên hạn chế đầu tư nước ngoài vào ngành này để giảm sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp may có vốn đầu tư nước ngoài thường có ưu thế hơn về vốn, công nghệ cũng như khả năng tiếp cận thị trường so với các doanh nghiệp nội địa. Nhưng theo tác giả, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và lĩnh vực may vẫn cần thiết nếu chúng ta muốn có một ngành công nghiệp may thực sự hướng tới xuất khẩu. Các sản phẩm may của các doanh nghiệp này, với các ưu thế về công nghệ, nguyên liệu, mẫu mã sẽ mở đường cho sản phẩm với nhãn hiệu hàng hoá của Việt Nam trên trường thế giới. Tuy nhiên, nên tập trung vào các mặt hàng mới, phức tạp mà các doanh nghiệp trong nước hiện chưa sản xuất được cũng như ưu tiên phân bổ hạn ngạch xuất khẩu sang EU cho các doanh nghiệp trong nước, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tìm thị trường phi hạn ngạch. 1.2- Chính sách về thị trường Xét trên quan điểm ngành dệt may, thì gia nhập WTO để mở rộng thị trường xuất khẩu dệt may, và mở rộng thị trường xuất khẩu dệt may để đẩy mạnh quá trình gia nhập WTO. Phát triển thị trường xuất khẩu theo phương châm đa phương hoá, đa dạng hoá, bên cạnh việc duy trì và củng cố các thị trường truyền thống như EU, Nhật Bản cần sớm khôi phục lại các thị trường SNG và Đông Âu, phát triển các thị trường mới như Mỹ, Canada, Trung Đông và tiến tới giảm bớt sự phụ thuộc vào thị trường các nước Đông Nam á Tăng cường vai trò các tổ chức xúc tiến thương mại của Nhà nước, hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác marketing. Song song với việc tìm hiểu, cung cấp các thông tin về thị trường, giá cả, đặc điểm về kinh tế - văn hoá - xã hội cũng như bản sắc, truyền thống dân tộc của các quốc gia cần phải có những chính sách tiếp cận, khai thông và phát triển với từng thị trường cụ thể, trước hết là các thị trường xuất khẩu nhiều tiềm năng đã nêu trên. Có chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may, đặc biệt là các doanh nghiệp tự tìm được thị trường xuất khẩu phi hạn nghạch, tạo điều kiện về mặt thủ tục giấy tờ, giúp các doanh nghiệp tháo gỡ các khó khăn về mặt pháp lý khi tham gia vào một thị trường mới, với những luật lệ mới. Có các ưu đãi về thuế cho các doanh nghiệp sử dụng nguyên vật liệu trong nước. Không chỉ chú trọng và mở rộng thị trường xuất khẩu, nhà nước cũng cần có các biện pháp thúc đẩy các doanh nghiệp dệt may chiếm lĩnh lại thị trường nội địa, bấy lâu nay đã dành một thị phần lớn cho các loại sản phẩm dệt may từ Trung Quốc với ưu thế là giá thành hạ và mẫu mã phong phú. Trong bối cảnh hội nhập toàn thế giới, Việt Nam đã là thành viên của một số tổ chức, hiệp hội kinh tế quốc tế, lại đang nỗ lực để trở thành thành viên chính thức của WTO, nên những biện pháp bảo hộ kể cả thuế quan và phi thuế quan đều phải dần hạn chế. Chính vì thế mà không còn cách nào khác, để đứng vững trên thị trường nước ngoài cũng như nội địa, ngành dệt may cần cạnh tranh và chiến thắng bằng chính chất lượng vượt trội của mình. Đây mới chính là giải pháp lâu dài cho ngành dệt may nói chung và thị trường hàng dệt may nói riêng. 1.3- Chính sách về nguyên liệu Có qui hoạch phát triển vùng nguyên liệu các loại tơ sợi thiên nhiên cho ngành dệt và các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển vùng nguyên liệu, tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho sự phát triển của ngành dệt, đồng thời đặt cơ sở cho sự hình thành ngành sản xuất sợi hóa học. Kết hợp với ngành sản xuất hoá chất để cung ứng thuốc nhuộm và các hoá chất khác cho ngành dệt. Khuyến khích đầu tư cho sản xuất phụ liệu cũng như sản xuất vải đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, giảm bớt sự phụ thuộc của ngành may vào nguồn nguyên phụ liệu nhập ngoại. Đồng thời xây dựng hệ thống các chính sách như chính sách thuế, hàm lượng nội địa của sản phẩm xuất khẩu để khuyến khích sử dụng nguyên phụ liệu trong nước. Ta cũng biết rằng khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ có lợi thế về nguyên phụ liệu sẽ được nhập khẩu với giá rẻ hơn do mức thuế phải trả giảm xuống, nhưng không vì thế mà ta dựa hoàn toàn vào nguồn nguyên phụ liệu ngoại nhập, mặt khác, phải tăng hàm lượng nội địa của một sản phẩm dệt may xuất khẩu, có thế mới phát huy hết các lợi thế khi gia nhập WTO. 1.4- Chính sách về phát triển sản phẩm Nâng cao hiệu quả và chất lượng hàng may gia công, tạo dựng và củng cổ uy tín trên thị trường thế giới, đồng thời tạo lập cơ sở để chuyển dần sang xuất khẩu trực tiếp sản phẩm theo đơn đặt hàng, tiến tới xuất khẩu sản phẩm dưới nhãn mác của doanh nghiệp Việt Nam. Có chính sách hỗ trợ, khuyến khích đầu tư cho khâu thiết kế và sản xuất hàng mẫu, đầu tư đào tạo đội ngũ cán bộ đủ khả năng thiết kế mẫu mã đồng thời hỗ trợ, khuyến khích đầu tư cho khâu thiết kế và sản xuất hàng mẫu, đầu tư đào tạo đội ngũ cán bộ đủ khả năng thiết kế mẫu mã đồng thời hỗ trợ cho công tác đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, tạo điều kiện đưa các sản phẩm với tên hiệu Việt Nam ra thị trường thế giới. Ngày 31/12, một hội nghị của Tổng công ty dệt may Việt Nam với một số công ty dệt may khác trong toàn quốc đã được tổ chức, bàn về 4 giải pháp để năm 2003 đạt giá trị sản xuất công nghiệp tăng từ 17 đến 18%, kim ngạch xuất khẩu tăng 18 - 20% so với thực hiện năm 2001. Hội nghị đã đi đến các giải pháp cụ thể sau: Trước hết, cần tập trung đầu tư, nâng cao chất lượng sản phẩm từ khâu nguyên liệu, vải, phụ liệu... trong đó then chốt là vấn đề đầu tư phát triển ngành dệt, tạo ra sản phẩm vải chất lượng cao, phục vụ may xuất khẩu. Triển khai nhanh các dự án, tại các khu công nghiệp dệt - may, phát triển cây bông và triển khai xây dựng áp dụng tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9000, quản lý môi trường theo ISO 14000, hệ thống trách nhiệm xã hội SA 8000; đồng thời, nâng cao hiệu quả hoạt động của các viện, gắn các đề tài nghiên cứu với sản xuất. Đầu tư cho cơ khí, quy hoạch mở rộng vùng trồng bông, nâng cấp các trung tâm phân loại, chế biến, tạo ra các giống bông mới thích hợp. Hai là, tập trung khai thác thị trường Mỹ, phát huy hiệu quả của văn phòng đại diện và xây dựng đề án trung tâm bán lẻ, bán buôn tại Mỹ. Khai thác hiệu quả các thị trường xuất khẩu hiện có và mở văn phòng đại diện tại Nhật Bản, EU, SNG, Đông Âu... Tập trung phát triển các loại sản phẩm có giá trị cao, có nhu cầu thị trường, mỗi doanh nghiệp tạo ra các sản phẩm mũi nhọn có sức cạnh tranh. Ba là, tập trung các nguồn vốn vay ưu đãi đầu tư của Chính phủ, huy động các nguồn vốn vay, tiếp tục tháo gỡ vướng mắc cho các đơn vị khó khăn về tài chính. Bốn là, tiếp tục sắp xếp doanh nghiệp hoạt động theo mô hình mẹ - con, đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, và cải tiến tổ chức quản lý sản xuất để tăng năng suất lao động cơ 20% so với hiện nay. 1.5- Chính sách phát triển khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ Thực hiện chính sách "hai tầng công nghệ" - công nghệ cao, đòi hỏi nhiều vốn, nhằm sản xuất các mặt hàng cao cấp, rút ngắn khoảng cách về trình độ công nghệ dệt may với các nước tiên tiến, kết hợp với công nghệ ít vốn, sử dụng nhiều lao động và giải quyết việc làm, thích hợp với những cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ và vừa, tạo ra các sản phẩm với giá thành hạ, đảm bảo tính cạnh tranh về giá của sản phẩm xuất khẩu. Ưu tiên cho đầu tư công nghệ thiết kế trên máy vi tính với các dự án sản xuất sản phẩm mới theo hệ thống quản lý chất lượng TQM, ISO 9.000, ISO 14.000. Triển khai và tăng cường hiệu quả của Hợp tác Công nghiệp ASEAN (AICO) nhằm thu hút công nghệ mới trong khu vực và hợp tác phát triển sản phẩm, nhãn hiệu hàng hoá, phát huy thế mạnh của mỗi nước trong hợp tác kinh tế. Tăng cường áp dụng các thành tựu khoa khọc về nguyên liệu mới, về vật liệu mới, về công nghệ và thiết bị, tận dụng phế liệu dệt trong lĩnh vực vải không dêtj, tận dụng phế liệu tơ tằm để kéo sợi Spunsilk, nâng cao công suất kéo sợi OE. Phải sớm có công nghệ kéo sợi pha len/arylic cho mặt hàng Veston complet, nâng tỷ trọng mặt hàng mới trong lĩnh vực nghiên cứu sử dụng nguyên liệu mới Microfibre cho vải Jacket, Tissu giả len, giả tơ tằm, sợi Lycra, Spandex có độ đàn tính cao cho mặt hàng dệt kim thể thao, bít tất phụ nữ. Đầu tư công nghệ sản xuất hàng dệt kim cotton OE 100% nhằm phục vụ mục tiêu xuất khẩu sang thị trường Mỹ, phù hợp với yêu cầu về qui trình ráp sản phẩm chất lượng và kiểu dáng đáp ứng đúng thị hiếu của thị trường này. Đặc biệt trong lĩnh vực tạo mốt, các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều bỡ ngỡ chưa có nhiều hiểu biết về yêu cầu thị hiếu của từng thị trường EU, Mỹ, Nhật Bản nên cần sớm có kế hoạch hợp tác với các Viện mốt hoặc thuê chuyên gia thiết kế mốt người nước ngoài để rút ngắn quá trình thâm nhập thị trường. 1.6- Chính sách về tổ chức quản lý Khắc phục những bất cập trong công tác quản lý xuất nhập khẩu, các chính sách tài chính, thuế, vốn, ưu đãi đầu tư, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính rườm rà đang gây nhiều trở ngại cho các nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nhằm tạo một môi trường thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp, tạo thế mạnh trong thu hút đầu tư nước ngoài thông qua hệ thống chính sách hợp lý, thông thoáng. Tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp dệt may trên phạm vi cả nước theo phương châm gắn vùng công nghiệp với vùng nguyên liệu, công nghiệp may với các trung tâm tiêu thụ, xuất khẩu. Cụ thể như sau: Gắn vùng công nghiệp dệt may với các ngành công nghiệp khác nhau, nhằm tận dụng lao động, mối quan hệ liên ngành. Gắn các công trình mới về kéo sợi và dệt vải tổng hợp với khu vực qui hoạch của Nhà nước về dầu khí, các công trình chế biến kéo sợi dệt tơ tằm với vùng nguyên liệu dâu tằm. Gắn công nghiệp dệt may vào các vùng trung tâm dân cư để vừa tận dụng lao động tại chỗ, vừa tận dụng điều kiện cơ sở hạ tầng giao thông, dịch vụ, văn hoá, liên lạc viễn thông, vận chuyển. Gắn công nghiệp dệt may qui mô nhỏ, xí nghiệp cổ phần, xí nghiệp tư nhân và các hộ cá thể với vùng làng nghề truyền thống để phát huy mọi khả năng của các thành phần kinh tế cùng tham gia phát triển ngành dệt may Việt Nam. Gắn công nghiệp dệt may thành khu công nghiệp liên hoàn nguyên liệu, sợi, dệt, nhuộm, may, dịch vụ nhằm giảm chi phí vận chuyển nguyên liệu, sản phẩm nâng cao một bước công nghiệp hóa và có điều kiện gọi vốn nước ngoài. 1.7- Chính sách về lao động, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích và thu hút các học sinh có khả năng theo học ngành công nghiệp dệt may, khắc phục tình trạng thiếu kỹ sư dệt may trầm trọng đang diễn ra và có thể còn kéo dài trong vài năm tới. Đầu tư cho các trường dậy nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu sản xuất theo dây chuyền hiện đại, nhằm đào tạo đội ngũ công nhân có tay nghề cao, thực sự trở thành thế mạnh về nhân lực của ngành dệt may Việt Nam. Ưu tiên đào tạo các chuyên gia về thiết kế thời trang và marketing, khắc phục điểm yếu cơ bản của ngành may xuất khẩu trong khâu thiết kế mẫu mốt và xúc tiến thị trường, từng bước tạo lập cơ sở để chuyển sang xuất khẩu trực tiếp các sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam. Đồng thời, có chính sách hỗ trợ bảo đảm việc làm, tạo nguồn thu nhập ổn định cho người lao động, khắc phục tình trạng thiếu lao động do các kỹ sư công nghệ và công nhân có tay nghề cao bị hút sang các công ty liên doanh đang ngày càng trở nên phổ biến trong ngành dệt may. 2- Một số giải pháp phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong giai đoạn chuẩn bị gia nhập WTO 2.1- Nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu 2.1.1- Cải thiện chất lượng sản phẩm Ưu thế của sản phẩm may xuất khẩu Việt Nam so với nhiều nước đang phát triển khác là chất lượng cao và giao hàng đúng. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhất là sau 2005, khi hạn ngạch và các hàng rào phi thuế quan khác được bãi bỏ, thị phần của mỗi nước xuất khẩu phụ thuộc chủ yếu vào khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Đối với hàng may mặc, các biện pháp cạnh tranh phi giá cả, trước hết là cạnh tranh về chất lượng hàng hoá, trong rất nhiều trường hợp, trở thành yếu tố quyết định trong cạnh tranh. Các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm bao gồm: Kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên phụ liệu, tạo bạn hàng cung cấp nguyên phụ liệu ổn định, đúng thời hạn. Cần lưu ý rằng nguyên liệu sợi vải là những mặt hàng hút ẩm mạnh, dễ hư hỏng, nên phải bảo quản tốt nguyên phụ liệu, tránh để xuống phẩm cấp. Tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của bên đặt hàng về nguyên phụ liệu, công nghệ, qui trình sản xuất theo đúng mẫu hàng và tài liệu kỹ thuật bên đặt hàng cung cấp về mã hàng qui cách kỹ thuật, nhãn mác, đóng gói bao bì. Tuân thủ đúng qui kiểm tra chất lượng trước khi xuất khẩu. Hiện nay nhiều khách hàng nhập khẩu hàng dệt may đã yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam thực hiện PSI (giám định hàng hoá bến đi - Pre Shipment Inspection). Đây là biện pháp hữu hiệu để bảo đảm chất lượng cũng như các tiêu chuẩn khác của sản phẩm, cho phép khắc phục các thiếu sót của lô hàng ngay tại nơi cung cấp và giúp tiết kiệm chi phí và thời gian thông quan tại cảng đến (chứng thư PSI cho phép hàng nhập khẩu được ưu tiên vào cửa xanh của hải quan nước nhập khẩu, nhưng Việt Nam chưa có yêu cầu triển khai PSI với hàng nhập khẩu). Trong tương lai gần, ngành dệt may cần phối hợp với cơ quan hải quan để tổ chức tốt dịch vụ này, đồng thời yêu cầu PIS với nguyên phụ liệu và trang thiết bị nhập khẩu, bảo đảm chất lượng đầu vào của sản phẩm. Để đảm bảo chất lượng hàng xuất khẩu, giữ uy tín trên thị trường thế giới, một hệ thống kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với hàng xuất khẩu là một biện pháp cần thiết và dần dần sẽ trở thành không thể thiếu. Có thể tham khảo hệ thống quản lý chất lượng hàng hoá xuất khẩu của Đài Loan được thực hiện theo cách phân các doanh nghiệp theo các nhóm phải kiểm tra đột xuất (nhóm A), kiểm tra định kỳ (nhóm B) và kiểm tra bắt buộc (nhóm C), có sự điều chỉnh giữa các nhóm theo kết quả kiểm tra thực tế từng giai đoạn. Hệ thống này đi vào hoạt động đã mang lại hiệu quả đáng kể giúp nâng cao chất lượng và uy tín của hàng hoá, đây là một cách làm đáng để Việt Nam học hỏi và áp dụng một cách sáng tạo phù hợp với điều kiện của mình. 2.1.2- Khai thác lợi thế về xuất khẩu các sản phẩm truyền thống Các sản phẩm của làng nghề truyền thống như: tơ thô, lụa tơ tằm, gấm, lụa vân, các sản phẩm thêu tay, các sản phẩm may mặc từ lụa tơ tằm... thu hút được sự chú ý của thị trường thế giới, các sản phẩm này lại thuộc nhóm hàng có nhu cầu ngày càng cao trong khi nguồn cung cấp rất hạn chế với lý do không nhiều nước có khả năng sản xuất các mặt hàng này. Việt Nam đặc biệt có lợi thế trong sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm truyền thống, mang đậm bản sắc dân tộc được thừa hưởng từ nền văn hoá "trồng dâu nuôi tằm", lại có lợi thế về lực lượng lao động hoạt động trong lĩnh vực này. Để có thể khai thác lợi thế về sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm truyền thống thông qua trợ giúp về vốn và kỹ thuật, kết hợp với kỹ thuật hiện đại với kinh nghiệm truyền thống, tìm kiếm thị trường xuất khẩu và hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm . 2.1.3- Đảm bảo yêu cầu về giao hàng Giao hàng đúng hạn là yêu cầu rất quan trọng với sản phẩm dệt may do yếu tố thời vụ và hợp thời trang là một trong những yếu tố quyết định về tính cạnh tranh của nhóm hàng này, vì vậy cần: Chủ động trong vận chuyển, bốc dỡ hàng hoá Phân bổ các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu ở các khu vực thuận lợi cho giao hàng xuất khẩu Đơn giản hóa khâu làm thủ tục xuất nhập khẩu. Hàng dệt may được đánh giá khá cao trên thị trường Mỹ nhờ giao hàng đúng hạn. Thị trường Mỹ có đòi hỏi rất khắt khe về điều khoản này, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ phải cạnh tranh với các nước NAFTA, những nước có ưu thế về địa lý, điều kiện chuyển tải, giao hàng cũng như các ưu đãi về thủ tục nhập cảnh, giữ được ưu thế về giao hàng. Đây là nhiệm vụ khó khăn nhưng vô cùng cần thiết. 2.2- Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 2.2.1- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống sản xuất Do đặc thù của các doanh nghiệp dệt may phần lớn và các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tổ chức sản xuất có hiệu quả cao nhưng có thể gặp khó khăn trong tìm kiếm thị trường và giao dịch xuất khẩu. Giải pháp cho vấn đề này có thể là hình thức tổ chức sản xuất liên kết dọc theo kiểu vệ tinh. Đó là mô hình một công ty mẹ với nhiều công ty vệ tinh cùng sản xuất một loại sản phẩm. Công ty mẹ sẽ chịu trách nhiệm đặt hàng và cung ứng nguyên phụ liệu cho các công ty con, sau đó thu gom và xuất khẩu dưới nhãn hiệu của một công ty lớn, đảm bảo về thị trường tiêu thụ ổn định. Hình thức tổ chức này cũng có thể là giải pháp cho vướng mắc hiện nay của các doanh nghiệp nhỏ khi chế độ đấu thầu hạn ngạch được áp dụng. Công ty mẹ sẽ đứng ra đấu thầu và phân bổ hạn ngạch cho các vệ tinh của mình. Quan hệ mật thiết hơn giữa công ty mẹ và các vệ tinh có thể là hình thức thay thế tốt hơn cho hình thức xuất khẩu uỷ thác hiện đang được áp dụng ở một số doanh nghiệp may xuất khẩu. Nó cũng cho phép gom những lô hàng lớn, thuận tiện hơn cho người nhập khẩu, đồng thời giảm được chi phí về thủ tục xuất khẩu 2.2.2- Tìm kiếm thị trường Tổ chức và tham gia các hội chợ triển lãm hàng dệt may, nghiên cứu khảo sát thị trường, bạn hàng và học hỏi kinh nghiệm sản xuất kinh doanh, quản lý tiên tiến, học tập kinh nghiệm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp các nước có ngành dệt may phát triển. Nâng cao vai trò Hiệp hội ngành dệt may trong tổ chức xúc tiến xuất khẩu, phối hợp giữa lĩnh vực dệt và may 2.2.3- Nâng cao hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp Khắc phục các tồn tại trong tổ chức sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Xây dựng hệ thống sản xuất phân đoạn hợp lý, chặt chẽ, giảm các công đoạn thừa, giáo dục ý thức trách nhiệm cho người công nhân đối với chất lượng sản phẩm, ý thức về giảm chi phí giá thành và nâng cao năng suất lao động đến từng người lao động 2.3- Thu hút vốn đầu tư và sử dụng hiệu quả nguồn vốn Sau năm 2005, sản phẩm dệt may sẽ phải hoà nhập theo các nguyên tắc chung của WTO, một mặt tạo ra những thuận lợi mới cho các nước xuất khẩu, mặt khác đặt ra những thử thách lớn đối với các nước mà sức cạnh tranh của sản phẩm còn thấp. Vì vậy để có chiến lược đầu tư đúng đắn, có hiệu quả, thứ nhất cần đi theo hướng đầu tư thêm thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng sản phẩm đủ sức cạnh tranh, thứ hai, tăng cường đầu tư chiều sâu, chỉ giữ lại sản phẩm truyền thống có khả năng hoà nhập là những hướng đầu tư cần quan tâm trong điều kiện vốn đầu tư hạn hẹp. Để tạo nguồn vốn và tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, cần: Phát huy vai trò của Tổng Công ty Dệt may và Hiệp hội dệt may trong các hoạt động hỗ trợ tài chính, làm đầu mối xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp nhỏ và giải quyết các vấn đề mà từng doanh nghiệp nhỏ không giải quyết được, tìm kiếm, mở rộng thị trường, tổ chức triển lãm, hội chợ, giới thiệu sản phẩm trong và ngoài nước, giao dịch mua bán chuyển giao công nghệ, mẫu mốt sản phẩm, nhãn hiệu hàng hoá, cung cấp thông tin thị trường. Công ty tài chính cần trở thành các đầu mối thu hút vốn và cân đối nhu cầu vốn của các đơn vị dệt may. Đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp. Cổ phần hoá doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp dệt may, không chỉ là các giải pháp cơ bản nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư từ trong nước mà còn là giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Theo đánh giá của ban quản lý doanh nghiệp trung ương, các doanh nghiệp đã chuyển thành công ty cổ phần đều hoạt động có hiệu quả với mức vốn, doanh thu lợi nhuận sau thuế và nộp ngân sách cao gấp 2 - 3 lần so với trước đó. Để đẩy nhanh cổ phần hoá ngành may, cần thực hiện các biện pháp giải quyết các vướng mắc đang làm chậm tiến trình này như những bất cập trong đánh giá tài sản doanh nghiệp, trong chính sách đối với các đối tượng mua cổ phần, hiện tượng phân biệt đối xử trong quyền được hưởng các ưu đãi như được vay vốn tại Ngân hàng và các tổ chức tín dụng Nhà nước giưac các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp đã cổ phần hoá hiện vẫn còn tồn tại ở các địa phương. Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đối với ngành dệt đòi hỏi có nguồn vốn đầu tư lớn, cần có chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài dưới mọi hình thức, như các xí nghiệp liên doanh, cổ phần hay 100% vốn nước ngoài. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực may mặc vẫn cần thiết nếu chúng ta muốn có một ngành công nghiệp may thực sự hướng tới xuất khẩu. Các sản phẩm may của các doanh nghiệp hướng tới xuất khẩu, với các ưu thế về công nghệ, nguyên liệu, mẫu mã sẽ mở đường cho sản phẩm may với nhãn hiệu hàng hoá của Việt nam trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, nên tập trung vào đầu tư các mặt hàng mới, phức tạp mà các doanh nghiệp trong nước hiện chưa sản xuất được, cũng như ưu tiên phân bổ hạn ngạch sang EU cho các doanh nghiệp trong nước, khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài tìm thị trường phi hạn ngạch. Thu hút sự trợ giúp của các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức môi trường thế giới cho sản phẩm công nghiệp xanh và sạch. Hiện các doanh nghiệp dệt đang rất khó khăn trong tìm nguồn vốn để thay đổi công nghệ dệt nhuộm theo các quy định ISO 9.000 và ISO 14.000. Kinh nghiệm tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức môi trường của các nước quan tâm nhiều đến vấn đề này như Hà Lan, Đức, ấn Độ, Canada, Niu Dilân... mà các nước xuất khẩu sản phẩm dệt trong khu vực đã áp dụng là một kinh nghiệm tốt cho Việt nam trong việc giải quyết vấn đề này. Lựa chọn qui mô đầu tư. Phát triển ngành may dưới hình thức các doanh nghiệp vừa và nhỏ như hiện nay là một xu hướng hợp lý. Chỉ có các doanh nghiệp kéo sợi, dệt, nhuộm hoàn tất là nên tổ chức sản xuất theo qui mô lớn. Các nhà máy dệt có qui mô lớn, trang bị đồng bộ mới đủ khả năng cung cấp nguyên liệu cho những lô hàng lớn, đủ tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng cao cho may xuất khẩu. Các doanh nghiệp may xuất khẩu qui mô 350 - 500 đơn vị thiết bị được đánh giá là có hiệu quả sản xuất cao. Những doanh nghiệp có qui mô dưới 350 đơn vị thiết bị thì khó đáp ứng yêu cầu của các đơn hàng hoá lớn cũng như khó có thể chịu được chi phí về giao nhận, vận tải cũng như tiếp cận thị trường do đó cần có sự hỗ trợ, đỡ đầu về kỹ thuật, thị trường hoặc bao tiêu sản phầm. Trong khi các doanh nghiệp may có qui mô quá lớn thường không sử dụng hết năng lực thiết bị, lại khó chuyển đổi công nghệ sản xuất các sản phẩm mới. 2.4- Các giải pháp mở rộng thị trường Khó khăn chủ yếu của ngành dệt may Việt Nam trong giai đoạn chuẩn bị gia nhập WTO hiện nay và cả trong những năm trước mắt là tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Để mở rộng thị trường xuất khẩu, cần tiến hàng đồng bộ một số giải pháp sau: Đẩy mạnh công tác tìm hiểu thị trường, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức xúc tiến xuất khẩu nói chung và các nước thành viên nói riêng. Marketing và tìm hiểu thị trường đặc biệt quan trọng đối với sản phẩm dệt may do đặc điểm của nhóm hàng này là yêu cầu cao về sự phù hợp với các tiêu chuẩn xã hội, truyền thống văn hóa, xu hướng thời trang. Đã có nhiều doanh nghiệp quan tâm tới vấn đề này nhưng các hoạt động tìm hiểu thị trường thường vượt quá khả năng tài chính của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như hầu hết các doanh nghiệp may. Hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại như các tổ chức các đoàn đi khảo sát thị trường, tổ chức giới thiệu sản phẩm Việt Nam ở các nước thành viên WTO qua các hội chợ, triển lãm, cung cấp thông tin về thị trường cũng như các đặc điểm kinh tế, xã hội, qui định, luật pháp, chính sách thương mại, chế độ ưu đãi thuế quan cho các doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Trong các hoạt động này, các đại diện thương vụ tại các nước nhập khẩu đóng vai trò quan trọng. Việt Nam đã có thương vụ tại hầu hết các nước có quan hệ thương mại song phương thuộc WTO. Các đại diện thương mại có thể nắm bắt nhanh nhạy các nhu cầu diễn biến thị trường để thông tin kịp thời cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, đại diện thương mại nhìn chung khó có thể bao quát các vấn đề của từng ngành, vì vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động của thương vụ, cần có một đại diện của ngành tại thương vụ ở các thị trường xuất khẩu quan trọng nhất trong khối, nhằm: Nắm bắt kịp thời các thay đổi về giá cả, tỷ giá, qui định hải quan, những chính sách thương mại, đầu tư của các nước nhập khẩu. Tiếp cận kịp thời các biến động, các thay đổi về qui định, luật pháp, xu hướng thương mại, thuế quan của các thị trường nhập khẩu để từ đó định hướng cho thị trường xuất khẩu Đánh giá khả năng xuất khẩu của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường để có đối sách thích hợp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam. Nghiên cứu, phát hiện các mặt hàng mới mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh để có chính sách sản phẩm xuất khẩu phù hợp. Thúc đẩy sản xuất mẫu mốt, các mẫu chào hàng phong phú và sát thực tế thị trường Giới thiệu nguyên liệu, phụ liệu, vải chất lượng cao do ta sản xuất được. Tuy số lượng chưa nhiều nhưng vẫn cần được thông tin, quảng cáo, tiếp cận và giới thiệu khách hàng. Các phụ liệu may của Việt Nam tự sản xuất được hiện đã theo kịp với chất lượng cao như chỉ may, tấm bông hoá học làm lót áo lạnh, cúc khoá kéo... cần được trưng bày tại phòng đại diện của Việt Nam Tìm hiểu và tiếp cận với hệ thống phân phối sản phẩm dệt may của từng nước và giúp doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với các nhà nhập khẩu trực tiếp. Các đại diện thương mại, bên cạnh việc nghiên cứu thị trường nước ngoài, còn có nhiệm vụ giúp các doanh nghiệp trong nước tìm hiểu, tiếp cận các đối tác nước ngoài, nâng cao hiệu quả của việc tham gia triển lãm hội chợ. Khi đưa sản phẩm sang giới thiệu tại các hội chợ triển lãm, các doanh nghiệp cần có sẵn danh mục các đối tác đã được nghiên cứu, chọn lọc từ trước để giới thiệu sản phẩm, ký kết hợp đồng. Kinh nghiệm tiếp thị, tiếp xúc bán hàng. Bài học kinh nghiệm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Trung Quốc hay Thái lan là cử nhân viên tiếp thị mang sản phẩm mẫu đi chào hàng trực tiếp với các công ty nhập khẩu hàng dệt may mặc. Để có bước đi này cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, tìm hiểu kỹ về hệ thống phân phối ở các nước nhập khẩu thông qua các phòng thương mại, các đại diện thương mại và một đội ngũ nhân viên tiếp thị giàu kinh nghiệm. Phương pháp tiếp thị thứ hai cũng được nhiều doanh nghiệp sử dụng là thuê nhân viên tiếp thị của các thị trường nhập khẩu dưới hình thức trả hoa hồng theo hợp đồng mà họ kí được. Thành lập trung tâm thông tin ngành dệt may. Cần thành lập trung tâm thông tin ngành dệt may với các chức năng thu thập phân tích và thông tin cho các doanh nghiệp thành viên về phương hướng chiến lược của ngành dệt may Việt Nam trong quá trình chuẩn bị cho việc tham gia WTO, về các xu thế mới, kiểu dáng, chất liệu vải, thời trang, tư liệu kỹ thuật mới và dự báo tình hình thị trường thế giới, tổ chức hội thảo định kỳ, xuất bản các ấn phẩm chuyên môn và các dịch vụ tư vấn khác. 2.5- Nâng cao hiệu quả sản xuất gia công xuất khẩu, từng bước tạo tiền đề để chuyển sang xuất khẩu trực tiếp Trong vài năm tới, Việt Nam vẫn gia công hàng may xuất khẩu là chủ yếu, một mặt xuất phát từ xu hướng chuyển dịch sản xuất tất yếu của ngành dệt may thế giới, mặt khác do ngành dệt may Việt Nam chưa đủ nội lực để xuất khẩu trực tiếp. Trong điều kiện hiện nay, khi khâu tiếp thị, cung cấp nguyên liệu, thiết kế và đặc biệt là phối hợp các công đoạn này để cho ra một sản phẩm mới có sức cạnh tranh của ngành dệt may của Việt Nam còn yếu kém thì gia công vẫn là hình thức cần thiết và hiệu quả. Để nâng cao hiệu quả sản xuất gia công, các doanh nghiệp Việt Nam nên lựa chọn sản phẩm gia công một cách kỹ lưỡng, nên nhận gia công các sản phẩm mới yêu cầu kỹ thuật cao, được ưa chuộng trên thị trường thế giới, đặc biệt là các thị trường tiềm năng của Việt Nam. Trong quá trình gia công xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tranh thủ tiếp thu những công nghệ sản xuất, các bí quyết kỹ thuật cũng như kinh nghiệm quản lý tiến tiến của các nước đã thành công trong lĩnh vực dệt may. Coi gia công là bước đi quan trọng để tạo lập uy tín của sản phẩm Việt Nam trên thị trường thế giới bằng những ưu thế riêng biệt, giá rẻ chất lượng tốt, giao hàng đúng hạn, qua gia công xuất khẩu để học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu công nghệ và tích luỹ đổi mới trang thiết bị, tạo cơ sở vật chất để chuyển dần sang xuất khẩu trực tiếp. 2.6- Tăng dần tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp, giảm tỷ trọng gia công và xuất khẩu qua nước thứ ba Xuất khẩu trực tiếp là biện pháp rất quan trọng để nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Để nâng cao tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp cần: Đảm bảo cung ứng nguyên liệu phụ Sản phẩm ngành dệt phải đáp ứng được yêu cầu của ngành may, tạo lập mối quan hệ qua lại mật thiết giữa dệt và may, thành lập bộ phận chuyên trách nắm nhu cầu của ngành may để đặt hàng cho ngành dệt để ngành dệt có hướng đầu tư và tổ chức sản xuất hợp lý Phát triển hệ thống Công ty sản xuất phụ liệu may trong nước. Ngay từ đầu phải đầu tư cho công nghệ hiện đại, sản xuất ra các sản phẩm phù hợp với yêu cầu may xuất khẩu Có các chính sách khuyến khích sử dụng nguyên liệu phụ liệu sản xuất trong nước. Quỹ thưởng xuất khẩu có 5% dành cho các doanh nghiệp sử dụng nguyên phụ liệu sản xuất trong nước và ưu tiên hạn ngạch cho các doanh nghiệp sử dụng nguyên phụ liệu trong nước là một biện pháp tốt cho vấn đề này. Có chiến lược đồng bộ về phát triển vùng nguyên liệu cho công nghiệp dệt, chương trình phát triển cây bông, dâu tằm tơ. Tận dụng phế liệu dệt để tạo sức cạnh tranh về giá cả cho sản phẩm dệt. Ngay từ bây giờ, phải chú ý đến vấn đề môi trường cho sản phẩm dệt. Thị trường EU và Mỹ đã có quy định về cấm nhập sản phẩm dệt có thuộc nhuộm azo và sắp tới thị trường Nhật Bản, Australia, Niu Dilân, Canada và các thị trường khác cũng sẽ áp dụng quy định này đối với ngành dệt. Chỉ có các sản phẩm dệt theo tiêu chuẩn ISO 9.000 và ISO 14.000 mới có thể xuất khẩu và làm nguyên liệu cho may xuất khẩu. Kết hợp phát triển sản xuất phụ liệu trong nước với việc tranh thủ đàm phán để giành quyền chủ động chọn nhà cung cấp phụ liệu cho sản phẩm may. Ước tính, phụ liệu chiếm từ 10-15%, có khi đến 25-35% giá thành sản phẩm may nên chủ động và hạ chi phí về phụ liệu có thể đem lại hiệu quả đáng kể trong việc giảm giá thành sản phẩm may. Tạo lập tên tuổi và khẳng định uy tín trên thị trường quốc tế Để xuất khẩu trực tiếp, sản phẩm Việt Nam phải được kinh doanh bằng nhãn mác của mình trên thị trường quốc tế, muốn vậy: Cần tập trung đầu tư cho công nghệ tiên tiến trong khâu thiết kế mẫu mã vải cũng như sản phẩm may. Tổ chức tốt công tác tiếp thị và đăng ký nhãn hiệu hàng hoá Trước mắt, có kế hoạch hợp tác với các Viện mốt, hoặc thuê chuyên gia thiết kế mốt của nước ngoài để đẩy nhanh quá trình hoà nhập vào thị trường thế giới. Khắc phục khó khăn về thiếu nguồn tài chính và nhân lực trong khâu thiết kế mẫu mã, phát triển sản phẩm mới thông qua việc trao đổi bản quyền giữa các công ty và tranh thủ sự hỗ trợ của các nhà nhập khẩu cũng như đại diện của các mạng lưới phân phối tại nước nhập khẩu Khi chưa có tên tuổi trên thị trường thế giới thì cách tốt nhất để xâm nhập thị trường trong giai đoạn đầu là mua bằng sáng chế, nhãn hiệu của các công ty nước ngoài để làm ra các sản phẩm của họ với giá rẻ hơn, qua đó thâm nhập vào thị trường thế giới với sản phẩm "made in Vietnam", đồng thời học tập kinh nghiệm, tiếp thu công nghệ để tiến tới tự thiết kế mẫu mã. Tăng cường công tác đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. Hiện nay Việt Nam chủ yếu xuất khẩu qua các nước trung gian hoặc gia công cho các nước khác. Muốn cải thiện tình hình và xuất khẩu trực tiếp, sản phẩm dệt may Việt Nam cần khẳng định vị trí trên thị trường dệt may thế giới, bắt đầu bằng việc đứng trên thị trường với nhãn hiệu hàng hoá của chính mình. ở nhiều nước, việc đăng kí nhãn hiệu hàng hoá của doanh nghiệp là điều kiện bắt buộc. Tuy nhiên, việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá phải chịu chi phí lớn, có khi lên tới vài ngàn USD, vì vậy, để tiết kiệm chi phí, các doanh nghiệp có thể kết hợp với nhau để đăng ký một nhãn hiệu xuất khẩu chung cho từng loại sản phẩm. Cũng cần lưu ý rằng xuất khẩu trực tiếp chỉ có thể được thực hiện được khi đã có vốn lớn, khách hàng ổn định, sản phẩm đạt tiêu chuẩn theo hệ thống quản lý chất lượng ISO 9.000, doanh nghiệp có kinh nghiệm và uy tín trên thị trường. Vì lý do đó, việc chuyển sang xuất khẩu trực tiếp đòi hỏi phải được tiến hành thận trọng, tránh xảy ra tình trạng đọng vốn, mất vốn dẫn đến phá sản doanh nghiệp. Kết luận Tham gia vào WTO đã được khẳng định là một xu thế tất yếu, vấn đề chỉ là sớm hay muộn và ta sẽ đón nhận nó như thế nào? Liệu Việt Nam có thể tranh thủ được đầy đủ các cơ hội và đối đầu thành công với những thách thức? Điều này đang được trả lời bằng những cố gắng, nỗ lực của các ngành kinh tế trong việc dần dần điều chỉnh và hoàn thiện chính mình. Đứng trước một sự kiện kinh tế quan trọng có ảnh hưởng sâu sắc tới toàn bộ nền kinh tế, ngành dệt may cũng hoà chung trong không khí sôi động của cả nước, đang chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt để đón nhận những cơ hội và thách thức do sự kiện này mang lại. Ngành dệt may Việt Nam vẫn còn tồn tại không ít những khó khăn, bất cập cần giải quyết nhưng rõ ràng là ngành đã có được một nội lực thực sự để chuẩn bị hoà nhập vào môi trường kinh doanh chung toàn cầu, đã sẵn sàng nhảy vào cuộc chiến kinh tế đầy cam go với những đối thủ lớn . Tham gia WTO sẽ mang lại cho ngành dệt may Việt Nam cả cơ hội và thách thức, sự kiện này sẽ như một luồng gió mới thổi vào toàn ngành kinh tế, làm sôi động và hâm nóng thêm nữa bầu không khí của nền kinh tế đang trên đà phát triển, trong môi trường đó, người thực sự mạnh sẽ chiến thắng. Dệt may là một ngành kinh tế đã tồn tại từ rất lâu trong lịch sử kinh tế Việt Nam, cùng đi qua bao nhiêu bước thăng trầm, đến nay, trong quá trình phát triển và chuyển đổi hướng tới một nền kinh tế hoàn thiện hơn, phồn vinh hơn, ngành kinh tế truyền thống này vẫn đóng góp rất nhiều vào công cuộc xây dựng và phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van hoan chinh.doc
  • docbangnamngang.doc
  • docmuc luc.doc
  • docTrang bia.doc
Tài liệu liên quan